Posted 31 Tháng 12, 2011 Chúc Mừng Năm Mới Sắc=Sạch=0 (Phật: “Sắc Sắc Không Không”). Vũ trụ hình thành từ cái Sạch đó (“Từ Sạch”=Tách). Tách ra ban đầu là Dương/Âm (như sự tự sinh sản bằng cách tách đôi của tế bào) nhờ cái khái niệm NÔI của người Việt, thành ra hai khái niệm đối nhau là Tá/Té (Tách chia ra Tá và Té, đều là cùng “tơi” T). Cái Sạch khi đưa vào trong NÔI của Việt thì nó như là cái Nòi. Cái Nòi trong Ổ của NÔI thì “Nòi Ổ”=Nổ. Sự Nổ ấy của khởi đầu vũ trụ tạo ra cái Năng, Nổ tách ra cặp đối là Nắng/Nước (Nổ chia ra Nắng và Nước, đều là cùng “tơi” N), Nắng và Nước đều là hai loại năng lượng lớn (tiếng cổ nó là “hai loại Năng đều cùng là Nậy cả”). Cho nên tiếng Việt có từ Năng Nổ chỉ cái tư duy Việt luôn luôn sáng tạo để có ý tưởng mới (thành ngữ: “Cái lý của người Việt là Nước”, “Sắc như Nước”). Tá=Lửa, Té=Nước. Trên trái đất thì Nước là bắt đầu của sự sống, và biết dùng lửa là bắt đầu hình thành loài người. Bởi vậy ngọn lửa bếp được coi là nơi thân thuộc nhất. Bốn nét Kẻ của Quẻ Ly ( Lả=Li) được viết cách điệu thành bốn nét của chữ Tâm (Tá=Lả=Lửa=Lý=Lòng=Trong=Tỏng=Tim=Tấm=Tâm), thể hiện ba ông đầu rau và cái vòng kiềng ở trên. Ngọn lửa cũng được dùng để cầu chúc sự an lành (ví dụ ngọn nến), và thể hiện vui mừng bằng điệu múa cộng đồng quanh đống lửa. Đó là sự hình thành của từ Chúc: (Tá=Lả=Ló=Đỏ=Tỏ=Đỏ=Đốt=Đuốc=Thuộc=Thục=Chúc). Mừng là niềm vui, từ Một mà có hai trạng thái tâm lý đối nhau trong cặp Mừng/Mủi. Năm là một chu kỳ thời gian mười hai tháng, gọi là “năm” vì theo logic của hệ đếm ngũ phân cổ xưa, hết “prăm” thì quay lại chu kỳ đếm ( tiếng Khơ Me “prăm” là con số 5, còn “chnăm” là “năm” mười hai tháng). Người Việt đếm ngày theo thời gian là MỘT, rồi đến MAI, rồi đến MỐT. Nếu Một là cái hiện tại thì Mai là cái Mới (Hai=Mai=Mới, “Mới”, tiếng Khơ Me là “Thmây”, tiếng Lào là “Mạy”, tiếng Thái Lan là “Mai”, tiếng Hán là “Xin”). Đó là nguồn gốc của câu CHÚC MỪNG NĂM MỚI. Thần tình là từ “Mới” của tiếng Việt cùng là gen dấu sắc của bắt đầu vũ trụ. Khi còn là 0 tức là chưa có tư duy, khi đã sang 1 tức là bắt đầu có tư duy, mà sự bắt đầu là Một , Một cũng là Việt (các cặp đối 0/1=Mô/Một/=Vô/Việt). 1 là có tư duy, tức là Việt=Biết, và để biết cái Sắc tức khởi đầu của vũ trụ thì “Biết Sắc”= “Bắc” tức phải “có phương tiện”, cái phương tiện để mà “Nom” ông trời (Nom=Dòm=Nhòm=Nhìn=Nhãn), đó là Âm Dương Ngũ Hành Lạc Việt. Thời đó người Việt còn ở nhà sàn, gọi là Thang=Sàng=Sàn, vì lên nhà phải “bắc” thang, tức phải “có phương tiện” là thang. (Cái nhà sàn tiếng Indonexia là “Tangga”=Sàn Nhà, tiếng Chăm là “Thanggiơ”. Thang=Đàng=Đường, từ “Thanggiơ” đã tạo nên từ Gia Đường trong tiếng Hán, phát âm là “chia tháng”. Người Hán khi đó là dân du mục phương Bắc, không có khái niệm nhà sàn). Âm Dương Ngũ Hành Lạc Việt là cái phương tiện để người Việt “Bắc thang lên hỏi ông trời” (thành ngữ Việt). Cái phương tiện để xác định phương hướng đi biển của người Việt là cái Kim “Chỉ Nom” là cái la bàn, chỉ cho người nom lên chòm sao đại hùng tinh trên trời, biết là hướng Bắc (cái hướng xác định được nhờ “có phương tiện” tức là cái “bắc”, như bắc thang, được đặt tên là hướng Bắc. Người phương Tây sử dụng cái Kim Chỉ Nom tức cái la bàn của người Việt, nên hiểu “Nom” là hướng Bắc, phiên âm “Nom” là North, người Hán phiên âm ngược lại là “Chỉ Nam” Châm . “Chỉ Nom” tức chỉ cho mà nom, chỉ cho mà nhìn, cũng được nâng nghĩa lên là “đường lối”. Tiếng Hán không có âm vận “om” và “am”, chỉ có âm vận “an”, nên họ mượn chữ Nam để phiên âm cái âm tiết “Nom”,thành ra chữ “Chỉ Nam” của Hán ngữ, cũng ám chỉ là đường lối, nhưng nó không có nghĩa là “đường lối”, mà thực biểu ý của chữ là “chỉ hướng nam”, thực sự kim la bàn đâu có chỉ hướng Nam, nó chỉ hướng Nom là hướng ngửa mặt lên mà Nom cho thấy Chòm sao Đại Hùng, tức hướng Bắc, nhờ cái “bắc” là cái “có phương tiện” tức cái Kim Chỉ Nom hay còn gọi là cái la bàn. Nếu lấy từ đếm trôi thời gian ba ngày liền nhau của tiếng Việt là MỘT-MAI-MỐT để đếm ba giai đoạn kể từ khi Âm Dương Ngũ Hành nguyên bản của người Lạc Việt làm nên nền văn minh Văn Lang rực rỡ cách nay 5000 năm ở nam Dương Tử, coi như thời MỘT; tiếp đến thời kể từ khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử dài đến hàng ngàn năm tiếp theo, coi như thời MAI; thì thời hiện nay chính là thời MỐT. Thần tình nữa của tiếng Việt là MỐT lại cũng cùng gen dấu sắc với khởi đầu vũ trụ, lại cùng gen với Một. Mà thời của thiên niên kỷ này các nhà khoa học nói rằng là “thời nhân loại khai thác trên trời (năng lượng mặt trời) chứ không khai thác trái đất (nhiên liệu hóa thạch, thủy điện) nữa”, “thời kinh tế Trí Thức”. Trí Thức thì cũng cùng gen dấu sắc với MỐT (mà “mốt” còn là thời thượng). Vậy thì đúng là đến thời MỐT là thời khoa học của nhân loại quay trở về với MỘT (nguyên bản Âm Dương Ngũ Hành), tức quay trở về với Việt, nhưng sắc hơn. Một sắc MỐT là Việt sắc Viết, thời của TRÍ THỨC. ( Chữ Một và Việt chỉ có thể từ nặng rồi đến sắc , đố có dấu nào chen vào được nữa để ra nghĩa khác. MỘT sẽ phải đến MỐT, VIỆT sẽ phải đến VIẾT, là thời của “sắc”, của kinh tế Trí Thức) Chúc Diễn đàn Lý Học Đông Phương một NĂM MỚI CÀNG SẮC ! 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites