Posted 3 Tháng 1, 2012 Chữ khoa đẩu Mạng tiếng Hoa [ zhidao.baidu.com] giải thích Chữ Khoa Đẩu: “Là văn tự cổ của Trung Quốc, gọi là “khoa đẩu văn”, “khoa đẩu thư”, “khoa đẩu triện”, là một kiểu viết của Trung Quốc vì có đầu to đuôi nhỏ hình tựa con khoa đẩu 蝌 蚪(con nòng nọc) nên gọi thế. Tên gọi là “khoa đẩu” này sau đời Hán mới xuất hiện, để chỉ thứ cổ văn thời tiên Tần. Ở Hồ Nam tại chân núi Nhạc (岳 麓 山 Nhạc lộc sơn –Nhạc chân núi) có bia Vũ Vương 禹 王, trên bia có bài văn gồm 77 chữ khoa đẩu, cho đến tận ngày nay nội dung 77 chữ đó nghĩa là gì, Trung Quốc vẫn chưa giải mã được”. Mặc dù vậy, từ xưa đến nay các nhà nghiên cứu vẫn thống nhất nhận định rằng kiểu chữ ấy là một loại chữ ký âm thời cổ đại. Ngày nay từ “khoa đẩu” lại được các mạng tiếng Hoa nâng ý nghĩa lên, gọi chữ phiên âm latin là chữ “khoa đẩu” chứ lại không gọi là “phiên âm” (“pinyin”) nữa. Chữ khoa đẩu trên bia Vũ Vương mà đến nay vẫn không giải mã được thì hãy mời Cụ Xuyền sang , Cụ sẽ giải mã cho. 77 chữ ấy chắc là mỗi chữ phải có nhiều nét ký âm, nhưng mỗi chữ đọc lên vẫn là một âm tiết thôi, vì Việt ngữ mỗi tiếng là một từ vì nó có nghĩa. Tại sao chỉ có đúng 77 chữ, hay là bia ấy được lập sau khi Đại Vũ chết được 49 ngày (cúng thất tuần) ? Núi Nhạc ở Hồ Nam, núi Nhạc nghĩa là núi cao to, chữ Nhạc 岳 này Hán ngữ phát âm là “yue”, cũng như chữ Việt 越, Hán ngữ phát âm cũng là “yue”. Nếu chỉ căn cứ vào cái âm thôi, thì Nhã=Nhạc=Nhật=Nhiệt=Việt đều có nghĩa là Mặt Trời (Nhã ngữ thì có từ trước thời Khổng Tử). Nhạc nghĩa là núi cao to, tức núi Mặt Trời, cũng gọi là núi Việt. Còn chữ khoa đẩu thì rõ ràng là của người Việt rồi. Nhưng cái tên gọi là “khoa đẩu” thì như sử viết là “sau đời Hán mới xuất hiện cái tên ấy”, “chữ ấy là thứ cổ văn thời tiên Tần”. Vậy thì tên gọi ấy chỉ là một sự mượn chữ để phiên âm mà thôi, Hán ngữ phát âm là “khưa tâu”, viết phiên âm latin là “ke dou”, nghĩa trong Hán ngữ là con nòng nọc. Cái âm của chữ mang nghĩa là con nòng nọc ấy đã được lấy để phiên âm mà thôi. Vậy thời tiên Tần thì thứ chữ ký âm cổ đại ấy của người Việt gọi là gi? Căn cứ vào cái phiên âm đoán ra thứ văn tự ký âm ấy xưa người Việt gọi là chữ “Kẻ Đậu”. Bởi theo truyền thuyết thì người tiền sử đã dựa vào dấu nét chân thú, chân chim nó đậu để lại trên đất để làm những nét ký hiệu đánh dấu, rồi thành nét ký âm. Bắt chước nét vết chân của “kẻ đậu” để lại để làm nét chữ, nên gọi là chữ Kẻ Đậu. Sau người Hán mượn chữ mang nghĩa là con nòng nọc 蝌 蚪 nhưng người Hán phát âm là “ke dou” để phiên âm hai tiếng Kẻ Đậu, rồi thì thành ra là Khoa Đẩu. (Tần, phát âm theo Hán ngữ là “Chín” (Qín), người Ấn Độ phiên cái âm “Chín” ấy thành China, sau người phương Tây theo đó gọi Trung Quốc là China). Share this post Link to post Share on other sites