Lãn Miên

Học Tiếng Việt

1 bài viết trong chủ đề này

Học tiếng Việt

1.Bắt đầu bằng học phát âm đúng 6 thanh điệu: A - À - Ã - Á - Ạ - Ả

A (nhìn để nhận dạng chữ A. A là reo mừng: A Má về ! A Má đã về ! )

À ( nhìn để nhận dạng chữ À, nó khác A là có gạch ngang trên đầu, gọi là dấu huyền.) À là nhớ ra: À đây rồi !, À con nhớ rồi !

Ví dụ: Ếch con mải chơi, À nhớ ra rồi, Giờ này đón Má

à (nhìn để nhận dạng chữ Ã, nó khác A là có gạch uốn trên đầu, gọi là dấu ngã). à là đã. Ví dụ: A Má đã về ! Ếch chạy ra hè. Trượt chân ếch ngã.

Á (nhìn để nhận dạng chữ Á, nó khác A là có gạch dọc trên đầu, gọi là dấu sắc)

Á là kêu đau: Á đau quá xá. Ví dụ: Ếch chạy ra hè, trượt chân Ếch ngã, Á đau quá xá !

Ạ (nhìn để nhận dạng chữ Ạ, nó khác A là có chấm dưới đít, gọi là dấu nặng)

Ạ là chào ngoan: Con chào Mẹ Ạ ! Cái gì đây Ạ ?

Ả (nhìn để nhạn dạng chữ Ả, nó khác A là có dấu móc trên đầu, gọi là dấu hỏi)

Ả là hỏi: Con đau lắm HẢ ?

Đọc bài : Ếch con mải chơi. À nhớ ra rồi. Giờ này đón Má. A má đã về. Ếch chạy ra hè. Trượt chân ếch ngã. Á đau quá xá. Con chào Mẹ Ạ !. Con chào Mẹ Ạ !

Mẹ chào con ngoan ! Con đau lắm HẢ ? Cho con cái này. Cái gì đấy Ạ ? Là cái bánh ngon. Ếch con sướng rơn. Cái đau cũng hết. Rửa tay xà phòng . Bóc bánh ăn xong. Lại ngồi chơi tiếp.

Bài có sẵn vần, vài lần là thuộc. Nhìn chữ nhớ hết, vì đã thuộc lòng. Nhận dạng mau xong, sau đọc vẫn nhớ. Nhiều bài như thế, biết chữ càng nhiều. Chẳng cần đánh vần , làm chi cho chậm. Mẫu giáo đã thuộc, trăm bài đồng dao. Lớp một mới vào, bài nào cũng vắng. Vậy mà không ngẫm, dạy cho liên thông. Mẫu giáo thuộc lòng, thì nay nhận dạng. Những bài nghe thuộc, nay đọc bằng văn. Thế là rất nhanh, bé biết mặt chữ. Việc gì mà cứ, bắt học đánh vần. Bé cảm bực mình, rờ rờ rận rận. Từ khi còn ẵm, bé đã biết rồi. Chỉ nhận dạng thôi, gọi đúng “bố”, “mẹ”.

2.Học từ bằng Nôi khái niệm

Nôi khái niệm của tiếng Việt là cái hình tròn biểu tượng Âm Dương Lạc Việt, với lĩnh vực ngôn ngữ thì cái hình Lạc Việt đó gọi là cái Nòi Nòng-Nọc. Nòi=Nôi=Khối=Khái; Nòng=Nọc=Niệm, nên cái Nòi Nòng- Nọc đó chính là cái Nôi Khái Niệm để tạo ra mọi từ của tiếng Việt. Không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi cái dụng cụ bằng mây đan mềm mại dùng cho trẻ sơ sinh nằm đong đưa là cái Nôi, bên Nôi là Lời ru con của mẹ. Ruột=Ru=U=Ủ=Ấp=Thắp=Thêm=Niệm. Lời ru là thắp lên niềm tin, là dạy khái niệm cho đứa trẻ từ trong Nôi, khi nó còn chưa biết nói. Và cái Nôi Khái Niệm của tiếng Việt, viết bằng chữ phiên âm là NÔI, đã sinh ra mọi khái niệm Âm Dương trong tiếng Việt. Chữ NÔI ấy bên trái là N tức NEGATIVE (Âm), bên phải là chữ I tức IRNEGATIVE hay INNEGATIVE ( phủ định của âm tức là Dương), còn chữ Ô ở giữa chính là cái Ổ, từ Ổ đó của cái Nôi mà cho ra mọi khái niệm, Từ Ổ=TỔ, do Tổ đó mà ra mọi khái niệm. Nôi Lạc Việt là ông Tổ của ngôn từ Việt, từ lời nói cho đến con số.

Bản thân một chữ NÔI đã thể hiện ba đại từ nhân xưng là Tôi, Ngươi và Nó ,(Tôi là do lướt “Từ Nôi”=Tôi) . Nguyên thủy là Nòi ngôi thứ nhất; Nải ngôi thứ hai; Nó ngôi thứ ba . (Nòi=Ngòi=Mọi=Mỗi =Một. Nải=Ải=Ai=Ngài=Ngươi; vua Hùng còn gọi vợ là “Ải ơi !”.Nó=Nớ=Nậu= Nấy=Ấy ; trẻ con gọi bạn mới là “Ấy ơi” khi chưa biết tên bạn). Ba ngôi nhân xưng nguyên thủy nữa là Người-Ngươi-Nghỉ (câu Kiều “Gia cơ Nghỉ cũng thường thường bậc trung”=Gia cơ Nó cũng thường thường bậc trung). Người là ngôi nhân xưng thứ nhất nên Người=Nguyên ( là cái đầu tiên)=Ngươn=Duôn ( tên mà người Khơ Me, người Thái Lan gọi người Việt). Người=Nguyên=Ngươn=Duôn= Duê ( tên mà người Hán gọi người Việt, phát âm là “yue”). Nghỉ=Kỳ=Keo=Kinh=Cần=Dân=Nhân là tiếng chỉ người Việt, khi các tộc người khác nói với nhau về người Việt. Ba ngôi nhân xưng nguyên thủy nữa là Mình- Mày-Man ( Mày=Mai=Hai, Man là từ người Việt chỉ tộc thứ ba, khi người hai tộc Việt đang nói với nhau). Câu ca quan họ “Người ơi ngươi ở đừng về” đã thể hiện ngôi một và ngôi hai quyện chặt lấy nhau khó dứt vì cả hai đều từ một mà ra. Dân tộc nào thì cũng tự xưng mình là người như là đại từ nhân xưng ngôi một. Đó là từ Kẻ (lướt “Con Đẻ”=Kẻ, “Con của Mẹ”=Kẻ.

Kẻ (tiếng Việt)=Cò (tiếng Thái, Cò là tao, Mừ là mày, tạm biệt nhau thì nói “ Cò dù nư !, Mừ còn nư ! nghĩa là: tao dời nhé, mày còn=cường=kẻ=khỏe ở lại nhé)=Kẻ=Cò=Cau (tiếng Philippin)=Cao (tiếng Vân Kiều)=Tao=Tau=Tui=Tôi. Bởi vậy mới có Kẻ=Keo ( người Tày, Thái gọi “ Dân Kinh” là “Cần Keo”)=Kinh=Kỳ, nên người Việt còn gọi là người Kinh Kỳ, từ Kinh Kỳ sau dùng chỉ xứ văn minh.

{ Ba đại từ nhân xưng của tiếng Việt đều lấy gen từ NÔI, nhưng NÔI của Việt còn để lại gen cho cả trong ba đại từ nhân xưng của tiếng Nga là I-A (gen I) tức tôi; TI (tiếng Ucren)=TƯ (tiếng Nga, gen I) tức ngươi; và ÔN hay KA-TÔ-RƯI tức nó ( đều gen Ô). KA-TÔ-RƯI dịch đúng và theo kiểu Việt là “MÀ LÀ -NÓ-RỒI”, ví dụ câu tiếng Nga: “[Trelovek] [ ka-tô-rưi] [iđussii]” (ý nghĩa là “người đang đi”), nó là câu tiếng Việt: “[Người] [mà là- nó- rồi] [đang đi] . Hoặc câu tiếng Nhật: “[Ni-Hôn Gô Ga], [bêtô- Namư Gô Ga], [Đế Wa] [Ô-Na-Di] [Đês] [Né] (nghĩa là “ tiếng Nhật Bản, tiếng Việt Nam, là giống nhau đấy nhé”, nó cũng là câu tiếng Việt : “[Nhựt –Bổn Gọi Cả], [Việt-Nam Gọi Cả], [Thế Là], [Nó-Na Ná- Giống] [Đấy] [Nhé]” }

Nôi=Nói=Gọi=Gõ=To=Tiếng=Từ=Toán. Khí trong lòng đưa ra Gõ thanh quản trong Mồm để phát ra thành Tiếng, Tiếng ấy là đơn âm thành nghĩa nên nó là một Từ.Lướt “Mồm Tiếng”=Miệng (Mồm và Miệng là hai chức năng hoàn toàn khác nhau, nên nha sĩ khi khám chỉ có thể ra lệnh “há mồm ra” chứ lệnh “há miệng ra” là nói sai khái niệm chứ không phải là nói cho sang). Hán ngữ gọi cái nôi ru con là cái “dao lan” (“yáo lán”) tức cái “làn lắc”. Làn lắc chỉ là khái niệm chức năng cơ học. Còn cái Nôi của tiếng Việt nó súc tích ý nghĩa. Bởi vậy tôi mới nhận xét là mỗi từ trong tiếng Việt đã là một minh triết.Tiếng=Từ=Toán, vậy là đủ cả lời cả con số, mà con số đầu tiên do cái Nôi Khái Niệm của tiếng Việt sinh ra là con số 0 và 1 của Toán và người Việt có hệ đếm đầu tiên là hệ nhị phân. Cứ tìm các từ của tiếng Việt mà xếp cho đúng cặp từ đối (như 0/1) nguyên thủy (tức hai từ tạo nên cặp phải theo QT là cùng “tơi” hoặc cùng “vắng tơi” hoặc cùng “rỡi”) ta sẽ được hàng trăm cặp, vì từ Việt đều sinh ra từ Nôi Lạc Việt. Ví dụ 1/0 là Chắc/Chẳng, Chẳng=Chăng (tiếng Mường là 0); 0/1 là Không/Khắt (khắt-khe là đòi hỏi như một), Mô/Một, Cóc/Cột (Một=Cột=Côi=Cô), Đếch/Độc ( Độc=Đơn), Hết/Hòn (Hòn=Non=Núi=Dùi=Mũi=Một), Vô/Việt Việt=Vọt=Nhọt=Nhọn =Non=Núi=Dùi=Mũi=Một đều là hình tượng con số 1) Xỏ/Xếp (Xếp=Xí, khăn xếp với cờ xí là của người đầu lãnh, người hạng 1, dân thường chỉ vấn khăn đầu rìu, nhưng xếp lại là cheff của tiếng Tây) v.v và v.v.

Một=Mỗi=Ngôi=Người=Nguyên (lướt “Nòi đầu tiên”=Nguyên) là cái đầu tiên tức con số đầu tiên của hệ đếm. Hệ đếm nhị phân chỉ dùng để nghiên cứu vũ trụ. Hệ đếm trong làm ăn thì có hệ đếm đến 5 là Muôi đến Prăm (tiếng Khơ Me) là từ Một đến Lắm, rồi hệ đếm đến 6 là Một đến Sáu. Sáu=Lấu( tiếng Hồ Nam)=Lục(tiếng Quảng Đông)=Lâu=Lắm, rồi lại có hệ đếm đến 7 là từ Một đến Bảy (tồn tại ở vùng Sở thời cổ đại, theo viết của Shiba Hirotaro, nhà văn Nhật Bản). Bảy=Bẩy=Bầy=Bừa=Bãi=Lãi=Lắm=Trăm. Rồi mới đến hệ đếm đến Mười là nhiều. Lắm=Mắm=Mười=Muôn=Mưn (tiếng Tày sau dùng chỉ con số một nghìn)=Mưn =Man ( tiếng Nhật Bản, dùng chỉ con số một vạn)=Ngàn (tiếng Việt, sau dùng chỉ con số một nghìn)=Ngàn= Vạn ( tiếng Hán, phát âm “wan”, sau dùng chỉ số một vạn), đều chung là khái niệm nhiều. Khái niệm nhiều là có trước, khái niệm con số cụ thể là có sau, như Tiếng=Từ=Tên=Toán, có Tiếng mới có Từ, có Từ mới đặt Tên cho con số, có con số rồi mới có Toán. Lắm=Mắm vì làm mắm thì phải có muối lắm, lướt “Muối Lắm”=Mắm. Người Việt là dân biển nên biết làm mắm chắc là từ khi còn chưa có hệ đếm đến Mười (Hà Đồ chỉ có đến cửu cung là hết). Mắm chỉ muối đến Chín là ăn được, lúc đó nó đã mất hẳn cái Tanh của cá khi còn Tươi, nên mắm chín gọi là lướt “Mất hết hẳn cái tanh của cá khi còn Tươi”=Mười. Còn theo số học thì khi còn đếm ở hệ 5, hết Prăm thì quay lại Prăm Muôi sẽ là thêm một tức số sáu; logic như vậy, theo hệ thập phân thì hết Chín phải thêm một nữa là “Một Muôi”=Mười (còn quán tính của tiếng Khơ Me, nên mới gọi là hệ ngữ Môn- Khơ Me). Mắm=Minh, biết làm ra mắm và nước mắm từ thời cổ đại đã là Minh( chuyện cổ tích Tấm Cám đã có mắm), ăn mắm lại thông minh vì nó có nhiều đạm.

Người Việt cổ tự xưng mình là Kẻ, nên làng Việt nào cũng bắt đầu tên làng bằng chữ Kẻ, ý là Người của làng đó, ví dụ: Kẻ Đăm là người làng Đăm. Có từ Làng Nước, do làng là của nước, mỗi làng đều là của nước. Thời Hùng Vương, vua Hùng thường xuyên phong đất mới mở mang cho người nào có công ( “Phát cho một Vòng”=Phong. Vòng=Vuông=Vùng. Chữ Phong gồm hai chữ Thổ , ý là nhiều đất và chữ Tấc là đã đo đạc. Người Việt vượt sông, đo chiều rộng của sông bằng đơn vị chiều dài của con đò, nên từ Đò Đác=Đo Đạc và có câu thành ngữ “Mấy sông cũng lội, mấy đò cũng qua”, cứ đếm thử xem chiều rộng của con sông được mấy đò. Đác là Nước, bắt nguồn từ tiếng Việt cổ: Té=Túc=Tức=Đức=Đéc=Đầy=Đác=Nác=Nước=Nậm=Lầm=Đậm=Đà=Đen=

=Hoẻn=Hắc=Mặc=Mực=Man=Đan=Than =Thâm=Thủy (nhiều từ đã được lấy chỉ màu ngũ hành của nước, gọi chung là màu đen). Từ Tức tiếng Khơ Me nghĩa là Nước, cặp từ đôi Tức Nước để có nghĩa nhấn mạnh là Đầy Nước, và thành ngữ Việt có câu “Tức Nước vỡ bờ”. Cặp từ đôi Lầm Than là để nhấn mạnh ý màu tối, thành từ văn học chỉ cuộc sống tối tăm. Tiếng Việt vẫn lấy màu đặc trưng của vật để làm tên gọi vật, vì nó màu than nên gọi nó là khoáng vật Than, vì nó màu vàng nên gọi nó là kim loại Vàng, vì nó màu bạc nên gọi nó là kim loại Bạc (Bạc tiếng Mường nghĩa là màu trắng, “Bạc Sạch”=Bạch nghĩa là màu trắng không có lẫn tạp chất). Chữ Đức nghĩa nguyên thủy của nó là Nước. “Có Đức thì sẽ có tất cả” nghĩa cụ thể của câu này là “có nước thì sẽ có sự sống”, ý nghĩa trừu tượng của câu ấy chính là tư tưởng của đạo Phật, nên mới có hội té nước, hội tắm

nước cho tượng Phật ở khắp Đông Nam Á này. Chữ Đức trở thành cốt lõi của đạo Nho, thờ một chữ Đức là thờ sự sống, là thờ Nước. Lắm Nước=Lạc, người Lạc nghĩa là dân có Lắm Nước, gọi là Bách Việt nhưng không phải là con số 100, thực sự thời cổ đại có hàng mấy trăm Quốc, đều là Của Nước của vua Hùng hết. Phong cho “Con đẻ của Mẹ”=Kẻ mảnh đất nào thì Con=Quan=Quân ấy lấy tên đất ấy làm họ cho mình và làm Con Vùng=Quân Vương ở đó , ví dụ phong cho đất Trần thì lấy họ là Trần và gọi xứ đó là Trần Quốc tức Trần Của Nước, tự quản tự trị lấy theo phép trói buộc của Lạt Hồng ( như sợi lạt màu hồng trói ngoài bánh chưng, chia cái bánh chưng thành cửu cung), Lạt Hồng=Luật Rộng (sau khi đã Luộc Chín=Luật Chính), Luật Rộng là được dân chủ tự do, quản lý lỏng lẻo chứ không bị áp đặt, nhưng vẫn là Quân Quốc tức Con Của Nước, chẳng ly khai đi đâu, bởi vậy văn hóa Văn Lang mới rộng khắp như vậy. Lắm Nác=Lắm Đức=Xăm Đéc, Xăm Đéc là chỉ người có Lắm Nác, tức Lạc. (Xăm Đéc tiếng Khơ Me chỉ người có đất đai rộng lớn, uy quyền cao, được kính trọng). Con nào của vua Hùng có công lớn nhất thì được phong đất rộng nhất, tức được phong “Của Rộng”=Công, tiếp đến là bậc Hai gọi là Hầu ( Hai=Hầu), thấp nữa là thứ Ba gọi là Bá ( Ba=Bá), thấp nữa là thứ Tư gọi là Tử (Tư=Tử), thấp chót là thứ Năm gọi là Nam ( Năm=Nam). Chia như vậy mà cũng chỉ có đến 5 bậc, vì thời đó còn đếm theo hệ ngũ phân như ngũ hành. (Còn tồn tại trong hệ đếm của người Khơ Me bây giờ). Hàng trăm nước lớn nhỏ khác nhau theo diện tích ấy đều là nước của các con, dù là Công, Hầu, Bá, Tử, Nam đều chỉ là hàng Thứ Hai so với nhà nước trung ương của vua Hùng, nên các nước hạng hai ấy đều gọi là Chư Hầu (Thứ Hai=Chư Hầu). Còn nước Mẹ ( nơi vua Hùng, là cái Nôi, Nôi=Nơi=Nước=Nái=Cái. Địa danh Việt như Sông Cái, Cái Nước, Cái Sắn v.v.) thì đó là cái Ổ ( chữ Ô trong chữ NÔI, nơi đẻ ra tất cả). Ổ=Âu (theo QT là cùng “vắng tơi, trong tiếng Việt cái Ổ cũng là để đựng và cái Âu cũng là để đựng). Ổ=Âu nên cái Ổ có Lắm Nác ấy là Ổ Lạc=Âu Lạc . Vua Hùng cho 50 con ra biển, 50 con lên đất liền, còn đất mẹ thì vua Hùng giữ, nên vua nói là “Đất Mẹ thì là Ổ Của Tớ”.( “Của Tớ”=Cơ). Ổ=Âu, Của Tớ=Cơ, nên đất mẹ chính là Âu Cơ .

Té/Tá là cặp đối nguyên thủy của Nước/ Lửa, đã giải thích trước đây theo QT rồi. Đo “Từng tí Đất Đác”=Tấc=Tất (đo xong)=Thật (số đo mới là thật)=Thốn (cho mày được Thôn tính chỗ đó) để phong cho Con=Kẻ , nên đất ấy có tên Kẻ kèm theo tên vùng đất, rồi Con=Quan=Quân lấy tên đất ấy đổi làm họ của mình và gọi xứ ấy là Họ Của Nước, ví dụ đất Trần thì gọi là Trần Của Nước=Trần Quốc thay cho tên cũ là Kẻ Trần. (Kẻ=Kỳ=Keo=Kinh; “Con đẻ của Mẹ”=Kẻ. Nên tiếng Việt gọi là “tiếng mẹ đẻ”, như từ “mather tong” của tiếng Anh. Tiếng= “Tong”. Tiếng Anh “tong” nghĩa là cái Lưỡi. Tiếng Việt thì “Lưỡi đưa Rỡi”=Lời. Lời=Ngợi=Ngôn, ngôn ngữ là từ cái lưỡi mà ra, khen ngợi là khen bằng lời chứ không phải khen thưởng bằng tiền). Lời là đã có nghĩa, nhưng nó có thể là một tiếng hay nhiều tiếng, còn Tiếng là một Tiếng có nghĩa tức một Từ (Tiếng=Từ=Tên). Con chó có lưỡi nhưng nó chỉ biết Lu, không ra nghĩa (Lu=Lú, người nói vô nghĩa gọi là Lu La=Lu Loa, còn Lú Thuyết=Lẩn Thẩn)

Theo phát âm của tiếng Việt thì vũ trụ ban đầu chỉ là một dấu Sắc, nó là 1 vì nó là Có tức đang tồn tại nhưng chưa có gì cả ( là 0 ) nên nó là Sạch (Sắc=Sạch). Sạch=Tách, thế là bắt đầu tạo nên vũ trụ là một sự Tách. Tiếng Tách ấy trong Nôi Khái Niệm của Việt sẽ chia ra hai “tiếng” là Té và Tá, thành cặp từ đối Âm/Dương là Té/Tá . (Té nghĩa là nước, “té nước”, Té=Tát=Tắm=Tưới=Rưới; Tá nghĩa là lửa, “tá lả”, “tá hỏa”, Tá=Tỏ=Đỏ=Đuốc=Đèn=Đăng). Chính vì là Sắc nên nó có thể phát triển mãi ra mọi hướng (khoa học ngày nay chứng minh vũ trụ vẫn đang tiếp tục dãn nở). Sự Tách ấy là tách từ một cái không có gì ban đầu, tức tách từ cái Nỏ (Nỏ tiếng Việt nghĩa là không, cùng như tiếng Anh nói No là không). Là Nỏ khi ở Nôi Khái Niệm của Việt thì nó phải theo cái gen “N” mà sinh động tác Nổ ( cũng như Sạch đã theo cái gen “ách” mà sinh động tác Tách). Tiếng Nổ ấy tạo ra một sức mạnh vô biên gọi là Năng, trong Nôi Khái Niệm của Việt thì Nổ sẽ chia ra hai “nói” là Nước và Nắng (có cái Nổ nào mà lại không có “tiếng” tức không có “nói”, bởi vậy có từ “tiếng nói” và rồi phát triển thành khái niệm là “ngôn ngữ”. Lời=Ngợi= Ngôn; Nói=Gọi =Ngợi=Ngữ) . Nước và Nắng tạo thành cặp từ đối Âm/Dương là Nước/Nắng, cả hai đều là nguồn năng lượng phong phú ngày nay trên trái đất này.

Sự sống bắt đầu từ vũ trụ. Sắc=Sống, có Sắc mới phát triển được , còn cùn thì chỉ có mòn (“Mất dần cái Còn”=Mòn. Mất dần cái đang tồn tại thì càng ngày càng mòn đi cho đến mất hẳn luôn. Thế mới biết tổ tiên ta đã kiên cường giữ gìn văn hóa Việt suốt 5000 năm nay như thế nào). Khoa học phát triển theo chiều sâu và chiều rộng, càng nhiều ngành hẹp tức càng nhiều cái Sắc chen nhau thì đại cục khoa học càng nở rộng ra. Sắc là vũ trụ ấy đã ưu ái để gen “ắc” cho tiếng Việt là từ Nác=Nước. Nước là bắt đầu của sự sống trên trái đất, bắt đầu của sự phát triển, vì nước là Sắc nhất, lan được ra mọi hướng (kể cả lên trời), xuyên được qua mọi thứ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà người Việt là duy nhất gọi xứ sở mình là Nước. Bởi vì Việt là số 1 (Vô là số 0, cặp đối Âm/Dương là Vô/Việt), là “number one”, là nơi (cái NÔI, Nơi=Nôi) bắt đầu nền văn minh của nhân loại. Vì Việt là đầu tiên, nên nó Vọt Trước là đúng thôi.

[Tiếng Việt xưa cái đầu gọi là cái Trốc, vì nó chứa cái trí tuệ là do Trên Trời ban cho, “Trời ban cho để mà Học”=Trốc, còn của con vật thì chỉ gọi là cái Sỏ hay cái Đầu, không có từ “trốc chó”, “trốc trâu” nhưng có từ “trên chốc” nghĩa là trên đầu, “Trốc Bước”=Trước, vì con vật nào đi cũng đưa đầu ra đầu tiên “ Đưa Đầu”=Đạo, nghĩa là dẫn đường, chữ nho viết biểu ý bằng ghép chữ Dò với chữ Đầu, Dò=Đò=Đi=Độ=Đô. Người ta phải Dò để có Bắc là chỗ phương tiện, chứ không phải sông chỗ nào cũng định vượt được, “Bắc để mà có thể Đến”=Bến, lúc đó mới dùng Đò để mà Đi, “Đi mà Chộ”=Độ tức vượt, đi mà chộ tức đi mà thấy mới vượt được chứ đi mà mù thì chẳng vượt được, “ Đến Chỗ”= “Đóng Chỗ”=Đô, nơi người Kinh đến đông Đóng Chỗ gọi là Kinh Đô. Tiếng Việt có từ Đức Độ, nghĩa vật thể là cái nơi Nước muôn sông Đổ về một Chỗ, nghĩa trừu tượng là nói về người có nhiều đức. Hán ngữ thì dùng từ Đạo Đức].

Kể cả khi đẻ ra đời cũng là đưa đầu ra đầu tiên, còn khi chưa đi, mới chỉ là định đi thì cái đầu nó đã phải Bước rồi, xem sẽ đi hướng nào, Bước là “Bằng ước”, Óc=Ước=Bước=Bắc (tìm ra chỗ phương tiện) =Biết=Việt ( con số một, sự bắt đầu)=Vọt .

[ Vọt Trước để lại cái âm cho người Hán bắt chước và đảo ngược ngữ pháp lại gọi là Trác Việt , phát âm lơ lớ là “trúa duê” nghĩa là dẫn đầu, nhưng âm Trác=Trước trong Hán ngữ phát âm là “trúa” không hề có nghĩa là đầu tiên tức Trước, phải dùng nguyên xi từ mượn ghép lại là Trác Việt thì mới có nghĩa, và người ta gọi từ “trác việt” là từ của “cổ Hán ngữ”].

Nếu không tin Nước là Sắc nhất (như câu thành ngữ tiếng Việt “Sắc như Nước”) , thì cứ thử rỏ một giọt nước lên một mặt phẳng và bằng đúng nghĩa bằng phẳng hoàn toàn mà xem, nó sẽ lan hình thật tròn ra mọi hướng cho đến khi nó Sắc (Sắc=Bắc=Biết=Biệt=Bặt=Chặt=Chắc=1) lên tận trời, nhưng nó vẫn còn, nó lỏng nhưng mà chặt, là chắc , là con số 1, sau khi đã qua 0, là không nhìn thấy (bốc hơi, Hơi=Hư=Hỏng=Hổng=Trống=Không, “Hư Vô” là từ đôi để nhấn mạnh ý Không). Người Việt gọi xứ sở mình là Nước, không ít người đã nhận xét là “cái lý của người Việt là nước”. Lý học giải thích “nước Âm, tính Động”, nên nước phải được tự do theo tự nhiên của nó, mọi ý tưởng hại nước (chặn dòng làm thủy điện) của con người, nay đang lãnh quả đắng về môi trường. Tư duy Việt cũng “Sắc như Nước” nên cũng còn câu thành ngữ nữa là “Sắc Nước Hương Trời”, nên mọi ngăn chặn tư duy của người Việt, phủ nhận văn hóa Việt 5000 năm văn hiến chỉ là dại dột. Ngôn ngữ là cái Lưỡi ( tiếng Anh cũng bảo vậy, là “mather tong”, tiếng Nga cũng bảo vậy, là “i-a-dức”). Thời nhà Tần, Tần Thủy Hoàng ra lệnh triệt hạ hết văn hóa Bách Việt để thống nhất một ngôn ngữ Quan Thoại, dã sử ghi có ông Tô Tần ( ông tên Tô thời nhà Tần) mới nói rằng: “Ta mất sạch cả rồi, chỉ còn mỗi cái lưỡi”( nên ngôn ngữ Việt vẫn tồn tại đậm nét cả về phát âm cả về ngữ pháp, là ngữ pháp xuôi của ngôn ngữ Nam Á hệ ngữ Môn-Khơ Me, trong nhiều phương ngôn ở Trung Quốc ngày nay, kể cả trong văn bản thời Tiên Tần, bởi vì nó là tiếng Việt), ông ta trở thành nhà thuyết khách “trứ danh” (tức “danh trước”, tên đứng hàng đầu) vì ông ta đi khắp nơi khuyên các quốc gia không nên gây chiến để tranh giành nhau ( mà hãy thượng tôn cái “giá trị chung nhân loại”), về sau thành ra có câu thành ngữ “cái lưỡi Tô Tần”.

Văn minh nhân loại đã bắt đầu từ Văn Lang, đó là thời MỘT (là thời nguyên bản Âm Dương Ngũ Hành mãi cho đến kinh Dịch, kinh Thi.v.v.), rồi đến thời MAI là thời truyền bá cái Minh ấy mênh mông ra toàn cầu, thời thứ hai này MỘT bị tranh giành mất bản quyền, nên còn nhắn lại trong ngôn ngữ Việt là “Một mất hết” vì bị “Hai ăn cả” . Hết mai ắt đến thời MỐT, là thời ngày nay nhân loại đang quay về tìm lại cái “giá trị chung nhân loại”, mọi “đại cục” trong khoa học chỉ là nhỏ so với cái “đại cục” duy nhất tổng quát là Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt, nên mới có nhắn lại trong ngôn ngữ Việt là “ Ba vét Nồi”. Vét là quay về cái căn để của nó, mà lại vét của Nồi, Nồi là cái NÔI. Cái NÔI của Việt đã đẻ ra tất cả. “Con gà có mỏ, Con chó có lông, Cây tre có mắt, Nồi đồng có quai”. Cây tre Việt Nam còn có mắt để chứng kiến mọi thăng trầm của lịch sử, chứng kiến mọi sự phủ nhận văn hóa Việt 5000 năm văn hiến. Nồi đồng hay Cối đồng (“đồng cổ”) lại quay về đúng cái NÔI của nó, vì nó có Quai (Kẻ=Quẻ=Kinh=Quái=Quai, Âm Dương Ngũ Hành, Bát Quái, Kinh Dịch). Âm Dương Ngũ Hành của người Lạc Việt cổ đại là cái quai để Xách cái NÔI văn minh nhân loại lên một tầm cao mới (Xách=Xốc). Thời MỐT sẽ thay thế thời MỘT, nhưng ở một tầm cao hơn vì nó Sắc hơn (sự lặp lại đúng qui luật biện chứng của lịch sử, sự “Xách” ấy cũng giống như sự “Tách” của vũ trụ để có Té/Tá), với điều kiện nó phải trở lại với đúng căn để của nguyên gốc (“vét Nồi”) thì nó mới thực hiện được sứ mệnh của MỐT.

{ Cảm ơn Sư Phụ THIÊN SỨ ở đoạn trích THIÊN SỨ said

Song các nhà khảo cổ học và chuyên gia nghiên cứu văn hóa Maya cho rằng, lời tiên tri trên chỉ dự đoán ngày trở về Trái đất của một vị thần hùng mạnh, cùng với sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới mà thôi.

Đúng rồi theo Việt lịch thì còn 129 năm nữa mới hết hội Tuất mà. Kết thúc một chu kỳ Kim của ba Hội Thân Dậu Tuất. Sang chu kỳ mới gồm ba Hội mới là Hợi Tý Sửu - thuộc Thủy. Thường trước khi chuyển sang một giai đoạn mới phải có một giai đoạn chuyển hóa. Có thể đây là sự vênh khoảng 129 năm giữa Việt lịch và lịch Maya.

Sự khởi đầu của một giai đoạn mới trong nền văn minh nhân loại được hình tượng hóa bằng vị thần hùng mạnh.

Thế mà cũng không biết! Tư duy "Ở trần đóng khố" mà!

Những nền văn minh cổ xưa nắm giữ những bí ẩn này, gồm: Việt tộc là số 1 về nội dung, thứ nhì về sự chú ý (Trong giai đoạn này). Hậu duệ của nền văn minh Ai Cập và Sumer, Maya, Ấn Độ số 2 về nội dung, thứ nhất về sự chú ý. Văn minh Isarael chỉ là gọi là ké chút để tham khảo, hạng bét.

Nhưng các cụ nhà ta đã dặn bọn trẻ con Việt: "Thứ nhất vứt đi. Thứ nhì ăn cả, thứ ba (bét) vét nồi!

Bởi vậy, sau này, những nhà khoa học - Khoa học thực sự chứ không phải đám "giả khoa học" với những tri thức "liên minh bộ lạc" - sẽ tìm thấy những kết luận cuối cùng để hoàn chỉnh giá trị của một nền văn minh cổ xưa - vị thần hùng mạnh - chính từ nền văn minh Israel này! }

[ Chú ý khi học tiếng Việt: Học tiếng Việt phải bắt đầu bằng phát âm thật chính xác, nên ở trên đã nêu để nhận dạng 6 chữ A với sáu điệu khác nhau trong phát âm. Người Việt vài nơi phát âm cũng lẫn lộn. Ví dụ chuyện một trai cứ dấu ngã thì toàn phát âm thành dấu hỏi, một gái cứ tơi “l” thì phát âm thành tơi “n”. Đêm tân hôn nằm với nhau vẫn để ngọn nến thắp sáng cạnh giường, bất ngờ cây nến đổ ngang, sợ nó cháy lan nên cô vợ vội nói: “Dập “nửa” đi anh ! “. Anh chồng đang say sưa không biết là cây nến đã đổ ngang, nghe vợ nói lại hiểu là “nữa” nên càng dập tới, làm cô vợ hoảng càng nói gấp: “Dập “nửa” đi anh, dập “nửa” đã !” . Anh chồng nghe vợ khen “đã” lại càng cố gắng dập tới ]

Share this post


Link to post
Share on other sites