laviedt

SƠ LƯƠc VỀ ThiÊn VĂn - Thái Ất

9 bài viết trong chủ đề này

Chào chị đại sư tỷ LVDT,

Bài viết rất hay ! Nếu người đọc không rành thiên văn thì khó hiểu được ý của tác giả. Thôi để tại hạ tặng chị một một quà nhe góp vui bài viết trên. Kèm theo các sao là độ thiên văn

Chú thích các sao chính trong bản đồ trên:

1. Bắc Cực (gồm 5 sao trong chòm Tiểu Hùng Tinh)

1.1 Thái Tử sao Gamma 75°13'01"

1.2 Hoàng Đế sao Kschi 72°58'26"

1.3 Hoàng Tử ( Thứ Tử) sao Epsilon 71°25'20"

1.4 Hậu cung sao Delta 70°29'38"

1.5 Thiên Cực ( sao Bắc Thần) sao Alpha 67°02'51"

(ghi bên trái là tên Thiên Văn cỗ Trung Hoa, ghi bên phải là theo Thiên Văn Hiện Đại)

2.Tứ Phụ (4 sao)

Nhất 64°51'15"

Nhị 63°50'25"

Tam 62°51'15"

Tứ 65°40'08"

3.Câu Trần (6 sao)

Nhất 66°04'10"

Nhị 69°54'10"

Tam 73°53'08"

Tứ 75°06'50"

Ngũ 65°10'10"

Lục 67°30'40"

Thiên Hoàng Đại Đế 68°01'41"

4.Thiên Trụ ( 5 sao)

Nhất 71°33'46"

Nhị 72°35'20"

Tam 76°36'10"

Tứ 79°00'06"

Ngũ 76°31'50"

5.Ngự Nữ (4 sao)

Nhất 80°40'03"

Nhị 80°24'25"

Tam 81°58'33"

Tứ 83°31'20"

b.Nữ Sử 84°30'10"

c.Trụ Sử 84°50'40"

6.Thượng Thư (5 sao)

Nhất 86°50'45"

Nhị 81°00'05"

Tam 81°37'10"

Tứ 80°30'00"

Ngũ 83°18'40"

7.Thiên Sàng (6 sao)

Nhất 69°12'05"

Nhị 74°04'27"

Tam 75°23'23"

Tứ 78°55'40"

Ngũ 72°03'18"

Lục 72°31'44"

8.Đại Lý (2 sao)

Nhất 64°12'05"

Nhị 64°12'05

9.Âm Đức (2 sao)

Nhất 58°11'13"

Nhị 57°14'30"

10.Lục Giáp (6 sao)

Nhất 56°18'03"

Nhị 53°47'50"

Tam 57°06'33"

Tứ 59°23'07"

Ngũ 57°53'50"

Lục 55°50'40"

11.Ngũ Đế nội tọa (5 sao)

Nhất 57°47'27"

Nhị 58°06'56"

Tam 60°24'23"

Tứ 56°05'52"

Ngũ 57°57'40"

12.Hoa Cái (7 sao)

Nhất 55°24'40"

Nhị 55°58'51"

Tam 56°10'13"

Tứ 54°13'40"

Ngũ 52°49'50"

Lục 51°50'12"

Thất 51°38'50"

13.Cống (9 sao)

Nhất 49°33'40"

Nhị 53°29'18"

Tam 57°11'10"

Tứ 55°56'45"

Ngũ 54°21'04"

Lục 53°24'15"

Thất 53°12'07"

Bát 53°52'19"

Cửu 54°11'20"

14.Tử Vi Tả Viên ( 8 sao) bao gồm

i. Tả Xu 71°04'04"

ii.Thượng Tể 74°26'00"

iii.Thiếu tể 78°26'30"

iv.Thượng bật 84°47'00"

v.Thiếu Bật 83°11'30"

vi.Thượng Vệ 75°18'45"

vii. Thiếu Vệ 65°33'00"

viii.Thiếu Thừa 59°41'10"

15.Tử Vi Hữu Viên (7 sao) bao gồm

i.Hữu Xu 66°20'52"

ii.Thiếu Úy 61°43'20"

iii.Thượng Phụ 57°13'03"

iv.Thiếu Phụ 51°13'40"

v.Thượng vệ 45°59'46"

vi.Thiếu Vệ 43°20'28"

vii.Thượng Thừa 45°10'56"

d.Thiên Ất 65°21'38"

e.Thái Ất 64°13'00"

16.Nội Trù ( 2 sao)

Nhất 61°04'10"

Nhị 60°53'45"

17.Bắc Đẩu ( gồm 7 sao chính là chòm sao Đại Hùng Ursa major)

i.Thiên Xu sao Alpha-Duth 49°40'05"

ii.Thiên Toàn sao Beta-Merak 45°06'15"

iii.Thiên Cơ sao Gamma-Phecda 47°07'20"

iv.Thiên Quyền sao Delta-Megrez 51°39'40"

v.Ngọc Hoành sao Epsilon-Alioth 54°19'35"

vi.Khai Dương sao Kschi-Mizar 56°22'47"

vii.Dao Quang sao Nuy-Alkaid 54°24'30"

Ngoài ra chùm Bắc Đẩu còn có 1 phụ tinh mà bằng mắt thường không nhìn thấy được ( sẽ nói rõ hơn về chùm Bắc Đẩu trong phần tiếp theo) 5°740'40"

18.Thiên Thương (3 sao)

Nhất 58°54'44"

Nhị 58°51'50"

Tam 60°10'04"

h.Huyền Qua 54°39'20"

19.Tam Công

Nhất 50°51'40"

Nhị 52°52'00"

Tam 51°47'06"

k.Tướng Quốc. 48°06'27"

20.Thiên Lý

Nhất 49°17'04"

Nhị 47°00'54"

Tam 49°38'40"

Tứ 53°10'17"

m.Thái Dương Thủ 41°31'58"

n.Thái Tôn 35°31'30"

21.Thiên Lao (6 sao)

Nhất 33°02'36"

Nhị 32°41'32"

Tam 31°02'12"

Tứ 36°11'48"

Ngũ 30°04'26"

Lục 35°46'22"

22.Thế (4 sao)

Nhất 23°55'27"

Nhị 21°23'45"

Tam 21°02'47"

Tứ 24°55'30"

23.Văn Xương ( 6 sao)

Nhất 46°09'22"

Nhị 42°39'06"

Tam 38°14'10"

Tứ 34°56'22"

Ngũ 33°25'56"

Lục 36°04'25"

24.Nội Cấp (6 sao)

Nhất 40°12'34"

Nhị 42°48'00"

Tam 44°55'03"

Tứ 45°07'04"

Ngũ 42°19'35"

Lục 38°35'08"

25.Tam Sư( 3 sao)

Nhất 47°54'45"

Nhị 51°52'17"

Tam 47°28'50"

26.Bát Cốc (8 sao)

Nhất 30°49'02"

Nhị 32°30'50"

Tam 32°39'57"

Tứ 39°29'29"

Ngũ 30°51'06"

Lục 29°24'50"

Thất 35°53'33"

Bát 36°24'40"

27.Phó Xá (9 sao)

Nhất 59°00'53"

Nhị 54°59'48"

Tam 51°39'20"

Tứ 51°13'50"

Ngũ 48°53'06"

Lục 42°31'17"

Thất 39°32'23"

Bát 38°26'43"

Cửu 35°10'47"

28.Thiền Trù (6 sao)

Nhất 82°52'50"

Nhị 80°55'14"

Tam 79°27'40"

Tứ 78°07'40"

Ngũ 77°28'10"

Lục 81°48'30"

29.Thiên Bồi ( 5 sao)

Nhất 80°19'40"

Nhị 78°11'18"

Tam 75°19'55"

Tứ 74°58'20"

Ngũ 69°18'49"

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chị Laviedt,

Những ngôi sao trên là những ngôi sao trong Tử Vi Viên. Chị chưa viết ra các sao trong Thái Vi Viên (tượng trưng cho sự cao sang quý phái, nơi ở và làm việc của các Đại Thần) và Thiên Thị Viên nằm ở phía Đông Tử Vi Viên, nó tượng trưng cho chốn thị tứ, chợ búa, buôn bán, một khung cảnh đời sống hết sức thường ngày dưới hạ giới.

Nếu chị chịu khó viết ra tên các sao trong 2 Viên còn lại thì em sẽ viết ra góc độ Thiên Văn cho những sao đó

Đào Hoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chị Laviedt,

Cửu Thiên trên không phải là phương hướng của Nhị Thập Bát Tú. Trong binh pháp nước nhà có ghi rõ cửu thiên đó là:

9. Vòng ngoài của Ngũ Hành Tinh (Outer Planets)

- Thiên Vương Tinh (Uranus), Hải Vương Tinh (Neptune) và Diêm Vương Tinh (Pluto)

8. Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú

7. Thổ Tinh (Saturn)

6. Mộc Tinh (Jupiter)

5. Hỏa Tinh (Mars)

4. Mặt Trời (Sun)

3. Kim Tinh (Venus)

2. Thủy Tinh (Mercury)

1. Mặt Trăng (Moon)

Đào Hoa

tb: Tác giả của bài viết nầy quả thật là đáng khen và đáng khâm phục.

Âm dương cách trở hai đàng

Người ơi vĩnh biệt, trần gian u sầu

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chào các bạn,

Xin đăng bài sưu tầm rất có gía trị cho ai nghiên cứu về thiên văn học cổ, do chú NguyenVu đăng bên Văn Hóa Phương Đông.

Tài Liệu về Chiêm Tinh Học Cổ

NguyenVu

Chiêm tinh thuật: Tinh chiêm thuật là học thuyết và phương pháp dùng việc quan sát tượng sao mà dự đoán sự thay đổi của tự nhiên, quốc sự và nhân sự. Phổ biến trong lịch sử các nước. Ở Trung Quốc có từ trước đời Thương. Theo sử liệu, Vu Hàm là nhà chiêm tinh sớm nhất đời Thương, cùng với Cam Đức, Thạch Thân thời Chiến Quốc là ba nhà chiêm tinh lớn. Học thuyết và phương pháp chiêm tinh trong lịch sử từng trải qua nhiều thay đổi. Từ tên gọi Tinh quan, tinh số, phương vị, đến cách quan sát sao thường có sự khác nhau. Nhưng về cơ bản đều thông qua sự phân dã, độ sáng mạnh yếu của sao, khả năng nhìn thấy hay không nhìn thấy, sự dao động của ánh sáng sao, sự biến đổi vị trí và sự vận hành ngũ tinh theo ngày, tháng mà chiêm đoán. Trước tác sớm nhất về Tinh quan và phép chiêm tinh còn giữ được đến nay, là Sử ký. Thiên quan thư của Tư Mã Thiên. Các trước tác khác, ngoài những điều có trong các loại Thiên văn chí, có Ất Tỵ chiêm của Lý Thuần Phong đời Đường, Linh đài bí phạm của Vương An Lễ thời Bắc Tống và Quan tượng ngọan chiêm đời Minh. Nội dung chứa đựng nhiều tư liệu thiên văn học cổ đại.

Thiên chiêm : Thuật số nghiên cứu cát hung của quốc sự, nhân sự qua hiện tượng dị thường của bầu trời sao. Bầu trời trong mà sáng là bình thường, đổi màu sắc là dị thường, là do ngũ hành âm dương không hòa hợp, là hung, đất nước sẽ rối loạn. Bầu trời dị thường bao gồm Thiên liệt (trời rạn nứt N.D), Thiên liệt kiến nhân (trời rạn nứt thấy người N.D). Thiên khai kiến quang (trời mở ra thấy ánh sáng N.D). Thiên mệnh hữu thanh (trời kêu có tiếng

N.D) v. v... Tùy thư. Thiên văn chí dẫn sách Hồng phạm. Ngũ hành truyện : "Thiên liệt ( trời rạn nứt) là dương không đủ là thần (bầy tôi) mạnh, cấp dưới hại cấp trên, quốc hậu phân liệt, kẻ dưới làm chủ. Thiên khai kiến quang thì máu chảy tràn lan. Thiên liệt kiến nhân thì binh khởi mất nước. Thiên minh hữu thanh thì bậc chí tôn kinh sợ; đều là hiện tượng đất nước rối lọan. Đồng thời đưa ra những ví dụ chiêm nghiệm, như năm Thái An thứ 2 đời Hán Huệ Đế, trời có hiện tượng rạn nứt. Năm Thăng Bình thứ 5 đời Mục Đế, trời lại rạn nứt phát ra tiếng vang như sấm, sau đó đều xảy ra binh biến.

Tinh tượng: Cách gọi chung vị trí của các ngôi sao và sự thay đổi vận hành của chúng. Trung Quốc thời cổ cho rằng tượng sao trên trời gắn liến với nhân sự dưới trái đất. Sao ở các khu vực khác nhau trên trời đai diện cho các khu vục khác nhau dưới đất; tượng sao thay đổi chứng tỏ nhân sự sẽ thay đổi. Từ đó xuất hiện thuật chiêm tinh, Tinh mệnh học và Tinh tướng học.

Quan tượng thụ thời: Thông qua quan sát sự biến đổi của tượng sao mà phán đoán thời tiết 4 mùa trong năm. Ở Trung Quốc, nội dung chủ yếu của việc quan sát tượng sao sớm nhất là vào thời kỳ tiền lịch pháp. Tương truyền thời thượng cổ có quan "Hỏa chính", lấy sự mọc hay lặn của sao Hỏa làm mốc định thời tiết. Hạ tiều chính có chép kinh nghiệm quan sát sao trời mỗi tháng để xác định thời tiết.

Thứ dân duy tinh: Quan niệm tượng sao thời thượng cổ ở Trung Quốc. Mỗi ngôi sao đại diện cho một người dân, sao trên trời có ảnh hưởng và chứng tỏ sự thay đổi nhân sự Thuật chiêm tinh dùng Tinh quan thuyết minh tượng trời, dùng phân dã chỉ rõ các châu quận dưới đất mà Tinh quan đại diện, là dựa trên quan niệm này. Trong tư tưởng chiêm tinh cổ đại, người ta còn cho rằng nỗ lực của nhân gian có thể gây ảnh hưởng tới sự thay đối tượng sao, như vua chúa thất đức thì sẽ có nhật thực, nếu có đức độ cao thì có thể làm cho nhật thực sắp xảy ra sẽ không xảy ra nữa.

Phân dã : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn. Chỉ sự phân phối tượng sao tương ứng với khu vực dưới mặt đất. Thuật chiêm tinh Trung Quốc cổ đại cho rằng tượng sao gắn liền với nhân sự, cho nên dùng tượng sao làm đại diện hoặc tượng trưng cho các khu vực khác nhau dưới mặt đất. Cho rằng một sự biên đổi đặc định nào đó của tượng sao sẽ có ảnh hưởng và chi ra sư thay đổi về tự nhiên, quốc sự ở khu vực tương ứng dưới đất. Chu Lễ viết

rằng họ Bảo Chương cai quản sao trời, dung Tinh thổ (đất sao) phân biệt 9 châu. Mỗi châu dưới đất đều có sao chủ ở trên trời, quan sát sao chủ ấy, sẽ có thể dự đoán cát hung ở mỗi châu. Phân dã chính thức hình thành vào thời Xuân thu Chiến quốc. Cách phân phối có đôi chỗ khác nhau. Chu Lễ. Xuân quan. Bảo Chương thị Trịnh chú viết rằng việc phân chia 9 châu diễn ra 12 lần, Thiên quan thư sắp xếp 28 tinh tú, Xuân thu vĩ sắp xếp 7 sao Bắc đẩu, Lã thị xuân thu thì sắp xếp Cửu thiên. Sự sắp xếp của đời sau phối hợp các cách đó. Sử ký. Thiên quan thư của Tư Mã Thiên nói về sự phân dã 28 tinh tú : "Giốc, Cáng, Đê, ở Doãn châu; Phòng, Tâm, ở Dự châu; Vĩ, Cơ, ở U châu; Đẩu, Giang, ở Hồ châu; Khiên Ngưu, Vụ Nữ, ở Dương châu, Hư, Nguy, ở Thanh châu; Doanh, Thất, Bích, ở Tịnh châu; Khuê, Lâu, Vị, ở Từ châu; Ngang, Tất, ở Dực châu; Tư Huề, Chẩn, ở ích châu; Tỉnh, Qủy, ở Ung châu; Liễu, Thất tinh, Trương, ở châu Tam Hà; Dực, Chẩn, ở Kình châu.

Tinh quan : Còn gọi là Thiên quan, Tinh cung. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, dùng để biểu thị sự sắp xếp tượng sao. Để hiểu và quan sát tượng trời, cổ nhân lấy một số hằng tinh xếp vào một chòm sao, đặt tên cho nó theo kiểu tổ chức xã hội dưới trần gian, dùng quan hệ nhân gian nói về cách sắp xếp đó và mối liên hệ vị trí giữa chúng. Mỗi chòm sao gọi là một Tinh quan. Sử ký. Thiên quan thư viết : "Quan, tức Tinh quan. Các chòm sao có tôn ti, như thứ bậc quan lại của nhân gian. nên gọi là Thiên quan". Tinh quan trên trời đại diện cho sự sắp xếp khu vực nhân gian, sự biến đổi vận hành của nó cho biết, cát hung dưới nhân gian. Sử ký. Thiên quan thư gọi Tinh quan là Thiên quan, là bộ sách sớm nhất của Trung Quốc nói về Tinh quan. Sách này nói có 91 Tinh quan, bao gồm hơn 500 hằng tinh, đồng thời nói về cách quan sát Tinh quan. Các phái thời cổ đặt tên cho các Tinh quan không giống nhau. Trần Trác thời tam Quốc gộp 3 nhà Tinh quan Vu Hàm, Cam

Đức, Thạch Thân thành một hệ thống Tinh quan gồm 238 quan với 1464 ngôi sao, mà đời sau cứ theo đó sử dụng.

Thiên quan : Sử ký của Tư Mã Thiên gọi Tinh quan là Thiên quan, soạn chương Thiên quan thư. Xem mục Tinh quan.

Tinh cung : 1) Tức Tinh quan. 2) Thuật ngữ phân chia khu vực tượng sao. "Cung" đại diện cho một phạm vi khu vực tinh tú nhất định. Thời cổ Trung Quốc thường chia tượng sao thành 5 cung, tức Trung cung và 4 cung đông, nam, tây, bắc. Về sau có phương pháp chia thêm các cung bên ngoài để biểu thị khu vực tinh tú nhất định.

Tinh biếu : Chỉ cách thể hiện hoặc ghi chép tên gọi, phương vị, cấp sao và qũy đạo vận hành của tượng sao hữu quan. Tinh biểu bắt đầu có từ thời Chiến Quốc, thường dùng để quan sát sao và xác định thời tiết bốn mùa. Cam Thạch tinh kinh là nguồn gốc sớm nhất của Tinh biểu Trung Quốc.

Tinh đồ : Còn gọi là Thiên văn đồ, Thiên tượng đồ. Đồ hình tạo nên nhờ dùng mặt cầu của hằng tinh nhìn vị trí hình chiếu trên mặt phẳng. Thời cổ người ta dùng các vật liệu như bông, vải, đá và kính bằng đồng mà họa chế một số lớn Tinh đồ, thể hiện trực quan mối liên hệ vị trí các Tinh quan (chòm sao), có những đồ hình biểu thị sư phân dã (phân bố) các Tinh quan (như Thiên văn đồ khắc đá đời Thuần Hựu nhà Tống ở Tô Châu, Giang Tô). Linh tiên đồ của Trương Hòanh là Tinh đồ sớm nhất của Trung Quốc đáng tin cậy, đã thất truyền. Hiện còn giữ được Tinh đồ cổ nhất trên thế giới là "Đôn Hoàng tinh đồ" được họa chế bằng bông vào năm 940 trước Công nguyên.

Phân dã đồ : Biểu đồ các Tinh quan trên trời tương ứng với châu quận dưới mặt đất. Khởi đầu và hưng thịnh vào đời Hán, la phương tiện dùng để chiêm nghiệm.

Tứ tượng: 1) Thuật ngữ chiêm tinh thiên văn cổ đại, dùng để phân chia khu vực tượng sao. Thời cổ người ta thường phân chia tượng sao thành 4 khu vực lớn là đông, tây nam bắc, hoặc phải, trái, trước, sau, gọi là Tứ duy, Tứ lục hoặc Tứ phương; cũng có khi thêm khu thứ 5 là Trung cung (như Thiên quan thư). Đa số các khu vực tượng sao được gọi bằng tên động vật, nên còn gọi là Tứ tượng, Tứ thú hoặc Tứ cầm. Đời ân , người ta gọi tượng sao nhìn thấy vào lúc sẩm tối mùa xuân ở phương nam là Điểu (chim), ở phương đông là Long (rồng), ở phương tây là Hổ, ở phương bắc là Qui Xà. Sau thời Xuân thu Chiến quốc, thì gọi Thanh Long (Thương Long) phương đông, Chu Điểu, (Chu Tước) phương nam, Bạch Hổ phương tây. Huyền Vũ (Hàm Trì) phương bắc là Tử thú, Tứ cầm hoặc Tứ tượng. Dưới mỗi một trong Tứ tượng có 7 sao, cộng là 28 sao. Đời sau ghi Tứ tượng gồm 28 sao là : Thanh Long gồm 7 sao Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki; Huyền Vũ gồm 7 sao Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích; Bạch Hổ gồm 7 sao Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tư, Sâm; Chu Tước gồm 7 sao Tinh, Qủy, Liễu, Trương, Dực, Chẩn. Các nhà Tinh tướng học chia Tứ tượng thành 28 tiểu tượng, ghép với 12 canh giờ và 12 sinh tiêu làm cơ sở đoản mệnh. Ngũ tượng thì thêm 1 tượng là Hoàng Long hoặc Kỳ Lân, thành Ngũ thú. 2) Danh từ Tướng số học "Dịch truyện". Xem mục Tú tượng ở chương Dịch.

Tứ duy, Tứ Lục, Tứ Thú Xem mục Tứ tượng.

Ngũ cung còn gọi là Ngũ quan. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, dùng để phân chia khu vực tượng sao. Cổ nhân định rằng bầu trời sao ở gần Bắc cực là Trung cung, đem toàn bộ tượng sao chia thành 5 khu vực lớn.

Thiên quan thu dùng quan hệ cai quản của Ngũ đế mà thuyết minh phạm vi phân chia 5 khu vực lớn, gọi là Ngũ cung hoặc Ngũ quan. Tức Trung cung, Đông cung, Tây cung, Nam cung, bắc cung. Trung cung ở giữa là sao Thiên cực (tức Đế tinh), nơi cư trú của Thiên thần đại đế chí tôn (Thái Nhất), còn 4 cung kia là của đế, Xích đế, Bạch đế và Hắc đế; đồng thời dùng tên 4 con thú để gọi : Đông cung Long, Nam cung Chu Tước (Chu Điểu ), Tây cung Hàm Trì (sau gọi là Bạch Hổ), Bắc cung Huyền Vũ. Hết thảy Tinh quan dưới Ngũ cung hợp thành toàn bộ thế giới các hung tinh trong con mắt cổ nhân. Các Tinh quan gần Bắc cực do Trung cung cai quản, 28 sao, chia ra 4 cung đông, tây, nam, bắc.

Ngũ quan : Tức Ngũ cung. Sử ký. Thiên quan thư viết rằng có 5 cung. Ngũ cung vốn là Ngũ quan, về sau thường gọi là Ngũ cung.

Cửu thiên : Còn gọi là Cửu dã. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn dùng để phân chia khu vực tượng sao. Lã thi Xuân thu. Hữu thủy giác chia bầu trời sao thành 9 khu vực hoặc phương vị, tức Cửu thiên. Đó là Quân thiên ở giữa có các sao Giốc, Cang, Đê; Thương thiên phương đông có các sao Phòng, Tâm, Vĩ; Biến thiên phương đông bắc có các sao Ki, Đẩu, Ngưu; Huyền thiên phương bắc có các sao Nữ, Hư, Nguy, Thất; U thiên phương tây bắc có các sao Bích, Khuê, Lâu; Hạo thiên phương tây có các sao Vị, Ngang, Tất; Chu thiên phương tây nam có các sao Từ, Sâm, Tỉnh; Viêm thiên phương nam có các sao Qủy, Liễu, Thất tinh; Dương thiên phương đông nam có các sao Trương, Dực, Chẩn . Sách trên còn chia mặt đất thanh 9 khu vực, gọi là Cửu châu: Dự châu, Chu; Dực châu, Tấn; Dõan châu, Vệ; Thanh châu, Tề; Tư châu; Lỗ, Dương châu, Triệu; Kinh châu, Sở; Ung châu. Tần; U châu, Yên.

Cửu dã : Xem mục Cửu thiên

Tam viên: Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, dùng để phân chia khu vực tượng sao. Được sang lập vào khoảng thời Chiến Quốc hoặc sau đó. Bắt đầu gặp trong sách Bộ thiên ca của Đan Nguyên Từ đời Tùy. Chia tượng sao thành 81 khu vực lớn, trong đó trừ 28 sao, 3 khu vực kia là Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị. Mỗi một trong 3 khu vực này đều có các chòm sao vây quanh hai phía đông, tây. Nên gọi là Tam viên. Tử Vi viên là Trung viên, Thái Vi viên là Thượng viên. Thiên Thị viên là Hạ viên. Mỗi viên gồm một số Tinh quan (chòm sao).

Nhị thập bát tú : Còn gọi là Nhị thập bát xá hoặc Nhị thập bát tinh. 28 tinh tú ở gần Hoàng đạo và Xích đạo. Thời cổ dùng làm tiêu chí tham chiếu, quan sát tượng trời và sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh. Gặp đầu tiên trong Chu lễ : "Vị trí của 28 sao". Đến thời Sử ký đã hoàn bị. Xuất hiện trước thời Chiến Quốc. Thoạt tiên được xếp vào bốn khu vực lớn đông, tây, nam, bắc hoặc Tứ tượng. Mỗi khu vực có 7 sao. Lấy sao Giốc mà cán sao Bắc đầu chỉ làm khởi điểm, sắp xếp từ tây sang đông. 7 sao phương đông là : Giốc, Cang, Đê Phòng, Tâm, Vĩ, Ki; 7 sao phương bắc là : Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích; 7 sao phương tây là : Khuê, lâu, Vị, Ngang, Tát, Tư, Sâm; 7 sao phương nam là: Tỉnh, Qủy, Liễu Tinh, Trương, Dực, Chẩn . Sau đời Tùy, 28 sao phối hợp vơi Tam viên chia bầu trời thành 31 khu vực làm tiêu chuẩn cho việc phân chia khu vực tượng sao của Trung Quốc. Trong phép chiêm tinh mỗi sao trong 28 sao có tượng riêng của nó, làm sự phân dã cho các khu vực dưới mặt đất. Thiên quan thư dẫn Tinh kinh viết : "Giốc, Cang là phân dã của Trịnh, Doãn châu; Đê, Phòng. Tâm là phân dã của Tống, Dự châu; Vĩ, Ki là phân dã của Yên, U châu, Nam Đẩu, Khiên Ngưu, là phân dã của Ngô, Việt, Dương châu; Nữ, Hư là phân dã của Tề, Thanh châu. Nguy. Thớt. Bích. là phân dã của Vệ, Tịnh châu; Khuê, Lâu, là phân dã của Lỗ, Từ châu; Vị, Ngang, là phân dã của Triệu, Dực châu; Tất, Tư, Sâm, là phân dã của Ngụy, ích châu; Tỉnh, Qủy, là phân dã của Tần, Ung châu; Liễu, Tinh, Trương, là phân dã của Chu, Tam Hà; Dực, Chấn là phân dã của Sở, Kinh châu". Tham chiếu phương vị 28 sao, có thể quan sát và thuyết minh sự biến đổi vận hành của ngày, tháng, ngũ tinh. Nên có câu "Thất chính nhị thập bát tú". Sử ký. Luật thư viết : "Xá, địa chỉ vậy; tú, là như vậy; thất chính nhị thập bát tú là nói sự vận hành của nhật nguyệt ngũ tinh; hoặc địa chỉ phân ra 28 lần vậy". Dùng quan hệ vị trí vận hành của mặt trăng, mặt trời và ngũ tinh tại 28 sao mà dự đoán nhân sự, đó là một trong những phương pháp chính của thuật chiêm tinh.

Nhị thập bát xa : Tức Nhị thập bát tú.

Thất chính : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, gặp đầu tiên trong Thư. Nghiêu điển: "Thi, Cơ. Ngọc Hoành, dĩ Tề thất chính". Giải thích khác nhau. 1) Mặt trăng mặt trời, cùng Ngũ tinh (5 sao) Hỏa, Thổ, Thủy, Mộc, Kim. Sử ký. Luật thư viết : "Thất chính là Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh. (Quan sát) 7 cái đó có thể biết thiên thời". Quan sát sự vận động của Mặt trăng, mặt trời, Ngũ tinh cùng vị trí tương đối của chúng so với các hằng tinh, cổ nhân phán đoán thời tiết và chiêm nghiệm cát hung. 2) Chỉ 7 ngôi trong chòm sao Bắc đẩu, chu Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh. Thiên quan thư dẫn Thượng thư của Mã Dung : "Thất chính, mỗi sao trong chòm bắc đẩu chủ một thứ, ngôi thứ nhất là Chính Nhật, ngôi thứ hai chủ Nguyệt pháp, ngôi thứ,ba là Mệnh Hỏa, Huỳnh Hoặc cũng là nó; ngôi thứ tư là Sát Thổ, Điền Tinh cũng là nó; ngôi thứ năm là Phạt Thủy, Thần Tinh cũng là nó; ngôi thứ sáu là Nguy Mộc, Tuế Tinh cũng là nó; ngôi thứ bảy là Phiêu Kim, Thái bạch cũng là nó vậy. Nhật, nguyệt, Ngũ tinh mỗi thứ khác nhau, nên gọi là Thất chính vậy". 3) Bảy ngôi sao chòm Bắc đẩu : Thiên Khu, Thi, Cơ, Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang.

Thiên quan thu: "Bảy ngôi sao chòm Bắc đầu : Thiên Khu, Thi, Cơ, Ngọc Hoành... là Thất chính". 4) Chỉ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và thiên văn, địa lý, nhân đạo.

Thất diệu : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn. Chỉ Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngu tinh (Mộc Kim Hỏa Thủy Thổ). Thiên quan thư dẫn Trương Hoành viết: "Văn diệu ở trên trời, có 7 ngôi sao chuyển động, la Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh vậy". Cốc Lương truyện tự của Phạm Ninh viết: "Thất diệu vị chi dựng thúc". Xuân thu. Cốc Lương truyện sớ của Dương Sĩ Huân viết: "Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh đều chiếu rọi thiên hạ, nên gọi là Thất diệu (bảy ngôi sao)".

Ngũ thú ngũ đế : Tên khu vực sao, Ngũ thú : Thanh Long ( long) phương đông, Chu Điểu (Chu Tước) phương nam, Hoàng Long (Kỳ Lân) ở giữa; Bạch Hổ phương tây, Huyền Vũ (Phi Xà) phương bắc. Cổ nhân sau khi chia ra Tứ thú, lại thêm một khu vực nữa, là Kỳ Lân hoặc Hoàng Long, thành Ngũ thú. (Gặp đầu tiên trong Nguyệt lệnh của Thái Ung). Thêm Hoàng Long gặp nhiều hơn, sớm nhất thấy trong Thạch thị tinh kinh, Linh tiên và kinh Châu chiêm. Thiên quan thư thì thêm Hoàng Long ở cạnh Nam cung. Ngũ đế là thiên thản cố đại, chủ của Ngũ thú. Ngũ đế là : Thanh đế phương đông Linh Uy Ngưỡng, Xích đế phương nam Phiêu Nộ, Hoàng đế trung ương nắm then chốt. Bạch đế phương tây Thiệu Cừ, Hắc đế phương bắc Diệp Quang Kỷ. Tinh của Ngũ đế là Ngũ thú. Vì Ngũ đế có tác dụng chi phối thần linh, nên cổ nhân dùng để biểu thị quan hệ cai quản các ngôi sao, đồng thời dùng tượng của Ngũ đế thuyết minh phạm vi chiêm nghiệm các Tinh quan (chòm sao).

Thanh Long : Còn gọi là Long, Thương Long. 1) Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao phương đông hoặc Đông cung. 7 ngôi sao phương này là Giốc, Cang, Dê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki, hợp thành tượng Long (con rồng). Thiên quan thư viết, rằng tinh của Đông cung Thanh đế là Long, nên Đông cung gọi là Thương Long, cũng là thiên thần phương đông. 2) Chỉ Thái Tuế. Hậu Hán thư. Luật lịch chí: "Thanh Long di thần, gọi là Tuế".

Long: Tức Thanh Long.

Chu Điểu : Còn gọi là Điểu, Chu Tước. Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao phương nam hoặc Nam cung. 7 ngôi sao phương này là Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, họp thành tượng Điểu (con chim). Thiên quan thư gọi là Xích đế Nam cung, tinh của nó là Chu Điểu, "nên Nam cung là Chu Điểu, cũng là thiên thần phương nam".

Chu Tước : Tức Chu Điểu

Bạch Hổ : l) Còn gọi là Hổ hoặc Hàm Trì. Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao phương tây hoặc Tây cung. 7 ngôi sao phương này là Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tư, Sâm, hợp thành tượng Hổ (con hổ). Thiên quan thư gọi la Bạch đế Tây cung, vì tinh của nó là hổ trắng, nên lấy cung là Bạch Hổ, cũng là "Thiên thần phương tây". 2) Còn gọi là sao Bạch Hổ, Đoài tinh, một hung thần.

Huyền Vũ : Còn gọi là Quy Xà. Là tượng con rùa và con rắn quấn nhau. Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao phương bắc hoặc Bắc cung. 7 ngôi sao phương này là Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Thiên quan thư gọi là Hắc đế Bắc cung, tinh của nó là Huyền Vũ, (nên Bắc cung là Huyền Vũ, cũng là thiên thần phương bắc".

Đại đế : Còn gọi là Thiên đế. 1) Chỉ thiên thần chí tôn. Xem mục Thái Nhất. nghĩa thứ hai. Tên Tinh quan. Chỉ Đế tinh. Ngôi sao sáng nhất ở Bắc cực. Thiên quan thư viết rằng đó là Cực tinh, còn gọi là sao Thiên Cực. 3) Tên gọi khu vực sao ở Trung cung Thiên quan thư dẫn Văn diệu câu viết : "Trung cung Đại đế, tinh của nó là Bắc cực".

Thượng đế : Còn gọi là Thanh đế. Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phương đông. Là thần Linh Uy Ngưu phương đông, tinh của nó là Thương Long.

Xích đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phương nam. Là thần Xích Phiêu Nộ phương nam, tinh của nó là Chu Điểu.

Bạch đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phương tây. Là thần Bạch Thiệu Cử phương tây, tinh của nó là Bạch Hổ.

Hắc đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phương bắc. Là thần Diệp Quang Kỷ phương Bắc, tinh của nó là Huyền Vũ.

Trung cung : 1) Còn gọi là Trung quan. Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Cổ nhân coi bầu trời gần Bắc cực là Trung cung, xung quanh nó có 4 cung đông, tây, nam, bắc. Thiên quan thư viết rằng Trung cung ở giữa là sao Thiên Cực, còn gọi là sao Bắc cực, là ngôi sao mà Thiên thần Đại đế chỉ tôn (Thái Nhất) thường cư. Chủ thiên thần Thiên Nhất của 16 thần và Nữ chúa âm Đức. Cạnh đó có Tam Công, Chính Phi, Hậu Cung; xung quanh có Phàn Thần tức 12 sao Tử cung. Bên trái là Thiên Thương, bên phải là Thiên Bàng, phía sau là Các Đạo; ngoài ra có 7 sao Bắc đẩu, các chòm sao Tam Đài, Phụ, Triệu Dao, Thiên Phong Quán Sách, tổng cộng 78 sao. Ngoài ra thời cổ người ta còn có nhiều cách phân chia khu vực sao khác, phần lớn đều có Trung cung. Chăng hạn có cách phân chia ra 6 khu vực gồm Trung cung, Ngoại cung, và Tứ thú: có khi chỉ đơn giản chia ra Trung cung và Ngoại cung. Trong các cách phân chia khác nhau, vị trí của Trung cung cũng khác nhau.

Ngoài việc định vị trí của Trung cung ở gần Bắc cực, còn có khi xác định nó ở phía bắc 28 sao, hoặc coi chòm sao Bắc đẩu có 7 ngôi làm Trung cung . 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung.

Đông cung : Còn gọi là "đông quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía đông Trung cung. Tượng sao ở đây giống như con rồng, nên gọi là Long, Thương Long hoặc Thanh Long. Một thuyết nói là nên ở của Thượng đế. Gồm 7 sao : Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki. Thiên quan thư viết rằng ở chính giữa Đông cung có hai sao chính của phương đông là sao Tâm và sao Phòng. Sao Tâm là Minh đường, là cung mà sao lớn Thiên Vương bố chính. Sao Phòng là Thiên phủ. Sao Dại Giốc là chỗ ngồi của Thiên Vương. Hai bên sao Đại Giốc có 3 sao thay quyền. Ngoài ra có 12 sao như Tham, Khâm, Hạt, Kỳ, 27 sao Kỳ Quan, 2 sao Nam Môn ..., cộng là 94 sao. 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung.

Nam cung : Còn gọi là "Nam quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía nam Trung cung. Tượng sao ở đây giống như con chim, nên gọi là Điểu, Chu điểu (chìm đỏ) hoặc Chu Tước (chim sẻ đỏ). Có thuyết bảo của Xích đế. Gồm 7 sao : Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Thiên quan thư viết ở giữa Nam cung là sẽ là sao Quyền, sao Hoành, sao chính của phương nam. Sao Quyền là chỗ ngồi của ngũ đế, là tượng nữ chúa. Hoành là Nam cung của Thiên Giốc, nên Tam Quan vào triều đình; ở giữa là chỗ ngồi của Ngũ đế. Xung quanh có 12 sao phiên thần; ngoài ra có các sao như Lang Vị, Tướng Vị, Bắc Hà, Nam Hà, Quan Lương, Chất, Thiên Khố Lâu v. v.., tổng cộng 135 sao. 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung.

Tây cung : Còn gọi là "Tây quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía tây Trung cung. Tượng sao ở đây giống như con hổ, nên gọi là Hổ hoặc Bạch Hổ (Hổ trắng). Thiên quan thư lấy chính vị đại biểu cho vị trí của Ngũ cung, nên gọi là Hàm Trì. Có thuyết bảo là nơi ở của Bạch đế. Gồm 7 sao : Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Sâm,

Tư. Hàm Trì là "xa giá của Ngũ đế. Sử ký viết : "Xa giá của Ngũ đế chở ngũ cốc đi bán" , nên Tinh quan Tây cung có tượng kho lẫm, kho nhà trời . Ngoài ra còn có các chòm sao như Ngũ Diễn, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Xí, Thiên Kỳ, Thiên Uyển, Cửu Du, Lang, Hồ, Nam Cực lão nhân..., tổng cộng 117 sao.

2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung.

Bắc cung : Còn gọi là "Bắc quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung. Khu vực sao ở phía bắc Trung cung. Tượng sao ở đây giống như con rùa con rắn quấn nhau, nên

có tên là Quy Xà. Thường gọi là Huyền Vũ. Có thuyết bảo là nơi ở của Hắc đế. Gồm 7 sao: Hư, Nguy, Thất, Bích, Đẩu, Ngưu, Nữ. Hư, Nguy ở chính giữa, là sao chính của

phương bắc. Phía nam sao Hư có 45 sao, như Vũ Lâm, Thiên Khố; phía tây bắc có sao Lũy. Phía tây sao Nguy có hai sao Ty Mệnh, Ty Lộc. Ngoài ra có các sao như Doanh Thất,

Thiên Thất, Vương Lang, Sách, Thiên Hoàng, Giang, Bào Qua, Kiến, Hà Cổ, Chức Nữ v.v., tổng cộng 134 sao. 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung

Ngoại cung : Còn gọi là Ngoại quan. 1) Tên khu vực sao, tượng sao ở bên ngoài một khu vực sao nhất định (như Trung cung chẳng hạn). Trong các cách phân chia khu vực sao khác nhau, vị trí của Trung cung không giống nhau. Tấu thư. Thiên văn chí chia ra Trung cung và Ngoại cung, còn lại là 28 sao. Ngoại cung là tượng sao ở phía nam Xích đạo Tùy thư. Thiên văn chí chia ra 6 khu vực lớn, gồm Trung cung, Tứ thú và Ngoại cung, trong đó Ngoại cung là chỉ tượng sao ở phía nam 28 sao. Còn có cách chia ra 7 khu vực lớn, gồm Ngũ thú, Trung cung, Ngoại cung và 11 khu vực gồm Cửu dã, Trung cung va Ngoại cung.

Tử Vi : Còn gọi là Tử Vi Viên, Tử Viên, Tử Cung Viên, Tử Vi Cung, Tử Cung. 1) Tên khu vực sao. Trung viên trong Tam Viên. Nằm ở vị trí giữa bầu trời phương bắc, nên còn gọi là Trung cung. Do 8 chòm sao hàng rào phía đông (Tả Viên) và 7 chòm sao hàng rào phía tây (Hữu Viên) vây quanh hợp thành. Tượng trưng Hoàng cung trên trời. Sao Bắc cực nằm ở giữa, các sao khác vây quanh hướng vào. Hai hàng rào 15 sao là Cung vệ phiên thần. Nằm giữa hai sao Tả Khu và Hữu Khu, ở bên trong khu vực chốt cửa là 39 chòm sao : Bắc cực, Lương Viên, Tả Phụ, Thiên ất, Thái ất, âm Đức, Thượng Thư, Nữ Sử, Trụ Sử, Ngự Nữ,

Thiên Trụ, Đại lý. Câu Trần, Lục Giáp, Thiên Hoàng, Đại Đế Ngu Đế Nội Tòa, Hoa Cái, Giang, Truyền Xá, Nội Giai, Thiên Trù, Bát Cốc, Thiên Bội, Thiên Sàng, Nội Trù, Văn

Xương, Tam Sư, Thái Tôn, Thiên Lao, Thái Dương, Thủ, Thế, Tướng, Tam Công, Huyền Qua, Thiên Lý, Bắc Đẩu, Phụ, Thương Thiên . Trong đó có 37 chòm chính, sao Giang

là chòm phụ của sao Hoa Cái, sao Phụ là chòm phụ của sao Bắc Đẩu. Gồm 163 ngôi sao chính; 2) Còn gọi là Trưởng Viên, Thiên Doanh hoặc sao Kỳ. Tên một chòm sao gồm 15 ngôi. Tức hai hàng rào sao bên phải và bên trái chòm Tử Vi. Hàng rào bên trái gồm 8 ngôi, tính tử phía nam là : Tả Khu, Thương Tể, Thiếu Tể, Thượng Bật, Thiếu Bật, Thượng Vệ, Thiếu Vệ, Thiếu Thừa. Hàng rào bên phải gồm 7 ngôi, tính từ phía nam là : Hữu Khu, Thiếu úy, Thượng Phụ, Thiếu Phụ, Thượng Vệ, Thiếu Vệ, Thượng Thừa.

Tượng là tòa nhà của Thiên đế hoặc chỗ ở của Thiên tử. Tượng mệnh. Lại tượng bầy tôi hộ vệ hoàng cung. Tượng sao thẳng hàng chứng tỏ thiên tử đang điểm binh trong cung.

Thái Vi : Còn gọi là Thái Vi Viên. 1) Tên khu vực sao. Thượng Viên trong Tam Viên. Ở vị trí phía đông bắc, dưới chân Tử Vi, phía nam Bắc Đẩu. Do 2 hàng rào, mỗi hàng rào gồm 5 ngôi sao chính, ở 2 phía đông và tây, hợp thành. Tượng trưng Thiên đình, tòa Ngũ đế hoặc dinh phủ của 12 chư hầu. Tòa Ngũ đế nằm ở giữa, các chư hầu làm hàng rào bên trong, mỗi bên có 5 bầy tôi vây quanh. Có cửa hàng rào. Giữa 2 sao Chấp Pháp là cửa chính, phía đông sao Tả Chấp Pháp là cửa phụ bên trái, phía tây sao Hữu Chấp Pháp là cửa phụ bên phải. Ở hang rào phía đông, đông bắc sao Thượng Tướng là cửa Thái Dương; phía bắc sao Thứ Tướng là cửa Đông Trung Hoa. Ở hàng rào phía tây, tây bắc sao Thượng Tướng là cửa Thai Dương; phía bắc sao Thứ Tướng là cửa Tây Trung Hoa; tây bắc sao Thứ Tướng cũng là cửa Thái Dương. Hàng rào bên ngoài tượng trưng Cửu khanh. Thiên quan thu có ghi "Chu Điểu quyền hành", thì chữ "Hành" là chỉ khu vực Thái Vi Viên. Thái Vi Viên gồm 12 chòm sao. Hàng rào bên trong có các chòm: Cát Giả, Tam Công, Cửu Khanh, Ngũ Chư Hầu, Nội Bình, Ngũ Đế, Hạnh Thần, Thái Tử, Tòng Quan, Lang Tương, Hổ Bôn, Lang Vị. Hai hàng rào là Lưỡng Viên, phía trên Lưỡng viên là chòm sao Thường Trần, Tam Đài. Phía ngoài hàng rào ngoài có các chòm : Minh đường, Linh Đài, Thiếu Vi, Trưởng Viên, chứa tổng cộng 98 ngôi sao chính. 2) Tên Tinh quan (chòm sao), gồm 10 sao. Tức Lưỡng viên ở bên trái và bên phải khu vực sao Thái Vi. Hàng rào bên trái (phía đông) có 5 sao, tính từ phía nam là : Tả Chấp Pháp , Thượng Tể Tướng, Thứ Tể Tướng, Thứ Tướng, Thượng Tướng. Hàng rào bên phải (phía tây) có 5 sao, tính từ phía nam là : Hữu Chấp Pháp, Thượng Tướng, Thứ Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tể Tướng. Có thuyết cho rằng mỗi Viên gồm 4 sao, Tả Hữu Chấp Pháp là hàng rào phía nam. Tả Chấp Pháp tượng trưng Đình úy, còn Hữu Chấp Pháp là tượng Ngự sử đại phu, chủ những sự gian hiểm. Hai hàng rào đông tây mỗi bên có Tử Phụ, tức là 4 đại thần phò ta. Khi chiêm đoán, nếu sao Chấp Pháp di chuyển là có hình phạt nặng; 8 sao hàng rào mọc ra góc nhọn và dao động, tức là chư hầu mưu hại thiên tử. Mặt trăng, Ngũ kinh thấy nhập vào Thái Vi hợp quĩ đạo thì đoán là cát, nghịch quĩ đạo thì đoán là hung; phạm vào tòa Ngũ đế thì đại hung.

Thiên Thị : Còn gọi là Thiên Thị Viên. 1 ) Tên khu vực sao. Hạ Viên trong Tam Viên. Ở chân phía đông nam Tử Vi Viên. Do 2 hàng rào vây quanh, mỗi hang rào gồm 11 ngôi sao chính, ở 2 phía đông (Tả Viên) và tây (Hữu Viên) hợp thành. Tượng trưng đô thị trên trời, còn gọi là "Thái tử suất chư hầu hạnh đô thị". Đế Tòa cư ở bên trong, có 22 vị quan hoặc chư hầu vây quanh. Cửa Thiên Thị (chợ trời) nằm giữa hai sao ở phía nam. Khu Thiên Thị Viên gồm 19 chòm sao : Lưỡng Viên, Thị Lâu, Xa Tứ, Tông Chính, Tông Nhân, Tông, Bạch Đạc, Đồ Tứ, Hầu, Đế Tòa, Hoạn Giả, Liệt Tứ, Đấu, Hộc, Quán Sách, Thất Công, Thiên Kỷ, Thiên Sàng, gồm 87 ngôi sao chính. 2) Còn gọi là "Thiên Kỳ Đình". Tên chòm sao, gồm 22 ngói, tức hai hàng rào của Thiên Thị Viên. 11 ngôi ở hàng rào phía đông (Tà Viên) tính từ phía nam là : Tống, Nam Hải, Yên, Đông Hải, Tử, Ngô Việt, Tề, Trung Sơn, Cửu Hà, Triệu, Ngụy. 11 ngôi ở hàng rào phía tây (Hữu Viên) tính từ phía nam là : Hành Sở, Lương, Ba, Thục, Tần, Chu, Trịnh, Tấn, Hà Gián , Hà Trung. Tượng chợ trên trời, chủ quyền hành, chủ tụ họp. Kết hợp chiêm đoán với các sao bên trong chợ. Các sao trong chợ mà sáng tỏ, đoán là năm đó được mùa; sao mờ và ít là năm đó mất mùa. Lại tượng quân kỳ của trái chủ việc chém giết. Sao Huỳnh Hoặc ở đó tức là chém đầu kẻ bầy tôi bất trung. Khách tinh ở đó thì đoán là có chuyện dấy binh. Khách tinh ra khỏi đó thì đoán là có quí nhân qua đới.

Đông phương thất tú : Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki. Trong đó Giốc gồm các sao : Giốc, Bình Đạo, Thiên Điền, Tiến Hiền, Chu Đỉnh, Thiên Môn, Bình, Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn; Cang gồm các sao : Cang, Đại Giác, Chiết Uy, Tả Nhiếp Đề, Hữu Nhiếp Đề, Ngoan, Dương Môn; Đê gồm các sao : Đê, Thiên Nhũ, Triệu Dao, Cánh Hà, Đế Tịch, Cang, Trì, Thiên Bức, Trận Xa, Ky Quan, Ky Trận Tướng Quân, Xa Ky; Phòng gồm các sao : Phòng, Phạt, Tây Hàm, Nhật, Câu Linh, Kiện Bế, Đông Hàm, Tòng Quan;

Tâm gồm các sao : Tâm, Tích Tốt; Vĩ gồm các sao : Vĩ, Thần Cung, Quy, Thiền Giang, Phó Thuyết, Ngư; Ki gồm các sao: Ki, Khang, Chử, tổng cộng 46 chòm sao chính, 2 chòm phụ, với 186 ngôi sao.

Bắc phương thất tú : Hư, Nguy, Thất, Bích, Đẩu, Ngưu, Nữ. Trong đó Đẩu gồm các sao : Đẩu, Kiến, Thiên Biền, Biết, Thiên Kê, Thiên Thược, Cẩu Quốc, Thiên Uyên, Cẩu, Nông Trượng Nhân; Ngưu gồm các sao : Ngưu, Thiên Điền, Cửu Khảm, Hà Cố, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Thiên Phù, La Yến, Tiệm Đài, Liên Đạo; Nữ gồm các sao : Nữ, Thập Nhị Quốc, Li Châu, Bại Qua, Hộ Qua, Thiên Tân, Hề Trọng, Phù Khuông; Hư gồm các sao : Hư, Ty Mệnh, Ty Lộc, Ty Nguy, Ty Phi, Khốc, Khấp, Thiên Lũy Thành, Bại Cữu, Li Du; Nguy gồm các sao : Nguy, Phần mộ, Nhân Chủ, Cữu Xa Phủ, Thiên Câu, Tạp Phụ, Cái Ốc, Hư Lương, Thiên Tiền; Thất gồm các sao : Thất, Li Cung, Lôi Điện, Lũy Bích Trận, Vũ Lâm Quân, Phu Việt, Bắc Lạc Sư Môn, Nhập Khôi, Thiên Cương, Thổ Công Sứ, Đằng Xà;

Bích gồm các sao : Bích, Tích Lịch, Vân Vũ, Thiên Cứu, Phu Chất, Thổ Công; tổng cộng 65 chòm sao chính, 2 . chòm phụ, với 408 ngôi sao.

Tây phương thất tú : Khuê, Lâu, Vi, Ngang, Tất, Sâm, Tư. Trong đó Khuê gồm các sao : Khuê, Ngoại Bình, Thiên Hỗn, Thổ Ty Không, Quân Nam Môn, Các Đạo, Phụ Lộ, Vương Lương, Sách; Lâu gồm các sao : Lâu, Tả Cánh, Hữu Cánh, Thiên , Thiên Canh. Thiên Đại Tướng Quân. Vị gồm các sao : Ví, Thiên Bẩm, Thiên Khuân, Thiên Lăng, Thiên Thuyền, Tích Thi, Tích Thúy; Ngang gồm các sao : Ngang, Thiên A, Nguyệt, Thiên Nguyệt, Sô Cảo, Thiên Uyển, Quyển Thiệt, Thiên Sàm, Lệ Thạch; Tất gồm các sao : Tất, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Tiết, Chư Vương, Thiên Cao, Cửu Châu Thù Khẩu, Ngũ Xa, Trụ, Thiên Hoàng, Hàm Trì, Thiên Quan, Sâm Kỳ, Cửu Du, Thiên Viên; Sâm gồm các sao : Sâm, Phạt, Ngọc Tỉnh. Bình, Khố Tỉnh, Xí, Thỉ; Tư gồm các sao : Tư, Tọa Kỳ, Ty Quái; tổng cộng 54 chòm sao chính, 2 chòm phụ, với 297 ngôi sao.

Nam phương thất tú : Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương Dực, Chẩn. Trong đó Tỉnh gồm các sao : Tỉnh, Việt, Nam Hà, Bắc Hà, Thiên Tôn, Ngũ Chư Hầu, Tích Thủy, Tích Tân, Thuỷ Phủ, Thủy Vị, Tứ Độc, Quân Thị, Dã Kê. Tôn, Tử, Trượng Nhân, Quyết Khâu, Thiên Lang, Hồ Thỉ, Lão Nhân; Quỷ gồm các sao : Quỷ, Tích Thi, Quan, Thiên Cẩu, Ngoại Trù, Thiên Xã, Thiên Ký; Liễu gồm các sao : Liễu, Tửu Kỳ; Tinh gồm các sao : Tinh, Hiên Viên, Khanh Nữ, Nội Bình, Thiên Tướng, Thiên Tắc, Trương gồm các sao: Trương, Thiên Miếu; Dực gồm các sao : Dực, Đông Bình; Chẩn gồm các sao : Chẩn, Trương Sa, Tả Hạt, Quân Môn, Thổ Ty Không, Thanh Khưu, Khí Phu; tổng cộng 42 chòm sao chính, 5 chòm phụ, với 245 ngôi sao.

Ngũ tinh : Còn gọi là "Ngũ tá", "Ngũ vĩ". Chỉ 5 sao ngũ hành Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Vận hành cạnh Hoàng đạo. Thời cổ Trung Quốc gọi chúng là Tuế Tinh, Huỳnh Hoặc, Điền Tinh (hoặc Trấn Tinh), Thái Bạch, Thần Tinh. Cốc lang truyện tụ sớ viết "Ngũ tinh tức là Tuế Tinh ở phương đông, Huỳnh Hoặc ở phương nam, Thái bạch ở phương tây, Thần Tinh ở phương bắc, Trấn Tinh ở giữa vậy". Gọi là sao Mộc, sao Hỏa, sao Thổ, sao Kim, sao Thủy tức là theo thuyết ngũ hành giải thích tượng trời, "đất có ngũ hành, trời có ngũ tinh". Trong thuyết ngũ hành, 5 sao là tinh của ngũ hành. Tuế tinh là tinh của Mộc, Huỳnh Hoặc là tinh của Hỏa, Trấn tinh là tinh của Thổ, Thái Bạch là tinh của Kim, Thần tinh là tinh của Thủy. Hán thư. Luật lịch chí : "Thủy hợp với Thần tinh, Hỏa hợp với Huỳnh Hoặc, Kim hợp với Thái Bạch, Mộc hợp với Tuế tinh, Thổ hợp với Trấn tinh". 5 sao làm hành tinh của hệ Mặt trời, đối xứng với hằng tinh của trời xa, có sự vận động nhìn thấy khá rõ ; cổ nhân thường quan sát hiện tượng vận động: biến đổi, màu sắc sao, trong mối quan hệ của chung với nhau, với mặt trăng, mặt trời và vị trí 28 tinh tú mà chiêm đoán. Từ ngữ thường dùng biểu đạt các hiện tượng ấy là : tại, nhập, xuất, phạm, thủ, lưu, thuận hành, nghịch hành, qui đạo, tu, hợp, yểm (che), thực (ăn), lâm, trú kiến (nhìn thấy ban ngày), tranh minh (tranh sáng), liên châu, tịnh xuất v.v. . . Hiện tượng khác nhau, dự đoán sẽ khác nhau. Sử liệu cổ của Trung Quốc chứa rất nhiều nội dung chiêm nghiệm 5 sao. Sách lụa tìm thấy trong ngôi mộ cổ đời Hán ở đồi Mã Vương, Trường Sa, nhan đề Ngũ tinh chiêm ghi chép rất tỉ mỉ về sự vận hành 5 sao đó kèm theo các dự đoán.

Ngũ tá : Tức Ngũ tinh. Thuật chiêm tinh cổ đại cho rằng 5 sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ "khi ẩn khi hiện, vận hành có độ", phò tá trời hành đức, nên gọi là Ngũ Tá.

Ngũ vĩ : Tức Ngũ tinh. Thời cổ gọi hằng tinh là sao Kinh, hành tinh là sao Vĩ. Văn tuyển, Trương Hoành của Lý Thiện Chú : "Ngũ vĩ là Ngũ tinh vậy".

Tam quang : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Chỉ Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh (Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa). Thiên quan thư dẫn Tống Quân, viết : "Tam quang là Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh vậy".

Tam vọng : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Chỉ Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh (Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa).

Khách tinh : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Là ngôi sao lạ ít thấy, ngẫu nhiên nhìn thấy. Cụ thể chỉ sao nào, thì sử liệu ghi chép rất khác nhau. Thiên quan thư là sách đầu tiên dùng thuật ngữ này, nhưng chỉ sao nào thì không rõ. Thiên văn chí đời Tấn, đời Tùy mới xác lập loại sao này, nói là nhìn thấy (nó) không định kỳ, (nó) vận hành vô độ. Đến Thiên văn chí đời Minh thì coi đó là ngôi sao mới xuất hiện, nhưng ở chương Khách tinh thì phần lớn dùng để gọi sao Chổi. Tục văn hiến thông khảo thời Càn Long thì coi các loại sao lạ là Khách tinh. Vậy Khách tinh thường là tên gọi chung các ngôi sao mới và sao Chổi. Trong sử liệu, nói về Khách tinh chủ yếu có Chu Bá, Lão Tử, Vương Bồng Tự, Quốc Hoàng, ôn Hoàng. Thưởng căn cứ vào việc nhìn thấy nó, vận hành, màu sắc, độ lớn nhỏ, sự lưu thủ mà đoán. Sao lớn thì có chuyện lớn, sao nhỏ thì có chuyện nhỏ. Màu vang thì cát màu trắng là có tang, màu xanh có lo buồn, màu đen là chết chóc, màu đỏ có chiến tranh, thời gian xảy ra sẽ trong khoảng 3 năm. Khách tinh nhập vào cung nào, thì đoán sự việc xảy ra ở chòm sao ấy, vận hành đến chỗ nào, thì nơi ấy, nước ấy có họa.

Lưu tinh : Thuật ngữ chiêm tinh cố đại. Tinh thể lao vút trên bầu trời nhanh nhủ mũi tên, là hiện tượng do bụi vũ trụ bay vào khí quyển trái đất, bị ma sát mà phát sáng. Sự chuyển động phát quang của nó tạo ra nhiều hình dạng, đường bay khác nhau. Thời xưa, từ trên giáng xuống gọi là Lưu, từ dưới vút lên gọi là Phi. Việc dự đoán dựa vào kích thước to nhỏ, nhiều ít, hình dạng, âm thanh, đường vận hành, ngắn dài, độ nhìn rõ v.v... Tượng cho thiên sứ. To thì thiên sứ cấp cao, nhỏ thì cấp thấp; phát ra âm thanh là tượng giận dữ; vút nhanh thì việc xảy ra nhanh, chậm thì sự việc xảy ra chậm; lớn mà không sáng là sự việc của đông đảo quần chúng; nhỏ mà sáng là việc của quí nhân, to mà sáng là việc của nhiều quí nhân. Lúc sáng lúc tắt là tượng giặc bại; trước to sau nhỏ là việc lo buồn, trước nhỏ sau to là việc vui mừng. Chuyển động ngoằn ngoèo như rắn là chuyện gian tà; dài thì sự việc kéo dài, ngắn thì sự việc mau chóng. Sao chúi xuống vùng nào, vùng ấy có chiến sự. Trời quang đãng mà thấy Lưu tinh, hơn nữa hồi lâu không rớt, là có bão lớn làm đổ nhà gãy cây. Lưu tinh nhỏ, nhưng nhiều hàng trăm, tán phát tứ phía, là tượng dân di cư ồ ạt. Sử chép hơn 2 ngàn lần có Lưu tinh. Các Lưu tinh chú yếu có Thiên Bảo, Trì Nhạn, Thiên Nhạn, Đốn Ngoan, Giải Hàm, Đại Hoạt, Uông Thỉ, Thiên Cẩu, Thiên Hình, Doanh Đầu.

Thụy tinh: Thuật chiêm tinh cổ đại cho rằng có một vài sao lạ vốn là sao lành, nếu nhìn thấy sẽ có phúc, có đạo, có đức. Các sao đó gọi là Thụy inh. Sử liệu chép có các Các Thụy tinh chính là : Cảnh Tinh, Chu bá, Hàm Dự, Cách Trạch.

Yêu tinh : Thuật chiêm tinh cổ đại cho ràng có một vài sao lạ vốn là sao hung, nếu nhìn thấy sẽ có tai hoạ, tranh đoạt, chiến tranh, chết chóc, nên gọi chúng là Yêu tinh (sao yêu quái). Thường cho rằng phần lớn là do tinh của Ngũ tinh bị tán thoát tạo nên, là tạp khí của sao. Thời Hán người ta gọi những đám mây ngũ sắc cạnh Mặt trăng nhìn thấy vào ngày Dần là Yêu tinh. Các Yêu tinh chính có : sao Chổi, Thiên Bội, Thiên , Thiên Sàm, Thiên Xung, Quốc Hoàng, Suy Vưu, Thiệu Minh, Ty Nguy, Ngũ Tàn, Lục Tặc, Bồng Tinh, Chúc Tinh, Tuân Thủy, Ngục Hán, Trưởng Canh, Tứ Trấn, Địa Duy Tàng Quang. Nhìn thấy

chúng ở nước nào thì nước ấy có triệu chứng vô đạo, thất lễ, binh đao, đói rét, thủy tai, hạn hán, chết chóc. Cho rằng hễ chúng xuất hiện, dù hình dạng thế nào, cũng đều gây tai ương. Thời gian xuất hiện kéo dài thường không quá một năm, nếu kéo dài 3 năm, thì ắt nước mất thành tan, vua chết, thiên hạ đại loạn, chiến tranh liên miên, thây chất đầy đồng. Yêu tinh xuất hiện mà to và dài, thì tai ương lớn và lâu; nhỏ và ngắn thì tai ương nhỏ và chóng

qua; đuôi sao Chổi dài từ 3 đến 5 thước, tai họa kéo dài trăm ngày, từ 5 thước đến 1 trượng, tai họa kéo dài 1 năm, từ 1 đến 3 trượng, tai họa 3 năm; từ 3 đến 5 trượng, tai họa 5 năm; từ 5 đến 7 trượng, tai họa 7 năm; từ 10 trượng trở lên, tai họa 9 năm.

Trung đạo : Tức Hoàng đạo, còn gọi là Quang đạo. Đường vận hành trong 1 năm của mặt trời giữa các hằng tinh mà ta nhìn thấy. Hán thư. Thiên văn chí: "Mặt trời có Trung đạo". Mặt trăng và Ngũ tinh cũng vận hành gần Trung đạo. Thời cổ nói Trung đạo phía bắc đến sao Tỉnh, phía nam đến sao Ngưu phía đông đến sao Giốc, phía tây đến sao Lâu; tiết Hạ Chí đến sao Tỉnh, tiết Đông Chí đến sao Ngưu, tiết Xuân Phân đến sao Lâu, tiết Thu Phân đến sao Giốc. Căn cứ mặt trời , mặt trăng và Ngũ tinh vận hành theo Trung đạo mà xác định bốn mùa, dự đoán khi hậu. Thời cổ cũng có khi gọi Trung đạo là Quỹ đạo.

Thiên Hán : Tức Ngân Hà, còn gọi là Thiên Hà, Ngân Hán hoặc Hán Tân. Là hệ sao do rất nhiều hằng tinh hợp thành. Thời cổ thấy nó có hình dạng một dải mây sáng, nên gọi là Hà (dòng sông tượng dòng sông trên trời. Thời cổ cho rằng nó khởi nguồn tử phương đông, qua đuôi sao Ki thì tách ra hai nhánh nam bắc; nhánh nam đi qua các sao Phó Thuyết, Ngư, Thiên Thược, Thiên Bôn, Hà Cổ; nhánh bắc đi qua các sao Quy, sao Ki, Nam Đẩu Khôi, Tả Kỳ, đến dưới sao Thiên Tân thì hợp với nhánh nam mà chảy về phía tây nam, vòng sao Qua, qua sao Nhân, sao Chử, Thiên Thuyền, Quyển Thiệt; rồi đi về phía nam, qua Ngũ Xa, Bắc Hà Nam, nhập vào vị trí sao Tỉnh mà chảy ra đông nam, cuối cùng chìm lẫn vào sao Thất Tinh. Thuật chiêm tinh thường căn cứ vị trí của Thiên Hán qua chòm sao nào mà xem tượng, dự đoan nhân sự.

Tinh đấu quang đãi: Còn gọi là Tinh đấu. Chỉ hiện tượng biến đổi sao, ánh sáng giữa Ngũ tinh hoặc giữa các hằng tinh xâm phạm nhau, tương phản nhau. Thiên quan thư chính nghĩa: "Đấu, tức là ánh sáng tương phản với nhau". Tùy thư. Thiên văn chí : "Phàm cùng bỏ là họp, phạm vào nhau là đấu". Sao đấu nhau, thì đoán là thiên hạ đại loạn; Ngũ tinh đấu nhau, thì có chiến tranh, quân không xuất chinh ắt là nội loạn, hai sao đấu nhau ở cự li gần thì tai họa 1ớn, cự li xa thì vô hại.

Tinh trú kiến : Chỉ ngôi sao (chủ yếu là Ngũ tinh) có thể nhìn thấy vào ban ngày. Là hiện tượng biến đổi của sao. Có các trường hợp : cùng xuất hiện khi mặt trời mọc, tranh sáng với mặt trời, ban ngày mà quầng sáng vẫn còn. Cùng xuất hiện khi mặt trời mọc thì gọi là "gả chồng", tranh sáng với mặt trời gọi là "tranh sáng", ban ngày mà quầng sáng vẫn còn cũng gọi là "tranh sáng".

Hằng tinh bất hiến : Chỉ hằng tinh giữa đêm khuya vẫn không nhìn thấy. Là hiện tượng biến đổi của sao. Hằng tinh tượng trưng nhân quần, không thấy hằng tinh là tượng chư hầu quay lưng, không chịu phò tá quân vương; cũng tượng trưng không có quân vương. Còn tượng trưng chúa không nghiêm, luật pháp sa sút, hoặc thiên tử mất quyền, chư hầu làm loạn.

Tinh dao : Chỉ ánh sáng của hằng tinh hoặc Ngũ tinh dao động. Là hiện tượng biến đổi của sao. Đoán rằng dân chúng mệt mỏi.

Tinh vẫn : Là hiện tượng sao băng, sao đổi ngôi. Là hiện tượng biến đổi của sao. Căn cứ sao băng lớn nhỏ, nhiều ít, hình dạng, hướng sao ( rơi) mà dự đoán. Sao băng lớn là dương mất địa vị, âm lấn lướt, có họa. Nhiều sao băng là người mất uy thế. Phàm sao băng đều đoán là chính sự có biến động. Sao băng rơi xuống phía nào, nơi ấy có chiến trường, thiên hạ loạn li, thời gian 3 năm. Nhiều sao cùng sa là nhiều người chết. Sao sa như mưa là thiên tử suy yếu, chư hầu làm loạn, lập minh chủ mới. Sao sa từ đường chân trời, là thiên tử thất đạo, kỷ cương rối ren.

TINH QUAN TAM VIÊN

Bắc Cực : Còn gọi là Bắc Thần. Tên chòm sao. Chỉ ngôi sao ở sát Bắc cực. Có thời chỉ chòm sao Bắc Cực. Trong lịch sử, từng lấy sao Đế làm sao Bắc Cực (như Thiên quan

thư). Sau lấy sao Nữu làm sao Bắc Cực. Chòm sao Bắc Cực gồm 5 ngôi : Thái Tử, Đế, Thứ Tử, Hậu, Nữu hoặc Bắc Cực. Sao thứ 5, sao Nữu, còn gọi là sao Thiên Khu. Tùy thư. Thiên văn chí : "Trời vận động không ngừng, Tam Quang đổi ngôi, riêng sao Cực không xê dịch, nên nói mọi ngôi sao đều hướng về chỗ nó". Tượng trưng cho bậc chí tôn của mọi ngôi sao, chỗ ở của đế vương. Trong chòm này, sao Thái Tử chủ mặt trăng, sao Đế chủ Mặt trời, sao Thứ Tử chủ Ngũ tinh. Dự đoán, nếu sao Đế không sáng, thì vua chúa không dụng sự; sao Thái Tử không sáng, thì vương tử trong cung đình lo âu.

Bắc Thần : Tức Bắc Cực.

Thiên Cực tinh : Tên chòm sao. Chỉ sao Cực của bầu trời. Thời cổ Trung Quốc thường lấy ngôi sao ở gần Bắc cực làm sao Cực, nên còn gọi là sao Bắc Cực, Bắc Thần. Thiên quan thư lấy sao Đế làm sao Cực, gọi là sao Thiên Cực, đồng thời dùng tên đó để gọi Trung cung. Sách ấn dẫn Văn diệu câu viết : "Trung cung đại đế, tinh của nó là sao Bắc Cực". Tượng trưng cho bậc chí tôn của mọi ngôi sao, chỗ ở của đế vương. Tùy thư. Thiên văn chí : "Mọi ngôi sao đều hướng về chỗ nó".

Tứ Phụ : Còn gọi là Tứ Bật. Tên chòm sao. Gồm 4 ngôi. Ở gần sao Bắc Cực, thành hình dạng ôm lấy sao đó.

Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên . Tượng trưng cho sự phò tá Bắc Cực.

Thái Nhất : Còn gọi là Thái ất. 1) Tên thiên thần. Thiên quan thư chính nghĩa :"Thái Nhất là biệt danh của Thiên đế vậy". Lưu Bá Trang viết: thái Nhất là vị thiên thần tôn quí nhất". Cư ở Trung cung. 2) Tên chòm sao, tượng trưng thiên thần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Ở phía nam sao Thiên Nhất, chủ mưa gió, thủy tai hạn hán, binh biến, đói khát, dịch bệnh. Thái Nhất không sáng hoặc đổi vị trí là tượng tai họa. Cùng với Thiên Nhất chỉ việc vua lên ngôi, lập Thái tử truyền ngôi. Nếu mờ thi việc lên ngôi không thành.

Thái ất : l) Tức Thái Nhất. 2) Tức Số Thái Ất

Thiên Nhất : Còn gọi là Thiên ất. 1) Tên thiên thần.

Xem mục Thiên Nhất thiên thượng. 2) Tên chòm sao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên, ởû gần miệng sao Bấc đẩu, phía ngoài cửa Tử Cung, cạnh phía bắc sao Hữu Khu, phía

nam sao Thái Nhất. Cổ nhân cho rằng ánh sáng của nó tương đối yếu, khi thấy khi không. Tượng thần của Thiên đế chủ chiến đấu, biết cát hung. Nếu sáng. là âm dương hài hòa, vạn vật trưởng thành, vua cát lợi; nếu quá mờ, thì âm dương không hòa, vạn vật không thành, vua gặp hung hiểm. Cùng với Thái Nhất chỉ việc vua lên ngôi, lập Thái tử truyền ngôi. Nếu mờ thì việc lên ngôi không thành.

Khuông vệ phiên thần : Ngụ ý quần thần bảo vệ xung quanh. Thuật chiêm tinh cổ đại dùng quan chức của xã hội loài người mà biểu đạt vị trí của các hằng tinh, quan hệ tôn ti của chúng, phân chia giới hạn tượng sao. Trong Ngũ cung, Thiên quan thư chép rằng Trung cung và Nam cung mỗi cung có 12 sao phiên thần (hộ vệ) vây quanh, tạo thành 2 khu vực sao là Trung cung, hoặc Tử cung, và Nam cung, hoặc Thái Vi. Hộ vệ Trung cung là các sao Hữu Khu, Thiếu úy, Thượng Phụ, Thiếu Phụ, Thiếu Vệ, Thượng Thừa ở phía tây và các sao Tả Khu, Thượng Tể, Thiếu Tể, Thượng Bật, Thiếu Bật, Thiếu Vệ. Hộ vệ Nam cung là các sao Thượng Tể Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tướng, Thứ Tướng ở phía tây và các sao Thượng Tể Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tướng, Thứ Tướng ở phía đông cung hai sao Tả, Hữu Chấp Pháp. Hai cụm sao phiên thần đó về sau gọi là Lưỡng Viên, tức Lưỡng Viên của Tử Vi Viên và Lưỡng Viên của Thái Vi Viên. Xem mục Lưỡng Viên.

Lưỡng Viên : Còn gọi là Lưỡng Phiên. Chỉ hai chòm sao Tả Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây Phiên) của Tử Vi Viên. Tả Viên gồm 8 sao, Hữu Viên gồm 7 sao, cộng là 15 sao. Ở phía bắc sao Bắc Đẩu. 8 sao Tả Viên tính từ phía nam là: Tả Khu, Thượng Tể, Thiếu Tể, Thượng Bật, Thiếu Bật, Thiếu Vệ, Thiếu Thừa. 7 sao Hữu Viên tính tử phía nam là : Hữu Khu, Thiếu úy, Thượng Phụ, Thiếu Phụ, Thiếu Vệ, Thượng Thừa. Giữa hai sao Tả, Hữu Khu có hình dạng cửa đóng mở, là cổng lớn của Tử cung. Lưỡng Viên lại gọi gộp là chòm sao Tử Vi, hoặc còn gọi là Trưởng Viên, Thiên Doanh hoặc Kỳ Tinh. Khi dự đoán, thấy Tử Vi thì có 2 nghĩa. 2) Chỉ hai chòm sao Tả Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây Phiên) của Thái Vi Viên. Tả Viên gồm 5 sao, Hữu Viên gồm 5 sao, cộng là 10 sao. Ở phía nam sao Bắc Đẩu Hai Viên thành hình hàng rào vây quanh khu vực sao Thái Vi. 5 sao Tả Viên tính từ phía nam là : Tả Chấp Pháp, Thượng Tể Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tướng, Thứ Tướng. 5 sao Hữu Viên tính tử phía nam là : Hữu Chấp Pháp, Thượng Tướng, Thứ Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tể Tướng. Trong 12 phiên thần của Nam cung, Thiên quan thư chép rằng mỗi sao Tả, Hữu Chấp Pháp gồm 2 sao. Lương Viên lại gọi gộp là chòm sao Thái Vi. Khi dự đoán, thấy Thái Vi thì có 2 nghĩa. 3) Chỉ hai chòm sao Tả Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây phiên) của Thiên Thị Viên. Tây Viên gồm 11 sao, Hữu Viên gồm 11 sao, cộng là 22 sao ở phía đông nam Tử Vi Viên. Hai Viên thành hình hàng rào vây quanh khu vực sao Thiên Thị. 1 1 sao Tả Viên tính từ phía nam là : Tống, Nam Hải, Yên, Đóng Hải, Từ, Ngô Việt, Tề, Trung Sơn, Cửu Hà, Triệu, Ngụy. 11 sao Hữu Viên tính từ phía nam là : Hàn, Sở, Lương, Ba, Thục, Tần, Chu, Trịnh, Tấn, Hà, Gián, Hà Trung. Giữa hai Viên có cửa Thiên Thi hoặc Thiên Môn. Khi dự đoán, thấy Thiên Thị thì có 2 nghĩa.

Tả Viên : Tên chòm sao. Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên đều có chòm sao Tả Viên của mình. Xem mục Lưỡng Viên.

Hữu Viên : Tên chòm sao. Từ Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên đều có chòm sao Hữu Viên của mình.

Xem mục Lưỡng Viên.

Âm đức : Tên chòm sao. Gồm 2 sao. Tấn thư. Thiên văn chí gọi là âm Đức và Dương Đức. Nằm ở gần miệng sao Bắc Đẩu, phía tây sao Thượng Thư, ánh sáng tương đối yếu Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng nữ chúa trong cung, chủ ban phúc đức và ân huệ. Khi dự đoán, coi sao này không sáng là tốt; nếu sáng là vua mới thiên vị; nếu sáng lung linh, thì có họa thê thiếp trong cung.

Dương Đức : Tên chòm sao. Một trong hai sao của chòm âm Đức. Tấn thư. Thiên văn chí gọi chòm này có 2 sao âm Đức và Dương Đức.

Thượng Thư : Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở phía trong Tả Viên Tử Vi, phía dưới sao Ngự Nữ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. chủ sự bàn mưu. Nếu sao này sáng thì đoán là tốt.

Trụ sứ : Tên chòm sao. Còn gọi là Trụ Hạ Sứ. Gồm 1 sao, ở phía trong Tả Viên Tử Vi, phía dưới sao Thiên Trụ, nên có tên đó. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng quan tá hữu sứ. Chủ đã ghi chép.

Nữ sử : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở dưới sao Ngự Nữ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng địa vị thấp của phụ nữ. Chủ việc tiết lộ.

Ngự nữ : Tên chòm sao. Còn gọi là Nữ Ngự Quan. 1) Gồm 4 sao, ở phía bắc sao Câu Trần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. tượng 81 ngự thê, chủ việc hậu cung. 2) Gồm 1 sao, ở chót phía nam sao Hiên Viên, thuộc Nam cung. Có khi được coi là 1 sao trong chòm Hiên Viên.

Thiên Trụ : Gọi tắt là Trụ. 1) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở gần Tả Viên bên trong Tử Vi Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng thiết lập chính pháp, chủ cấm lệnh và thi hành pháp lệnh. 2) Chỉ Ngũ Trụ. 3) Chỉ Tam Trụ. 4) Chỉ Tam Đài.

Đại Lý : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên trái cửa Tử Vi Viên, gần sao âm Đức. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chỉ phán quyết ngục hình.

Câu Trần : Tên chòm sao. Còn gọi là Chính Phi. Cũng là sao Bắc Cực ngày nay. Gồm 6 sao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ Lục quân. Lại tượng trưng Hậu cung, Chính phi của đại đế hoặc tòa Thiên đế. Chủ việc hoàng hậu và phi tần.

Hậu Câu tú tinh : Còn gọi là Hậu phi tứ tinh. Chỉ 4 ngôi sao sáng trong 6 ngôi của chòm Câu Trần. Gắn sao Đế là sao Câu Trần thứ tư, tiếp đến Câu Trần thứ ba, Câu Trần thứ hai, rồi đến ngôi sáng nhất là Câu Trần thứ nhất. Còn gọi là sao Chính Phi. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. có thuyết nói là 4 sao Tứ Phụ.

Lục Giáp : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở bên phải chòm Ngũ đế. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. chủ việc chia âm dương mà định khí hậu, ban bố chính giáo.

Thiên hoàng đại đế : Tên chòm sao. Còn gọi là Thiên hoàng đại đế, Thiên Vương. Gồm 1 sao, ở trong Tử Vi Viên, ở giữa Câu Trần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng

trưng thần Diệu Phách Bảo. Chủ thần linh ngự chúng.

Ngũ đế nội tòa : Tên chòm sao. Gọi tắt là Đế tòa. 1) Chỉ tòa Ngũ đế. Vi nằm trong Nam cung Thiên đế hoặc đình Tam Quang ( Thái Vi), nên có tên gọi đó. 2) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở trong Tử Vi Viên, dưới sao Hoa Cái, trên sao Câu Trần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng nơi ở của Ngũ đế. Nếu Khách tinh nhập Tử cung là phạm, là đại thần khinh chúa.

Hoa Cái: Tên chòm sao. Gồm 9 sao ở phía trên sao Thiên hoàng đại đế. Thuộïc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng trưng cái lọng che tòa Thiên đế. Chủ việc của quân

vương.

Giang : Tên chòm sao. Gồm 9 sao, ở phía bắc sao Thiên hoàng đại đế. Phía tây nam sao Hoa Cái, phía đông bắc tòa Ngũ đế. Thuộc Trung cung hoặc Tư Vi Viên. Chòm phụ của sao Hoa Cái. tượng cái cán lọng Hoa Cái.

Truyền Xá : Tên chòm sao. Gồm 9 sao, ở bên trên sao Hoa Cái, gần Thiên Hà. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng nơi đón tân khách, chủ người Hồ vào Trung Quốc. Khách tinh mà thủ ở đây là có kẻ gian hoặc dân Hồ động binh.

Nội Giai : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở phía bắc sao Văn Xương. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng bậc thềm của Thiên hoàng.

Thiên Trù : Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Ở phía đông bắc bên ngoài Tử Vi Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi viên. Tượng nhà bếp của Thiên phủ, chủ yến tiệc linh đình.

Bát Cốc : Tên chòm sao. Gồm 8 sao, ở phía tây bên ngoài Tử Vi Viên, phía bắc sao Ngũ Xa, bên trong Hoa Cái. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ Hậu tuế. Không

thấy 1 sao, thì không thu hoạch một loại trong ngũ cốc. Thấy rõ cả chòm sao, thì được mùa lớn.

Thiên Bổng: 1) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở phía tây Tử Vi Viên, đông bắc Nữ Sàng. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ phân tranh và hình ngục. Lại chủ tàng binh,

gặp nạn. Không thấy 1 sao, đoán là nước sẽ dấy binh. Thường cùng chiêm đoán với sao Thiên, nên gọi là Bổng.

Thiên Sàng : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở bên ngoài cửa Tử Vi Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ nơi ngủ, nghỉ ngơi.

Nội Trù : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên ngoài góc tây nam Tử Vi Viên , bên trên sao Thiên Nhất và Thái Nhất. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ việc ăn uống của

6 cung, việc ăn uống của Hoàng hậu và Thái tử.

Văn Xương : Còn gọi là Cung Văn Xương. Tên chòm sao. Gồm 6 sao, Thiên quan thư nói đó là các sao Thượng Tướng, Thứ Tướng, Quý Tể Tướng, Ty Mệnh, Ty Trung, Ty Lộc. Hán thư. Thiên văn chí nói ngôi sao thứ 5 là Ty Lộc, ngôi thứ 6 là Ty Tai. Tùy thư. Thiên văn chí nói ngôi sao thứ 4 là Ty Lộc, ngôi thứ 5 Ty Mệnh, Ty Quái, ngôi thứ 6 là Ty Quán. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Ở phía trên sao Bắc Đẩu, thành hình bán nguyệt. Tượng lục phủ trên trời, chủ đầu mối thiên đạo. Khi đoán, nếu sáng, 6 sao chỉnh tề, thì là điềm tốt lành.

Tam Sư : Tên chòm sao. Gồm 3 sao, ở phía bắc cái gáo sao Bắc Đẩu, bên trái Hữu Viên Tử Vi, gần sao Thiếu Phụ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Sử liệu thường gọi gộp cùng sao Tam Công thành Tam Sư Tam Công. Về dự đoán, xem nghĩa thứ nhất mục Tam Công.

Thái Tôn : Còn gọi là Thiên Tôn. Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở phía bắc sao Trung Đài của Tam Đài, phía tây sao Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng thân thích của hoàng cung.

Thiên Lao : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở phía tây sao Bắc Đẩu. Thuộc Nam cung hoặc Tử Vi Viên . Tượng nhà lao của quí nhân, chủ cấm bạo dâm.

Thái Dương Thú : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở bên trái sao Tể Tướng. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng đại thần đại tướng; chủ việc cảnh giới đề phòng bất

trắc, thiết lập võ bị. Sao này xuất hiện không bình thường, thì đoán là có chiến tranh .

Thế : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở tây bắc sao Thái Dương Thủ, phía tây sao Thiên Lao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng người cung hình.

Tướng : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở phía nam sao Bắc Đẩu, gần sao Thiên Quyền thuộc chòm Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ thống lĩnh mọi ty sở, phò tá đế vương an đinh bang quốc, nắm giữ mọi việc. Sao nay sáng là tốt lành.

Tam Công : 1) Tên chòm sao. Gồm 3 sao : Thái úy. Tư Đồ, Tư Không, ở phía nam cái gáo sao Bắc Đẩu phía đông giáp sao Dao Quang. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên sau công phân chia thái úy, tử đồ, tư không. Chủ việc hòa âm dương, phò tá cơ vụ, tuyên đức hóa, điều thất chính. Khi dự đoán, nếu sao này ở yên vị là tốt, di chuyển là hung. Kim, Hỏa thú ở đó thì đoán là xấu. 2) Tức "Nội tòa Tam Công" của Thái Vi Viên.

Huyền Qua : Tên chòm sao. Còn gọi là Nguyên Qua. Gồm 1 sao. Tùy thư. Thiên văn chí nói gồm 2 sao, ở cạnh sao Dao Quang. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ việc binh nhà Hồ, hoặc chủ việc Bắc di (rợ phía bắc). Khách tinh thủ ở đây, đoán là quân Hồ đại bại.

Thiên Lý : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở cạnh sao Bắc Đẩu, tượng nhà lao của quí nhân. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Sao sáng thi đoán là quí nhân hạ ngục.

Bắc Đẩu : Tên chòm sao. Gọi tắt là Đẩu. Gồm 7 sao, ở phía bắc Thái Vi Viên, thành hình cái gáo ở bầu trời phương bắc. 7 sao là : Khu, Thi, Cơ, Quyền, Hành, Khai Dương, Dao Quang. 4 sao đâu là miệng gáo, 3 sao sau là cán gáo. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Bắc Đẩu là tượng trưng cổ hong của trời hoặc xe trời, là cơ chế thất chính, nguyên thể âm dương nên vận hành ở trên trời, giám sát tứ phương, thiết lập 4 mùa, cân bàng ngũ hành. 7 ngôi sao đó tượng trưng và chủ điều gì, các sách nói không thống nhất. Có thuyết nói Khu là khu vực trên trời, Thi là phân phát, Quyền là cân bằng nặng nhẹ, Cơ là biến động, Khai Dương là mở khí dương, Dao Quang la dao động ánh sáng. Có thuyết nói Khu là trời, Thi là đất, Cơ là ngươi, Quyền là thời gian, Khai Dương là luật, Dao Quang là sao, Ngọc hoàng là âm. Thạch thị tinh chiêm thì cho rằng 7 sao lần lượt chỉ trời, đất, hỏa, thủy, thổ, mộc, kim; lần lượt chủ 7 nước dưới trái đất : Tần, Sở, Lương, Ngô, Triệu, Yên, Tề. 7 sao thì mỗi ngôi cũng có tượng riêng. Ngôi thứ nhất là chính tinh, chủ dương đức, tượng thiên tử; ngôi thứ hai là pháp tinh, chủ âm hình, tượng địa vị nữ chúa; ngôi thứ ba là lệnh tinh, chủ họa hại ; ngôi thứ tư là phạt tinh, chủ thiên lý, tượng trừng phạt vô đạo; ngôi thứ năm là sát tinh, chủ trung ương, tượng giúp bốn phương giết tội phạm; ngôi thứ sáu là nguy tinh, chủ kho ngũ cốc của trời; ngôi thứ bảy là bộ tinh hoặc ứng tinh, chủ binh. Quan sát phương vị 7 ngôi sao chòm Bắc Đẩu có thể biết bốn mùa, định tiết khí; căn cứ sự di chuyển của chúng có thể xác định năm tháng, ngày, giờ; nên còn gọi 7 sao chòm Bắc Đẩu là Thất chính.

Tiêu : 1 ) Chỉ cán gáo sao Bắc Đẩu. Gồm 3 sao : Hành, Khai Dương, Dao Quang. Tiêu chủ đất tây nam Hoa Sơn. Có khi gọi Tiêu là Ngọc Hoành. Xem mục Bắc Đẩu thất tinh. 2) Chỉ 2 ngôi sao phía bắc sao Bắc Đẩu.

Khôi : Chì Đầu Khôi của Bắc Đầu. Khôi gồm 4 sao: Khu, Thiên Cơ, Quyrrgn. Khôi chu vùng đông bắc hai đảo, tức phân dã của Tề. Còn gọi là Thi Cơ. Sao Chổi nhập vào Khôi, thì đoán là có thánh nhân thụ mệnh; mặt trăng và Ngũ tinh nhập vào đó, thi đại nhân lo âu, thiên hạ có chiến sự; phạm vào đó thì đại nhân lo âu, nữ chúa nắm quyền. 2) Chỉ Đẩu Khôi Nam Đẩu, gồm 4 sao. Mặt trăng và Ngũ tinh nhập vào đó, thì đại nhân lo âu, thiên hạ có chiến sự hoặc Ngô Việt có nỗi lo.

Thiên Khu : Còn gọi là Khu. 1) Chỉ sao thứ nhất trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Chính tinh. Tượng thiên tử. Chủ trời, chủ dương đức, chủ đất Tần. 2) Chỉ ngôi sao thứ 5 của chòm Bắc Cực. Tùy thư. Thiên văn chí : "Bắc Cực, Thần vậy. Là khu vực của trời". Xem mục Bắc Cực.

Thi : Còn gọi là Thiên Thi. Ngôi sao thứ hai trong 7 ngôi sao của chòm Bác Đẩu. Còn gọi là Pháp tinh, tượng vị trí của nữ chúa, chủ đất, chủ âm hình, chủ đất Sở.

Cơ : Còn gọi là Thần Cơ. Ngôi sao thư ba trong 7 ngôi sao của chùm Bắc Đẩu. Còn gọi là Lệnh tinh. Chủ họa hại, chủ người, chủ Hỏa, chủ đất Lương.

Quyền : Còn gọi là Thiên Quyền. Ngôi sao thứ tư trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Phạt tinh, chủ thời gian, chủ Thuỷ, chủ thiên lý (lý của trời), phạt vô đạo, chủ đất Ngô.

Hành : Còn gọi là Ngọc Hoành. Ngôi sao thứ năm trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Sát tinh, chủ âm thanh, chủ Thổ, chủ trung ương giúp bốn phương, giết kẻ phạm tôi; chủ vùng đất nằm giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nước Triệu.

Khai Dương : Ngôi sao thứ sáu trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là sao Nguy. Chủ luật, chủ kho ngũ cốc của trời; chủ vùng đất nằm giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nước Yên.

Ngọc Hoành : 1) Tức sao Hành. 2) Chỉ ba ngôi sao cán gáo của chòm Bắc Đẩu. Thiên quan thư dẫn Văn diệu câu : "Ngọc Hoành thuộc cán gáo, Khôi là Thi Cơ". Xem mục Bắc Đẩu thất tinh.

Dao Quang : Còn gọi là sao Phá Quân. Ngôi sao thứ bảy trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Bộ tinh hoặc Ứng tinh. Chủ quân đội, chủ vùng đất nằm giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nước Tề.

Phụ : Tên chòm sao. Gồm 1 sao Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Cạnh ngôi sao Khai Dương thuộc chòm Bắc Đẩu, sao nhỏ mà sáng, tượng đại thần. Nếu to mà sáng, là bầy tôi đoạt quyền vua, nếu nhỏ mà mờ, là bầy tôi không làm tròn trách nhiệm; nêu to, sáng, lại lung linh tức là quân đôi bạo loạn; nếu mờ và xa sao Bắc Đẩu, là bầy tôi chết hoặc mất chức nếu ánh sáng tỏa về một phía, chứng tỏ vua thiên vị, trọng dụng gian thần, gạt bỏ hiền thần, nếu mọc cánh (phát tia sáng ra hai bên), chứng tỏ cận thần vượt quyền mưu quốc sự, định cướp ngôi, hoặc danh tướng bại trận, bỏ mạng.

Thiên Thương : Tên chòm sao. 1) Còn gọi là Thiên Việt. Gồm. 3 sao. Ở phía đông Tử Vi Viên, phía đông miệng gáo sao Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng võ bị của trời. Thiếu một sao chứng tỏ đất nước có binh biến . Thường kết hợp với sao Bàng để dự đoán, gọi là Bàng. 2) Tên sao yêu quái, thuộc loại sao Chổi. Hình dạng như cây thương, hai bên có mũi nhọn, dài vài trượng. Xuất hiện lâu quá 3 tháng, ắt có nạn cướp ngôi vua, tàn phá đất nước.

Cát Giá : Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở bên trong cửa Thái Vi Viên, phía bắc sao Tả Chấp Pháp. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ tán dương tân khách.

Tam Công nội tòa : Tên chòm sao. Còn gọi là Tam Công. Gồm 3 sao. Ở đông bắc sao Cát Giả, nam sao Cửu Khanh. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ nơi hội họp của Tam công.

Cửu Khanh : Tên chòm sao. Gồm 3 sao ở bên ngoài hàng rào Thái Vi Viên. 3 sao này còn gọi là Cửu Khanh nội tòa. Ở phía nam Ngũ chư hầu, phía bắc sao Tam Công. Thuộc Thái Vi Viên. Chủ trì vạn sự.

Nội Ngũ chư hầu : Tên chòm sao. Còn gọi là Ngũ chư hầu, Chư hầu hoặc Ngũ hầu. Gồm 5 sao. Ở phía tây sao Cửu Khanh. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ nội thị thiên tư. Khi dự đoán. coi việc sao này sáng nhuận là tốt, nếu khô lạnh là các nơi có tai biến nặng thì là tai họa chết người, nhẹ cũng là nạn lưu vong, có kẻ nhân danh thiên mệnh mà xâm phạm vua chúa.

Nội Bình : Tên chòm sao. Gọi tắt là sao Binh. Gồm 4 sao. Ơû bên trong cửa chính của Thái Vi Viên phía dưới Ngũ đế tòa, gần sao Hữu Chấp Pháp. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ việc che kín chỗ ngồi của đế vương.

Ngũ đế tòa : Tên chòm sao. Còn gọi là Ngũ tinh tinh tòa, Ngũ đế nội tòa, gọi tắt là Đế tòa. Gồm 5 sao. Ơû trong Thái Vi Viên, phía bắc giáp sao Tể Thần, Thái Tử, Tòng Quan; phía nam giáp sao Bình. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Ngôi lớn nhất ở giữa là chỗ của Hoàng đế, bốn vị đế khác ở xung quanh, mạn đông là sao Đế (Thanh Đế). Linh Uy Ngưỡng, mạn nam là sao Xích Đế Hách Phiêu Nộ, mạn tây là sao Bạch Đế Triệu Củ, mạn bắc là sao Hắc Đế Diệp Quang Kỷ; tượng 5 tòa Ngũ đế tụ tập thần linh mưu sự Tòa Ngũ đế sáng là tốt. Sáng thì thiên tử làm đúng đạo trời, y đất; mờ thì thiên tử thất vị; nếu nhỏ yếu, xanh đen, thì vua chết.

Hạnh Thần : Ten chòm sao. Gồm 1 sao. Ơ bên trong Thái Vi Viên, phía bắc Ngũ đế tòa, phía đông sao Thái Tử. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng sủng thần.

Thái Tử : 1) Tên sao. Ngôi sao ở chót nam của chòm sao Bắc Cực, phía trên giáp sao Đế. 2) Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở bên trong Thái Vi Viên, phía bắc Ngũ đế tòa. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng con trai của thiên tử, việc của Thái tử.

Tòng Quan : 1 ) Tên chòm sao. Gồm 1 sao ở bên trong Thái Vi Viên, phía bắc Ngũ đế tòa, phía tây sao Thái Tử. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng bầy tôi đứng hầu vua. 2) Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở tây nam sao Phòng, tây bắc sao Tích Tốt. Thuộc Nam cung hoặc sao Phòng. Tượng bầy tôi đứng hầu vua.

Tướng Vị : Hoặc gọi là Lang Tướng. Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ơû phía bắc sao Lang Vị. Tượng các tướng soái. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ duyệt binh, võ bị. Sao này sang thì quân đội hùng mạnh, mờ thì quân yếu ớt; to mà sáng, lại có góc cạnh, thì tượng dũng tướng vô địch.

Hổ Bôn : Hoặc gọi là Võ Bôn. Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ơû bên ngoài Tây Viên của Thái Vi Viên, phía tây sao Thượng Tướng, phía nam sao Hạ Đai. Tượng võ sĩ hộ vệ Thiên Tử. Sao dao động, là thiên tử rời cung đi ra ngoài. Sao này sáng, thì võ binh mạnh; sao mờ thì võ binh yếu.

Thường Trần : Tên chòm sao. Gồm 7 sao. Ơû phía bắc Thái Vi Viên. Thuộc Đông cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng võ sĩ hộ vệ Thiên Tử. Sao dao động, là thiên tử rời cung đi ra ngoài. Sao này sáng, thì võ binh mạnh; sao mờ thì võ binh yếu.

Lang Vị : Còn gọi là Viên Điểu hoặc Y Điểu. Hán thư gọi Viên Điểu là diện mạo của sao. Tên chòm sao. Gồm 15 sao. Ơû đông bắc Ngũ đế tòa. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ hộ vệ. Khi dự đoán, lấy việc chòm sao 15 ngôi này sáng nhuận, hiện diện đủ là cát. Có khi sao sáng thì đoán là đại thần lấn chúa hoặc khách phạm thượng; sao không hiện diện đủ, là sủng thần bị chém. Khách tinh nhập vào đó, thì đoán là đại thần làm loạn.

Minh đường : 1) Chỉ sao Phòng hoặc sao Tâm. Tùy thư. Thiên văn chí : "Phòng là Minh Đường". Thiên quan thư : "Tâm là Minh Đường". Hoặc sao Phòng cùng sao Tâm hợp thành Minh Đường. Xuân Thu thuyết đề từ : "Phòng, Tâm là Minh Đường, cung mà Thiên vương bố chính". 2) Tên chòm sao. Gồm 3 sao. Ở phía bắc sao Dực, tây nam sao Hữu Chấp Pháp . Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng cung mà thiên tử ban bố chính sách.

Linh Đài : l) Tên chòm sao. Gồm 3 sao. Ở bên ngoài Hữu Viên của Thái Vi Viên. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng đài quan sát hiện tượng. Chủ việc quan sát khí hậu, điềm báo, đoán tai biến. 2) Thời xưa thiết lập đài quan sát hiện tượng, gọi là Linh Đài.

Thiếu Vi : Còn gọi là sao Xử Sĩ. Tên chòm sao. Gồm 4 sao. Ơû phía tây Hữu Viên của Thái Vỉ Viên, xếp thành hàng theo chiều nam bắc. gần sao Hổ Bôn và Thượng Tể Tướng. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tính từ bắc xuống nam là Xử Sĩ, Nghị Sĩ, Bác Sĩ, Đại Phu. Coi việc sao to, sáng màu vàng nhuận là hiền sĩ được trọng dụng; sao mờ là hiền sĩ không được trọng dụng. Mặt trăng, Ngũ tinh phạm thủ, thì đoán là xử si, nữ chúa lo âu, tể tướng dễ mất chức.

Trưởng Viên : Tên chòm sao. l) Gồm 4 sao. Ơ phía tây Thái Vi Viên, phía nam Thiếu Vi. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. chú biên cương, dân tộc Hồ. Sao Huỳnh Hoặc nhập Trưởng Viên là người Hồ xâm nhập Trung Quốc; sao Thái bạch nhập vào đây là cửu khanh có mưu mô. 2) Tức Tử Vi Viên. Xem mục Tử vi , nghĩa thứ 2.

Tam Đài : Còn gọi là Tam Năng, Thái Giai, Thiên Giai hoặc Thiên Trụ. Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Chia ra 3 cặp Thượng Đài, Trung Đài, Hạ Đài. Thượng Đài khởi từ Văn Xương, Trung Đài đối diện với sao Hiên Viên, Hạ Đài ở phía dưới Thái Vi. Thuộc Trung cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng 3 bậc thềm của thiên tử. Bậc thềm trên cùng gồm 2 sao, bên trên là Nam chúa, bên dưới là Nữ chúa. Bậc thềm giữa gồm 2 sao, trên là Chư hầu tam công, dưới là Khanh đại phu. Bậc dưới cùng gồm 2 sao, trên là Sĩ, dưới là Thứ dân. Chúa thì dùng âm dương hài hòa mà cai quản vạn vật, lại tượng trưng địa vị Tam công, chú tuyên dương đức độ. Thượng Đài cai quản mệnh, chủ thọ. Trung Đài cai quản trung, chủ tôn thất. Hạ Đài cai quản lộc, chủ việc binh, ngăn chặn gian tà. Khi dự đoán, coi Tam Đài song hành chỉnh tề là cát, là âm dương hài hòa, mưa thuận gió hòa, vua tôi một lòng; ngược lại thì khí hậu quái gở, mất mùa, có thiên tai, chiến tranh.

Tam Năng : Tức Tam Đài. Thiên quan thư: (Sáu ngôi sao phía dưới sao Khôi, xếp thành 3 cặp cân xứng, là Tam Năng". Tập giải dẫn Tô Lâm viết: "Năng là đài". Xem mục Tam Đài.

Thị Lâu : Còn gọi là Thị Lâu Thị Phủ. Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Ơû bên dưới Thiên Thị Viên, phía trên sao Ki. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chỉ giá cả thị trường.

Xa Tứ : Tên chòm sao. Gồm 2 sao. Một ngôi ở trong, một ngôi ở ngoài cửa Thiên Thị, ở tây bắc sao Tống thuộc Tả Viên. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chỉ khu vực buôn bán của dân chúng.

Tông Chính : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở tây nam Nội Đế tòa của Thiên Thị Viên. Thuộc cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng tôn thất đại phu. Nếu sao Chổi thủ ở đó, sao mất màu, thì đoán là đại phu có chuyện . Nếu Khách tinh thủ ở đó, thì đoán là hiệu lệnh thay đổi.

Tông Nhân : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở phía đông sao Tông Chính" Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc cúng tế c thân. Nếu sao sáng mà có vân đẹp, đoán là vương tộc hoa hợp; nếu sao dao động, tức là thân thích nhà vua có biến. Khách tinh thủ ở đó, đoán là có quí nhân qua đời.

Tông : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao Tông Chính, phía đông sao Hầu. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng tôn thất, thân thích của thiên tử. Khách tinh thủ ở đó, thì đoán là vương tộc bất hòa.

Bạch Dạc : Ten chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao Tông Chính. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc đo lường vải vóc.

Đỗ Tử : Tên chòm sao. Gồm sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông hắc sao Bạch Đạc. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng chợ mua bán gia súc.

Hầu: 1) Tên chòm sao. Gồm 1 sao ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao Đế tòa. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ hòa âm dương. Sao sáng ma to, đoán là đại thần phò tá vững vàng, không lo các dân tộc thiểu số xâm phạm bờ cõi. Sao mở mà nhỏ, là đất nước bình an. Thiếu vắng sao này, là chúa thất vị. Sao di chuyển vị trí là chủ bất an. 2) Như sao Hậu. Tượng điềm trời. Trong thiên văn cổ đại có thuật ngữ Chiêm đoán khí hậu, mưa gió. 3) Như sao Hầu. Tượng dự đoán, dự báo, như "Hầu Tuế", với ý đầu năm hoặc đầu mùa dự báo quang cảnh một năm. 4) Như chữ Hậu. 5 ngày là một Hậu. Tố vấn. Tạng tượng luận :

(năm ngày gọi là một Hậu, ba Hậu là một Khí, sáu Khí là một Thời, bốn Thời là một năm Một năm có 72 Hậu.

Đế tòa : 1) Chỉ Ngũ đế tòa. 2) Chỉ Ngũ đế nội tòa. 3) Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở trong Thiên Thị Viên. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên, phía tây sao Hầu. Tượng thiên đình. Sao sáng nhuận, đoán là thiên tử cát; ít sáng và nhỏ, đoán là đại nhân hung.

Di Giả : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, tây nam Đế tòa. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng người hầu hạ vua chúa. Sao nhỏ đoán là cát, sao sáng thì hung. biến đổi khó lường thì kẻ hầu vua có lo buồn. Sao Chổi phạm vào đó, thiên hạ có tang hoặc quân bại trận.

Liệt Tử : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên trong hai hàng rào Thiên Thị Viên, phía tây nam cao Hộc. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ hàng hóa quý giá, tượng chợ mua bán vàng ngọc.

Hộc : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở phía bắc sao Thị Lâu, bên trong hai hàng rào Thiên Thị Viên. Thuộc cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng vị quan đo lường ở chợ trên trời. Chủ đo lường chất lỏng.

Quán Sách : Còn gọi là Liên Sách, Thiên Quốc hoặc Thiên Lao. Tên chòm sao, gôm 9 sao. Thiên quan thư, Hán thư. Thiên văn chí nói là gồm 15 sao, ở đông nam cái gáo sao Bắc Đẩu, phía nam sao Thất Công, phía tây sao Cánh Hà. Thuộc Trung cung hoặc Thái Vi Viên. Quan tượng ngoạn chiêm nói là ở bên ngoài Thiên Thị Viên, thuộc Thiên Thị Viên. chủ pháp luật cấm cường bạo. Tượng nhà lao nhốt đạo tặc. Cửa nhà lao có 1 sao trấn giữ. Sao này sáng, thì có ân xá. Không thấy sao nay, tức là trong ngục có nhiều tù nhân. Sao lung linh, đoán là có việc nhà binh. Thấy đủ 9 sao, đoán là nhà ngục đông đảo, hoặc có việc mừng nhỏ; thấy 8 sao, đoán là có ban lộc, thấy 7 sao vua có đức, có lệnh ân xá, thấy 5 sao, có đại xá. Vắng cả 9 sao, đoán là lao ngục đơn giản. Khách tinh ra khỏi đó, sao lớn là có đại xá, sao nhỏ là có tiểu xá.

Thất Công : Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía đông sao Dao Quang, bắc sao Quán Sách. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng Tể tướng, Tam công trên trời. Chủ thất (bảy) chính.

Thiên Kỷ : Tên chòm sao. gồm 9 sao, ở phía đông sao Quan Sách. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng cửu khanh. Chủ ghi chép vạn sự, xử lý khiếu kiện. Sao này sáng, thì thiên hạ lắm việc kiện tụng. Không thấy là chính lý bại hoại, kỷ cương rối loạn. 9 sao phân tán là động đất, núi lở. Sao Chổi phạm vào là có động đất.

Nữ Sàng : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Thiên Kỷ. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc hậu cung.

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHÒM SAO NHỊ THẬP BÁT TÚ

Giốc : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, sao phía bắc nhỏ, sao phía nam lớn, trên nhỏ dưới to, thành hình cái sừng. Cắt ngang chòm sao Bình Đạo, ở phía đông sao Cang, phía nam sao Thiên Điền, phía bắc sao Thiên Môn. Hoàng đạo chạy qua sao này (hiện nay Xích đạo cũng chạy qua nó).

Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Sao Giốc bên trái (phía bắc) là Lý, tức pháp quan. chủ hình phạt. Sao Giốc bên phải (phía nam) là Tướng, chủ quân đội. Giốc là

tượng cửa ải trên trời, cùng với Thiên Vương đế đình và Thiên Môn hợp thành ba cửa trời. Chòm này sáng mà lớn, là đạo trời thái bình, người hiền ở trong triều đình; nếu dao động di chuyển, là vua vi hành. Sao Hỏa phạm thủ sao Giốc, là có chiến sự bùng nổ. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú. Sao thứ nhất trong 7 sao phương đông, gồm 11 chòm : Giốc, Bình đạo, Thiên điền, Tiến Hiền, Chu Đinh, Thiên Môn, Bình, Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn, với 45 ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí cho rằng 6 sao từ Thiên Môn đến Nam Môn không nằm trong Nhị thập bát tú. Tinh thần khảo nguyên cho rằng Giốc chỉ gồm 3 chòm Giốc, Tiến Hiền, Thiên Điền. Có thuyết tính sao Giốc khởi từ Đại Giốc, cùng với 2 sao Giốc hợp thành hình đầu rồng. Giốc và Cang, Đê cung là phân dã của Dõan Châu. 3) Tên gọi tắt sao Đại Giốc.

Bình Đạo : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở giữa 2 sao Giốc. Thuộc Đông cung hoặc giốc tú. Tượng quan Bình đạo.

Thiên Điền : 1) Tên chòm sao, tức sao Giốc bên trái. 2) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Giốc, nam sao Hữu Nhiếp Đề. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tượng tịch điền của thiên tử, chủ việc canh nóng. 3) Tên chòm sao, gồm 9 sao; có thuyết nói gồm 4 sao, ở khoảng giữa ba sao Khiên Ngưu, La Yến và Cửu Khảm. Chủ việc canh nông.

Tiến Hiền : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây bắc sao Bình Đạo. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc, chủ khanh tướng tiến cử người hiền tài. Sao Thái Bạch phạm vào đó đoán là người tiến cử bị chém đầu.

Thiên Môn : 1 ) Tên chòm sao gồm 2 sao, ở phía nam sao Giốc, phía bắc sao Bình. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tượng của thiên phú chủ sự việc thiên phủ. 2) Tức Thiên Quan.

Bình : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Khố Lâu. Thuộc đông cung hoặc sao Giốc. Tượng Đình úy, chủ cai quản việc hình ngục trong thiên hạ.

Khố Lâu : Còn gọi là Thiên Khố, Thiên Lâu hoặc Thiên Khố Lâu. 1) Tên chòm sao, gồm 10 sao, ở phía nam sao Giốc đông nam sao . Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Trong 10 sao, 6 ngôi lớn uốn cong thành hình nhà kho, 4 ngôi vuông thành hình cái lầu. Còn tượng trưng cho binh xa. Dự đoán cùng với các sao Ngũ Trụ, Hành, Dương Môn, Nam Môn. Ngũ Trụ tụ thành 5 nhóm ở trong và ngoài Thiên Khố, chủ ngựa xe; sao Hành ở bên trong thiên Khố chủ quân dàn trận. Sao Dương Môn ở phía đông bắc Khố Lâu, chủ việc canh giữ kho lẫm. Nam Môn ở Nam Khố Lâu, tượng cổng của trời, chủ quân canh giữ.

Ngũ Trụ : Còn gọi là Thiên Trụ, Trụ. Tên chòm sao, gồm 15 sao, Thiên quan thu gọi là Ngũ Xa của Nam cung. Tụ thành 5 chòm, nên có tên đó. Nằm ở nam bắc, trong ngoài sao

Khố Lâu. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tượng cột của kho nhà trời, nếu có nhiều tia sáng chia ra hoặc sắp xếp không chỉnh tề, thì đoán là không có chỗ bố trí xe ngựa.

Nam Môn : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía nam sao Khố Lâu. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tượng cổng của trời, chủ quân canh giữ (Sao sáng mà thấp, là có chư hầu đến nộp cống; sao mờ, thì đoán là chư hầu làm phản. Khách tinh thủ ở đó đoán ra quân bên ngoài kéo tới.

Cang : 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Giốc, phía nam sao Đại Giốc, hình dạng cong như cánh cung, tiếp liền với sao Thiên Vương đế đình. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Tượng đền thờ của thiên tử, chủ cai quản hình ngục, ghi chép công trạng. Có thuyết nói là chủ việc cúng tế bên ngoài triều đình, chủ dịch bệnh. Sao sáng mà lớn, đoán là bầy tôi trung thành thiên hạ yên ổn, không có dịch bệnh, ngược lại là bầy tôi bất trung, thiên hạ không yên; sao dao động, đoán là có nhiều người bị dịch bệnh 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ hai trong 7 sao phương đông. Gồm 7 chòm sao : Cang. Đại Giốc, Chiết Uy, Tả và Hữu Nhiếp Đề, Độn Ngoan, Dương Môn, với 22 ngôi. Cang và Giốc, Đê cùng là phân dã của Doãn Châu.

Đại Giốc : Gọi tắt là Giốc. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở chót phía bắc sao Cang, giáp hai sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Thuộc đông cung hoặc sao Cang. Tượng tòa Thiên vương hoặc Thiên vương đế đình, tượng vua chúa. Sao này sáng nhuận, màu vàng, thì đoán là thiên hạ đại đồng.

Chiết Uy : Còn gọi là Thất Chiết Uy. Tên chòm sao gồm 7 sao, ở phía nam sao Cang. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Chủ việc chém đầu.

Nhiếp Đề : Chỉ hai sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Tên chòm sao, ở hai bên sao Đại Giốc. Ba sao bên trái là Tả Nhiếp Đề, ba sao bên phải là Hữu Nhiếp Đề. Tượng đại thần, chủ tám tiết, cai quản vạn sự. Hoặc tượng hậu thuẫn, chủ cửu khanh. Sao to mà mờ, đoán là vua lo sơ. Khách tinh nhập vào đó, đoán là thánh nhân bị chế ngự.

Tả Nhiếp Đề : Tên chòm sao, gồm 3 sao. Ở phía đông sao Đại Giốc. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Xem mục Nhiếp Đề.

Hữu Nhiếp Đề : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía tây sao Đại Giốc. Thuộc Dông cung hoặc sao Cang. Xem mục Nhiếp Đề .

Độn Ngoan : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông nam sao Chiết Uy. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Chủ cai quản tình hình tù nhân, xét đoán sự gian trá. 2) Tên lưu tinh. Sao này di chuyển như bay, sao to như cái phễu, đuôi trắng, trước thấp, sau cao. Đuôi dài đoán là có nhiều người chết.

Dương Môn : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông bắc sao Khố Lâu, tây nam sao Độn Ngoan. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Tượng cửa ngoài của kho quân giới, chủ canh giữ kho.

Đê: 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Cang, phía tây sao Phòng, uốn cong phía bắc Hoàng đạo nam. Còn gọi là Thiên Căn. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Tượng chỗ ở của vua, phủ của Hậu phi, nơi nghỉ ngơi . Hai sao đầu tượng vợ cả, hai sao sau tượng hầu thiếp. Sao sáng mà lớn, đoán là cận thần hầu hạ chu đáo. Sao dao động, đoán là sắp có việc lao dịch. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ ba trong 7 sao phương đông. Gồm 11 chòm sao : Đê, Thiên Nhũ, Triệu Dao, Canh Hà, Đế tòa, Cang Trì, Kỵ Quan, Trận Xa, Xa Ky. Thiên Bức, Ky Trận Tướng Quân, với 54 ngôi sao. Thiên văn chí đời Tống chép rằng chòm sao Đê không có các sao Trận Xa, Thiên Bức, Kỵ Trận Tướng Quân. Tinh thần khảo nguyên thì cho rằng chòm này không có các sao Canh Hà, Triệu Dao. Đê và Giốc, Cang cùng là phân dã của Dõan Châu.

Thiên Nhũ : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông bắc sao Đê, bên ngoài Hữu Viên của Tử Vi Viên. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Chủ nước Cam lồ. Sao sang thì đoán là tốt.

Triệu Dao : Còn gọi là sao Dữ hoặc Thiên Dữ. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía nam sao Dao Quang (của chòm Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc sao Đê. Chủ việc quân của tội Hồ. Sao sáng mà không đoan chính, đoán là quân tộc Hôg không nghe lệnh Trung Quốc. Cùng tranh sáng với sao Cánh Hà, Bắc Đẩu, thì đoán là quân tộc Hôg thường đến thụ mệnh của Trung Quốc. Áng sáng chớp chớp, có sừng lớn, đoán là chiến sự bùng nổ.

Dữ : Tức Triệu Dao.

Chất : Tức Thiên Phong.

Thiên Phong : 1) Tên chòm sao, còn gọi là Phong Chất, Thiên Chất, gồm 1 sao. Thiên quan thư viết rằng ở đầu cái gáo sao Bắc Đẩu có 2 ngôi sao, "một ở bên trong là sao Dữ, tức Triệu Dao, một ở bên ngoài là sao Chất, tức Thiên Phong". Tùy thư. Thiên văn chí thì viết, rằng sao Cánh Hà tức là sao Thiên Phong, phía bắc sao đó là sao Triệu Dao, tức sao Dữ. Khi dự đoán thì giống như sao Cánh Hà, Tiêu Dao. 2) Tên sao yêu quái, đuôi của nó tượng trưng đầu mút cái thuỗn, chủ tung hoành.

Cánh Hà : Tên chòm sao. Thiên nguyên lịch lý viết: "Hà tức là kha (cành cây), thuộc loại giáp trượng", nên còn gọi là Cánh Kha hoặc Thiên Phong, gồm 3 sao, ở phía nam sao Triệu Dao, phía bắc sao Đại Giốc. Thuộc Trung cung hoặc sao Đê. Tượng sao chở kiếm. Chủ quan của tộc Hồ. Không thấy sao này, hoặc tiến thoái bất định, thì đoán là sắp có tai họa ở vùng biên cương. Lại chủ tang. Ánh sáng biến động, đoán là quân bại trận.

Đế tòa : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía tây bắc sao Đại giốc, tây nam sao Cánh Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê chủ yến tiệc.

Cang Trì : Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía bắc sao Cang, giữa 2 sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tượng tàu thuyền đi lại nghênh tống.

Kỵ Quan : Tên chòm sao. gồm 27 sao. Nghi tượng khảo thành viết là gồm 10 sao ở phía nam sao Đê, phía bắc sao Kỵ trận Tướng Quân. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tượng

thiên tử xuất hành. Chủ việc của túc vệ.

Trận Xa : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía nam sao Đê, phía đông bắc sao Kỵ Quan, phía tây sao Thiên Bức. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tượng binh xa.

Xa Kỵ: Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía đông nam sao Khố Lâu, phía nam sao Kỵ Quan. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tượng tướng cưỡi xe.

Thiên Bức : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông nam sao Đê, phía tây sao Phòng, theo chiếu nam bắc. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Chủ quan ngồi xe, chủ việc cúng tế.

Kỵ Trận Tướng Quân : Tên chòm sao. gồm 1 sao, ở phía nam sao Đê, giữa 2 sao Kỵ Quan và Xa Kỵ. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê, tượng vi tướng cưỡi xe.

Phòng : Còn gọi là Thiên Tứ, Thiên Cứu. 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông bắc sao Tâm, tây nam sao Đê, phía dưới 4 sao Biện Bế, Câu Linh, Đông Hàm và Tây Hàm. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Tượng ngựa trời, chủ xa giá. Bốn sao là Tả Tham, Tả Phục, Hữu Phục, Hữu Tham. Cũng tượng chuồng gia súc. Chủ việc đóng mở. Hai sao bên dưới chỉ vị trí của vua, hai sao trên chi vị trí phu nhân. Hai sao Phòng, Tâm sáng thì đoán là vua sáng suốt. Sao Tham (hoặc Thượng Tể Tướng và Thượng Tướng) lớn thì chiến sự bùng nổ. Sao dời chỗ là dân chúng li tán. Sao Phòng còn là tượng "Thiên cù đại đạo" (đường lớn, đường cái quan trên trời), nếu mặt trời, mặt trăng cùng Ngũ tinh ra vào nơi đó, thì thiên hạ yên ổn. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng, Tâm và Câu Linh, thì đó là

triệu chứng động đất. Mặt trăng phạm vào sao Phòng, ắt bầy tôi phò tá bị chém đầu. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ tư trong 7 sao phương đông. Gồm 7

chòm sao chính và 1 chòm sao phụ : Phòng, Kiện Bế, Phạt, Đông Hàm, Tây Hàm, Nhật, Tòng Quan, Câu Linh, với 21 ngôi. Sách Càn tượng thư của Cảnh Hựu đời Tống xếp sao Đông Hàm vào chòm sao Tâm; Tinh thần khảo nguyên thì xếp các sao Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn vào chòm sao Phòng. Phòng và Tâm cùng là phân dã của Dự Châu, chỉ nước Tống.

Câu Linh : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Phòng, gần đỉnh sao Phòng. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Tượng chuông cửa, tiếng sáo của trời. Chủ đóng kín, đề phòng bất trắc. Câu Linh sáng, thì vua có hiếu, sáng mà gần sao Phòng, thì thiên hạ đồng tâm; rời xa sao Phòng thì thiên hạ bất hòa, vua tuyệt tự. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng, Tâm, thì đó là triệu chứng động đất.

Kiện Bế : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông bắc sao Phòng, giữa hai sao Câu Linh và Đông Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Chủ chốt giữ khu vực quan trọng. Sao Huỳnh Hoặc phạm vào đó, thì vua có lo âu. Sao Điền phạm vào đo, thì nhà vua không nên ra khỏi cung điện.

Phạt : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Phòng Tâm, giữa 2 sao Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Chủ sự mua chuộc.

Lưỡng Hàm : Chỉ hai sao Dông Hàm và Tây Hàm. Mỗi sao Hàm gồm 4 sao, ở hai bên phía trên sao Phòng và Tâm. 4 sao phía đông gọi là Đông Hàm , 4 sao phía tây gọi là Tây Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Lưỡng Hàm ở khoảng giữa Hoàng đạo, nên được coi là Trung đạo của mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh. Tượng cứa phòng. Chủ đề phòng dâm loạn, sao sáng thì tốt, sao mờ thì hung. Mặt trăng, Ngũ tinh phạm hoặc thủ ở đó, đoán là có âm mưu.

Đông Hàm : Xem mục Lưỡng Hàm.

Tây Hàm : Xem mục Lưỡng Hàm.

Tâm : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía đông sao Phòng. Ngôi lớn ở giữa, gọi là Minh Đường, nên sao Tâm còn gọi là Minh Đường; ngôi thứ 2 là Thiên Vương, tượng địa vị thiên tử, nơi vua ban bố chính sách, chủ việc thưởng phạt trong thiên hạ. Sao này sáng mà lớn, thì đoán là thiên hạ đại đồng; ngôi ở phía nam là Thái Tư, nếu mở thì Thái tử không được chọn nối ngôi. Ngôi ở phía bắc là Thư Tử, nếu sáng thì con thứ được chọn. Sao Tâm mờ đen, là đại nhân lo âu. Sao dao động, là cỏ sự biến khẩn cấp trong nước; ánh sao mọc sừng là chiến sự bùng nổ. Các sao tách xa nhau, là dân chúng phải ly tán. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng, Câu Linh, thì đó là triệu chứng động đất. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ năm trong 7 sao phương đông. Gồm 2 chòm sao : Tâm, Tích Tốt, với 15 ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí viết rằng Tích Tốt không thuộc chòm sao này. Tâm và Phòng cùng chỉ nước Tống, là phân dã của Dự Châu.

Thiên Vương : l) Tên sao, chỉ ngôi sao ở giữa trong 3 ngôi của chòm sao Tâm, còn gọi là Minh Đường. Xem mục Tâm, nghĩa thứ nhất. 2) Tức Thiên hoàng đại đế.

Tích Tốt : Tên chòm sao, gồm 12 sao. tượng nghi khảo thành viết rằng chỉ gồm 2 sao, ở phía nam sao Phòng, sao Tâm. Thuộc Đông cung hoặc sao Tâm. Chủ thị vệ. Khách

tinh thủ ở đó thì đoán là cận thần bị chém đầu.

Vĩ : l) Tên chòm sao, gồm 9 sao, còn gọi là Vĩ Cửu Tử, ở phía đông nam sao Tâm, có dạng uốn cong như cái đuôi. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Tượng cung điện

của hoàng hậu, phi tần. Sao thứ nhất gần giữa là Hậu, sao thứ 3 là Phi, tiếp theo là Tần, 2 ngôi cuối là Thiếp. Tấn thư. Thiên văn chí gọi ngôi thứ 3 là Phu Nhân, 5 ngôi còn lại là Tần, Thiếp. Ngôi sao cạnh ngôi thứ 8 là Thần Cung, tượng phòng thay áo. Khi đoán, các sao đều sáng, to nhỏ nối tiếp nhau là tốt, là hậu và phi trong cung có thứ tự, đông con cái; sao mờ và nhỏ, là trong hậu cung có chuyện đố ky. Sáng tối bất định, hoặc ánh sao dao động, là hậu phi không còn thứ tự trên dưới, vua tôi bất hòa, thiên hạ rối loạn. 9 sao tụ gần nhau là có nạn hồng thủy. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ sáu trong 7 sao phương đông. Gồm 5 chòm sao chính và 1 chòm phụ : Vĩ, Quy, Thiên Giang, Phó Thuyết, Ngư và Thần Cung, với 21 ngôi (xem hình 104). Tân thư. Thiên văn chí cho rằng các sao Quy, Phó Thuyết, Ngư không thuộc chòm sao Vĩ. Tấn thư. Thiên văn chí thì không xếp sao Thần Cung. Sao Vĩ cùng với sao Ki cùng chỉ nước Yên, là phân dã của U Châu.

Thần Cung : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở bên cạnh ngôi thứ 3 sao Vĩ. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Là chòm sao phụ của sao Vĩ. Tượng phòng thay áo trong hậu cung.

Quy : 1) Còn gọi là Liên Châu. Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía nam sao Vĩ, trong Thiên Hà, giống hình con rùa. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Chủ chiêm bốc (bói toán cát hung). 2) Xem mục Bốc Phệ, nghĩa thứ nhất. Thiên Giang : Gọi tắt là Giang. Tên chòm sao, gồm

4 sao, ở bên dưới Tử Vi Viên, phía bắc sao Vĩ. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Chủ Thái âm. Không nhìn thấy sao này, thì bến sông trong thiên hạ không thông suốt. Sao sáng

mà dao động, là có lụt lớn, chiến tranh bùng nổ. Bốn sao xếp lệch lạc, thì ngựa tăng giá. Hỏa tinh thủ ở đó, ắt có việc lập vua. Khách tinh nhập vào sao Giang, đoán là bến sông khô cạn. Phàm mặt trăng, Ngũ tinh phạm sao này, đều đoán là bến sông tắc nghẽn.

Phó Thuyết : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở khoảng giữa sao Vĩ và sao Ngư, trong Thiên Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Tượng quan coi bói. Chủ việc cúng lễ trong hậu cung, cầu tự. Sao sáng mà lớn, là vua nhiều con cháu.

Ngu : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía bắc sao Vĩ và Phó Thuyết, trong Thiên Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ Chủ âm sự, biết thời tiết mưa gió. Sao không sáng, đoán là cá chết nhiều, ít cá. ánh sao dao động, ắt có lũ lụt lớn; rời xa Thiên Hà, đoán là có nhiều cá chết.

Kỷ :1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Vĩ, trông như cái ki (cái hốt rác). Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Còn gọi là Thiên Tân hoặc Thiên Kế. Cũng như sao Vĩ, tượng cung điện của hậu phi. Còn tượng miệng trời, chủ xuất khí, chủ bát phong (tám thứ gió). Mặt trời, mặt trăng ở chỗ sao Ki, ắt có gió lớn. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ bảy trong 7 sao phương đông. Gồm 3 chòm sao : Ki, Khang, Chử, với 8 ngôi. Tấu thư. Thiên văn chí cho rằng chòm này chỉ có sao Ki, không có 2 sao Khang, Chử. Sao Ki cùng với sao Vĩ chỉ nước Yên, là phân dã của U Châu.

Khang: Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây sao Ki, tây bắc sao Chử. Thuộc Đông cung hoặc sao Ki. Chủ lương thực.

Đẩu : 1) Tên chòm sao, tức Nam Đẩu, gồm 6 sao. Còn gọi là Thiên Cơ. Màu đỏ, ở phía nam Thiên Thị Viên, phía đông sao Ki, hình như cái cán gáo. Thuộc Bắc cung hoặc 7

sao phương bắc. Tượng đền miếu trên trời, là địa vị thừa tướng, tể tướng. Chủ chiêu hiền đãi sĩ, bẩm thụ tước lộc lại chủ binh khí. Hai sao phía nam là Đẩu Khôi, Thiên Lương; hai sao ở giữa là Thiên Tể Tướng; hai sao phía bắc là Thiên Phủ Đình, lại chủ tuổi thọ của thiên tứ Sao Đẩu sáng nhuận, đoán là đạo vua hòa bình, tước lộc ban đều. Ánh sao dao động, chĩa ra như súng, đoán là thiên tử lo buồn, có chiến sự, có đại thần bị đuổi. Ở

phía bắc sao Đẩu có ngôi sao lớn là sao Kiến. Hoàng đạo chạy xuyên qua giữa hai sao Đẩu và Kiến. Khi chiêm đoán, thường gộp Đẩu và Kiến để cùng đoán. Xem mục Kiến. 2) Tên chòm sao, tức sao Đẩu của Nam Đẩu. Một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ nhất trong 7 sao phương bắc. Gồm 10 chòm sao : Đẩu, Kiến, Thiên Biền, Biết, Thiên Kê, Thiên Thược, Cẩu Quốc, Thiên Uyên, Cẩu, Nông Trượng Nhân, với 62 ngôi sao. Với sao Ngưu cùng chỉ Ngô Việt, là phân dã của Dương Châu. 3) Chỉ "Bắc Đẩu thất tinh". 4) Tên chòm sao, gồm

5 sao , ở phía tây Nội Di của Thiên Thị Viên, hình dạng như cái gáo. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ cân đo. Sao Đẩu chênh lên chứng tỏ việc cân đo trong thiên hạ sai lệch, sao Đẩu chúc xuống chứng tỏ thiên hạ được mùa.

Kiến : còn gọi là Thiên kỳ tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam sao Bắc đẩu Tượng thiên chi đô quan, trống trời, mưu sự hoặc thiên mã. 2 sao phía nam là Thiên khố, 2 sao ở giữa là thực, 2 sao ở phía bắc là Kỳ Phụ ở giữa đẩu có hoàng đạo quán xuyến tức là đường thất diệu. Nhìn thấy ảnh sao nhấp nháy thì dân mệt mỏi, ngược lại thì dân nhàn. Bị ánh trăng che mờ đi thì thấy giao long; bò ngựa bị ôn dịch. ánh trăng và Ngũ tinh phạm vào thì đại thần gièm pha lẫn nhau. Có hành động mưu hại chủ, mùa màng thất bát, có nước lớn.

Thiên Biền : Còn gọi là Thiên Biện. Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía bắc sao Đẩu và sao Kiến, phía đông nam Tả Viên của Thiên Thị Viên. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ viên trưởng quan coi chợ và tình hình thị trường. Sao sáng là cát. Sao Chổi phạm vào đây, thì đoán là lương thực đắt đỏ, hoặc tù nhân nổi loạn trong ngục.

Biết : Tên chòm sao, gồm 14 sao, hình dạng như con ba ba, ở phía nam Nam Đẩu, ở khoảng giữa Nông Trượng Nhân và Thiên Uyên. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ Thủy trùng, Thái âm. Khách tinh phạm vào đó, thì đoán là chúa có khí thủy.

Thiên Kê : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông bắc sao Đấu, phía tây sao Khiên Ngưu, phía bắc sao Cẩu Quốc. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ khí hậu. 2) Tức

sao Hồ Qua. 3) Tức sao Ki. Cấu Quốc : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông Nam Đẩu, phía tây gần sao Cẩu. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu Chủ các dân tộc Tiên Ti, Ô Hoàn, ốc Thả. Sao Huỳnh Hoặc thủ ở đây là dân thiểu số có biến; sao Thái Bạch nghịch thủ, là nước có loạn; Khách tinh phạm vào đây, là có cướp bóc lớn.

Cấu : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía trước sao Khôi Nam Đẩu, ở khoảng giữa Cẩu Quốc và sao Kiến. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ sự canh giữ.

Nông Trượng Nhân : Tên chòm sao, gọi tắt là Nông, gồm 1 sao, ở phía tây nam Nam Đẩu, tây bắc sao Biết. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Tượng lão nông. Chủ cây lương thực.

Ngưu : Còn gọi là Khiên Ngưu. 1) Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam Hà Cổ, Thiên Phù, bên phải sao La Yên; bên trên là Trung đạo 7 sao. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao

phương bắc. Tượng thanh chắn ngang trên trời. Hai sao phía bắc của nó, một là Tức Lộ, chủ đường đi, hai là Tụ Hỏa, chủ thanh chắn ngang; ngôi thủ ba chủ Nam Việt. Sao sáng mà to, là đương đi thông suốt, vương đạo thênh thang, trâu bò qui; sáng chói là ngựa quí; sao mờ hoặc không thấy, là trâu bò trong thiên hạ bị dịch bệnh, mất mùa; ngôi sao ở giữa di chuyển lên xuống, là trâu bò bị chết rất nhiều. Sao dao động là có dịch trâu bò; di chuyển vào Ngân Hà là thiên hạ có loạn. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi thứ hai trong 7 sao phương bắc. Gồm 11 chòm sao : Ngưu, Thiên Điền, Cưu Khảm, Hà Cổ, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Thiên Phù, La Yên, Tiệm Đài, Liên Đạo, với 65 ngôi sao. Càn tượng thư của Cảnh Hựu đời Tống xếp các sao Cửu Khảm, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, La Yên, Tiệm Đài, Liên Đạo vào sao Đẩu. Ngưu cùng với sao Nữ chỉ Ngô Việt, là phân dã của Dương Châu.

Cửu Kham : Tên chòm sao, gồm 4 sao (thời cổ cho rằng gồm 9 sao), ở phía nam Thiên Điền. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Tượng đập nước, chủ lưu thông nguồn nước, tưới tắm đất đai.

Hà Cổ: Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Khiên Ngưu, khoảng giữa hai sao Tả Kỳ và Hữu Kỳ. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Tượng trống trận, tướng quân của thiên tử Sao ở giữa là Đại tướng quân, sao bên trái là Tả tướng quân, sao bên phải là Hữu tướng quân. Tượng phòng bị cửa ải, chống tai họa. Sao sáng nhuận mà to, thì cát; sao dao động, sai vị trí, ắt có loạn quân. Ba sao thẳng hàng, tướng lập công; ba sao ngoằn ngoèo, đoán là tướng vô mưu. Truyền thuyết dân gian gọi sao Hà Cổ là Ngưu Lang, kể rằng ngày 7 tháng Bảy chàng Ngưu qua sông Ngân Hà gặp Chức Nữ.

Chức Nữ : Tên chòm sao, gọi tắt là sao Nữ, gồm 3 sao, ở phía đông sao Thiên Kỷ, tây bắc sao Khiên Ngưu và đối xứng với sao ấy qua dải Ngân Hà. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Tượng thiên nữ. Chủ loại sợi quí. Ba sao này sáng, thì vua là bậc chí hiếu với thần linh, thiên hạ thái bình; ba sao này mờ và nhỏ, thì vua bất hiếu, thiên hạ bất an, việc nữ công bị phế bỏ; nếu ánh sao sáng chói mắt, tỏa thành tia như sửng, thì vải sợi đắt đỏ. Không thấy ba sao này, ắt có chiến sự bùng nổ. Truyền thuyết dân gian kể rằng ngày 7 tháng Bảy Chức Nữ và Ngưu Lang gặp nhau.

Tả Kỳ : Tên chòm sao. Xem mục Kỵ, nghĩa thứ nhất.

Hữu Kỳ : Tên chòm sao. Xem mục Kỵ, nghĩa thứ nhất.

Kỳ : 1 ) Còn gọi là Lưỡng Kỳ . Chỉ 2 chòm sao, Tả Kỳ và Hữu Kỳ, gồm 9 ngôi sao, ở hai bên sao Hà Cổ, thuộc Bắc cung hoặc sao Ngưu. Tượng cờ trống của trời. Sao Kỳ to

mà sáng nhuận, đoán là tướng quân cát, ngược lại thì quân đội đáng lo. Sao sáng chói mắt, đoán là loạn tướng, sao dao động là chiến sự bùng nổ. 2) Tên chòm sao. Thiên quan thư viết : "12 sao phía đông bắc sao Phòng và sao Tâm là sao Kỳ". Chỉ 12 ngôi sao sáng mà Tấn thư. Thiên văn chí kể ra trong số 22 ngôi của Thiên Kỳ Đình hoặc Thiên Thị Viên. đó là các sao : Hà Trung, Chu, Thục, Lương, Sở, Hàn, Tề, Ngô Việt, Đông Hải, Yên, Nam Hải, Tống. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. về sau thường chỉ 22 sao của chòm Thiên Thị. Xem mục Thiên Thị nghĩa thứ 2. 3) Chỉ sao Kiến. 4) Tên sao, một trong 3 sao Trụ. Xem mục Tam Trụ. 5) Tên chòm sao, tức Tử Vi.

Thiên Phù : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía tây bắc sao Khiên Ngưu, phía tây sao Hữu Kỳ, phía dưới sao Hà Cổ, tượng cái dùi trống. Thuốc Bắc cung hoặc sao Ngưu. Sao này

không sáng, đoán là thời gian lộn xộn; sát với sao Hà Cổ, chứng tỏ dùi muốn gõ vào trống, có chiến sự.

La Yên : Tên chòm sao, gồm 3 sao, có sách nói gồm 9 sao, ở phía đông nam sao Khiên Ngưu, phía bắc sao Thiên Điền.Thuộc Bắc cung hoặc sao Ngưu. Chủ tích trữ nước

mưa, đổ đầy mương máng.

Tiệm Đài: Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía dưới sao Chức Nữ. Thuộc Bắc cung hoặc sao Ngưu. Chủ sự biên soạn luật lữ.

Liên Đạo: Tên chòm sao, gồm 5 sao, ởphía dưới chân sao Chức Nữ. Thuộc Bắc cung hoặc sao Ngưu. Chủ sự du hí của nhà vua.

Nữ : Còn gọi là Vụ Nữ, Tu Nữ. 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông bắc sao Ngưu, phía tây sao Hư, hình dạng như cái ki (dụng cụ hót rác) nằm phía dưới Trung đạo 7 sao. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phương bắc. Tượng thiếu phủ trên trời. Thiên quan thư : "Tu Nữ là tên gọi tiện thiếp, người đàn bà thấp kém, bị gả bán". Sao này sáng, đoán là thiên hạ được mùa, nữ công phát triển mạnh đất nước giàu cỏ; sao mờ nhỏ, đoán là kho lẫm của nhà nước trống rỗng. Sao Thủy thủ ở đó, vạn vật bất thành; sao Hỏa thủ ở đó, vải sợi đắt đỏ, nhiều người chết; sao Thổ thủ ở đó nhiều phụ nữ tử vong; sao Kim thủ ở đó là chiến sự bùng nổ. 2 ) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi thứ 3 trong 7 sao phương bắc. Gồm 8 chòm sao : Nữ, Tháp Nhị Quốc, Li Châu, Bại Qua, Hồ Qua, Thiên Tân, Hề Trọng, Phù Khuông, với 55 ngôi. Tấn thư. Thiên văn chí xếp các sao Li Châu, Thiên Tân, Phù Khuông vào Thiên Thị Viên va Thái Vi Viên. Nữ với sao Ngưu cùng chỉ Ngô Việt, là phàn dã của Dương Châu.

Thập Nhị Quốc : Tên chòm sao, gồm 16 sao, quần tụ ở khoảng giữa các La Yên, Thiên Điền, Thiên Lũy Thành. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nữ. 12 nước tính từ phía tây là Việt 1 sao, Trịnh 1 sao, Chu 2 sao, Tần 2 sao, Tề 1 sao, Triệu 1 sao, Ngụy 1 sao, Yên 1 sao, Hàn 1 sao, Tấn 1 sao, Đại 2 sao. Sao nào biến động thì đoán là ở nước ấy có thay đổi .

Li Châu : Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía bắc sao Tu Nữ. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nữ. Tượng nữ nhân, tạng phủ của nữ. Sao này thất thường, đoán là hậu cung rối loạn. Khách tinh phạm vào đó là hậu cung xấu.

Bại Qua : Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía bắc sao Li Châu, phía đông sao Hà Cổ, bên dưới sao Hồ Qua. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nữ. Chủ việc gieo hạt.

Qua : Tên chòm sao, còn gọi là Thiên Kê, gồm 5 sao, ở phía bắc sao Li Châu, phía đông sao Hà Cổ, bên trên sao Bại Qua. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nữ. Tượng hậu cung,

vườn hoa của thiên tử. Chủ âm mưu và hoa quả. Sao này sáng, là được mùa; sao mờ là mất mùa hoặc hậu cung thất thế; sao biến đổi thất thường, là núi lở, lũ cuốn. Khách tinh phạm vào đó, đoán là tôm, muối đắt đỏ.

Thiên Tân: Tên chòm sao, gồm 9 sao ở phía bắc sao Nữ, sao Hư, khoảng giữa hai sao Xa Phủ và Liên Đạo, chi nhánh của Thiên Hà. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nữ. Còn tượng cầu qua Thiên Hà. Chủ thiên thần độ chúng bốn phương. Không thấy 1 sao, là đường xa không thông; sao sáng mà động, là chiến sự lan tràn, người chết đầy đồng. Sao nhỏ và mờ, là ngựa đắt đỏ, không thấy cả 9 sao, là có thủy tai hoặc thủy tặc xưng vương.

Hề Trọng : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía bắc sao Liên Đạo, khoảng giữa 2 sao Thiên tân và Phù Khuông. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nữ. Tượng xe ngựa.

Phù Khuông: Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở bên ngoài Tả Viên của Tử Vi, phía tây bắc sao Thiên tân. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nữ. Tượng dâu tằm, chủ khuyến khích việc nuôi tằm dệt vải.

Hư : Còn gọi là Thiên Tiết hoặc Bắc Lục, Huyền Hiệu. 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao trên dưới, ở khoảng giữa 2 sao Nữ và Nguy. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phương bắc. Tượng

việc giết mổ gia súc, chủ phương bắc, chu chết chóc và khóc lóc, cúng tế. Cũng chú việc cai trị thiên hạ. khôi phục vạn vật. Ánh sao nhấp nháy, đoán là ắt có chuyện chết chóc khóc lóc. Sao Hỏa thủ ở đây ắt có việc thiên tử dùng binh. Sao Thủy thủ ở đây, ắt có tai họa đói rét. Sao Kim thủ ở đây, ắt có chiến sự. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi thứ 4 trong 7 sao phương bắc. Gồm 10 chòm sao : Hư, Ty Mệnh, Ty Lộc, Ty Nguy, Ty Phi, Khốc, Khấp, Thiên Lũy, Thành, Bại Cữu, Ly Du, với 34 ngôi sao. Càn tượng tân thư xếp các sao Ty Mệnh, Ty Lộc, Ty Nguy, Ty Phi vào chòm sao Nữ, xếp sao Bại Cửu vào chòm sao Nguy. Sao Hư cùng với sao Nguy chỉ nước Tề, ]à phân dã của Thanh Châu.

Ty Mệnh : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở khoảng giữa 2 sao Hư và Nguy, phía nam sao Ty Lộc. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chủ trừng phạt, tội lỗi.

Ty Lộc : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở khoảng giữa 2 sao Hư và Nguy, gần sao Ty Mệnh. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chủ tăng thọ và đức độ.

Ty Nguy : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở khoảng giữa 2 sao Hư và Nguy, phía bắc gần sao Ty lộc. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Khách tinh phạm vào đây, thì vua kiêu ngạo thất tín. 2) Tên sao yêu quái, hình dạng như sao Thái Bạch, có mắt, to mà có lông, có 2 sừng; lại có thuyết nói là mắt đỏ. Chủ tranh giành, đánh quân mành. Thấy sao Nguy, đoán là vua phi pháp, hào kiệt nổi dậy, thiên tử vì bất nghĩa mà mất nước.

Ty Phi : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở khoảng giữa 2 sao Hư và Nguy, phía bắc sao Ty Lộc. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chủ áp dụng pháp luật công bằng.

Khốc : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông nam sao Hư, phía đông sao Thiên Lũy Thành. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chủ việc tang ma khóc lóc. Mặt trăng và ngũ tinh phạm vào đó, đoán là có việc chết chóc lớn hoặc có tang thiên tử.

Khấp : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông sao Hư và Thiên Lũy Thành. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chủ việc tang ma khóc lóc. Mặt trăng và ngũ tinh phạm vào đó, đoán là có việc chết chóc lớn.

Thiên Lũy Thành : Tên chòm sao, gồm 13 sao, hình như Quan Sách, ở phía tây hai sao Khốc, Khấp, phía nam sao Hư. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chủ dân thiểu số phía bắc.

Bại Cửu : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía nam 2 sao Hư và Nguy, đông nam sao Thiên Tiền. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chủ tai họa. Khách tinh phạm vào đo, đoán là có đói khát, chiến sự.

Ly Du : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía đông sao Thập Nhị Quốc, khoảng giữa các sao Thiên Điền, Cửu Khảm, Thiên Tiền. Thuộc Bắc cung hoặc sao Hư. Chỉ trang sức của phụ nữ.

Nguy : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, 1 ngôi ở cao, hai ngôi kia ở dưới thấp; ở phía đông bắc sao Hư. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phương bắc. Tượng mái nhà. Chủ đền miếu và cúng tế. ánh sao nhấp nháy, đoán là vua có công xây dựng cung điện. Sao Hỏa thủ ở đó, đoán là thiên thạch, chiến tranh. Sao Thủy thủ ở đó, đoán là bầy tôi có âm mưu. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú Ngôi thứ 5 trong 7 sao phương bắc. Gồm 11 chòm sao : Nguy, Mộ, Phần, Nhân, Chư, Cữu, Xa Phủ, Thiên Câu, Tạo Phụ, Cái Ốc, Hư Lương, Thiên Tiền, với 56 ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí không xếp các sao Chử, Cửu, Thiên Câu, Tạo Phụ, Cái Ốc, Hư Lương, Thiên Tiền vào chòm sao Nguy. Nguy cùng với sao Hư chỉ nước Tề , là phân dã của Thanh Châu.

Phần Mộ: Tên chòm sao, gồm 4 sao, trông như cái mộ, ở bên dưới sao Nguy. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy, cũng là chòm phụ của sao Nguy. Tượng phần mộ. Chủ khóc lóc chết chóc. Sao này mờ, đoán là tiên hạ bị hạn hán; ánh sao nhấp nháy, thì thiên hạ có tang.

Nhân: Còn gọi là sao Ngọa. Tên chòm sao, gồm 5 sao, hình dạng như người, ở phía bắc sao Nguy, đông nam sao Xa Phủ. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy. Chủ an định thứ dân, vỗ về dân ở vùng xa, quản chế dân ở gần. Còn chủ đề phòng dâm loạn.

Chử : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Nguy, bên cạnh sao Trượng Nhân, phía bắc sao Cữu. Cùng sao Cữu chỉ việc giã gạo. Đoán cùng sao Cữu. Ba ngôi sao thẳng

hàng, chọc xuống phía sau Cữu là cát không như vậy là hết lương thực. 2) Tên chòm sao, gồm 3 ngôi, màu đỏ, ở phía nam sao Ki, đông nam sao Khang. Thuộc Đông cung hoặc sao Ki. Chủ dùng cối giã gạo. Khách tinh phạm vào đó, đoán là thiên hạ có chuyện nguy cấp.

Câu : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía nam sao Chữ. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy. Chủ mùa xuân, kết hợp khi đoán với sao Chữ. Hình dạng ngửa lên, đoán là thiên hạ được mùa lớn, nếu lật úp thì thiên hạ đói to.

Xa Phu : Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía đông sao Thiên tân, gần mép Thiên Hà. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy. Chủ quan coi xe.

Thiên Câu : Gọi tắt là Câu. Tên chòm sao, gồm 9 sao, trông như cái lưỡi câu, ở bên ngoài Đông Viên Tử Vi Viên, phía tây sao Tạo Phụ. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy, lưỡi câu choãi ra, đoán là có động đất.

Tạo Phụ : Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía nam sao Thiên Câu, khoảng giữa hai sao Truyền Xá và Nam Hà. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy. Tượng quan Tư Mã. Sao này sáng, chứng tỏ nhiều ngựa; sao mờ thì ít ngựa; không thấy sao này thì giá ngựa rất đắt đỏ.

Cái ốc : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía nam sao Nguy. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy. Chú quan trông coi cung điện của thiên tử. Nếu hai sao Hỏa và Kim thủ ở đó, đoán là chiến tranh bùng nổ. sao Chổi thủ ở đó, thì chiến tranh càng ác liệt.

Hư Lương: Tên chòm sao, gồm 4 sao ở phía nam sao cái Ốc, Phần Mộ, bắc sao Khốc, Khấp. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy. Chủ lăng tẩm, đền miếu, chỗ của người chết.

Thiên Tiền: Tên chòm sao, gồm 10 sao, ở phía tây bắc sao Bại Cữu, tây nam Vũ Lâm Quân. Thuộc Bắc cung hoặc sao Nguy. Chỉ tiền vàng mã, chủ việc tang ma.

Thất : Còn gọi là Doanh Thất, Huyền Minh, Huyền Cung, Thanh Miếu. 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông bắc sao Nguy, phía tày sao Đông Bích, tạo thành hình vuông lớn với 2 sao Đông Bích. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phương bắc. Tượng nơi ở của thiên tử khi rời cung điện, chủ việc thổ công. Sao sáng thì đất nước hưng thịnh; nhỏ mà mờ, thì đất nước nhiều tai họa, sao dao động, là có việc chinh chiến. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi thứ 6 trong 7 sao phương bắc. Gồm 10 chòm sao chính, 1 chòm phụ : Thất, Li Cung (phụ), Lôi Điện, Lũy Bích Trận, Phu Việt, Bắc Lạc sư môn, Bát Khôi, Thiên Cung, Thổ Công Lại, Đằng Xà, với 109 ngôi sao. Cùng với sao Nguy, sao Bích chỉ nước Vệ, là phân dã của Tịnh Châu.

Doanh Thất : 1) Tức sao Thất. 2) Tên gọi chung sao Thất và chòm phụ Li Cung.

Li Cung : 1) Tên chòm sao, gồm 6 sao, tụ thành 3 nhóm, ở hai bên sao Thất. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Là chòm phụ của sao Thất. Tượng nơi ở của thiên tử khi rời hoàng cung, chủ nơi nghỉ ngơi, ẩn náu. Khách tinh tiến đến gần sao này, đoán là trong cung sắp có đại tang.

Lôi Diện : Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam sao Thất. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Chủ sấm chớp.

Lũy Bích Trận : Gọi tắt là sao Lũy. Tên chòm sao, gồm 12 sao, dàn hàng ngang ở phía nam sao Thất, phía nam sao Vũ Lâm Quân. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Tượng thành lũy của thiên quân, chủ doanh trại quân đội. Ngũ tinh nhập vào đó, đoan là chiến sự bùng nổ, tướng tử trận.

Vũ Lâm Quân : Còn gọi là Vũ Lâm Thiên Quân. Gọi tắt là Vũ Lâm hoặc Thiên Quân. Tên chòm sao, gồm 45 sao, tụ thành từng nhóm 3 sao một, ở phía nam sao Thất, phía bắc sao Lũy Bích Trận. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất Tượng thiên quân, chú quân ky, lại chủ Dực Vương. Không thấy sao này đoán là thiên hạ loạn li. Ngũ tinh nhập vào đó, là có chiến tranh. Sao Hỏa, sao Kim, sao Thủy nhập vào đó thì tình hình càng nghiêm trọng.

Phu Việt : Còn gọi là Phu Chất. Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía tây nam sao Bát Khôi, phía nam sao Vũ lâm. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Khách tinh nhập vào đó, đoán là đại thần có mưu mô.

Bắc Lạc Sư môn : Gọi tắt là Bắc Lạc. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây nam sao Vũ Lâm. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Tượng cổng doanh trại quân đội thiểu số phương bắc, chủ quân chư hầu. Sao sáng thì quân yên, sao mở thì quân nổi loạn. Ngu tinh phạm vào đó, là có chiến tranh. Sao Hỏa, sao Kim, sao Thủy nhập vào đó thì tình hình càng nghiêm trọng. Sao Mộc, sao Thổ phạm vào đó là tốt lành.

Bát Khôi : Tên chòm sao, gồm 9 sao , ở phía đông nam sao Bích Lũy Trận, đông bắc sao Phu Việt, tây bắc sao Thổ Ty Không. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Chủ cầm thú.

Khách tinh nhập vào đó, đoán là trộm cướp nổi lên quấy nhiễu.

Thiên Cung : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây nam sao Bắc Lạc, phía đông sao Bại Cửu phía nam sao Vũ Lâm. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Chủ võ trướng.

Thổ Công Lại : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía tây nam sao Thất. Thuộc Bắc cung hoặc sao Thất. Chủ cai quản mức độ.

Đằng xà : Còn gọi là Thiên Xà. Tên chòm sao, gồm 22 sao, ở phía bắc sao Thất, đông nam sao Tạo Phụ, hình dạng như con rắn, ở giữa Thiên hà. Thuộc Bắc cung hoặc Sao Thất. Chủ thủy trùng. Sao này sáng thì không yên; Khách tinh phạm vào đó, có lũ lụt, mất mùa thủy sản.

Bích : Còn gọi là Đông Bích. 1) Tên chòm sao. gồm 2 sao, ở phía đông Thiên Môn, , nên gọi là Đông Bích; đối xứng với hai ngôi sao Thất thành hình cái miệng vuông, gọi là "miệng cá câm". Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phương bắc. Tượng lá bùa đồ thư bí mật của thiên hạ, chủ văn chương, cũng chủ thổ công. Sao này sáng, đoán là vương đạo hưng thịnh, đạo thuật thịnh hành, đất nước có nhiều bậc quân tử. Sao mờ, to nhỏ không đều, đoán là vua trọng võ khinh văn, không dùng đồ thư; ánh sao nhấp nháy, chủ động đất, di chuyển gần lại bên nhau, đoan là có việc xây dựng lớn. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi sao cuối cùng trong 7 sao phương bắc. Gồm 6 chòm sao : Bích, Tích Lịch, Vân Vũ, Thiên Cửu, Phu Việt, Thổ Công, với 28ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí không xếp 3

chòm Tích lịch, Vân Vũ, Thiên Cứu vào sao Bích. Cùng sao Thất chỉ nước Vệ, là phân dã của Tịnh Châu.

Tích Lịch : Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía tây nam sao Thổ Công. Thuộc Bắc cung hoặc sao Bích. Tượng sấm sét.

Vân Vũ : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía nam sao Tích Lịch. Thuộc Bắc cung hoặc sao Bích. Tượng mây mưa.

Thiên Cầu : Tên chòm sao, gồm 10 sao (có sách nói gồm 3 sao), ở phía bắc sao Bích , phía tây sao Khuê. Thuộc Bắc cung hoặc sao Bích . Tượng trạm dừng chân dọc đường.

Phu Chất : 1) Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía đông nam sao Bích, phía tây sao Thiên . Thuộc Bắc cung hoặc sao Bích. Tượng sự trửng phạt. 2) Tức Phu Việt.

Thổ Công : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía dưới bên phải sao Bích. Thuộc Bắc cung hoặc sao Bích. Chủ đất đai.

Khuê : 1) Tên chòm sao, gồm 16 sao, ở phía sau Tử Vi Viên, bên dưới sao Truyền Xá. Sách Thạch thị tinh kinh nói sao này "trông như cái đế giày rách tã". Còn gọi là Thiên Thỉ, Phong Thỉ. Sao lớn phía tây nam của nó gọi là "mắt lợn trời" hoặc "Đại tướng". Tống thư. Thiên văn chí viết : "Ngôi sao lớn phía tây nam gọi la Thiên Thỉ hoặc Phong Thỉ". Thuộc Tây cung hoặc 7 sao phương tây. Tượng kho lẫm hoặc kho vũ khí trên trời, chủ cấm binh, lại chủ mương máng. Khi dự đoán, ngôi sao lớn phía tây nam sáng là cát, mờ là mạng bầy tôi xấu. Sao Khuê mọc sừng, đoán là vua dâm dật, chính sự bất công. Sừng dao động, đoán là chiến sự bùng nổ; hoặc có việc mương máng. Ngôi sao ở giữa sáng, là có lụt lớn. Các sao quần tụ, là chiến sự bùng nổ; tụ tán thất thường, là dân dã nổi dậy khởi nghĩa. ánh

sao dao động, là vua không thành tâm cúng tế; ánh sao nhấp nháy, là bầy tôi có âm mưu, hoặc trăm họ đói rét. Ngũ tinh phạm vào đó, là vua thất đức, bầy tôi tiếm quyền. Sao Kim thủ ở đó, biên cương bị đe dọa; sao Hỏa thủ ở đó, ba năm liền có lũ lụt; sao Thổ sao Mộc thủ ở đó là Trung Quốc được lợi, nước ngoài bất lợi, có thể cất quân chinh phạt. 2 ) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ nhất trong 7 sao phương tây. Gồm 9 chòm sao : Khuê, Ngoại Bình, Thiên Hỗn, Thổ Ty Không, Quân Nam Môn, Các Đạo, Phụ Lộ, Vương Lương, Sách, với 45 ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí xếp sao 5 Quân Nam Môn, Các Đạo, Phụ Lộ, Vương Lương, Sách vào Thiên Thị Viên. Cùng sao Lâu chỉ nước Lỗ, là phân dã của Từ Châu.

Ngoại Bình : Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía nam sao Khuê, đông bắc sao Thiên Hỗn. Thuộc Bắc cung hoặc sao Khuê. Tượng tấm che nhà xí trên trời, lại tượng thất điểu

Thiên Hỗn : Còn gọi là Thiên Xí. Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía tây nam sao Ngoại Bình, phía bắc sao Thổ Ty Không. Thuộc Bắc cung hoặc sao Khuê. Tượng nhà xí.

Thổ Ty Không : 1) Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía nam sao Thiên Hỗn, đông nam sao Bát Khôi. Thuộc Bắc cung hoặc sao Khuê. Tượng việc thúy thổ, lại chủ tai ương. Khách tinh nhập vào đó, đoán là thiên hạ có nhiều việc, động thổ, có dịch bệnh lớn. 2) Còn gọi là Tư Đồ. Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía tây sao Quân Môn. Thuộc sao, chủ ranh giới đất đai.

Quân Nam môn : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây nam sao Thiên Đại Tướng Quân, phía nam sao Các Đạo. Thuộc Bắc cung hoặc sao Khuê. Tượng cửa ra vào thiên tướng, chủ khách ra vào.

Các Đạo : Còn gọi là Vương Lương Kỳ hoặc Tử Cung Kỳ. Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía bắc sao Khuê. đông bắc sao Vương Lương. Thuộc Bắc cung hoặc sao Khuê, Tượng đường bay. Hai sao phía bắc ở phía bắc Thiên Hà, đối xứng với Tử Cung; hai sao phía nam ở mạn nam Thiên Hà, chĩa về phía sao Thất. Sao Thất là nơi ở của thiên tử khi rời cung điện, nên sao Các Đạo tượng trưng con đường Tử Cung đến Dinh Thất, là con đường mà thiên tử muốn đi qua, hoặc là con đường từ Tử Cung đến Thiên Hà, con đường mà thần linh qua lại. Chủ đạo lý. Không thấy 1 ngôi sao, đoán là đường vua đi bị tắc. Lại nói Tử Cung Kỳ chủ việc dùng binh, cho nên ngôi sao không nên dao động. Ánh sao nhấp nháy, đoán là có việc động binh. Có thuyết nói rằng Các Đạo là con đường gian nan nguy hiểm.

Phụ Lộ : Còn gọi là Phó Lộ, Thái Bộc. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở bên dưới sao Vương Lương và Các Đạo. Thuộc Trung cung hoặc sao Khuê. Tượng con đường phụ bên cạnh

Các Đạo khi Các Đạo bị tắc thì đi đường này; lại chủ cưỡi mưa gió .

Vương Lương : Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía bắc sao Khuê, trong Thiên hà, phía tây sao Các Đạo. Thuộc Trung cung hoặc sao Khuê. Ngôi ở giữa gọi là Thiên Tứ, ngôi bên cạnh không nằm trong Thiên Hà gọi là Vương Lương, hoặc Thiên Mã, từ đời Tấn gọi gộp là năm sao Vương Lương. Tượng ngự quản chi huy xe ngựa của thiên tử hoặc gọi là ngự quan của Tạo Phụ. Sao này dao động, đoán là xe ngựa đầy đường. Còn tượng thiên kiều (cây cầu trên trời), chủ con đường mưa gió, sông, bến sông, cầu. Sao di chuyển là có chiến sự hoặc ngựa bị bệnh. Khách tinh thủ ở đó, đoán là càu bị nghẽn, không thông. Cùng đoán chung với sao Sách. Xem thêm mục Sách.

Sách : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía trước sao Vương Lương, giữa Vương Lương và Các Đạo. Thuộc Trung cung hoặc sao Khuê. Tượng người hầu của thiên tử. Sao dao động, đoán là xe ngựa đầy đường.

Lâu : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía dưới sao Truyền Xá, phía tây nam sao Vị, đông nam sao Khuê. Buổi sáng thì ngôi sao lớn ở phía đông, buổi chiều thì nó ở phía tây Thuộc Tây cung hoặc 7 sao phương tây. Tượng nhà ngục trên trời, chủ con vật bị giết để cúng tế; lại chủ việc hưng binh tụ chúng. Sao này sáng, đoán là thiên hạ thái bình, việc cúng tế chu đáo, con cháu đông đúc. Ánh sao nhấp nháy, là quân đội tụ tập. Ba sao gần lại nhau, đất

nước bất an; sao Kim sao Hỏa thủ ở đó, đoán là chiến sự bùng nổ. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ hai trong 7 sao phương tây, gồm 6 chòm sao : Lâu, Tả

Lại, Hữu Lại, Thiên , Thiên Canh, Thiên Đại Tướng Quân, với 33 ngôi. Tấn thư. Thiên văn chí không xếp 3 ngôi Thiên , Thiên Canh, Thiên Đại Tương Quân vào sao Lâu. Càn tượng tân thư thì xếp sao Thiên vào sao Khuê. Cùng với sao Khuê chỉ nước Lỗ, là phân dã của Từ Châu.

Tả Lại : Cùng với sao Hữu Lại, gọi chung là Nhị lại. Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía đông sao Lâu, phía nam sao Vị. Thuộc Tây cung hoặc sao Lâu. Tượng son ngu, chủ cây tre trúc ở đầm hồ, lại chủ nhân và trí.

Hữu Lại : Cùng với sao Tả Lại, gọi chung là Nhị Lại. Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía tây sao Lâu, đông nam sao Khuê. Thuộc Tây cung hoặc sao Lâu. Tượng người chăn súc vật, chủ việc nuôi trâu ngựa, lại chủ lẽ và nghĩa.

Thiên : Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam sao lâu, phía bắc sao Thổ Ty Không. Thuộc Tây cung hoặc sao lâu. Tượng kho lương nhà trời, chủ ngũ cốc. Sao màu vàng mà to, đoán là nam đó được mùa lớn.

Thiên Canh : Tên chòm sao gồm 3 sao, ở phía nam dưới chân sao Thiên . Thuộc Tây cung hoặc sao Lâu. Tượng nhà bếp.

Thiên Đại Tướng Quân : Còn gọi là Thiên Tướng Quân. Tên chòm sao, gồm 12 sao, ở phía bắc sao Lâu, đông bắc sao Khuê. Thuộc Tây cung hoặc sao Lâu. Chủ quân đội Ngôi sao lớn ở giữa là Đại tướng nhà trời; hai ngôi hai bên là cờ của tướng, các ngôi nhỏ còn lại đều là thuộc hạ. Ngôi sao lớn dao động, đoán là chiến sự bùng nổ, đại tướng ra trận; các sao nhỏ không thấy đủ, là quân đội giải ngũ.

Vị : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, chân đứng trên Thiên Hà, ở phía đông nam sao Lâu. Thuộc Tây cung hoặc 7 sao phương tây. Tượng kho lương nhà trời, chủ ngũ cốc. Sao

sáng là cát, thiên hạ thái bình, kho lương đầy ắp; trái lại thì hung. Sao dao động, đoán là có việc vận chuyển lương thực. Ba sao tụ vào nhau, đoán là ít lương, ngũ cốc đắt đỏ, dân chúng rã rời. 2 ) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú Ngôi thứ 3 trong 7 sao phương tây, gồm 7 chòm sao : Vị, Thiên Bẩm, Thiên Khuân, Đại Lăng, Thiên Thuyền, Tích

Thi, Tích Thủy, với 39 ngôi. Tấn thư. Thiên văn chí chỉ xếp chòm sao Vị, các chòm còn lại đều xếp vào Thiên Thị Viên. sao Vị cùng sao Ngang chỉ nước Triệu, là phân dã của Dực Châu.

Thiên Bẩm : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía nam sao Vị, đông bắc sao Thiên Khuân. Thuộc Tây cung hoặc sao Vị. Tượng chuồng gia súc, máng ăn của trâu ngựa, chủ trâu ngựa được đem giết để cúng tế. Sao Thổ phạm vào đó, đoán là thiên hạ đói, kho lương cạn.

Thiên Khuân : Tên chòm sao, gồm 13 sao, ở phía nam sao Vị, phía bắc sao Sô Cảo. Thuộc Tây cung hoặc sao Vị. Tượng kho lương. chủ việc cấp lương. Thấy sao này, đoán là kho lương đầy, không thấy thì đoán là kho lương cạn; sao Huỳnh Hoặc hoặc sao Thái Bạch nhập vào đó, đoán là thiên hạ bị đói.

Đại Lăng : Còn gọi là Thái Lăng. Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía bắc sao Vị, phía đông sao Thiên Đại Tướng Quân. Thuộc Tây cung hoặc sao Vị. Tượng phần mộ; ngôi sao phía dưới là sao Tích Kinh, chủ đại tang. không thấy sao Tích Kinh, đoán là chư hầu có tang, dân bị bệnh dịch, chiến sự bùng nổ. Khách tinh nhập vào đó, đoán là có việc động thổ.

Thiên Thuyền : Còn gọi là sao Thuyền. Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía đông bắc sao Đại Lăng, phía bắc sao Quyển Thiệt trong Thiên Hạ. Thuộc Tây cung hoặc sao Vị Chủ bến sông tắc nghẽn, lại chu thuỷ tai và hạn hán. Sao Thuyền di chuyển khỏi Thiên Hà, đoán là bến sông tắc nghẽn; bốn ngôi sao ở giữa đều sáng, đoán là thiên hạ đại an, không sáng thì có chiến tranh tang tóc. Khách tinh và sao Chổi ra vào đó, đoản là có lụt lớn, chiến sự bùng nó hoặc có ngoại xâm.

Tích Thi : 1) Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía bắc sao Vị Thuộc Tây cung hoặc sao Vị. Tượng nơi chất xác người. Sao sáng, thì thây người chất cao như núi. 2) Tức sao Chất.

Ngang : 1) Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía đông nam sao Vị. Thuộc Tây cung hoặc 7 sao phương tây. Tượng tai mắt của trời, chủ phương tây, chủ việc nhà ngục, chủ quân nhà Hồ, chủ tang tóc. Sao sáng, đoán là việc lao ngục bình thường, sao mờ, đoán là việc xử tội bị lạm dụng. Các sao đều sáng, đoán là sắp có lụt lớn, hoặc chiến tranh bùng nổ. Một sao không thấy. quân thua trận hoặc có nói lo về quân đội, sao dao động, đoán là đại thần bị hạ ngục, dân chúng nổi dậy. Sao lớn sáng nhấp nháy, đoán là quân nhà Hồ nổi lên, xâm phạm biên cương. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú; ngôi thứ tư trong 7 sao phương tây, gồm 9 chòm : Ngang, Thiên A, Nguyệt, Thiên Nguyệt, Sô Cảo, Thiên Uyển, Quyển Thiệt, Thiên Sàm, Lịch Thạch, với 47 ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí cho rằng chỉ gồm chòm sao Ngang. Càn tượng tân thư xếp sao Sô Cảo vào chòm sao Vị. Cùng với sao Vị chỉ nước Triệu, là phân dã của Dực Châu.

Thiên A : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây sao Ngang. Thiên văn chí đời Tấn, đời Tùy nói rằng ngôi sao cao phía trời tây gọi là Thiên Hà, tức Thiên A. Thuộc Tây cung hoặc sao Ngang. Chủ cúng tế yêu quái sơn lâm.

Sô Cào : Còn gọi là Thiên Tích. Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía tây sao Thiên Uyển. Thuộc Tây cung hoặc sao Ngang. Chủ thức ăn của trâu ngựa, còn tượng tạng phủ của thiên tử. Sao này to sáng, đoán là năm được mùa; các sao tản mát, đoán là hàng hóa hiếm hoi.

Thiên Uyển : Tên chòm sao, gồm 16 sao, thành hình cái vòng ở phía nam sao Tất, sao Ngang. Thuộc Tây cung hoặc sao Ngang. Tượng bãi chăn gia súc, chủ trâu bò, ngựa

dê. Sao sáng, là gia súc đẻ nhiều: sao mờ, đoán là súc vật bị chết nhiều.

Quyển Thiệt : Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía bắc sao Ngang. Thuộc Tây cung hoặc sao Ngang. Chủ miệng lưỡi thi phi, đồn nhám. 6 sao uốn cong là tốt lành; nếu thẳng mà dao động, đoán là thiên hạ có nhiều lời đồn nhảm.

Thiên Sàm : 1) Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở giữa sao Quyển Thiệt. Thuộc Tây cung hoặc sao Ngang. Chủ thày mo chữa bệnh . 2) Tên chòm sao yêu quái, một loại sao Chổi ở vùng tây bắc, dài 4-5 trượng, hoặc như hình lưỡi câu , dài 4 trượng, chu hình phạt. Sao này xuất hiện ở đâu, nước đó có nội loạn, quân sĩ đói khát, xương khô đầy đồng.

Lịch Thạch : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía bắc sao Khiên Ngưu, đông bắc sao Ngang. Thuộc Tây cung hoặc sao Ngang. Sao Kim hoặc khách tinh thủ ở đó, đoán là sẽ có chiến sự.

Tất : Còn gọi là Thiên Tất, Hãn Xa. Tên chòm sao, ở phía tây nam sao Ngũ Xa, phía nam sao Ngang. Thuộc Tây cung hoặc 7 sao phương tây, chủ quân vùng biên, chủ săn bắn. Ngôi sao lớn nhất gọi là Thiên Cao hoặc Biên Tướng, chủ dân thiểu số phía tây. Sao sáng mà to, đoán là dân thiểu số vùng xa đến triều cống, thiên hạ thái bình; sao mờ là biên cương rối loạn; không thấy 1 ngôi sao, là quân bại trận; sao sáng nhấp nháy, là biên cương cớ chiến sự, hoặc bầy tôi sàm tấu . Các sao quần tụ, đoán là pháp luật quá hà khắc. Mặt trăng nhập vào đó. là có mưa nhiều. Sao Phụ Nhĩ nhập vào đó, là chiến sự bung nổ . 2 ) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ 5 trong 7 sao phương tây, gồm 15 chòm sao : Tất. Phụ Nhĩ (chòm phụ), Thiên Nhai, Thiên Tiết, Chư Vương, Thiên Cao, Cửu Châu Thù Khẩu, Ngũ Xa, Tam Trụ, Thiên Hoàng, Hàm Trì, Thiên Quan, Sâm Kỳ, Cửu Du, Thiên Nguyên, với 92 ngói. Tống sứ. Thiên văn chí không xếp sao Phụ nhĩ vào chòm này. Càn tượng tân thư xếp các sao Ngũ Xa, Tam Trụ vào chòm sao Tư và sao Sâm. Cùng với sao Tư và sao

Sâm chỉ nước Ngụy, là phân dã của ích Châu.

Hãn Xa : Tức sao Tất. Tượng ngọn cờ cắm trên xe, nên gọi là Hãn Xa.

Phụ Nhĩ : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía dưới sao Tất. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Chòm phụ của sao Tất. Chủ việc được mất của nhà vua, chủ việc cúng tế trừ tà. Sao này dao động nhấp nháy, chú bấy tôi gian thần sàm tấu; sao sáng là nước suy yếu, nhiều trộm cướp, chiến tranh liên miên; sao di chuyển, là gian thần lộng hành, chiến sự bùng nổ.

Thiên Nhai : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở khoảng giữa hai sao Ngang và Tất, gần phía tây sao Ngang, có Đẩu Giáo Hoàng đạo chạy qua đó, là con đường quan trọng mà Tam

Quang đi qua. Thiên tử từ đó đi ra. Thuộc Tây cung hoặc Sao Tất. Chủ việc biên cương, biên giới của đất nước, ngôi phía nam chỉ nước Hoa Hạ, ngôi phía bắc chỉ nước Di Địch. Sao Thổ và sao Kim thủ ở đó, đoán là quân nhà Hồ xâm phạm biên cương.

Thiên Tiết : Tên chòm sao, gồm 8 sao, ở khoảng giữa các sao Ngang, Tất, Phụ Nhĩ và Sâm Ky. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Chủ nơi chờ của sứ thần.

Chư Vương: Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam sao Ngũ Xa, trong Thiên Hà. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Chủ quan sao việc còn mất của chư hầu

Thiên Cao : Tên chòm sao. gồm 4 sao, ở phía bắc sao Sâm Kỳ. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng đài quan sát. Chủ quan sát khí tượng từ xa, lại chủ cửa ải.

Cửu châu Thù Khẩu : Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía nam sao Tất, phía tây sao Cửu Du. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng quan thông hiểu phong tục, chủ phong tục.

Ngũ Xa : Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía đông bắc sao Tất. Trong đó có Ngũ hoàng, Hàm Trì. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng xa giá chỗ ở của ngũ đế. Chủ quân đội của thiên tử, lại chủ ngũ cốc. Ngôi sao lớn phía tây bắc (ngôi thứ hai) gọi là Thiên Khố, chủ Kim tinh Thái Bạch, chủ nước Tần; ngôi thứ ba ở phía đông bắc gọi là Thiên Ngục, chủ Thủy tinh, chú nước Yên, nước Triều; ngôi thứ tư ở phía đông gọi là Thiên , chú Mộc tinh, chủ nước Vệ, nước Lỗ, ngôi thứ 5 phía đông nam gọi là Tư Không, chủ Thổ tinh, chủ đất Sở; ngôi thứ nhất phía tây nam gọi là Khanh tinh, chủ Hỏa tinh, chú đất Ngụy. 5 ngôi đều sáng, cách đều nhau là tốt lành. Ngũ Xa đều sáng, sao Tam Trụ cũng thấy là kho lương đầy đủ; không thấy thì đoán là kho lương cạn kiệt. Sao Hỏa nhập Ngũ Xa là có hạn hán; sao Kim nhập là có chiến sự, sao Thuỷ nhập là có lũ lụt; mặt trăng phạm vào đó là nữ chúa độc ác; lưu tinh phát ra từ đó đoán là chiến sự bùng nổ.

Tam Trụ : Còn gọi là Thiên Trụ, Trụ. Tên chòm sao, gồm 9 sao, tụ thành từng nhóm 3 ngôi sao một, một gọi là Tuyền, hai là Hưu, ba là Kỳ, ở phía trong và ngoài Ngũ Xa. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng xa giá của thiên tử, đoán cùng với Ngũ Xa. Ngũ Xa và Tam Trụ cùng sáng, là thiên tử thành tâm cúng lễ, hoặc kho lương đầy đủ; không thấy thì kho lương cạn kiệt, có chiến sự. Tam Trụ nhập hoặc xuất khỏi Ngũ Xa vào tháng giêng, thì lương thực đắt gấp 3 lần trong 2 năm; Tam Trụ xuất khỏi Ngũ Xa vào tháng ba, thì lương thực đắt gấp 10 lần trong 3 năm.

Thiên Hoàng: Còn gọi là Ngũ Hoàng hoặc Thiên Ngũ Hoàng. Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở trong Ngũ Xa, phía nam sao Hàm Trì. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng nơi chứa nước. Mặt trăng và Ngũ tinh nhập vào đó, đoán là có chiến sự, đường bị tắc, thiên hạ loạn lạc.

Hàm Trì : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở trong Ngũ Xa, phía nam sao Thiên Hoàng. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng nơi trú ngụ của cá và chim. Sao này sáng, đoán là có rồng chết, dã thú hại người hoặc có chiến sự. Sao Hỏa thủ ở đó, có tai họa. 2) Còn gọi là Hổ, Bạch Hổ, ten chòm sao. Hàm Trì còn là tên gọi Tây cung. Xem thêm mục Bạch Hổ.

Thiên Quan: Còn gọi là Quan Môn. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông sao Tất, phía nam sao Ngũ Xa. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng cửa đi qua của mặt trời mặt trăng, chủ việc biên cương, chủ đóng mở. Sao này mọc sừng, đoán là có chiến sự; ngũ tinh thủ ở đó, nhiều quỉ nhân bị chết, sao Thổ phạm vào đó, bề tôi mưu hại chúa; sao Kim phạm, chiến sự bùng nổ; mặt trăng phạm vào, vua lo âu, có loạn thần.

Sâm Kỳ : Còn gọi là Thiên Kỳ hoặc Thiên Cung. Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía tây sao Sâm, phía nam sao Thiên Cao. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng giương cung nỏ, lại tượng hạ lệnh cho xa gần phải theo. 9 ngôi sao uốn đều thành đường sóng, là vua xử phạt hợp lý, trái lại là có động binh ở bên ngoài; sao sáng mà thưa, giặc dã nổi lên.

Cửu Du : Tên chòm sao, gồm 9 sao ở phía nam sao Sâm Kỳ, tây nam sao Ngọc Tỉnh. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng cờ của quân đội nhà vua, chú hướng dẫn quân

đội tiến thoái. Sao này không nên dao động, nếu dao động thì chín châu phân tán, dân chúng thất nghiệp, mệnh lệnh không thống nhất. Sao Hỏa, sao Kim thủ ở đó, thì đất nước

loạn lạc.

Thiên Viên: Tên chòm sao, gồm 13 sao, ở phía nam sao Thiên Uyển, sắp thành dãy xiên xiên theo hướng tây nam đông bắc. Thuộc Tây cung hoặc sao Tất. Tượng vườn rau quả của thiên tứ, chủ việc trồng rau quả.

Tư : Còn gọi là Tư Huề. 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía trên sao Sâm, hình chân vạc. Thuộc Tây cung hoặc 7 sao phương tây. Tượng ba quân, hành quân, nơi trú quân.

Sao sáng là quân đông, tướng thắng thế. Sao sáng mà dao động, là trộm cướp lộng hành, dân đói khát; sao Kim sao Hỏa thủ ở đó, là nước dễ mất chính quyền, có tai họa. 2)

Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ 6 trong 7 sao phương tây. Gồm 3 chòm sao: Tư, Ty Quái, Tòa Kỳ, với 16 ngôi (xem hình 118). Cùng với sao Tất. sao Sâm chi

nước Nguy, là phân dã của lệch Châu.

Tòa Kỳ: Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía trên sao Tư, tây bắc sao Ty Quái. Thuộc Tây cung hoặc sao Tư. Tượng vị trí vua tôi.

Ty Quái: Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía trên bên trái sao Sâm, phía trước sao Đông Tinh, sao Việt. Thuộc Tây cung hoặc sao Tư. Tượng sự biến đổi kỳ dị của mặt trơi, mặt

trăng và tinh tú, chủ muông thú và cây cỏ quải dị.

Sâm : 1) Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía dưới sao Ngũ Xa, Thiên Quan, phía trên sao Quân Tỉnh, Ngọc Tỉnh. Thuộc Tây cung hoặc 7 sao phương tây. Hai sao phía bắc là

hai vai của sao Sâm, 3 ngôi ở giữa là lưng, hai ngôi phía nam là đùi hoặc chân của nó. Thiên quan thư gọi 3 ngôi ở giữa là trung quân, ngôi chính giữa là đại tướng, hai ngôi

hai bên là tham mưu. Tùy thư. Thiên văn chí gọi 3 ngôi ở giữa là Tướng quân, vai trái là Tả tướng vai phải là Hữu tướng, chân trái là Hậâu tướng, chân phải là Thiên tướng, nên trong Hoàng đế tinh kinh có nói sao Sâm ứng với 7 vị tướng. Sao Sâm còn gọi là Phu Việt, chủ chém giết, lại tượng thiên ngục, chủ sát phạt. Thạch thị tinh kinh thì viết rằng "7 ngôi sao Sâm có hai vai hai chân và 3 ngôi ở giữa". 7 vị tướng sáng mà to, thì quân đội thiên hạ tinh nhuệ; sao mờ thì lòng quân phân tán, quân kỷ không nghiêm; nếu mọc sừng là vương đạo khiếm khuyết; sừng dao động là có chiến sự hoặc có chém giết, sao di chuyển là khách phạt chủ; 7 sao ở sai vị trí, là vua tôi không đồng lòng; chân bên trái nhập vào sao Ngọc Tỉnh, là chiến tranh bùng nổ, nước Tần có lụt lớn. Thiên văn chí Tùy, đời Tống nói sao Sâm gồm 10 ngôi, hàm ý còn gồm 8 ngôi sao Phạt, nên gọi là Sâm Phạt. Xem thêm mục phạt. 2 ) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi cuối cùng trong 7 sao phương tây Gồm 7 chòm sao : Sâm, Phạt. Ngọc Tỉnh, Bình. Quân Tỉnh, Xí, Thỉ, với 25 ngôi. Tấn thư. Thiên văn chí không xếp vào đây 3 sao Bình, Xí, Thỉ. Càn tượng tân thư thì xếp các sao Ngọc Tỉnh, Quân Tỉnh vào chòm sao Tất. Cùng với sao Tất, sao Tư chỉ nước Ngụy, là phân dã của ích Châu.

Phạt : Tên chòm sao, gồm 3 sao, trên nhỏ dưới to, ở khỏang giữa hai chân và 3 sao sâm. Thuộc Tây cung hoặc sao Sâm. Tượng đô phủ trên trời, chủ các nước Hồ, Tiên Tị, Địch. Ba ngôi sao này không nên sáng. Lại chủ sát phạt. Xem thêm mục Sâm

Ngọc Tỉnh : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía dưới chân bên trái sao Sâm. Thuộc Tây cung hoặc sao Sâm. Chủ nước tương, gia vị làm bếp.

Bình : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía tây sao Xí, nam sao Ngọc Tỉnh. Thuộc Tây cung hoặc sao Sâm. Tượng cái bình phong. Khách tinh nhập vào đó, đoán là loài thú 4 chân bị dịch bệnh hoành hành.

Quân Tỉnh : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông nam sao Ngọc Tỉnh. Thuộc Tây cung hoặc sao Sâm. Tượng giếng nước trên đường hành quân.

Xí : Còn gọi là Thiên Xí. 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía nam sao Sâm, phía đông sao Bình. Thuộc Tây cung hoặc sao Sâm. Tượng nhà xí. Chủ quan sát dịch bệnh trong thiên hạ. Sao này màu vàng là tốt lành, màu xanh hoặc trắng là hung. 2) Chỉ Thiên Hỗn.

Thỉ : Còn gọi là Thiên Thỉ. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía nam sao Xí. Thuộc Tây cung hoặc sao Sâm. Đoán như sao Xí.

Tỉnh : Còn gọi là Đông Tỉnh. 1 ) Tên chòm sao, gồm 8 sao. Ở phía đông sao Ngọc Tỉnh, phía dưới sao Ngu Chư Hầu, thành hình chữ Tỉnh (cái giếng). Hoàng đạo chạy qua đó. huộc Nam cung hoặc 7 sao phương nam. Tượng cửa nam trên trờhủ việc thuỷ, chu pháp lệnh. Vua dùng pháp luật công bằng. Sao này nên sáng và sắp thành hàng chỉnh tề. Mặt trăng nhập vào sao này, đoán là mưa gió thất thường. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ nhất trong 7 sao phương nam. Gồm 20 chòm sao : Tỉnh, Việt (chòm phụ), Nam Hà, Bắc Hà, Lưỡng Hà. Thiên Tôn, Ngũ Chư hầu, Tích Thủy, Tích Tân, Thủy Phủ , Thủy Vị, Tứ Độc (Giang, Hoài, Hà, Tế), Quân Thị, Dã Kê, Tôn, Tử, Trượng Nhân, Quyết Khâu, Thiên Lang, Hồ Thỉ, Lão Nhân, với 70 ngôi sao. Càn tượng tân thư xếp các chòm Thủy Phu Tử, Trượng Nhân vào sao Sâm. Cùng với sao Quỷ chỉ nước Tần, là phân dã của Ung Châu.

Đông Tỉnh : Tức sao Tỉnh vì ở phía đông sao Ngọc Tỉnh, nên có tên gọi đó.

Việt : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía trên miệng sao Tỉnh . Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh, la chòm phụ của sao Tỉnh. Chủ chém đầu kẻ dâm tà. Sao này không nên sáng.

Nếu sáng như sao Tỉnh, thì đoán là đại thần bị vua chém đầu. Sao Hỏa phạm vào đó, đoán là đại thần có mưu. Sao Thổ phạm vào, đoán là phải sử dụng búa rìu. Phàm mặt trăng và ngũ tinh phạm vào đều là tượng tai họa binh đao.

Nam Hà : Gọi tắt là sao Hà. Có khi còn gọi là Nam Cung, Dương Môn, Việt Môn hoặc sao Quyền. Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía nam Thiên Hà, Đông Tỉnh, phía dưới sao Thủy Vị. Hoàng đạo chạy qua phía bắc nó. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Tượng cửa phương nam. Chủ sự chuẩn bị quân ở phương nam. Sao này không thấy, thì đường phía nam bị tắc; ánh sao chập chờn hoặc sao Huỳnh Hoặc thu ở đó, đoán là trong nước có chiến sự, hoặc nước Việt có biến, cận thần có sự câu kết. Nam Hà và Bắc Hà gọi gộp là lưỡng Hà để cùng dự đoán.

Bắc Hà : Gọi tắt là Hà. Còn gọi là Bắc Cung, âm Môn hoặc Hồ Môn, sao Hoành. Tên chòm sao gồm 3 sao, ở phía bắc Thiên hà. Đông Tỉnh, bên trên sao Ngũ chư Hầu .

Hoàng đạo chạy qua phía nam nó. Thuộc Nam cung hoặc Sao Tỉnh. Tượng cửa phương bắc. Chủ sự chuẩn bị quân ở phương bắc, chủ rợ Hồ. Sao này không thấy thì đường phía bắc bị tắc; ánh sao chập chờn hoặc sao Huỳnh Hoặc thủ ở đó, đoán là trong nước có chiến sự, hoặc nước Hồ có biến, cận thần có sự câu kết. Nam Ha và Bắc Hà gọi gộp là Lưỡng Hà để cùng dự đoán.

Lưỡng Hà: Chỉ hai sao Nam Hà và Bắc Hà, gồm 6 sao, tượng giới hạn đường nam bắc, biết sự tà ngụy. Xem mục Nam Hà, Bắc Hà.

Thiên Tôn: Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía nam sao Ngũ Chư Hầu. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Chủ việc cứu giúp người nghèo.

Ngũ Chư Hầu : Còn gọi là Chư Hầu hoặc Ngũ Hầu. Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía bắc sao Tỉnh, gần Bắc Hà. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Chủ đề phòng bất trắc. Lại chủ điều hòa âm dương, quan sát sự được mất. Ngũ Hầu phân ra Đế Sư, Đế Hữu, Tam Công, Bác Sĩ, Thái Sử. Sao này sáng, to, lớn nhỏ chỉnh tề, đoán là nước có phúc, trái lại là trên dưới nghi ngờ nhau, trung thần không được trọng dụng. Mặt trăng và Ngũ tinh phạm vào đó là chư hầu có âm mưu.

Tích Thủy: Tên chòm sao, 1 ) Gồm 1 sao, ở phía tây bắc sao Bắc Hà. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Tượng nước sông, chủ việc dâng rượu thịt. 2) Gồm 1 sao, ở trong chòm Thiên Thuyền. Thuộc Tây cung hoặc sao Vị. Chủ thủy tai.

Tích Tân: Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông bắc sao Tỉnh. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Chủ việc đun bếp.

Thủy Phủ : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía tây nam sao Đông Tỉnh. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Chủ quan thủy sự.

Thuỷ Vị: Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Đông Tỉnh. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Chủ việc thủy sự Sao Thủy sao Hỏa phạm vào đó, đoán là trăm sông tràn ngập.

Tứ Độc : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía nam sao Đông Tỉnh, phía tây sao Nam Hà. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Tượng tinh của 4 dòng sông Giang, Hà, Hoài, Tế.

Quân Thị : Tên chòm sao, gồm 13 sao. ở phía nam sao Tỉnh, bên dưới sao Thiên bang. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Tượng chợ hàng hóa quân sự.

Dã Kê : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở giữa chòm sao Quân Thị. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Chủ những việc thay đổi quái dị.

Khuyết Khâu : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía nam sao Nam Hà. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Chủ hai chỗ khuyết của thiên tư. quan sát chư hầu, chủ việc ban bố pháp lệnh, chủ nước Ngụy. Sao Hỏa thủ ở đó đoán là có binh biến ở ngoài cung điện.

Thiên Lang: Gọi tắt là sao Lang. Tên chòm sao, gồm 1 Sao, ở phía nam sao Tỉnh, phía bắc sao Quân Thi. Thuộc Nam cung hoặc sao Tính. Tượng tướng giặc, chủ việc xâm phạm bờ cõi. Ánh sao bình thường, không biến động là tốt lành; ngược lại là có giặc giã, quân Hồ xâm phạm. Sao này biến động bất định, đoán là thiên tủ không yên, long đong trong thiên hạ.

Hồ Thỉ: Gọi tắt là sao Hồ. Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía đông nam sao Thiên Lang. Thuộc Nam cung hoặc sao Tinh. 8 ngôi tượng cái cung, 1 ngôi tượng mũi tên, chú cây cung nhà trời, đề phòng trộm cướp, thưởng hướng về phía sao Lang. 9 ngôi di động bất thường, đoán là giặc giã nổi lên, quân Hồ quấy nhiễu. Cung giương lên, là thiên hạ rối loạn.

Lão Nhân: Còn gọi là Nam Cực Lão Nhân hoặc Nam Cực Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây nam sao Hồ Thỉ. Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Thường nhìn thấy vào ngày Thu Phân ở cung Bính, ngày Xuân Phân thì lặn ở cung Đinh. Thấy nó là điềm tốt lành. không thấy nó là vua gặp nguy.

Quý : Còn gọi là Dư Quỷ. 1 ) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Tỉnh, Thuộc Nam cung hoặc 7 sao phương nam. Tượng con mắt trời, chủ quan sát mưu gian. Ngôi đông bắc chủ tập hợp ngựa, ngôi đông nam chủ tập hợp quân, ngôi tây nam chủ tích trữ vái vóc, ngôi tây bắc chủ tích trữ vàng ngọc. Tùy sự biến đổi cua các ngôi sao ấy mà chiêm đoán. Sao Quỷ sáng mà to, là được mùa; không sáng, thì trăm họ lưu tán. Sao sáng mà dao động, là việc giao dịch nhiều. Di động, thì trăm họ lo âu, chính lệnh nguy cấp. Có thuyết nói sao Quỷ gồm 4 sao, hàm ý gồm thêm sao Tích Thi. 2) Tên chòm sao một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ hai trong 7 sao phương nam. Gồm 7 chòm sao : Quý, Tích Thi, Huy, Thiên Cẩu, Ngoại Trù, Thiên Xã, Thiên Ký, với 29 ngôi. Tấn thư. Thiên văn chí viết rằng sao Quỷ không có sao Huy. Ngoại Trù, và Thiên Kỷ. Càn tượng tân thư thì cho rằng sao Thiên Xã thuộc chòm sao Tỉnh. Cùng sao Tỉnh chỉ nước Tần, là phân dã của Ung Châu.

Chất : Con gọi là Quỷ Chất, Phu Chất, Tích Thi, Thi Khí hoặc Tích Thi Khí. Tên chòm sao, gồm 1 sao, màu trắng, ở giữa 4 ngôi của sao Quỷ. Thạch thị tinh kinh viết rằng sao này "trắng như phấn, trông như mây mà không phải là mây. trông như sao mà không phải là sao, chỉ thấy màn khí mà thôi". Thuộc Nam cung hoặc sao Quỷ. Lại nói rằng là một trong 5 ngôi của sao Quỷ. Chủ chết chóc, cúng tế, lại chết chém đầu. Thấy sao này chập chờn không sáng là yên; sáng là có chiến sự bùng nổ, đại thần bị chém đâu Huỳnh Hoặc phạm vào đó, có đại tang, có địa binh, chém quân giết tướng; Thái Bạch phạm vào đó, quí nhân lo âu.

Huy : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía tây sao Hiên Viên, tây bắc sao Quỷ. Thuộc Nam cung hoặc sao Quỷ. Chủ đôn đốc việc biên cương.

Thiên Cẩu : 1) Tên- chòm sao, gồm 7 sao, ở phía nam sao Ngoại Trù, phía bắc sao Thiên xã. Thuộc Nam cung hoặc sao Quỷ. Chủ giữ của. 2) Tên lưu tình, hình dạng như sao Đại Bôn. Có tiếng, rớt xuống đất như con chó, khi rớt trông như ánh lửa tung tóe, trên nhọn, dưới tròn. Lại nói khi rớt có lông, bên cạnh có cái chổi ngắn, rớt xuống như con chó; hoặc nói sao này có màu trắng pha đỏ, lại nói sao này khi rớt hiện ra mặt người, rớt xuống không có tiếng. Sao này chủ quân chư hầu trừ giặc. Thấy sao này, thì bốn phương có chiến sự, chém giết quân tướng hoặc đoán là 5 vị tướng đánh nhau, sao rơi về phía nào, nơi ấy có máu chảy đầu rơi, vua mất đất, mất nước. Có thuyết nói Thiên Cẩu là Khách tinh; nếu 3 ngôi lớn hiên ra ở phía tây bắc là đại hung.

Thiên Xã : Tên chòm sao, gồm 6 sao ở phía đông nam sao Cô Thỉ, tây nam sao Thiên Cẩu. Thuộc Nam cung hoặc sao Quỷ. Là tượng Thiên xã, chủ bình thủy thổ.

Thiên Ký: Còn gọi là Thiên Kỷ, tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía nam sao Ngoại Xí, đông nam sao Thiên Cẩu. Thuộc Nam cung hoặc sao Quỷ. Chủ răng của cầm thú.

Liễu : Còn gọi là sao Chú, Thiên Tướng, Thiên Khố hoặc Bát Thần. 1) Tên chòm sao gồm 8 sao, ở phía nam Hoàng đạo, phía bắc Xích đạo phía dưới sao Tửu Kỳ, phía trên sao Ngoại Xí, ở giữa hai sao Quỉ và Tinh hình như liễu rủ. Thuộc Nam cung hoặc 7 sao phương nam. Tượng chuồng xí nhà trời, chủ mùi vị, lại chủ sấm và mưa; còn chủ mộc công. Khi đoán thì sao này sáng là tốt, đại thân thận trọng, đất nước yên ổn, dân đủ ăn; nếu tam sao thành một đường thẳng, là thiên hạ có âm mưu phạt chúa. Nếu ngôi sao bên phải trong số 8 ngôi đó ở vị trí cao thì địa vị của nhà vua vững chắc, có nhiều người phò tá. Nếu 8 ngôi tụ vào một chỗ (gọi là sao Chú ngẩng đầu), thì đất nước đầy binh đao, biên cương rối loạn. Sao Kim, sao Hỏa thủ ở đây, là đất nước có chiến tranh. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ ba trong 7 sao phương nam. Gồm hai chòm sao : Liễu, Tửu Kỳ, với 11 ngôi. Tấn thư. Thiên văn chí chỉ xếp vào chòm này một mình sao Liễu. Cùng sao Tinh và sao Trương chỉ nước Chu, là phân dã của Tam Hà.

Tửu Kỳ: Tên chòm sao, gồm 8 sao, ở phía nam bên phải sao Hiên Viên. Thuộc Nam cung hoặc sao Liễu. Tượng lá cờ của quán rượu. Chủ yến tiệc, ăn uống. Ngũ tinh thủ ở đây, chủ thiên hạ khắp nơi co tiệc tùng.

Tinh: Còn gọi là Thất Tinh hoặc Thiên Đô. 1) Tên chòm sao, gồm 7 sao, hình dạng như cái lưỡi câu, ở phía đông nam sao Liễu. Thuộc Nam cung hoặc 7 sao phương nam. Chủ đường thêu trên y phục, lại chủ việc khẩn cấp hoặc binh mã được điều động gấp, có giặc dã. Khi đoán, sao sáng là cát, là vương đạo hưng thịnh ; sao mờ là hung, người hiền không được trọng dụng; sao di động là có chiến tranh. Các ngôi xa nhau là có chính biến. Sao Kim, sao

Hỏa thủ ở đây là chiến tranh bùng nổ. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú, ngôi thứ tư trong 7 sao phương nam. Gồm 5 chòm sao : Thiên Tướng, Thiên Tắc, Hiên Viên, Nội Bình, với 36 ngôi. Càn tượng tân thư xếp Thiên Tướng vào chòm sao Sâm, Nội Bình thuộc sao Trương, một phần cua sao Hiên Viên và Nội Bình thuộc sao Liễu, sao Trương. Tống sử. Thiên văn chí thì cho rằng Hiên Viên thuộc Thiên Thị Viên. Tấn thư. Thiên văn chí thì xếp Nội Bình vào Thiên Thị Viên. Cùng sao Liễu và sao Trương chỉ nước Chu, là phân dã của Tam Hà.

Hiên Viên : Còn gọi là Đông Lăng hoặc sao Quyền. Tên chòm sao, gồm 17 sao, ở phía bắc sao Tinh. Thuộc Nam cung hoặc sao Tinh. Hình như con rồng, tượng vị thần của hoàng đế, thể của hoàng long, chủ thần mưa và sấm. Thiên quan thư viết : " âm dương giao cảm hóa thành sấm chớp, hòa nhau thành mưa, nổi giận thành gió, loạn và ngưng tụ thành sương mù, tụ thành mây, đứng thành cầu vồng, biến hóa ra hai mươi tư thứ, đều là do Hiên Viên tạo nên". Còn là tượng hậu cung, việc hậu phi. Ngôi sao lớn nhất ở cuối cùng phía nam (ngôi thứ 14) là ngôi sao chính, tượng nữ chúa. Bên trái nó là Thiếu Dân, tượng dòng họ thiếu hậu; bên phải là Đại Dân, tượng dòng họ thiên hậu; bên dưới (nam) nó là Ngự Nữ, bên trên nó (bắc) là sao Phu Nhân, tiếp đến Chính Phi, các sao con lại đều là thứ phi. Các sao nhỏ, màu vàng và sáng là cát, sao lớn mà sáng là hậu cung có chuyện. Các sao di chuyển vị trí, đoán là người trong nướcphiêu bạt tứ tán, mọc sừng về hai phía đông tây đoán là gia tộc hậu phi đồi bại. Sao Thủy, sao Hỏa, sao Kim thủ ở đây, đoán là nữ chúa tàn ác. Nguyệt, Ngũ tinh phạm vào đây, đoán là bè đảng của hậu phi đắc thế, nhiều lợi sàm tấu, hoặc đoán là thiên tử hạ lệnh chém đầu.

Nội Bình : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía nam sao Trung Đài trong Tam Đài . Thuộc Nam cung hoặc sao Tỉnh. Tượng chức quan định tội, gần như quan chấp pháp.

Thiên Tướng: Tên chòm sao gồm 2 sao, ở phía nam sao Tửu Kỳ, phía bắc sao Trương. Thuộc Nam cung hoặc sao Tinh. Tượng chức Thừa tướng nhà trời.

Thiên Tắc: Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía nam sao Tinh. Thuộc Nam cung hoặc sao Tinh. Chủ chính sách nhà nông.

Trương : 1) Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía dưới sao Hiên Viên, phía đông sao Tinh, phía tay sao Dực. Thuộc Nam cung hoặc 7 sao phương nam. Chủ Nhà bếp trên trời, chủ việc ăn uống, ban tiệc. lại chủ của ngon vật lạ, chủ y phục. Sao sáng là cát, mờ là hung. Sao di đông là có việc ban tiệc; tách xa nhau là thiên hạ có kẻ phản nghịch. Sáu ngôi sao quần tụ gần nhau là có chiến sự. Sao Hỏa thủ ở đó, đoán là xảy ra chiến tranh. 2) Tên chòm sao, một trong Nhị thập bát tú ngôi thứ 5 trong sao phương nam, gồm 2 chòm sao Trương va Thiên Miếu, với 20 ngôi. Thời cố thường coi Thiên Miếu là một Tinh quan nằm ngoài Nhị thập bát tú. Cùng sao Liễu và sao Tinh chỉ nước Chu, là phân dã của Tam Hà.

Thiên Miếu : Tên chòm sao gồm 14 sao, ở phía nam sao Trương. Thuộc sao Trương hoặc Tinh quan nằm ngoài Nhị thập bát tú. Tượng miếu tổ tông của thiên tử. Khách tinh thủ ở đó, đoán là quan trông coi đền miếu có việc đáng lo.

Dực: 1) Tên chòm sao, gồm 22 sao, ở phía nam Thái Vi Viên, phía đông sao Trương. Thuộc Nam cung hoặc 7 sao phương nam. Tượng cánh chim, chủ khách thiểu số tử phương xa, lại tượng nhạc phủ trên tráim chủ hí nhạc. Sao sáng mà lớn, đoán là lễ nhạc hưng thịnh, dân thiểu số khắp nơi thần phục. Sao di động, đoán là có khách từ phương xa tới. các sao tan loạn, đoán là thiên tử dấy binh dẹp loạn. 2) Tên chòm sao, ngôi thủ sáu trong 7 sao phương nam, gồm 2 chòm sao Dực và Đông Khu, với 27 ngôi. Tinh thần khảo nguyên còn xếp

vào đây hơn 20 chòm. Tấn thư. Thiên văn chí xếp sao Đông Khu ở ngoài Nhị thập bát tú. Càn tượng tân thư thì nói sao Đông Khu thuộc sao Trương. Cùng với sao Sâm chỉ nước Sở, là phân dã của Kinh Châu. 3 ) Tên sao, chỉ hai sao bên trái và bên phải trong chòm sao Trương. Đường thư. Thiên văn chí nói 4 sao bên trong là Điểu Chủy. 2 sao bên ngoài là Dực.

Đông khu: Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía nam sao Dực. Thuộc Nam cung hoặc sao Dực Chủ man di.

Chẩn : Con gọi là Thiên Xa. 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía nam Thái Vi Viên, phía đông sao Dực, bên trong co sao Trường Sa. Thuộc Nam cung hoặc 7 sao phương nam, ở bên dưới sao Tả Hạt, bên trên sao Hữu Hạt, nên sao Chẩn tượng chiếc xe, chú xe chở, lại chủ gió, chủ việc tang, lại chú binh mã ra vào. Sao sang hoặc động, là có sử dụng xe,

sao tản ra, đoán là thiên tử cỏ việc đáng lo; sao quần tụ lại, đoán là có chiến tranh. Ngũ tinh nhập vào sao Chẩn, cũng đoán là có chiến tranh. Sao Kim thủ ở đây, đoán là trường học bị giải tán, nho sĩ thất nghiệp, chiến sự lan tràn. Sao Hỏa thủ ở đây đoán là có chư hầu ở phương nam trái lệnh, phải đem quân chinh phạt. Sao Thủy thủ ở đó, đoán là ở châu Từ, châu Tứ có người bị tru di tam tộc. 2) Tên chòm sao, ngôi thù bảy trong 7 sao phương nam, gồm 5 chòm sao chính là Chẩn, Thanh Khâu, Quân Môn, Thổ Ty Không, Khí Phủ và hai chòm phụ của Trường Sa là Tả Hạt, Hữu Hạt, với 52 ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí cho rằng Tả Hạt, Hữu Hạt thuộc sao Chẩn. Càn tượng tân thư thì nói Quan Môn, Thổ Ty Không, Khí Phủ thuộc sao Dự chỉ nước sở, là phân dã của Kinh Châu.

Trường Sa : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía trong sao Chẩn. Màu hơi trắng, có tia sáng nhấp nháy. Thuộc Narn cung hoặc sao Chẩn. Chòm phụ của sao Chẩn. Chủ tuổi thọ. Sao này sáng, đoán là người trường thọ, con cháu đề huề.

Tả Hạt : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía bên trái sao Trường Sa. Thuộc Nam cung hoặc sao Chẩn. Cùng với Hữu Hạt gọi gộp là Lưỡng Hạt . Xem mục Lưỡng Hạt.

Hữu Hạt: Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía phải sao Trường Sa. Thuộc Nam cung hoặc sao Chẩn. Cùng với Tả Hạt gọi gộp là Lưỡng Hạt. Xem mụcLưỡng Hạt

Lưỡng Hạt : Chỉ hai sao Tả Hạt và Hữu Hạt. Tả Hạt ở phía trên sao Chẩn, Hữu Hạt ở phía dưới sao Chẩn. Thuộc Nam cung hoặc sao Chẩn. Còn gọi là chòm phụ của Trường Sa. Tượng xe nhà trời. Chủ vương hầu, chủ tôn ti. Tả Hạt chủ người cùng họ với vua, Hữu hạt chỉ người khác họ vua. Sao sáng, là có chiến tranh; cách xa sao Chẩn là hung; Lưỡng Hạt nhô cao là có man di xâm lấn. Lưỡng hạt mở, là vua có việc đáng lo.

Quân Môn : Tên chòm sao, gồm 2 sao, màu vàng, ở phía bắc sao Thổ Ty Không. Thuộc sao Chẩn. Chủ cờ xí uy nghi tại doanh trướng.

Thanh Khâu: Tên chòm sao, gồm 7 sao, màu đen ở phía đông nam sao chẩn. Thuộc Nam cung hoặc sao Chẩn. Tượng quốc hiệu của man di.

Khí Phủ: Tên chòm sao, gồm 32 sao, ở phía nam sao Chẩn, nam sao Thanh Khâu. Thuộc Nam cung hoặc sao Chẩn. Tượng kho nhạc khí .

<H1 style="MARGIN: 0in 0in 0pt">Thất diệu</H1>

Nhật : 1 ) Tức mặt trời, Thái Dương. Một trong Thất diệu. Là tinh của Thái Dương. Vận hành theo Hoàng đạo về phía đông, tạo thành tiết âm dương nóng lạnh, chủ sinh dưỡng ân đức, tượng vua chúa, chủ việc của vua chúa và quốc chính. Chiêm đoán căn cứ vào sự vận hành của nó, thấy hoặc không thấy nó, nhật thực, màu sắc, quầng tán của nó. Nhật nguyệt vận hành bình thường, sáng rõ ở nơi nào, thì nơi ấy vua chúa may mắn, trăm họ an ninh. Mặt trời không thiên về màu nào trong ngũ sắc, là quốc chính thái bình; biến sắc là hung, đánh trận ắt thua; nếu lúc ấy không có chiến sự, thì có tang vương hầu; nếu màu đỏ mà không có ánh lung linh là vua không có đức, có thần loạn quốc; nếu mặt trời thất sắc, là nước mà nó tới không hưng thịnh, ban ngày thấy mờ ám, đoán là ít người đi lại, chiều chiều mà mặt trời mờ ám, là trên thì hình phạt tàn khốc, dưới thì trăm họ điêu đứng, trong vòng một năm có lụt lớn. Ban ngày mờ nhạt, lại có từng bầy quạ kêu, thì đoán là chính sự hủ bại. Mặt trời có vết đen, đoán là chúa không sáng suốt, chính sự rối loạn, dân nghèo khổ, có chiến tranh: tướng ra trận. Mặt trời có điểm đen, khí đen, mây đen, biến hóa lúc thì thành 3, lúc thì thành 5 điểm, đoán là thần phế bỏ chúa. Nhật thực là âm lấn dương, tượng bề tôi chi phối chúa, nước mất, vua chết, lũ lụt. Nhật thực mà nhìn thấy các ngôi sao, đoán là vua bị giết, thiên hạ phân liệt 2) Tên chòm sao, gồm 1 sao, màu vàng, ở phía tây sao Phòng, phía đông sao Đê, thuộc Đông cung hoặc sao 1 lòng. Cam thị tinh kinh nói tinh của mạt trời tại sao Phòng sao Đê, chủ hành độ của mặt trời.

Nguyệt : l) Tức mặt trăng, còn gọi là Thái âm. Một trong Thất diệu. Là ánh sáng phản chiếu của mặt tươi, là tinh của Thái âm. Vận hành xiên chéo theo Hoàng đạo. Trong vòng 1 tháng, thì nửa tháng vận hành ở bên cạnh Hoàng đạo, nửa tháng vạn hành ở trong Hoàng đạo. Tượng nữ chúa, phối với Nhật (mặt trời) dinh dưỡng ân đức, thực thi hình phạt. Lại tượng đại thần chư hầu theo sự sắp đặt của triều đình. Chiêm đoán căn cứ vào sự vận hành của nó, thấy hoặc không thấy nó, nguyệt thực, màu sắc, quầng tán của nó, mà đoán cho vùng đất tương ứng. Mặt trăng vận hành đúng tuyến, là vua sáng suốt, vận hành lệch lạc, là bề tôi lấn quyền vua; dùng binh một cách phi nghĩa, vận hành khi tiến khi lùi, là ngoại thích của hậu chúa đoạt quyền; biến sắc thì đoán là sắp có tai ương. Ban ngày thấy mặt trăng, đoán là lắm kẻ gian tà, vua tôi tranh giành, nữ chúa không có đức hạnh, nước phương bắc hùng mạnh, Trung Quốc bị đói. Trông thấy mấy mặt trăng, là nước sắp mất vì loạn. 2) Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đóng sao Ngang, phía bắc sao Tất, thuộc Tây cung hoặc sao Ngang. Cam thị tinh kinh nói tinh mặt trăng tại sao Ngang sao Tất, chủ hành độ của mặt trăng.

Mộc tinh : Tức Tuế tinh. Trong thuyết Ngũ hành, Tuế tinh là hành tinh phương đóng trong ngũ phương, là tinh của Mộc trong ngũ hành. Xem mục Tuế tinh.

Hỏa tinh : Tức Huỳnh Hoặc. Trong thuyết Ngũ hành, Huỳnh Hoặc là hành tinh phương nam trong ngũ phương, là tinh của Hỏa trong ngũ hành. Xem mục Huỳnh Hoặc.

Thổ tinh : Tức sao Điền. Trong thuyết Ngũ hành, sao Điền là hành tinh phương trung ương trong ngũ phương, là tinh của Thổ trong ngũ hành. Xem mục Điền tinh.

Kim tinh : Tức Thái Bạch. Trong thuyết Ngũ hành, sao Kim là hành tinh phương tây trong ngũ phương, là tinh của Kim trong ngũ hành. Xem mục Thái Bạch.

Thuỷ tinh: Tức sao Thần. Trong thuyết Ngũ hành, sao Thần là hành tinh phương bắc trong ngũ phương, là tinh của Thủy trong ngũ hành. Xem mục Thái Bạch.

Tuế tinh: Tức Mộc tinh . Còn gọi là Thái Tuế, Thái Âm, Nhiếp Đề, Trung Hoa, sao ứng hoặc sao Kỷ. Một trong Ngũ tinh. Trong ngũ hành là Mộc, trong 4 mùa là mùa Xuân,

trong ngũ thường là Nhân, trong ngũ sự là Mạo. Nói "Xuân mộc phương đông" , là tượng của Thượng Đế, lại tượng Nhân chúa, chủ mùa Xuân, chủ năm, chủ ngũ cốc, chủ phương đông, chủ đất Tề, đát Ngô, chu Nhân, chủ Mạo, chủ lỗi lầm của các vua chư hầu. Nhân bị ô uế, Mạo bị mất, nghịch với lệnh mùa Xuân khí Mộc tổn, đều có điềm ở Tuế tinh. Căn cứ vào sự vận hành thuận hay nghịch, sự co giãn, sự lưu thủ, sự che phạm, màu của nó, thấy hay không thấy nó mà đoán. Màu của Tuế tinh sáng mà vàng bên trong, đoán là thiên hạ yên ổn; màu đỏ mà mọc tía, là đất nước ấy hưng vượng; màu đỏ vàng mà không sáng, là đất nước ấy được mùa lớn; màu sáng nhuận la thiên hạ đại đồng, biến màu thất thường mà vận hành vô độ, đoán là vô phúc, sao không có ánh lung linh, là chúa nổi giận, vô nhân đạo. Tuế tinh vận hành yên tĩnh, là tốt lành, mùa xuân nên bất động, nếu động là việc canh nông bị bỏ bẽ. Sao không động, là chúa nước ấy có phúc. Sao nay dừng lâu ở nước nào, thì đoán là nước ấy có đức được hưởng, được mùa lớn, không thể đánh nước đó, trong khi nước đó có thể đánh nước khác. Co lại, là nước ấy có biến, không thể dùng binh hoặc đoán là dân chúng nhiều bệnh; vận hành thuận, đoán là nhân đức gia tăng; tiến thoái hợp độ, đoán là gain tà bị áp chế. Nở ra là có chiến tranh nhưng không mất nước; co vào là nước có mối lo sắp mất, nước suy bại. Các sao Hỏa, Thổ, Thủy tụ ở Tuế tinh, đoán là nước đó hành nghĩa mà lấy được thiên hạ.

Huỳnh Hoặc: Tức Hỏa tinh. Còn gọi là Doanh Hoặc. Một trong Ngũ tinh. Là tinh của Hỏa. Ngũ Tinh chiêm viết: " Hỏa phương nam, thần của nó là Huỳnh Hoặc". Trong ngũ hành là Hỏa, trong ngũ phương la phương nam, trong bốn mùa là mùa hạ, trong ngũ thường là lễ, trong ngũ sự là Thị. Nói "Hạ hỏa phương nam" là tượng Xích Đế, tượng chấp pháp, chủ mùa ha,ï chủ phạt. Chủ Lễ, chủ Thị, chủ tang, chủ cai quản lỗi lầm của quần thần thiên hạ, chủ cai quản kiêu xa, dâm loạn, nghiệt chướng, chủ năm thành bại. Lại nói là cái lý của thiên tử, bên ngoài chủ binh mã, bên trong chủ lý chính. Mất Lễ và Thị, nghịch với lệnh mùa hạ, khí Hỏa tổn , đều có điềm ở Huỳnh Hoặc. Căn cứ vào sự vận hành thuận hay nghịch, sự co giãn, sự lưu thủ, sự che phạm, màu của nó, vị trí của nó trong các Tinh quan, tinh tú mà chiêm đoán. Thên quan thư tố ẩn viết : "Huynh Hoặc thường nhập Thái Vi vào tháng Mười, bị chế phục mà tách ra khỏi hàng tinh tú, cai quản vô đạo, ra vào vô phương" . Khi ra ắt có binh đao, khi vào ắt binh mã giải tán. Nó nhập vào Tinh quan nào, thì vùng đất tương ứng có loạn, có giặc dã, bệnh tật, chết chóc, đói khát, tai ương. Nếu mọc sừng mà sừng dao động lúc sang phải khi sang trái, lúc nhô về phía trước, khi chĩa ra phía sau, thì tai ương càng trầm trọng. Nếu xoay vòng khi ngắn khi dài, thì đoán là có chết chóc, giặc dã, có họa mất đất. Nhập vào Tinh quan tinh tú nhanh thì họa ập đến nhanh, nhưng không lâu; chậm thì họa đến chậm nhưng lớn và kéo dài. Màu đỏ mà sáng rực, vận hành nghịch thành hình cái móc câu, thì chiến sự ác liệt, quân bị vây khốn. Mọc sừng nhọn như lưỡi dao, thì vua không ra khỏi cung vì có phục binh; sừng lớn là dân oán hận, vua hoảng sợ, không có loạn thần thì có đại tang, dân khi dễ quan, quan khi dễ vua. Huỳnh Hoặc nhập, thủ, phạm các sao Thái Vi , Hiên Viên, Phòng, Thất, Tâm... đều đoán là vua bị nguy. Ngũ tinh tụ ở ngôi sao mà Huỳnh Hoặc đang trực, đoán là vùng đất tương ứng hưng thịnh về Lễ và Thị.

Điền tinh: Tức Thổ tinh, sao Thố. Một trong Ngũ tinh. Là tinh của Thổ. Ngũ tinh chiêm viết : "Trung ương thổ, thần của nó là sao Điền" . Trong ngũ hành là Thổ, trong ngũ phương là trung ương, trong bốn mùa là trưởng hạ, trong ngũ thường là Tín, trong ngũ sự là Tư (suy xét). Nói " Thổ trưởng hạ trung ương" là tượng Hoàng Đế, lại là tượng nữ chúa thiên hạ hoặc tượng thiên tử. Chủ mùa trưởng hạ, chủ trung ương, chủ Tín, chủ Tư, chủ Đức, chủ

an nguy tồn vong; chu cai quản lỗi lầm của nữ chúa thiên hạ. Nhân - nghĩa - lễ - trí lấy Tín làm chỉnh; mạo - ngôn - thị - thính lấy Tư làm chủ, nên bốn thứ kia mất chủ mất chính đều có điềm báo ở sao Điền. Căn cứ vào sự vận hành thuận hay nghịch, sự co giãn, sự lưu thủ, sự che phạm, màu của nó, vị trí của nó trong các Tinh quan, tinh tú mà chiêm đoán. Điền tinh di động, giãn ra là vương hầu không yên, co vào là quân đội không tuân lệnh. Cư ở tinh tú nào thì vùng đất tương ứng có nữ chúa, có phúc, không thể chinh phục. Nếu tản xa, là mất đất hoặc nữ chúa lo phiên. Cư ở tinh tú nào lâu, thì vùng đất tương ứng có phúc dày, cư không lâu thi phúc mỏng. Sao chấn động mạnh, đoán là thiên tử thất tín. Ngũ tinh tụ ở ngôi sao mà sao Điền đang trực, đoán là vùng đất tương ứng hưng thịnh về chữ Tin, được thiên hạ kính nể.

Thái Bạch : Tức Hỏa tinh, sao Hỏa. Còn gọi là Thái Bạch Kim tinh, Khải Minh, Trường Canh, Đại Chính, Huỳnh tinh, Quan tinh, Lương tinh, Diệt tinh, Đại Khí, Đại Ai hoặc Đại Tang. Một trong Ngũ tinh. Là tinh của Kim. Ngũ tinh chiêm viết: "Kim phương tây, thần của nó là Thái Bạch" . Trong ngũ hành là Kim, trong ngũ phương là phương tây, trong bốn mùa là mùa thu, trong ngũ thường là Nghĩa, trong ngũ sự là Ngôn (lời lẽ). Nói "Thu kim phương tây, là tượng Bạch Đế, hoặc con của Bạch Đế, hoặc đại thần, đại tướng. Chủ mùa thu, chủ sát, chủ binh mã, chủ phương tây, chủ ngày, chủ Nghĩa, chủ ngôn ngữ. Mất nghĩa, lỡ lời, tổn khí Kim, đều có điềm báo ở Thái Bạch. Căn cứ vào sự vận hành thuận hay nghịch, sự co giãn, sự lưu thủ, sự che phạm, màu của nó, vị trí của nó trong các Tinh quan, tinh tú mà chiêm đoán. Thái Bạch tiến thoái là tượng dùng binh, hiện ra từ phương tây mà chệch choạc, đoán là dân thiểu số thua trận; hiện ra từ phương đông mà chệch choạc, đoán là Trung Quốc thua trận; đáng lẽ xuất nhập lại không xuất nhập, đoán là thiên hạ phục binh; nhập, là binh mã ở bên ngoài; đáng xuất không xuất, đáng nhập không nhập, là thiên hạ có chiến tranh, có nước bị tàn phá; xuất đúng lúc là đất nước hưng thịnh. Cư ở đâu lâu thì nước ấy có lợi; cư không lâu thì hung. Xuất từ tây sang đông, đoán là nước ở phương chính tây cát lợi, xuất từ đông sang tây, đoán là nước ở phương chính đông cát lợi. Tranh sáng với mặt trời, đoán là nước mạnh hóa yếu, nước yếu hóa mạnh , nữ chúa hùng cường. Sao nhỏ mọc sừng mà sừng dao động, là có chiến tranh; xuất mà ban đầu to sau nhỏ dần, là binh mã yếu, xuất mà ban đầu nhỏ sau to dần, là binh mã mạnh; xuất ở vị trí cao là cát, ở vị trí thấp là hung. Cùng phương vị với mặt trời, là vương hầu không yên, dùng binh tiến thì cát, lui thì hung. Ngược phương vi với mặt trời, là vương hầu lo buồn, dùng binh lùi là cát, tiến là hung. Dùng binh thì căn cứ theo tượng Thái Bạch, Thái Bạch vận hành nhanh thì hành binh nên mau chóng, chậm thì nên hành binh chậm lại; Thái Bạch mọc sừng thì nên quyết chiến. ánh sao dao động nhanh, thì dùng binh nhanh; sao tròn mà tĩnh thì nên tĩnh. Hành binh theo hướng mũi sừng là cát, ngược lại là hung. Sao đỏ mà mọc sừng là có chiến tranh; trắng mà mọc sừng là có tang, đen, tròn mà mọc sừng là có lo buồn, có lũ lụt; xanh, tròn mà mọc sừng nhô là có lo buồn, có việc dụng mộc; vàng, tron mà sừng không nhọn là có việc dụng thổ, là được mua; sao to, tròn, vàng nhuận là cát; lớn, tròn, đỏ, đoán là binh mạnh nhưng không đánh. Ngũ tinh tụ ở ngôi sao mà Thái Bạch đang trực, đoán là vùng đất trắng, ứng có thể dùng binh mà lấy thiên hạ.

Thần tinh : Tức Thuỷ tinh , sao Thủy. Còn gọi là Thiên Thố, Thố, Tiểu Chính, An Chu tinh, Tế Sảng, Năng Tinh, Câu tinh hoặc Tiểu Bạch. Một trong Ngũ tinh. Là tinh của Thuỷ. Ngũ tinh chiêm viết : " Thủy phương bắc, thần của nó là Thần tinh" . Trong ngũ hành là thủy, trong ngũ phương là phương bắc, trong bốn mùa là mùa đông, trong ngũ thường là Trí, trong ngũ sự là Thính (nghe ). Nói "Thủy mùa đông phương bắc" là tượng Hắc Đế, hoặc con của Hắc Đế. Còn là tượng Tể tướng, hoặc khí sát phạt, tượng chiến đấu. Chủ mùa đông, chủ bốn mùa, chủ phương bắc, chủ nước Yên, nước Triệu, chủ Thính. Mất Trí, mất Thính, nghịch với lệnh mua đông, tổn khí Thủy, đều có điềm báo ở sao Thần. Căn cứ vào sự vận hành thuận hay nghịch, sự co giãn, sự lưu thú, sự che phạm, màu của nó, vị trí của nó trong các Tinh quan, tinh tú mà chiêm đoán. Tiết Xuân Phân (tháng Hai), buổi tối xuất hiện ở phía đông sao Khuê, sao Vị, chủ nước Tề. Tiết Hạ Chí (tháng Sáu), buổi tối xuất hiện ở đông sao Tỉnh, sao Quỉ, chủ nước Sở. Tiết Thu Phân (tháng Tám), buổi tối xuất hiện ở đông sao Giốc, sao Cang, sao Đê, chủ nước Hàn. Tiết Đông Chí (tháng Mười Một), buổi tối xuất hiện ở phương đông sao Vĩ, sao Ki, sao Đẩu, sao Ngưu, chủ Trung Quốc. Thấy sao này, đoán là có sát phạt, là tượng chiến đấu. Đáng lẽ thấy sao mà không thấy, là quân truy đuổi ở bên ngoài mà không đánh; mùa nào không xuất hiện là mùa ấy không bình thường; bốn mùa không xuất hiện, là thiên hạ đói khát. Xuất hiện đúng lúc, màu trắng là có hạn hán, màu vàng là ngũ cốc được mùa, màu đỏ là có chiến sự, màu đen là có lũ lụt. Xuất hiện ở phương đông, sao lớn màu trắng, là có binh mã ở bên ngoài, thường ở phương đông (màu đỏ) đoán là Trung Quốc thắng trận. Ở phương tây mà màu đỏ, đoán là có lợi cho nước ngoài. Sao Thần có 5 màu, mùa xuân màu vàng xanh; mùa hạ màu trắng đỏ; mùa thu màu trắng xanh; mùa đông màu vàng nhạt; nếu mùa ấy màu khác đi, đoán là thời tiết không thuận. Mùa xuân không thấy nó, là có gió lớn; mùa hạ không thấy nó, là có hạn hán 16 ngày, có nguyệt thực, mùa thu không thấy nó, là có chiến sự, mùa xuân năm sau sẽ ngắn; mùa đông không thấy nó, là có mưa dầm 16 ngày, mùa hạ năm sau sẽ ngắn. Lại nói sao Thần xanh tròn là có nỗi lo, trắng tròn là có tang, đỏ tròn là không bình thường, đen tròn là cát lợi; mọc sừng đỏ là có quân nước ngoài xâm phạm bờ cõi; mọc sừng vàng là có tranh chấp lãnh thổ, mọc sừng trắng là có tang khóc ai oán. Sao Thần xuất hiện ở khoảng giũa hai sao Phòng và Tâm, màu vàng mà nhỏ, là tượng động đất. Ngũ tinh tụ ở ngôi sao mà Thần tinh đang trực, đoán là vùng đất tương ứng có thể dùng luật pháp mà cai trị thiên hạ. Còn đoán theo sao Thái Bạch. Xem thêm mục Thố quá Thái Bạch.

Tuế tinh chu : Chu kỳ vận hành của Tuế tinh trên trời. Mỗi chu kỳ gọi là một Chu thiên. Trung Quốc cổ đại cho rằng mỗi chu kỳ Tuế tinh là 12 năm, đồng thời chia Chu thiên từ tây bang đông dọc theo Xích đạo ra làm 12 phần, gọi là Thập nhị thủ, dùng để biểu thị vị trí Tuế tinh. Xem mục Thập nhị thứ, Thập nhị tuế.

Thập nhị tuế : Tên gọi dùng để biểu thị vị trí vận hành của Tuế tinh. Tù cuối thời Tây Hán trở về trước, dùng 12 địa chi phối với 12 tháng trong năm để biểu thị vị trí của Tuế tinh từng tháng. Tuế tinh mỗi tháng đều có một tên gọi, nên gọi là Thập nhị tuế. Định ra vào khoảng đầu thời Chiến Quốc. Về sau dần dần người ta dùng Thập nhị thức để gọi thay. Tên của Thập nhị tuế theo ghi chép trong Sử ký. Hán thu là : Nhiếp Đề Cách Tuế, xuất hiện tháng giêng, Tuế tinh cư ở Sửu, tại Đẩu, Ngưu; Thiền Yên Tuế, xuất hiện tháng Hai, Tuế tinh cư ở Tý, tại Nữ, Hư, Nguy; Chấp Từ Tuế, xuất hiện tháng Ba, Tuế tinh cư ở Hợi, tại Thất, Bích; Đại Hoang Lạc Tuế, xuất hiện tháng Tư, Tuế tinh cư ở Tuất, tại Khuê, Lâu; Đôn Tường Tuế, xuất hiện tháng Năm, Tuế tinh cư ở Dậu, tại Vị, Ngang, Tất; Diệp Hiệp Tuế, xuất hiện tháng Sáu, Tuế tinh cư ởû Thân, tại Chủy, Chẩn; Đồn Than Tuế, xuất hiện tháng Bảy, Tuế tinh cư ở Mùi, tại Tỉnh, Qui; Tác Ngạc Tuế, xuất hiện tháng Tám, Tuế tinh cư ở Ngọ, tại Liễu, Tinh, Trương; Yêm Mậu Tuế, xuất hiện thảng Chín, Tuế tinh cư ở Tỵ, tại Dực, ; Đại Uyên Hiến Tuế, xuất hiện tháng Mười, Tuế tinh cư ở Thìn, tại Giốc, Cang; Khốn Đôn Tuế, xuất hiện tháng Mươi Một, Tuế tinh cư ở Mão, tại Đê, Phong, Tam; Xích Bị Nhược Tuế, xuất hiện tháng Chạp, Tuế tinh cư ở Dần, tại Vĩ, Ki. Sự "thất thư" khi xuất hiện Tuế tinh 12 tháng đều có chiêm đoán.

Thập nhị thứ: Trong quan sát dùng để xác nhận sự vận hành và vị trí của mặt trời, mặt trăng và Ngũ tinh. Trung Quốc cổ đại đem Chu thiên (vòm trời) từ tây sang đông dọc theo Xích đạo hoặc Hoàng đạo chia thành 12 phần, gọi là "Thập nhị thứ" . Thoạt đầu phân chia theo Xích đạo, từ đời Đường trở đi thì phân chia theo Hoàng đạo Định ra vào khoảng đầu hoặc giữa thời Chiến Quốc. Cuối thời Tây Hán thì Lưu Khâm khẳng định hẳn. Hán thư. Luật lịch chí hòan tất tiêu chí này, đặt tên cho 12 thứ là Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tô Tư, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Thẩm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc. Chung liên hệ với 24 tiết khí, như khởi điểm của Tinh Kỷ là Đại Tuyết, trung ương tương đương tiết Đông Chí, các thứ còn lại cứ thế mà suy ra. Mọi thứ đều tương ứng với vị trí của một tinh tú nhất định (do độ sai lệch hàng năm luôn thay đổi), đồng thời dùng để tham khảo sự phân dã của bầu trời. Cuối đời Minh, sau khi Babilon sáng tạo 12 cung Hoàng đạo, thì lấy tên 12 thứ mà dịch 12 cung ấy, ví dụ cung Ma Hạt dịch là cung Tinh Kỷ. Các cung đều phân chia theo kinh độ Hoàng đạo, khởi điểm của chúng đổi theo với Trung khí, như đem khởi điểm của cung Tinh Kỷ đổi thành điểm Đông Chí. Về sự ra đời của 12 thứ, có các quan điểm khác nhau. Thông thường cho rằng là do 12 Chu thiên Tuế tinh mà ra, nhằm xác nhận vị trí của Tuế tinh mỗi năm.Từ Hán thư trở về trước, thường dùng Nhị thập bát tú hoặc 12 Thần biểu thị vị trí Tuế tinh, đồng thời dùng 12 Tuế để gọi tên chúng. Thiên quan thư gọi 12 Tuế là Nhiếp Đề Cách Tuế, Thiền Yên Tuế, Chấp Từ Tuế, Đại Hoang Lạc Tuế, Đồn Tường Tuế, Diệp Hiệp Tuế, Đồn Than Tuế, Tạc Ngạc Tuế, Uyên Mậu Tuế, Đại Uyên Hiến Tuế, Khốn Đôn Tuế, Xích Bị Nhược Tuế. Các Tuế đều biểu thị phương vị Tuế tinh mỗi tháng trong năm. Thời Hán thư dùng 12 thứ để gọi thay. Theo đó cổ nhân lai dùng để quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và sự sớm muộn của các tiết khí. Khi chiêm đoán, thường coi việc thất thứ của Ngũ tinh là điềm tai họa.

Ngũ tinh trực thần : hoặc gọi là Ngũ hành trực tú. Độ số vận hành trong một năm nhất định cua Ngũ tinh hoặc tinh tú. Ngũ tinh vận hành men theo Hoang đao, tốc độ là đường vận hành của mỗi tinh tú không giống nhau, mỗi tinh tú có chu kỳ hội hợp riêng của mình. Từ đó suy đoán rằng Ngũ tinh vào những năm khác nhau đều có đó số hoặc vị trí tinh tú tương ứng của chúng. Quan hệ vị trí vận hành đó của Ngũ tinh gọi là "Ngũ tinh hành độ". Độ số vị trí hoặc tinh tú tương ứng mỗi năm thì gọi là "Ngũ tinh trực thần" hoặc "Ngũ tinh trực tứ" . Khi trực tú, đất nước do ngôi sao nào biểu tượng sẽ là nước đắc vị Ngũ tinh. Đắc vị Tuế tinh, thì nước ấy được Đức, đắc vị Huỳnh Hoặc là đắc Lễ, đắc vị Điền tinh là có phúc, đắc vị Thái Bạch là binh mã hùng mạnh, đắc vị Thần tinh là được âm dương hài hòa. Khi trực tú hoặc trực thần, nếu Ngũ tinh bất động, là có đức, nêu co giãn là không có đức. Trong chiêm đoán, trước hết coi sự vận hành, thứ đến màu sắc, cuối cùng là vị trí. Trong Ngũ tinh, Tuế tinh chủ sao Thất Huỳnh Hoặc chủ sao Tâm, Điền tinh chủ Nam Đẩu, Thái Bạch chủ sao Cang, Thần tinh chủ sao Tinh. Mỗi sao tương ứng là miếu của Ngũ tinh. Ngũ tinh hội hợp ở sao nào, hoặc ở sao nào đang trực, thì gọi là "Ngũ tinh theo mà tụ ở sao đó", đoán là đất nước tương ứng lấy đức cai trị thiên hạ. Trong đó Tuế tinh là Nghĩa, Huỳnh hoặc là Lễ, Điền tinh là Trọng, Thái Bạch là Binh, Thần tinh là Pháp.

Khải Minh : Tức Thái Bạch. Sao Thái Bạch xuất hiện từ phương đông, gọi Khải Minh. Thiên quan thư tố ấn dẫn Hàn Thi viết: "Sao Thái Bạch xuất hiện từ phương đông, gọi là Khải Minh, lúc hoàng luôn thấy ở phương tây gọi là Trường Canh". Tôn Viêm chú giải Nhĩ Nhã viết: Sao Thái Bạch xuất hiện ở phương đông, cao 3 trượng, gọi là Khải Minh; lúc hoàng hôn thấy ở phương tây, cao 3 xá, gọi là Thá; Bạch". Về chiêm đoán, xem mục Thái Bạch.

Thố quá Thái Bạch: Thuật ngữ chiêm tinh đối với Ngũ tinh. Nói về việc quan sát sao Thần vượt qua sao Thái Bạch . Cổ văn viết: "Trung gian có thể đặt một thanh kiếm, nên có đánh nhau nhỏ mà khách thắng" . Sao Thần và Thái Bạch thường gộp lại khi chiêm đoán. Căn cứ vào tượng để đoán có các trường hợp : cùng xuất hiện, xuất hiện hay không xuất hiện, có theo nhau hay không, cùng nhập, ngang nhau, cư ở trước hay sau nhau, ở bên phải hay bên trái... Ví dụ, cùng xuất hiện ở phương đông, đâu có màu đỏ và mọc sừng thì nứớc ngoài đại bại: Trung Quốc tháng; cùng xuất hiện ở phương tây, đều có màu đỏ và mọc sừng thì nước ngoài được lợi. Sao Thần không xuất hiện, Thái Bạch là khách, xuất hiện thì Thái Bạch là chủ; xuất hiện nhưng không theo Thái Bạch, là nước ngoài có quân nhưng không đánh, xuất hiện ở phương đông, còn Thái Bạch ở phương tây hoặc ngược lại, là hai mẹ con mỗi người một nơi, không theo nhau, không hòa đồng, cũng đoán là nước ngoài có quan mà không đánh. Sao Thần nhập Thái Bạch từ trên đè xuống, đoán la giết quân chém tướng, quân khách thắng; xuất hiện từ bên dưới lên, là khách mất đất. Sao Thần đến chống Thái Bạch mà Thái Bạch không bỏ đi, là tướng lĩnh tử trận. Sao Thần vòng quanh Thái Bạch, đoán là đôi bên đánh nhau to, khách thắng. Cư ở phía trước Thái bạch, là bãi quân, xuất hiện ở bên trái, là đánh nhỏ; ở sát Thái Bạch, là có hàng vạn quân đánh nhau, chủ chết; ở bên phải, cách Thái Bạch 3 thước, là binh mã hẹn quyết chiến.

Nhật thực: Hiện tượng mặt trăng che lấp một phần hoặc toàn bộ mặt trời. Vào ngày sóc, mặt trăng vận hành đến khoảng giữa mặt trời và trái đất, nếu mặt trăng che khuất mặt trời, sẽ xuất hiện nhật thực. Có 3 loại nhật thực: toàn phần, một phần và hoàn thực (ăn bên rìa). Ở khu vực trái đất bị mặt trăng che lấp không thấy mặt trời, gọi là nhật thực toàn phần; chỉ nhìn thấy một phần mặt trời, gọi là nhật thực một phần, chỉ thấy viền mép mặt trời, gọi là hoàn thực. Phàm nhật thực, cổ nhân đều cho rằng đó là âm lấn dương, tượng bề tôi lấn vua, đoán là mất nước. Đồng thời, căn cứ vào mức độ mặt trời bi che lấp nhiều ít, ở vùng nào, mà đoán . Nhật thực bị coi là tai dị, là điềm gở. Đạo vua bất chính, hoặc vua yếu, bề tôi mạnh, phản chúa, thì có nhật thực. Mật độ nhật thực lớn thì họa lớn, nhỏ thì họa nhỏ. Lại nói nhật thực toàn phần chủ nhân sự, nhật thực không toàn phần chủ địa vị bề tôi. Phàm nhật thực đều là tượng đức kém, nên cần tu đức. Lại nói nhật thực vào ngày Giáp ất thì đoán về nước ngoàim vào ngày Bính, Đinh thì đoán về Giang, Hoài và hải đảo; vào ngày Mậu, Kỷ thì đoán vè Trung Châu, 2 sông Hoàng Hà, Tế Thủy; Vào ngày Canh, Tân thì đoán về phía tây dãy Hoa Sơn, vào ngày Nhâm Quý thì đoán về phía bắc dãy Hằng Son.

Nhật vựng : Hiện tượng khí tạo thành quầng, tán ở mặt trời, hoặc gần quanh mặt trời. Cổ nhân dùng khí mà luận đoán, gọi là quầng khí. Chủ chiến sự. Khi đoán thì căn cứ vào sự hình thành quầng khí nhanh hay chậm, lớn hay nhỏ, dài ngắn dày mỏng, gần hay xa mặt trời, có bao quanh mặt trời hay không mà xét. Quầng khí biểu thị khí thế hoặc tương quan quân đội đôi bên giao chiên, gần thắng xa, dày thắng mỏng, lớn thắng nhỏ, dài thắng ngắn, nhiều thắng ít, có thắng không, thực thắng hư, nhanh thắng chậm, nhuận thắng khô. Đoán chiến sự thường căn cứ vào màu sắc. Quầng khí sáng mà lâu, trong đỏ ngoài xanh, đoán là nước ngoài thắng; trong xanh ngoài đỏ là Trung Quốc thắng; trong vàng ngoài xanh đen hoặc trong trắng ngoài xanh, trong xanh ngoài vàng, là Trung Quốc thắng; ngoài vàng trong xanh đen; hoặc ngoài trong trong xanh, trong vàng ngoài xanh, là nước ngoài thắng. Quầng khí vây quanh, xem dày về hướng nào mà đoán. Không vây quanh, mà chỉ bao một nửa, thì phía bao sẽ thắng. Khi đoán còn xem quầng khí có tai (vòi) hay không?

Nguyệt thực : Hiện tượng mặt trăng bị trái đất che lấp nên không nhìn thấy toàn bộ hoặc một phần. Vào ngày vong, trái đất ở giữa mặt trơi và mặt trăng, bóng trái đất che lấp mặt trăng nên có nguyệt thực. Có hai loại nguyệt thực : toàn phần va mọt phần. Nguyệt thực toàn phần là trái đất che lấp toàn bộ mặt trăng, nguyệt thực một phần là chỉ che lấp một phần mặt trăng. Cổ nhân cho rằng nguyệt thực là hiện tượng không bình thường, nhưng xảy ra nhiều hơn so với nhật thực. Nguyệt thực chú bề tôi hoặc khanh tướng, chủ hình phạt. Khi chiêm đoán, căn cứ vào mức độ mặt trăng bị che lấp nhiều ít. Nguyệt thực toàn phần chủ địa vị vua chúa, đại nhân có nỗi lo, hoặc đất nước tương ứng có tang quí nhân. Nguyệt thực một phần chỉ bề tôi, khanh tướng có nỗi lo. Lại nói khi hình phạt của vua chúa không nghiêm minh, sẽ có nguyệt thực . Lại nói nhật thực vào ngày Giáp, ất thì đoán về nước ngoài, vào ngày Bính, Đinh thì đoán về Giang, Hoài và hải đảo; vào ngày Mậu, Ky thì đoán về Trung Châu, 2 sông Hoàng Hà, Tế Thúy; vào ngày Canh, Tân thì đoán về phía tây dãy Hoa Sơn; vào ngày Nhâm Quý thì đoán về phía bắc dãy Hằng Sơn.

Nguyệt vựng : Hiện tượng khí tạo thành quầng, tán ở mặt trăng hoặc gần quanh mặt trăng. Cổ nhân dùng khí mà luận đoán, gọi là quầng khí. Chủ chiến sự. Khi đoán thì giống như Nhật vựng. Xem mục Nhật vựng.

Nguyệt thực liệt tinh: Con gọi là Nguyệt thực liệt tú. Chỉ hiện tượng mặt trăng che lắp hằng tinh hoặc tinh tú nên không nhìn thấy chúng. Đoán là vùng đất tương ứng có nỗi lo. Nếu che lấp một góc lớn, thì vua chúa chết, che sao Tâm thì có nội loạn.

Nguyệt thực ngũ tinh: Chỉ hiện tượng mặt trăng che lấp Ngũ tinh nên không nhìn thấy chúng. Có các trường hợp, mặt trăng che lấp, hoặc Tuế tinh, hoặc Huỳnh Hoặc, hoặc Điền tinh, hoặc Thái Bạch, hoặc Thần tinh. Mặt trăng che lấp Tuế tinh là có nạn đói. Mặt trăng che lấp tinh là Huỳnh Hoặc là có loạn. Mặt trăng che lấp Điền tinh là có chém giết. Mặt trăng che lấp Thái Bạch là cường quốc đánh. Mặt trăng che lấp Thần tinh là có nữ loạn. Những tai họa đó rơi vào đất nước tương ứng.

Ngũ tinh nhập nguyệt: Còn gọi là Ngũ tinh thực nguyệt. Chỉ hiện tượng Ngũ tinh nhập vào mặt trăng, song vẫn nhìn thấy. Phàm ngũ tinh nhập nguyệt, đoán là đất nước tương ưng có khanh tướng bị loại bỏ. Thái Bạch nhập mặt trăng là sắp có họa chém giết.

Tinh hợp : Chỉ hiện tượng Ngũ tinh cùng lúc chỉ ở một vị trí minh tú. Có 4 trường hợp Nhi tinh hợp, Tam tinh hợp, Tứ tinh hợp và Ngũ tính hợp. Tốc độ và đường vận hành của mỗi một trong Ngũ tinh không giống nhau, nhưng thường lại gặp nhau ở một chỗ. Cổ nhân căn cứ vào vị trí gặp nhau mà chiêm đoán theo thuyết ngũ hành.

Nhị tinh hợp: Hiện tượng hai sao trong Ngũ tinh gặp nhau. Sao Mộc gặp sao Thổ, đoán là có nội loạn, đói khát, chớ gây chiến ma đại bại. Sao Mộc gặp sao Thủy, là đổi mưu thay việc. Sao Mộc gặp sao Hỏa, là đói khát, hạn hán. Sao Mộc gặp sao Kim là có mưu đồ tụ tập dân chúng, nếu ánh sao chọi nhau, ắt có nội loạn, quân đội bại trận. Kim là âm, mộc là dương, kim nam mộc bắc, năm ấy được mùa 1ớn. Kim bắc mà mộc nam, thì năm ấy mùa màng có thể được hoặc mất. Hỏa gặp kim là luyện, là tang, không nên hành sự, dùng binh dễ bại. Hỏa gặp thuỷ là quân thua trận. Hỏa gặp thổ là đáng lo, yêu nghiệt dấy lên đói khát, bại trận, bị vây khốn, đại bại. Thủy gặp thổ là có phục binh, không nên dùng binh; hoặc có mưu đồ thay đổi, có hạn hán rời khỏi chỗ là mất đất, nhập vào chỗ là được đất, Thổ gặp kim là bệnh tật, có dân chúng tụ tập, có mưu phản, mất nước. Thổ gặp mộc là đất nước đói khát. Thủy gặp kim là có mưu đồ thay đổi, có họa binh đao.

Tam tinh hợp : Hiện tượng ba ngôi sao trong Ngũ tinh gặp nhau. Đoán là đất nước tương ứng với nơi có 3 sao gặp nhau sẽ xảy ra chiến sự trong ngoài, không nên đi, trời sẽ thay đổi vương triều.

Tứ tinh hợp: Hiện tượng bốn ngôi sao trong Ngũ tinh gặp nhau. Đoán là có càn quét lớn. Đoán là đất nước tương ứng với nơi có 4 sao gặp nhau sẽ có chiến tranh, quân tử lo sợ, tiểu nhân lưu tán.

Ngũ tinh hợp: Hiện tượng năm ngôi sao trong Ngũ tinh gặp nhau. Đoán là đất nước tương ứng với nơi có sao trực sẽ làm chủ thiên hạ. Tuế tinh trực tú thì gọi là Ngũ tinh theo mà hợp, người làm chủ dùng Nghĩa mà làm vua thiên hạ. Huỳnh Hoặc, Điền tinh, Thái Bạch và Thần tinh trực tu, thì người làm chu lần lượt dùng Lễ, Trọng, Binh và Pháp mà làm vua thiên hạ. Ngũ tinh hợp đều là Trung Quốc cát lợi, là tu đức, có đức được bốn phương ủng hộ, con cháu hưng vượng; kẻ không có đức sẽ gặp họa, phải rời bỏ đất nước, mất hết tông miếu. Ngũ tinh lớn thì sự việc trọng đại, nhỏ thì sự việc nhỏ. Sử liệu có chép khi Hán Cao Tổ vào kinh đô nước Tần mà nước Tần tiêu vong, lúc đó "Ngũ tinh hợp mà tụ ở sao Tỉnh". Hán thư. Cao đế ký chép : "Năm Hán nguyên niên, mùa đông tháng mười, Bái Công lên ngôi" . Theo khảo cứu của người thới nay, thì năm thứ nhất đời Hán (năm 206 trước Công nguyên, tháng 7, tiết Lập Thu, Ngũ tinh đẩu ở phía tây mặt trời, đồng thời vào lúc sáng sớm nhìn thấy chúng tại bầu trời phía đông và phía nam. Vào thời gian đó, Ngũ tinh tuy chưa cư ở sao Tỉnh, nhưng Tuế tinh đã nhập sao Tỉnh, bốn ngôi sao kia đều tiến về phía Tuế tinh, nên cũng có thể coi như Ngũ tinh cư ở sao Tỉnh. (Xem Trung Quốc thiên văn học sử của Trần Tôn Vi, quyển 3).

Ngũ tinh sắc : Màu sáng của Ngũ tinh. Khi chiêm đoán, màu sang của mỗi sao đúng với màu chính của nó và ứng hợp với tiết khi là cát lợi. Đổi mau mà hại cho sự vận hành của sao là hung. Phàm màu của Ngũ tinh, hễ trắng là tang, là hạn hán, đỏ mà bên trong không đều là binh mã, lo buồn; xanh là lũ lụt, đen là dịch bệnh, nhiều người chết; vàng là cát lợi. Sao mọc sừng mà màu đỏ, là quân địch xâm phạm bờ cõi nước ta. Sao mọc sùng mà màu vàng, là có sự tranh chấp đất đai. Sao mọc sừng mà màu trắng, là có tang. Sao mọc sừng mà màu xanh, là có chiến sự, lo buồn. Sao mọc sừng mà màu đen, là có lũ lụt. Ngũ tinh cùng màu, là thiên hạ thái bình, yên vui được mùa.

Doanh thúc : Chủ yếu chỉ hiện tượng co giãn khi vận hành của Ngũ tinh. Quan niệm của chiêm tinh học cổ đại về hai hiện tượng tương phản này không giống nhau. 1) Chỉ sự tiến lùi khi vận hành của Ngũ tinh. Thiên quan thư: "(Tuế tinh) có xu hướng tiến về phía trước gọi là doanh, lùi về phía sau gọi là thúc" , (Điền tinh) thất thứ mà tiến lên qua hai, ba tinh tú gọi là doanh; thất thứ mà lùi xuống dưới hai, ba tinh tú gọi là thúc" . Tuế tinh doanh" (giãn), đoán là đất nước tương ứng dùng binh; "thúc" (co), đoán là nước ấy có lo buồn, khuynh bại, sắp mất. Điền tinh giãn, đoán là có chúa, mệnh không thành, hoặc có lụt lớn, hoặc là vua không yên, co, đoán là thân thích của hoàng hậu có chuyện, hoặc co động đất; hoặc có quân không thần phục. 2) Chỉ sự xuất hiện sớm, hay muộn của ngũ tinh. Hán thư. Thiên văn chí : "Phàm Ngũ tinh xuất hiện sớm là doanh, doanh là khách. Xuất hiện muộn là thúc, thúc là chủ". 3) Lấy nghĩa giãn ra, chỉ hương vị của sao Thái Bạch so vơi mặt trời. Thiên quan thư : "Nhật phương nam kim cư kỳ bắc, nhật phương bắc kìm cư kỳ nam, viết doanh, nhật phương nam kim cư kỳ bắc, nhật phương bắc kim cư kỳ nam, viết thúc" , trong đó Trịnh Huyền chú giải chữ "phương" nghĩa là hướng. Thái Bạch giãn ra, đoán là vua không yên, dùng binh tiến thì cát, lùi thì hung. Thái Bạch co vào, đoán là vua lo buồn, dùng binh tiến thì hung, lùi thì cát.

Thuận hành : Hiện tượng vận hành của Ngũ tinh. Khi Ngũ tinh di chuyển từ tây sang đông thì gọi là thuận hành. Tương ứng với nó, khi thuận hành nhập vào sao nào, tức là tư phương tây hoặc cứa tây của tinh tú nhập, thì gọi là thuân nhập. Trai lai thì gọi là nghịch hành hoặc nghịch nhập. Khi thuận hành thì tốc độ nhanh, nghịch hành thì tốc độ chậm. Quan sát Ngũ tinh như thế, thì nói là chúng đắc hành, đoán là chính thể hợp lẽ thường. Còn nhập thuận và nhập nghịch, thì xem chúng nhập vào tinh tú nào mà đoán.

Nghịch Hành: Hiện tượng vận hành của Ngũ tinh. Khi Ngũ tinh di chuyển từ đông sang tây thì gọi là nghịch hành. Tương ứng với nó, khi nghịch hành nhập vào sao nào, tức là từ phương đông hoặc cửa đông của tinh tú nhập, thì gọi là nghịch nhập. Trái lại gọi là thuận hành hoặc thuận nhập. Khi nghịch hành thì tốc độ chậm, thuận hành thì tốc độ nhanh. Quan sát Ngũ tinh như thế, thì nói là chúng đắc hành, đoán là chỉnh thể hợp lẽ thường. Còn nghịch nhập và thuận nhập, thì xem chúng nhập vào tinh tú nào mà đoán.

Loạn hành: Hiện tượng vận hành của Ngũ tinh trái với lệ thường về đường và hành độ. Cổ nhân cho rằng trời có đạo thường, sự vận hành, lưu dừng, nhanh chậm thuận nghịch, độ số của Ngũ tinh cũng có thường lệ của chúng. Hợp với thường lệ, thì chính thể hợp lẽ thường. Ngược lại, sai độ số, biến đổi tiến lùi bất thường, là loạn hành. Khi ngũ tinh loạn hành sẽ sinh ra yêu tinh, yêu khí, kiểu như sao Chổi, Thiên Thỉ, là những hiện tượng tai dị, tai ương, đoán là mất chính thể, mất nước, đói khát, chiến tranh, tang tóc.

Thủ phạm: Còn gọi là phạm thủ. Chỉ hai hiện tượng Ngũ tinh trong khi vận hành lại dừng giữ (thủ) và xâm phạm (phạm) một tinh tú nào đó. Ngũ tinh dừng lại bất động ở một tinh tú nào đó gọi là "thủ". Ánh sáng của Ngũ tinh tiếp xúc với ánh sáng của một tinh tú hoặc hằng tinh, gọi là "phạm" hoặc "phạm thượng". Thiên quan thư tập giải: "Phạm là ánh sáng giao nhau trong vòng 7 thốn", "kẻ dưới xúc phạm gọi là phạm, đóng ở tinh tú gọi là thủ". Ánh sáng của mặt trăng và ngũ tinh giao nhau cũng gọi là phạm. Hậu hán thư: "Thời Hậu Hán An Đế nguyên sơ năm thứ nhất, ngày Kỷ Mão tháng Năm, Thần tinh phạm Tuế tinh". Quan sát hiện tượng thủ và phạm của mặt trăng, ngũ tinh là một trong những nội dung chủ yếu của thuật chiêm tinh.

Yểm tinh: Chỉ hiện tượng mặt trăng, Ngũ tinh phạm hoặc thủ đối với hằng tinh hoặc khi phạm, thủ lẫn nhau thì che lấp một phía của nhau. Khi mặt trăng, Ngũ tinh che lấp hằng tinh, khiến người ta không nhìn thấy hằng tinh, thì gọi là mặt trăng yểm hằng tinh, hoặc Ngũ tinh yểm hằng tinh. Ngũ tinh che lấp nhau, gọi là Ngũ tinh yểm nhau. Yểm có khi còn gọi là "Thực", "ăn". Quan sát hiện tượng yểm tinh của mặt trăng, Ngũ tinh là một trong những nội dung chủ yếu của thuật chiêm tinh.

Thất xá: Hiện tượng khi Ngũ tinh vận hành đáng lẽ phải rời khỏi hoặc nhập vào vị trí của một Tinh quan hoặc tinh tú nào đó, song lại không như vậy. Thiên quan thu : "(Thái Bạch) đáng lẽ rời khỏi không rời, đáng lẽ nhập vào không nhập, gọi là Thất xá". Đoán là không có quân bại

trận thì vua bị cướp ngôi, hoặc có chuyện vua chết, mất nước. Ngũ tinh thất xá, thì xem tương ứng với Tinh quan nào mà đoán.

Trung tọa : Hoặc Trung tòa. 1) Chỉ mặt trăng, Ngũ tinh hoặc Khách tinh xâm phạm tòa Ngũ đế. Thường là điềm hung. Thiên quan thu tập giải dẫn sách Trung tòa thành hình của Tấn Chước chú giải : "Trung tòa là phạm Đế tòa. Thành hình, là nhìn thấy họa phúc vậy . 2) Chỉ Ngũ Đế tòa trong Tử Vỉ Viên hoặc Thái Vi Viên. Tùy thư. Thiên văn chí : "Khách tinh phạm Đế tòa trong Tử Cung là đại thần phạm chúa","mặt trăng, Ngũ tinh phạm Đế tòa, sẽ bị hình phạt" .

Kinh thiên : Chỉ hiện tượng mặt trăng, Ngũ tinh vận hành qua vòm trời từ tây sang đông hoặc từ đông sang tây. Trong Ngũ tỉnh, ba sao Mộc, Hỏa, Thổ vận hành chậm, ban đêm có thể nhìn thấy chúng đi qua vòm trời. Hai sao Kim, Thuỷ vận hành nhanh, ban đêm không nhìn thấy chúng đi qua vòm trời. Nên trong Tùy thư. Thiên văn chí có câu : "Ba sao đi qua vòm trời, hai sao không đi qua vòm trời". Có khi chỉ hiện tượng nhìn thấy mặt trăng, Ngũ tinh vào ban ngày, buổi chiều. Thiên quan thư tố ẩn dẫn lời Mạnh Khang : "Sao âm Thái Bạch, nhìn thấy vào buổi chiều gọi là kinh thiên" . Lại dẫn lời Tấn Chước : "Thái Bạch, nhìn thấy vào buổi sáng gọi là kmh thiên" . Vậy "kinh thiên" có hai tình huống, tình huống thứ hai chỉ hiện tượng blến đối của sao. Chiêm đoán khác nhau. Trường hợp ba sao Mộc. Hỏa, Rhổ đi qua Vòm trời, hai sao Kim, Thủy không đi qua vòm trời, được coi là đắc hãm, chỉnh thể hợp lẽ thường; ngược lại là có tai họa đói khát, chiến tranh, chết chóc. Thái Bạch đi qua vòm trời đoán là thiên hạ thay đổi chính thể.

Tranh minh : Còn gọi là tranh quang (sáng). Chỉ hiện tượng sao nhìn thấy vào ban ngày, nó tranh sáng với mặt trời. Mặt trời là tinh của Thái Dương, chủ ban ngày, khi nó mọc thì sao lặn. Đằng này ban ngày nhìn thấy sao, tức là ngôi sao tranh sáng với mặt trời. Sao tranh sáng với mặt trời, đoán là võ yếu văn mạnh, nữ làm chúa, có tang nơi thôn ấp, có binh mã chốn đồng hoang. Lại đoán là bề tôi có manh tâm, chúa không sáng suốt, bề tôi tung hoành, có lũ lụt lớn. Lại đoán là thiên có việc lập vua mới. Thiên quan thư: "Ban ngày thấy sao Thái Bạch, gọi là sao tranh sáng, cường quốc thì yếu, nước nhỏ lại mạnh, nữ làm chúa". Tùy thư. Thiên văn chí: "ban ngày thấy mặt trăng, gian tà nổi dậy, vua tôi tranh giành, nữ chúa kém đạo hạnh, nước nhỏ binh mạnh, Trung Quốc bị đói. Thấy liền mặt trăng, đoán là mất nước".

KHÁCH TINH, LƯU TINH, YÊU TINH

Vương Bồng Nhự tinh : Còn gọi là sao Bồng Nhự. Tên khách tinh. Sao màu xanh, lập lòe. Cư nơi nào thì nơi ấy mưa gió trai tiết, hạn hán, cây cỏ khô héo, ngũ cốc mất mùa, nhiều hoàng trùng. Lại nói sao này trông như bông phấn lất phất, thấy nó thì nước có chiến sự, tang tóc, dân chúng nổi lọan.

Chu Bá tinh : Tên khách tinh. Sao lớn màu vàng, nhấp nháy hốt hoáng. Nơi nào thấy nó thì nước có chiến sự, tang tóc, đói khát, dân chúng lưu vong, ly tán. Có thuyết nói nươcs ấy đại hưng thịnh, nên là một ngôi sao chỉ điềm lành.

Ôn tinh: Tên khách tinh. Sao lớn màu trắng, dao động như gió. THường xuất hiện ở bốn góc trời. Xuất hiện ở phía đông nam, thiên hạ có chiến tranh, tướng ra trận; xuất hiện ở phía đông bắc, ắt có bạo binh ngàn dặm; xuất hiện ở phía tây bắc cũng đoán như vậy; xuất hiện ở phía tây nam, đoán là nước ấy có chiến tranh tang tóc, hoặc có lũ lụt lớn, đói khát.

Lão Tử tinh: Tên khách tinh. Sao lớn, sáng, màu trắng toát. Nước thấy sao này bị đói, là hung, là thiện là ác, là mừng là giận. Thường xuất hiện thì chiến tranh bùng nổ, vua lo buồn. Vua phải sửa lỗi lầm thì mới qua tai họa.

Thiên bảo: Tên lưu tinh. Sao này vận hành phát ra âm thanh nghe như tiếng bó đuốc lớn rớt xuống đất, tiếng gà kêu, đoán là nước có sao rơi xuống yên ổn, vui mừng.

Địa nhạn: Tên lưu tinh. Sao nhỏ, màu đỏ xanh. Đoán là nước có sao rớt xuống có chiến sự.

Thiên nhạn: Tên lưu tinh. Sao băng có ánh sáng, dài 2, 3 trượng. Tượng trưng cho tinh hoa trong quân. Đoán là nước có sao rớt xuống có chiến sự.

Nhân chúa tinh: Tên lưu tinh. Sao băng có ánh sáng chói, màu trắng, dài suốt vòm trời. Chủ có tể tướng, tướng quân ở phía sao rớt xuống.

Đại hoạt: Tên Lưu tinh. Sao băng, đuôi màu trắng, dài vài trượng. Khi ánh sao tắt đi, đuôi sao tạo thành đám mây rớt xuống. Đoán là nước có sao rơi xuống đầy cảnh chết chóc.

Giải hàm: Tên lưu tinh. Sao băng to như cái chậu, đuôi màu trắng. Khi ánh sao tắt đi, đuôi sao tạo thành đám mây hình bánh răng, tượng cái bánh xe, tước lộc. Đoán là tể tướng ở nước có sao rớt xuống bị chém đầu.

Uổng Thỉ: Tên lưu tinh. Sao băng, màu xanh đen, trông như rắn bò, có đuôi, mắt dài. Chủ chống lại manh tâm, trừng trị kẻ ngu. Thấy sao này, đoán là có loạn trị loạn, hoặc quân mưu phản nhắm bắn người bị giết.

Thiên hình: Còn gọi là Thiên Sức. Tên lưu tinh. Sao băng, to như cái chậu đuôi dài hơn 10 trượng màu trắng. Đoán là tướng lĩnh được phong đất biên cương.

Doanh đầu : Tên lưu tinh . Trông như mây, sao băng như núi lở. Đoán là nước có sao rớt xuống có phục binh, máu chảy ngàn dặm.

Cảnh tinh: Sử liệu ghi chép khác nhau. Chữ "Cảnh" ngụ ý điềm lành. Có thuyết nói là ngôi sao mới, có thuyết xếp vào loại tạp khí. Thoạt đầu gặp trong sách Trúc thư ký niên: "Năm Đế Nghiêu thứ 42 (năm 2104 trước Công nguyên), sao Cảnh xuất hiện ở đất Dực". Có thuyết bảo sao nay lớn ở giữa trời. Có thuyết nói sao này giống hình bán nguyệt, mọc vào ngày sóc, trợ sáng cho mặt trăng, thấy nó là vua nước ấy có đức, sáng suốt. Lại nói gồm có 3 ngôi sao, nối liền phương khí đỏ với khí xanh; ở phương khí đỏ có 2 ngôi sao màu vàng, ở phương khí xanh có 1 ngôi sao màu vàng. Ba ngôi sao ấy hợp thành sao Cảnh. Trời sáng vẫn còn thấy nó, thường xuất hiện ở nước nào có đức. Còn gọi là sao Đức.

Cách Trạch : Tên một ngôi sao báo điềm lành, tựa như sao mới, hình dạng như đóng lửa bốc từ dưới đất lên, dưới lớn trên nhọn, màu trắng vàng. Thấy sao này, đoán là không cày cấy mà được thu hoạch, hoặc có khách đại quý. Một thuyết khác nói rằng nếu không cày cấy mà được thu hoạch, ắt có cái hại lớn.

Hàm Dự: Tên một ngôi sao mới thuộc loại sao Chổi, ánh sáng như sao Chổi. Tia sáng chĩa về phái nào, nơi ấy có vui lớn, là một loại sao báo điềm lành.

Quốc Hoàng tinh: Tên khách tinh. Sao lớn, màu trắng vàng, trông như có sừng. Có thuyết nói là sao lớn màu đỏ, hình dạng như sao Nam Cực Lão Nhân. Lại bảo nó cách mặt đất chừng 2, 3 trượng, trông như một cây đuốc lớn, chủ tai họa giặc dã bên trong. Đoán là đất nước tương ứng có chiến tranh, binh mã hùng mạnh. Chĩa tới đâu, ắt nơi đó có biến động bất lợi, có lũ lụt đói khát, dân chúng nhiều bệnh. Thấy sao này đều là điềm hung, nên coi nó là một ngôi sao yêu quái.

Tuệ tinh : Còn gọi là sao Chổi. Hình dạng như cây chổi. Đầu chổi là thể khí khá dày và đặc, như đám mây bừng sáng, đuôi chổi là thể khí mỏng hoặc nhọn. Sao Chổi dài ngắn to nhỏ không giống nhau, ngắn chỉ vài thốn, dài thì quét cả vòm trời; hình dạng cũng khác nhau. Thấy nó là có chiến tranh, lụt lớn, chủ quét sạch, thay cũ đổi mới. Có 5 màu, chủ ngũ hành. Là một loại sao yêu quái.

Bội tinh: Tên sao yêu quái, cùng loại với sao Chổi. Nếu có đuôi gọi là Tuệ Tinh, nếu ánh sáng tung tóe tứ phía, thì gọi là Bội tinh. Thích danh. Thích thiên: "Bội tinh là khí ở bên cạnh nó nở bung ra". Công Dương truyện. Thiệu thập thất: "Mùa đông, sáng sớm thấy vó Bội tinh. Bội là gì? Là sao Chổi vậy". Bội tinh xuất hiện, ác khí sinh, bên trong không đại loạn, ắt bên ngoài có đại binh, thiên hạ hùa nhau làm hại, họa lớn hơn so với khi thấy sao Chổi. Thiên văn chí đời Tấn, đời Tùy dẫn An tử viết: "nếu vua không đổi, Bội tinh sẽ xuất hiện, rất đáng sợ!".

Si Vưu: Còn gọi là Si Vưu Kỳ. Tên sao yêu quái. Hình dạng như sao Chổi mà đuôi ngoằn ngoèo, như lá cờ đuôi nheo. Có thuyết nói sao này trông như cái ky (cái hót rác). dài 2 trượng. màu xanh trên vàng dưới trắng. Có thuyết nói sao này chủ phạt nghịch, trị loạn. Nơi nào thấy nó ắt có chiến sự hoặc có tang.

Thiên xung: Tên sao yêu quái, hình dạng như người đầu đỏ mặc quần xanh, xuất hiện rồi bất động. Thấy nó thì bề tôi mưu hại chúa, chúa chết. Có thuyết nói sao này chủ soán ngôi.

Thiền Minh: Còn gọi là sao Bút. Tên sao yêu quái. Sao lớn màu trắng, lúc lên lúc xuống. Có thuyết nói nó tượng như sao Thái Bạch; hình như cái ghế 3 chân. Trông như cây bút chĩa lên. Sao này xuất hiện, nước nhìn thấy sẽ gặp nhiều biến động, có chiến tranh, hoặc đại nhân hung.

Ngũ tàn tinh: Còn gọi là sao Ngũ Phong. Tên sao yêu quái, xuất hiện ở phương chính đông, hình dạng như Thần tinh, cách mặt đất 6, 7 trượng, có thuyết bảo sao này có khí màu xanh như quần tán, có đuôi. Sao lớn mà đỏ, nhìn kỹ sẽ thấy màu xanh. Thấy sao này là điềm hung, chúa bị chết, chiến tranh bùng nổ, tang tóc, bất lợi.

Lục Tặc tinh: Còn gọi là sao Đại Tặc. Tên sao yêu quái; xuất hiện ở phương chính nam. lớn mà đỏ, động mà lấp lánh. Cách mặt đất 6 trượng (có sách nói cách 9 thước), hình dạng như sao Chổi. Sao này xuất hiện là điềm hung, tai họa bao trùm thiên hạ, chiến tranh, bất lợi.

Ngục Hán tinh: Còn gọi là sao Hàm Hán. Tên sao yêu quái, xuất hiện ở phương chính bắc. Sao lớn mà đỏ, dao động, nhìn kỹ thấy có màu xanh ở giữa, cách mặt đất 6 trượng, có thuyết nói sao này ngoài màu đỏ, bên dưới có ba sao Chổi ngang dọc. Chủ đuổi vua, giết chúa. Sao này xuất hiện, thì âm tinh hoạnh phát, chiến tranh bùng nổ, có tang tóc, dao động thì chư hầu kinh sợ. Lại nói nó xuất hiện không đúng phương vị thì có chiến tranh, bất lợi.

Tuần thủy: Tên sao yêu quái, xuất hiện bên cạnh sao Bắc Đẩu, trơng như con gà trống. Màu xanh đen, tượng con ba ba. Chủ tranh chấp binh mã. Cĩ thuyết nĩi nĩ do sao Chổi tách ra, tượng lập Chúa, chủ rối loạn. Sao này xuất hiện thì bề tôi làm loạn, dấy binh, chư hầu bạo nghịch, kéo dài 10 năm, thánh nhân phải dẹp loạn.

Chúc tinh: Tên sao yêu quái, hình dạng như sao Thái Bạch. Báo hiệu những điều bất hạnh, thành ấp rối loạn, trộm cướp nổi lên. Đoán theo năm màu của nó.

Trường canh: 1) Tức sao Thái Bạch. Xem mục Thái Bạch, Khải Minh. 2) Tên sao yêu cái. Trông như một tấm vải che trời. Thấy sao này ắt có chiến tranh.

Tứ Điền tinh : Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở bốn góc, cách mặt đất hơn 6 trượng, có thuyết nói cách 4 trượng. Có thuyết nói sao này lớn mà đỏ, cách mặt đất 2 trượng, thường xuất hiện 1úc nửa đêm. Đều là điềm chiến tranh bùng nổ vào tháng Mười.

Địa Duy Tàng Quang : Còn gọi là Địa Duy Hàm Quang. Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở bốn góc, cách mặt đất 4 trượng, màu vàng đỏ mà dao động, là ngôi sao ở giữa trời. Có thuyết nói sao này lớn mà đỏ, cách mặt đất 2 - 3 trượng xuất hiện giống như mặt trăng lúc mới mọc. Sao này xuất hiện, thì bên dưới rối loạn, kẻ rối loạn mất mạng, người có đức sẽ phồn vinh. Xuất hiện ở góc đông nam, có hạn hán lớn; xuất hiện ở góc đông bắc, thiên hạ có lụt lớn, xuất hiện ở góc tây nam, có chiến tranh bùng nổ, xuất hiện ở góc tây bắc, thì thiên hạ rối loạn, chiến tranh bùng nổ.

Bồng tinh : Còn gọi là sao Vương. Tên sao yêu quái. Sao lớn như hai cái đấu, màu trắng. Có thuyết nói nếu xuất hiện ở phía tây nam thì dài vài trượng, nhọn hai bên, dao động. Có thuyết nói sao này màu trắng vàng, vuông khoảng 3 thước. Có thuyết nói sao này trông như mớ bông. Sao này xuất hiện, không đầy 3 năm sẽ có loạn thần; hoặc lụt hoặc hạn hán nặng nề, mất mùa. Xuất hiện cạnh sao Bắc Đẩu, chư hầu chiếm đất, có chiến tranh. Xuất hiện chòm Thái Vi, thiên tử lên ngôi. Có thuyết nói thấy sao này thì thiên hạ thái bình, được mùa lớn, đạo thuật hưng thịnh.

Mông tinh: Còn gọi là sao Đao. Tên sao yêu quái. Hình dạng như đám mây mỏng, tỏa ra tứ phía khí màu vàng, dài 3 thước, chậâp chờn lúc thấy lúc mất. Có thuyết nói giống như cờ đuôi nheo, là đám khí màu đỏ tỏa ra tứ phía, tỏa về phía nam nhiều hơn. Tượng rối lọan, chiến tranh đẫm máu.

Nữ Bạch : Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở phía đông bắc, dài 3 trượng. Thấy sao này, thiên hạ có chiến tranh hoặc đại tang. Có thuyết nói Nữ bạch là khách tinh, gồm 3 ngôi sao lớn màu trắng.

Đạo tinh : Tên sao yêu quái. Xuất hiện ở phía đông nam, dài 3 trượng. Thấy sao này, đoán là thiên hạ đầy trộm cướp. Có thuyết nói Nữ Bạch là khách tinh, gồm 8 ngôi sao.

Quy Tà : Trông như mây mà không phải là mây, trông như sao mà không phải là sao. Thời cổ thường xếp vào loại sao yêu quái. Thấy sao này, ắt có người trở về nước.

Thập Huy : Chu Lễ gọi là cách phân chia 10 hiện tượng mây hoặc sao yêu quái, sáng lập lòe không rõ, để đoán cát hung. Một là Tẩm, tức là loại khí năm màu âm dương xen lẫn nhau, như cái mống. Hai là Tương, tức là khí mây trông như hình con chim đỏ bay về phía mặt trời. Ba là Tích, thứ khí ở cạnh mặt trời, trông như cái xà tích mà trẻ nhỏ đeo bên mình. Bốn là lâm, thứ khí ở phía trên mặt trời. Năm là âm, nhật, nguyệt thực nên tối hoặc gọi la hiện tượng thoát quang. Sáu là Mông, tức là thứ khí mông lung không sáng rõ. Bảy là Di, thứ vệt trắng vắt ngang mặt trời. Tám là Tự, thứ khí trông như núi sừng sững ở trên mặt trời, chồng thành từng lớp bên cạnh mặt trời. Chín là Tế, tức quầng tán hoặc cầu vồng. Mười là Tưởng, thứ khí 5 màu có thể suy tưởng, chiêm đoán cát hung : màu xanh là đói khát, màu đỏ là chiến tranh, màu trắng là tang tóc, màu đen là lo buồn, màu vàng là được mùa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cám ơn chị Laviedt, anh DaoHoa và anh VinhL đã cung cấp những tư liệu rất quý cho những người đang tìm hiểu về Thái Ất như tôi.

Trân trọng

SongSinh

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người xưa quan sát thiên văn theo tương đối nên chỉ đúng vào thời gian quan sát, người giỏi lý học xưa là người giỏi quan sát thiên văn để sếp sao cho chính sác. Do đó các học thuật nếu được gắn chặt vào các sao tương đối đó nếu truyền lại cho hậu thế mà hậu thế không giỏi quan sát thì sẽ bị sai lệch rất nhiều chứ chưa nói đến truyền lại vài mảnh giấy.

Việc định chính sác sao là cực kỳ nan giải, ngay ngày nay với các công cụ hiện đại và các phương trình thiên văn đã được thiết lập mà chúng ta còn bị sai do chuyển động nhiễu loạn của các hành tinh nữa là.

Tử vi có bộ sao lớn ấn định như một thiên bàn bày sẵn nên trong số 128 sao sẽ có sao vô tình đúng nên tử vi hiếm khi sai 100%. các bộ môn dùng càng ít sao học thuật càng sai lệch nhiều.

Share this post


Link to post
Share on other sites