Posted 24 Tháng 12, 2011 Ngôn ngữ nào có trước? Theo Hà Văn Thùy và Đỗ Thành thì ngôn ngữ Việt có trước ngôn ngữ Hán. Xét ví dụ: Nói về cái nút chai, chai là cái bên ngoài, nút là cái bên trong. Cái bên trong và cái bên ngoài, tiếng Việt có cặp từ đối nguyên thủy là Ngoài/Ngòi. Cái Ngòi đó chính là cái Lõi ở bên trong. Theo QT: Ngòi=Lõi=Lí 里=(“lỉ 里”)=Lắp=Lấp=Nấp=Nắp=Nút=Nội 内= (“nây内”)=Nắc=Ngắc=Ngắt=Tắt=Tắc 塞= “tủ 赌” =Tại 在= “zài 在”=Cài= “cai 盖”= “xai 塞”=Đai 带=( “tai 带”)=Đậy=Đổ 赌= Đình 停= ( “tíng 停”)=Đốn 顿=( “dùn 顿”)=Đóng=Trong=Trung 中( “zhong 中”. Nếu chỉ riêng phát âm Việt thì nó đúng một mạch QT: Ngòi=Lõi=Lí=Lắp=Lấp=Nấp=Nắp=Nút=Nội=Nắc=Ngắc=Ngắt=Tắt=Tắc=Tại=Cài=Đai=Đậy=Đổ=Đình=Đốn=Đóng=Trong=Trung . Trong cái nôi khái niệm ấy chỉ có một số từ có chữ nho thì được dùng trong Hán ngữ. Chú thích một số từ: “Tại 在” là nằm lỳ ở một chỗ. “Nắc” là từ chỉ dùng để nói động tác dương vật đút vào âm đạo.( “ Bực mình với đèn điện, đang thức thì nó tắc, đang nắc thì nó sáng”). “Đổ 赌” còn dùng ghép với từ “Đốn 顿” là “Đổ Đốn 赌 顿” ý nói dừng cứng một chỗ, từ ghép này tuy có chữ nho, nhưng chỉ dùng trong tiếng Việt, còn từ ghép “Đình Đốn 停 顿” thì trong tiếng Việt và tiếng Hán đều dùng. Người Việt cổ đại trên cổ thường đeo vòng bạc chế theo kiểu Cứng Liền nên gọi nó là cái Kiềng ( QT lướt: “Cứng Liền”=Kiềng), nhà giàu thì có của hồi môn cho con gái là cái Kiềng vàng. “Xâu chuỗi gồm các vòng sắt móc nối nhau hình Kiềng”= gọi là cái Xiềng. Chữ Xiềng này đã để cái gen “ X” trong từ Cycle của tiếng Tây. Thời học tiếng Tây người ta gọi luôn cái Xâu chuỗi mà tiếng Tây là Cycle ấy là cái Xích, dần dần ít dùng chữ Xiềng, nhưng vẫn có từ đôi là Xiềng Xích, chứng tỏ từ Xiềng có trước, từ Xích có sau. Thời cái xe đạp truyền từ Tây sang Việt Nam, người Sài Gòn gọi cái Xích xe đạp là cái “Xên” để nói rõ chức năng nó dùng để nối liền hai bánh răng truyền động ( do dùng QT lướt: “Xích nối hai bánh răng truyền động thành một hệ thống Liền” = “Xích Liền” = Xên). Cái Xên thì nó khác hẳn cái Xích chó ( ấy vậy nhưng từ Xên không được ghi vào từ điển, có lẽ do người ta nghĩ rằng nó “nhà quê”). Thời tiếp thu kỹ thuật điện của phương Tây, từ “contact” chỉ cái bộ phận thực thi hai chức năng là nối và ngắt dòng điện. Việt ngữ phiên theo âm đọc, gọi là cái “công tắc”, do vội chạy theo Tây mà không để ý cái gốc Việt, nên không nhìn thấy cái gen Việt đã nằm sẵn ở trong từ tiếng Tây, ở cái lõi “ôn” và “ắc”, ( tiếng Việt vốn có QT Vo để chỉ lấy lại lõi là một âm tiết mà) đó là Thông-Tắc, gọi chính xác nó là cái Thông Tắc theo hai chức năng mà nó thực thi. ( Gọi là cái “công tắc” mới đầu nghe không mường tượng nổi ý gì, chẳng qua dùng lâu rồi thì chấp nhận vậy). Hán ngữ không phiên âm từ “contact” mà dịch ý để gọi là cái Khai Quan (Khai là mở, Quan là đóng). Hán ngữ phát âm chữ Thông 通 là “thung” và chữ Tắc 塞 là “xai”. “Thung Xai” không có cái gen nào chung với “Contact”, còn “Thông Tắc” thì có chung gen “on” và “ac” với “Contact”. Vậy tiếng Việt mới là Tổ của tiếng Tây, còn tiếng Hán thì không phải. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites