Posted 25 Tháng 1, 2012 Ngày xửa ngày xưa… Sử từng ghi: Nước Văn Lang, bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn. Nước Văn Lang có từ thời trước khi sử này ghi. Khi đó biên giới không phải là phân vạch như thời Tần Thủy Hoàng xây vạn lý trường thành, cũng không giống như sau này thời thực dân chia thuộc địa châu Phi và châu Mỹ bằng kẻ những vạch thẳng tắp trên bản đồ. Thời nước Văn Lang, Giáp=Giới=Tới=Tận=Tất. Nên Văn Lang là thể hiện một vùng ảnh hưởng văn hóa bao trùm của một cộng đồng dân tộc rộng lớn đã có nhà nước, có ngôn ngữ riêng, văn hóa riêng. Văn Lang là “Vùng văn hóa của Lang”, đó là văn hóa làng của dân định cư làm nông nghiệp. Văn=Vạn (vạn chài) của dân Biển, dòng Rồng. Rồng=Rộng=Lộng=Long. Rộng=Hồng=Hoằng=HÙNG. Dân vạn chài đi biển cùng Bè nên gọi là Bạn, lên bờ họ quần tụ thành Bản. Lang=Làng ( của dân đất liền), dòng Chim=Teen=Tiên=Viễn, cùng chiếm địa vực rất rộng. Rồng Tiên hợp lại với nhau thành nhiều bản,làng. Bản Làng=Bang. Lang=Làng=Vàng=Vùng=Vuông=VƯƠNG. HÙNG VƯƠNG là một quốc gia gồm dân biển và dân đất liền, đó là quốc gia Văn Lang. Đứng đầu quốc gia Văn Lang là Vua Hùng, truyền 18 thời đại trải dài 3000 năm lịch sử cho đến khi văn minh Văn Lang sụp đổ ở bờ nam Dương Tử. Văn=Vạn=Vuông=Vùng. Lang=Làng=Vàng=Vương=Vuông=Vùng. “ Vùng văn minh Văn Lang” ấy viết bằng một chữ Vuông to 口, bên trong có hình linga, biểu ý bằng một gạch ngang( 一 ) nằm dưới; và yonny, biểu ý bằng một hình vuông nhỏ ( 口 ) nằm trên ( xếp yonny nằm trên do quan niệm mẫu hệ), tất cả là năm kẻ thẳng của quẻ Ly, cũng có thể xếp lại thành chữ Nhật 日 là Mặt Trời, tượng trưng của dân Lửa xứ nóng. Tá=Lả=Lửa=Ly=Liệt 烈 =Việt 越 =Hiệt 黠 =Hỏa. Hiệt 黠 viết bằng ghép Chất Xám (chữ Hắc 黑) và Lòng Thiện ( chữ Cát 吉). Kẻ=Kiệt. Kiệt Hiệt=Kẻ Lửa. Không ít làng Việt cổ có tên là Kẻ Lửa hay Kẻ Lói, Kẻ Chói, Kẻ Cháy (như Bãi Cháy ở Hạ Long). Về sau tên ấy bị phiên âm bằng chữ Cổ Lôi , Cổ Loa hoặc những chữ khác nữa có âm na ná như vậy. Nếu nghiên cứu cứ dựa vào chữ Tàu thì sẽ có hậu quả là “tam sao thất bản”. Bên trong Vuông to 口 còn một chữ nữa là chữ Qua 戈. Qua là của ta. Của Ta=Qua. Chữ Vuông to có các bộ phận vừa nêu chính là chữ Quốc 國. Văn Lang chính là chữ Quốc. Quốc tức là của Nước. Của Nước=Quốc. Biểu ý của chữ Quốc ấy là: “Vùng của Ta là dân Mặt Trời”, tức dân trống đồng. Trống đồng chỉ khảo cổ thấy từ nam Dương Tử trở về nam, nhiều nhất và đẹp nhất là ở Việt Nam. Quốc gia là một từ Việt Hán, có nghĩa là nhà của nước tức chính phủ . (Ngân hàng quốc gia Việt Nam, sau bị đổi là Ngân hàng nhà nước Việt Nam, sau nữa lại thành lập Đại học quốc gia Hà Nội mà không đổi lại là đại học nhà nước Hà Nội cho nó đồng bộ với ngân hàng nhà nước Việt Nam). Thủa xưa, tư duy phồn thực, thì Kẻ “Dính” tức Kẻ truyền “Gen” hay truyền “tinh”. Kẻ Dính=Kinh, là người Kinh. Lạc Long Quân (dòng Rồng) và Âu Cơ (dòng Tiên) chia 50 con trai ra biển và 50 con trai vào lục địa, đó là Tổ Tiên của Bách Việt. Đàn ông Kinh=Đinh, Đàn bà Kinh=Đinh. Chữ Đinh丁 viết cách điệu biểu ý: yonny ở trên là vạch ngang 一, linga ở dưới là vạch dọc丨, vì còn là thời mẫu hệ, mẹ đặt trên. Thờ Mẫu là đạo nguyên thủy của người Việt. Khi tiếp thụ Phật giáo thì Phật cũng còn có hiện thân là Phật bà Quan Âm. Những điều kể trên là từ ngày xửa ngày xưa…Xưa (về thời gian là Trước). Xưa Trước là rất xa về trước. Xưa Trước=Xược. Không được hỗn xược là không được hỗn với xa xưa, không được hỗn với người xưa, không được hỗn với Tổ Tiên. Xưa=Xược=Thước=Tược=Tích. Vườn tược là vườn xưa của Tổ Tiên để lại. Không được để mất một tấc đất của Tổ Tiên. Thời khắc Trước=Thước (chim Hỉ Thước là con chim biết báo trước niềm vui sắp đến, cũng còn gọi là con chim Khẽ Mách=Khách). Chuyện cổ tích có nội dung hấp dẫn thường được biên soạn thành Truyện được Chuộng=Tuồng. Tuồng Cũ=Tuồng Cổ còn gọi là Tích Tuồng (cũng còn gọi là Việt kịch. Người Hàng Châu, đất Cối Kê xưa, ngày nay vẫn thích xem Việt kịch, nhưng không còn hiểu tiếng Quảng Đông, Việt ngữ, nên kịch phải có hàng chữ chạy thuyết minh). Hỗn hào là lời mắng Hỗn Hẳn với Tao. Hỗn Hẳn với Tao=Hỗn Hào. Hỗn hào là hỗn với người đang sống, Hỗn xược là hỗn với người đã khuất. Kẻ phủ nhận lịch sử tức phỉ báng Tổ Tiên là kẻ hỗn xược. Hai đầu của trục thời gian là Xưa/Xuôi, cũng cùng logic Đầu/Đuôi. Nếu lấy Ngày là điểm hiện tại của trục thời gian thì NgàyTrước=Ngược, Ngày Xuôi=Nguôi. Nguôi thì cứ Nguôi mãi bất tận. Nguôi và nguôi Mãi=Ngoai, có từ nhấn mạnh là Nguôi Ngoai. (Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam vẫn đang cãi nhau về từ ghép kiểu như Nguôi Ngoai. Có người cho rằng đó là một từ láy. Có người cho rằng đó không phải là từ láy, nó là từ kiểu gì còn phải tiếp tục nghiên cứu để định nghĩa. Vì họ cho rằng những từ kiểu như Nguôi Ngoai, do ghép hai tiếng, thì trong đó chỉ có một tiếng có nghĩa là Nguôi, còn tiếng kia là Ngoai là chưa có nghĩa, là “từ chờ”, chưa được sử dụng). Nguôi Mãi=Ngoai. Cũng vậy “Người giữ cái gì trong lòng thì nó càng theo thời gian trôi nó càng Phai”=Ngoai. Phai quá độ thì Nguôi=Nguội=Ngỏm chứ Nguôi không còn bất tận nữa. Bởi vậy để khỏi phai mờ bản sắc, người Việt nhắc nhớ con cháu bằng kể chuyện cổ tích.Chuyện cổ tích của người Việt có nội dung là những mật ngữ nhắc nhớ về cội nguồn dân tộc, tính minh triết của nó chứng tỏ nền văn minh Văn Lang rực rỡ. Nguyên bản nội dung và lời kể của những chuyện cổ tích đó tồn tại hàng ngàn năm nay để nuôi tâm hồn Việt. Bởi vậy đừng lấy ný nuận của chủ nghĩa chia giai cấp để đi “phân tích” chuyện cổ tích thời HÙNG VƯƠNG mà phá hỏng mất nó, vì như thế là hỗn xược. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites