Thiên Đồng

Hành Trình Kỳ Lạ Của Một Lạt Ma Người Việt

3 bài viết trong chủ đề này

Hành trình kỳ lạ của một người Việt đến Tây Tạng

16:47 PM 18/11/2011
75 năm trước, có một người Việt Nam phải cần đến 375 ngày để đi từ Sài Gòn qua các Phật tích ở Ấn Độ, Népal và vượt lên dãy Himalaya bằng cách cưỡi ngựa và đi bộ.

Ông ở lại đó hơn 150 ngày, thu hút sự chú ý đầy hiếu kỳ của dân chúng cả thành Lhasa về sự xuất hiện khác thường của mình. Đồng thời trở thành chuyện lạ truyền tụng trong giới quý tộc và các vị chức sắc cao cấp nhất của Tây Tạng thời ấy, bởi sự kiện: ông là người ngoại quốc duy nhất cho đến lúc đó được pháp vương Tây Tạng trực tiếp ban pháp danh và ấn chứng để trở thành vị Lạt ma người Việt Nam đầu tiên trong lịch sử truyền pháp trên xứ tuyết, có thể nói là cả trong lịch sử truyền pháp trên thế giới.

Ông là ai?

Đó là Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo đã một thân một mình xuống bến Nhà Rồng - Sài Gòn năm 1935 để thực hiện cuộc hành hương đơn độc trong hai năm. Khi trở về Việt Nam ông đã khai sơn chùa Tây Tạng tại Bình Dương - đến nay là ngôi chùa mang nhiều đường nét mỹ thuật theo phong cách kiến trúc Tây Tạng duy nhất ở nước ta. Ông không chỉ là vị thiền sư đắc đạo, mà còn nổi danh là một vị chân tu yêu nước, được cử làm Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc và là người cha đỡ đầu cho các chi đội kháng chiến chống Pháp ở Thủ Dầu Một. Ông cũng là cố vấn quân dân chánh của tỉnh, nhiều lần kêu gọi tăng sĩ tham gia kháng chiến giành độc lập. Những gì ông đã góp cho đất nước và cuộc đời thì rất rõ. Nhưng ít người biết về quá khứ kỳ diệu của ông trong cuộc hành hương đơn độc để cầu pháp và đắc pháp trên núi tuyết Himalaya. Ở đó ông đã gặp một tôn sư bí mật trong hang đá và truyền pháp cho ông.

Ông sinh vào rằm tháng bảy năm Kỷ Sửu 1888 trong một gia đình khá giả ở làng An Thạnh, quận Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương và là một trí thức am tường về lịch sử tư tưởng Đông phương lẫn Tây phương. Qua nghiên cứu nhiều xu hướng triết học và tư duy kinh viện đương thời, cuối cùng ông đặc biệt chuyên tâm thâm nhập vào Phật học ngay thời trẻ nên ông xuống tóc xuất gia tại chùa sắc tứ Thiên Tôn với hòa thượng An Thành - Từ Thiện và được đặt pháp danh: Nhẫn Tế. Sau ông đến Bà Rịa cầu pháp học đạo với Tổ Huệ Đăng tại chùa Thiên Thai, rồi cất am tu hành và độ chúng tại vùng chợ Búng (Lái Thiêu) trước khi hành hương sang Ấn Độ và Tây Tạng năm 47 tuổi.

Khởi hành

Ngày đi, các huynh đệ và cư sĩ thân cận không khỏi lo lắng cho ông, vì biết ông phải dấn thân vào nơi xa xôi không quen biết ai. Nhưng lạ một điều - và như được hộ pháp giúp đỡ - nên vào buổi sáng khởi hành, khi đến đường Catinat (tức đường Đồng Khởi, Q.1, TP.HCM ngày nay) để đổi bạc chi dùng, tình cờ ông gặp một người Ấn Độ bận Âu phục khoảng hơn 20 tuổi. Sau vài phút trò chuyện ngắn ngủi, người Ấn kia bảo ông đừng lo, rồi dẫn ông đến căn hộ số 27 đường Ohier (tức đường Tôn Thất Thiệp, Q.1 ngày nay) gặp một người trạc ba mươi tuổi là Mr. Ramassamy, Phó hội trưởng Hội xã tri Madras - Ấn Độ.

Ông Ramassamy viết hai bức thư dặn trao một bức cho ông Chánh hội trưởng khi tàu đến Singapore, bức còn lại trao cho người khác khi đến thành Bénarès, thì “ông sẽ được an ổn trên đất Ấn Độ” - Ramassamy bảo đảm như thế. Ông cầm hai bức thư như hai cánh chim báo điềm lành, bận chiếc áo tràng màu nâu giản dị và xách hành lý vỏn vẹn chỉ có hai túi vải đựng sách kinh và quần áo trên tay, bước xuống tàu với vé tàu hạng chót.

Khách mua vé hạng chót như ông đều phải nằm trong cái hầm tàu vốn là căn bếp nấu ăn cho hành khách Ấn Độ, chính ở đó ông đã tập ăn uống theo kiểu Ấn ngay từ ngày khởi hành 17.4.1935. Ông đến Singapore (20.4.1935), rồi đến Madras (25.4.1935) ăn bữa ăn đầu tiên trên đất Ấn Độ với “cà ri và vài món cà ri chua, cà ri khô không có nước. Họ nấu khéo, ngon, nhưng cay xé họng. Mới tắm đó, mà muốn tuôn mồ hôi”. Tiếp đó đến Calcutta, vào thành Bénarès (30.4.1935), đi chiêm bái Bồ đề đạo tràng (21.12.1935), đến Népal (29.1.1936) viếng vườn Lâm-tỳ-ni cùng nhiều Phật tích và di tích văn hóa khác. Sau đó từ một nhân duyên đặc biệt ông đã được Lạt ma Gava Samden cùng ba đệ tử của Lạt ma ấy dẫn đường. Thế là sau gần một năm hành trình, ông đã bước lên những dãy núi đầu tiên của Himalaya hùng vĩ vào ngày 6.3.1936.

Ý nghĩa của từ "lạt ma"

Từ Lạt ma nguyên dùng để gọi các bậc trưởng lão, thượng tọa, cao tăng trong Phật giáo Tây Tạng. Lạt ma có những nhiệm vụ quan trọng như nghiên cứu học hỏi, mở mang sự hiểu biết cho đến việc giáo hóa dân chúng, thúc đẩy xã hội tiến lên. Trong chùa viện, vị Lạt ma một mặt giữ gìn giới luật nghiêm ngặt trong đời sống, một mặt tu học Hiển giáo và Mật giáo cùng các học thuật ở thế gian như thiên văn, y học... cho nên đời sống tu học của Lạt ma rất nghiêm cẩn, có thể cho rằng đây là đại biểu điển hình trong nền văn hóa cao nhất ở Tây Tạng (theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Hòa thượng Thích Minh Cảnh chủ biên, NXB Tổng hợp TP.HCM 2004, tập 3).

Theo Giao Hưởng
nguồn: Thanh niên

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hòa thượng Thubten Osall Lama Minh Tịnh - Nhẫn Tế (1889 – 1951)

Hòa thượng Thubten Osall Lama, pháp danh Chơn Phổ, pháp hiệu Nhẫn Tế, nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sau Ngài cầu pháp với Tổ sư Huệ Đăng, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu là Minh Tịnh, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền Giáo Tông.

Posted Image

Ngài thế danh là Nguyễn Tấn Tạo, sanh ngày Rằm tháng Bảy năm Kỷ Sửu – 1889, tại làng An Thạnh (thường gọi Búng) Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Lập, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ri, Ngài sinh trưởng trong một gia đình trung lưu trí thức, nên từ thuở nhỏ đã được song thân cho đi học Quốc ngữ và Pháp ngữ.

Năm Giáp Thìn 1904, khi lên 16 tuổi, Ngài tìm đến chùa Thiên Tôn, một ngôi chùa cổ nổi tiếng trong vùng, xin quy y với Hòa thượng Ấn Thành – Từ Thiện, được pháp danh là Chơn Phổ để nghiên cứu và tham học giáo điển Phật đà. Nhờ có trí tuệ mẫn thiệp và trình độ thế học, Ngài chóng thâm nhập vào áo nghĩa kinh tạng, và có ý muốn một ngày nào đó sẽ thực hiện hạnh giải thoát.

Sau khi học hành thành đạt, Ngài được bổ làm công chức trong ngành Y tế, được một thời gian, Ngài chán cảnh thế gian đầy đua chen danh lợi, cũng như bất mãn trước sự cai trị hà khắc của thực dân Pháp đối với dân chúng Việt Nam, nên có ý muốn hồi hưu. Nhân mắc phải trọng bệnh trong khi thừa hành công vụ, Ngài xin thôi việc, dứt bỏ trần nghiệp, vân du học đạo khắp mọi nơi, lúc thì tu hạnh đầu đà, khi thì khoác màu nguyên thủy để tìm cho mình hướng đi đích thực trên con đường giải thoát.

Năm Bính Dần 1926, chùa Long Hòa núi Thiên Thai, Bà Rịa mở giới đàn, do Hòa thượng Huệ Đăng làm Đàn đầu truyền giới, Ngài đến đăng đàn thọ Cụ túc giới. Cảm phục đức độ và tư tưởng yêu nước của Tổ sư Huệ Đăng, Ngài xin cầu pháp với Tổ sư, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu là Minh Tịnh, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Thiền Giáo Tông.

Đến tháng 8 năm Quý Dậu – 1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn, do Hòa thượng Ngộ Định – Từ Phong làm Đàn đầu truyền giới, Ngài được thọ đại giới lại với Sơn môn, được ban pháp hiệu là Nhẫn Tế, để nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh, chùa Thiên Tôn.

Trải qua thời gian tu hành và tham học, Ngài cảm thấy vẫn chưa thỏa mãn chí nguyện, muốn tìm về cội nguồn Phật tổ, trước là để chiêm bái đảnh lễ thánh tích, sau là tham cứu học hỏi phương pháp tu trì, mong đạt sở chứng tỏ ngộ bản tâm, thoát ly sanh tử. Vì thế, Ngài rời chùa Thiên Tôn, ra cất một cái am đặt hiệu Thiên Chơn để tu và ngày đêm ấp ủ mộng lớn, chuẩn bị tư lương, học tập thêm Anh ngữ để đợi ngày thực hiện ý định.

Năm Ngài 47 tuổi, hội đủ nhân duyên, Ngài xuống tàu thủy tại Sài Gòn khởi hành sang Ấn Độ vào ngày 17 tháng 4 năm 1935. Trong thời gian trên đất Ấn, tùy thuận phong tục, Ngài đắp y theo xứ Tích Lan và học tiếng Tamil khi ở Nam Ấn, học tiếng Hindu khi ở Bắc Ấn. Lúc đến xứ Bhutan, Tây Tạng, Ngài lại đổi sang pháp phục Lạt Ma và học tiếng Tây Tạng để ứng hợp việc tham cầu giáo pháp.

gày 6 tháng 2 năm 1936, Ngài đến xứ Nepal tham lễ chùa tháp. Khi đến Tháp Bodha Nath, Ngài được đảnh lễ chiêm ngưỡng Xá lợi Phật tổ, và cần cầu Thượng tọa quản tháp xin thỉnh được một phần Xá lợi để đem về bổn quốc làm chứng tín cho hàng đệ tử Phật tôn thờ. Ngài là người đầu tiên thỉnh được Xá lợi Phật về Việt Nam.

Ngày 27 tháng 2 năm 1936, Ngài bắt đầu khởi hành đi Tây Tạng theo các vị Lạt Ma trong đoàn chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng khi họ trở về xứ. Đường đi gian khổ vất vả, đi hơn hai tháng mới đến xứ Bhutan, mất một tháng ở lại đây học hỏi ngôn ngữ, phong tục, chờ tuyết tan và đi thêm một tháng nữa mới đến thủ đô Lhasa. Ngài đến xứ Tây Tạng vào ngày 28 tháng 6 năm 1936.

Tại Tây Tạng, Ngài tham học về Kim Cang thừa Mật giáo với Lama Quốc Vương. Để học được pháp môn này, Ngài phải trải qua khảo thí khắt khe nghiêm mật trong cuộc thi tuyển toàn quốc, Ngài là một trong hai người được tuyển chọn cuối cùng. Sau một trăm ngày tu học ở Tây Tạng, Ngài được Lama Quốc Vương ấn chứng sở đắc thiền quán, truyền tâm pháp Kim Cang thừa và ban cho pháp danh là Thubten Osall Lama. Thành tựu sở nguyện, ngày 29 tháng 10 năm 1936, Ngài lên đường rời xứ Tây Tạng, mất một tháng để trở lại Ấn Độ. Ngài ở lại đây đi chiêm bái và học hỏi một thời gian nữa, rồi xuống tàu về nước.

Ngày 30 tháng 6 năm 1937, Ngài về đến Việt Nam, kết thúc chuyến tường khảo thánh tích dài 2 năm 4 tháng. Ngài đến chùa Thiên Thai đảnh lễ Tổ sư, dâng cúng ngọc xá lợi lên Hòa thượng để làm biểu tượng chánh pháp tại đây. Về lại trụ xứ Bình Dương, uy tín đạo đức của Ngài lan rộng, bổn đạo làng Phú Cường cung thỉnh Ngài chứng minh trụ trì ngôi chùa Bửu Hương, vốn thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Ngài đổi tên chùa thành Tây Tạng tự, để ghi nhớ nơi Ngài đã đến cầu pháp.

Năm Mậu Dần 1938, Ngài khởi công xây dựng lại ngôi chùa Thiên Chơn ở làng An Thạnh, ngay trên nền cũ của am nơi Ngài ở tu trước khi đi Ấn Độ. Chùa được khánh thành vào năm 1940.

Trong cuộc đời tu học và hoằng đạo, Ngài hóa độ rất nhiều đồ chúng xuất gia và tại gia, đệ tử truyền thừa của Ngài là Hòa thượng Như Trạm - Tịch Chiếu. Ngài có hai tác phẩm lưu lại hậu thế :

- Lăng Nghiêm Tông Thông (1997).

- Nhật Ký Tham Bái Ấn Độ, Tây Tạng (1999).

Ngày 17 tháng 5 năm Tân Mão – 1951, Ngài thâu thần viên tịch tại chùa Tây Tạng, trụ thế 63 năm, giới lạp 25 mùa Hạ. Môn đồ nhập Bảo tháp nhục thân của Ngài tại chùa Thiên Chơn và lập Bảo tháp thờ vọng tại khuôn viên chùa Tây Tạng.

Thích Đồng Bổn

Trích trong “TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAM THẾ KỶ XX - TẬP II”

nguồn: http://thienviendaidang.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hành trình kỳ lạ của một người Việt đến Tây Tạng

Kỳ 1: Đến Lhasa

Thanh Niên – Thứ sáu, ngày 18 tháng mười một năm 2011

Vài ngày sau khi đến Lhasa, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo đã xuất hiện trên đường phố với pháp phục màu vàng chói uy nghiêm của một thiền sư khiến dân chúng cả thành Lhasa kinh ngạc và lo lắng giùm cho ông, vì đây là điều cấm kỵ từ lâu ở xứ này.

Sự xuất hiện khác thường

Theo ghi chép của ông trong Nhật ký tham bái Ấn Độ - Tây Tạng (chưa xuất bản) thì thời ấy việc mặc pháp phục màu vàng đi giữa thành phố Lhasa là vi phạm luật định: “Bất cứ ai nếu thấy mặc đồ vàng thì phải bị bắt và đánh đuổi ra, vì xứ Lhasa trọng sắc vàng lắm. Sắc Phật chỉ đặng làm y, làm áo, làm mão, còn ai dùng làm chăn, làm quần, làm vớ, làm giày bằng sắc vàng ấy thì bị phép nước bắt đánh đòn, lột đồ ấy rồi đuổi ra khỏi nơi cư ngụ. Nhơn dân quăng đá mắng chưởi. Ấy là tục lệ xứ này vậy”. Sau vài giây phút ngỡ ngàng, dân chúng thành Lhasa đã yên lòng vì thấy đi bên cạnh ông là những quý tộc và những viên chức hộ tống đưa ông đến dinh của một vị quan cấp cao nhất Lhasa đương thời, mà ông gọi là “thừa tướng” cho dễ hiểu: “Quan thừa tướng cho người lại bảo bần đạo phải đắp y bi sô (tức pháp phục màu vàng của tỳ kheo) chứ không nên bận đồ Tây Tạng đi yết kiến” và đó là một đặc ân hiếm thấy. Trước kia, đã có những vị tỳ kheo các vùng khác đến Tây Tạng nhưng cũng không được mặc sắc vàng như ông. Vì thế, khi ông xuất hiện, người lớn trẻ em đang đứng “trên đường và hai bên phố đều dòm ngó xầm xì”... Đến dinh thừa tướng cũng vậy: “Cả người trong dinh đều thấy, đã đồn rân khắp thành thị, phần đông đều hiểu trước thầy là người quen của nhà thừa tướng”.

"

TayTang2.jpg" Chùa Tây Tạng ở Bình Dương (do Lạt ma Nguyễn Tấn Tạo khai sơn) hiện nay với phong cách kiến trúc theo mô hình các cổ tự ở Himalaya - Ảnh: Võ Văn Tường Quan thừa tướng và phu nhân mời ông ngồi trên đơn, còn những người khác tháp tùng “ngồi trên rầm trên đất”, vì tục người Tây Tạng không có bàn ghế bằng gỗ. Phu nhân đeo ngọc châu “tóc rẽ làm hai, đeo trên hai góc ngôi sao, bỏ xả hai bên tai (chạy xuống) khỏi vai, đoạn dưới tóc bính, rồi đâu hai bính ra sau lưng, có một sợi ngọc điệp cột hai bính ấy”. Bà bưng một cái đĩa bạc trên có đặt sẵn bình trà, bình sữa và bình đường cũng bằng bạc, đem đến mời ông. Lần thứ hai, vào 1.7.1936, quan thừa tướng lại sai người đến mời ông lần nữa, lần này để xem hát ở dinh. Hết lớp hát khoảng 9 giờ đêm, phu nhân đãi trà và chính tay bà quẹt lửa cho ông đốt thuốc.

Tiếp kiến pháp vương

Chính nhờ thừa tướng và phu nhân cùng các lạt ma có uy tín lúc bấy giờ ở Lhasa mà sau đó ông được giới thiệu để tiếp kiến Pháp vương Bodalama lần thứ nhất ngày 3.7.1936.

Ấy là một ngày có ý nghĩa rất lớn đối với ông trong chuyến hành hương. Là vì lần đầu tiên ông yết kiến pháp vương có “mặt mày sáng láng, ngồi trên long đơn, trước có tợ sơn son phết vàng, trên đơn trải gấm Tây Tạng, nội bộ chỉ có bần đạo đắp y vàng rực từ trên sắp dưới, làm cho quốc vương chăm chỉ ngó ngay, khiến các lạt ma và quan nội điện đều để mắt”. Pháp vương rất hài lòng, ngài cầm một nắm dây lụa điều màu đỏ quấn lên cổ ông thân thiết. Khi ra về, dân chúng hai bên đường phố Lhasa thấy sợi dây điều màu đỏ trên cổ ông đều biết ông ở trong ngự điện thiền cung mới ra nên tỏ thái độ cung kính chiêm ngưỡng ông. Ông yết kiến pháp vương lần nữa vào ngày 4.10.1936, sau đó được pháp vương ban pháp danh là Thubten Osall Lama. Theo ông giải thích: “Thubten là tên của đức Tả tê Lama thái thượng hoàng đã băng. Thubten (có nghĩa là): vòng cứng bền chắc của kim cương. Còn chữ Osall (có nghĩa là): ánh sáng mặt trời - tên của đương kim quốc vương lạt ma, nên bần đạo biết Thubten Osall có nghĩa là Huệ Nhựt (có thể hiểu là: ánh sáng trí huệ phóng chiếu rực rỡ như mặt trời)”.

Được pháp vương và các lạt ma, quý tộc Tây Tạng giới thiệu, ông đã đến thăm điện Potala - nơi được mệnh danh là trái tim hoặc linh hồn của thủ phủ Lhasa, tận mắt quan sát, chiêm ngưỡng và ghi lại cảnh chùa cất trên đỉnh núi với rất nhiều đèn lưu ly thắp bằng beurre tại các điện, với nhiều lầu nhiều nóc mà nóc nào cũng thếp vàng khiến ông “chói mắt vì thấy nhiều điện Phật toàn bằng vàng ròng, lư đèn, lục bình các món cũng vậy... Ôi đến nơi: thấy tháp cao lớn, cả trên dưới đều thếp bọc vàng ròng, chạm trổ, ngọc thạch xanh, đỏ, vàng, trắng, lưu ly, pha lê, trân châu, thủy xoàng của quan dân cúng dường gắn khắp tháp”. Những ghi nhận của ông về điện Potala hoàn toàn phù hợp với tài liệu do Lạt ma Lobsang Rampa cung cấp sau này qua cuốn Các lạt ma hóa thân (Lê Nguyễn dịch, NXB VH-TT 2003). Theo đó, điện Potala là một cung điện khổng lồ xây trên miệng một núi lửa đã tắt và trên nền móng của một cung điện cũ, ngọn hỏa sơn này “chứa trong lòng nó những hang động bí mật với hàng ngàn đường hầm tỏa ra tứ phía. Có những hang động cất giấu nhiều tài liệu cổ xưa hàng chục thế kỷ. Có những kho chứa châu báu, vàng ngọc từ thời đại xa xưa. Rất ít ai được biết đến những chỗ này (...) những mạch vàng lớn khoảng mấy chục thước bề ngang, ngày xưa nhiệt độ cao đã làm vàng chảy ra như sáp nến về sau nguội dần, đông đặc lại thành những mạch vàng dài như một con rồng uốn khúc. Bây giờ chắc hiểu tại sao người ta xây cung điện khổng lồ lên trên miệng núi lửa như thế (...) nếu không biết che giấu, Tây Tạng có thể trở nên một chiến trường đẫm máu do lòng tham vô độ của con người” (sđd trang 63).

Ông cũng đã đi nhiều chùa lớn và tu viện khác thuộc vùng phụ cận của Lhasa, để rồi một hôm - ông bất ngờ gặp một đại sư bí mật trong hẻm núi vắng lạnh và trở thành chuyện lạ nhất của chuyến hành hương. Vì chính cuộc kỳ ngộ đó đã đánh thức trí nhớ và công phu tu tập từ tiền kiếp của ông...

Kỳ 2: Rời xứ tuyết

Trước ngày rời Lhasa, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo đã gặp một vị Tổ sư sống ẩn dật trong hốc núi tuyết...

Gặp Tổ sư trong núi lạnh

Vào một ngày rằm, ông cùng Lạt ma Shamden (là vị Lạt ma được Pháp vương Tây Tạng cử đến ở cạnh ông) ra một bờ suối lớn vùng phụ cận Lhasa. Suối này uốn lượn thông đến các dãy núi cao và xa hút tầm mắt. Đến khúc quẹo vắng vẻ, ông tách ra đi dạo một mình và đột nhiên cảm thấy đường đi quen quen, giống với con đường ông đã thấy trong một giấc mộng trước đó. Quanh co gần cả buổi sáng, cuối cùng đến một hẻm núi vắng lạnh, bên trong có một người đang chờ ông, đó là vị Tổ sư (chữ của ông dùng) sống ẩn dật lặng lẽ không biết đã bao nhiêu năm ở đây.

Ông đảnh lễ ngài. Ngài lấy một tấm đá có khắc mấy dòng chữ đưa cho ông bảo hãy nhận lấy để hành trì pháp môn của Đức Bồ đề Đạt ma chính lý. Tiếp đó ngài đem yếu lý Tâm kinh Bát nhã ba-la-mật-đa ra truyền: “Ôi nhờ ngài chuyển tư tưởng mở cả trí não của bần đạo, làm cho bần đạo đoạt lý tâm kinh, mới biết đó là đại thần chú của tam thế chư Phật. Đảnh lễ cảm ơn giáo hóa. Ngài cười rồi đứng dậy rờ đầu bần đạo rằng: Nhân duyên trong đạo nhiều kiếp qua rồi, nay gặp nhau cũng còn dìu dẫn. Bông ưu đàm nải búp (đơm nụ) chẳng bao lâu sẽ trổ...”. Trong khoảng thời gian nhanh chưa đầy một búng ngón tay, ngài vẽ một bông sen trong lòng bàn tay phải của ông, nói: “Kinh (mang) tên bông này (ngươi) có tụng đọc mà chẳng đoạt lý hay sao?” (Kinh Diệu pháp liên hoa - tức Pháp Hoa).

Ngài lại “móc một cục đất dưới chân (đất mềm) nắn ra hình một cái chén, đoạn thổi một hơi khô queo. Ngài hỏi cái chi? Bần đạo đáp: Đất...”. Ngài khen: “Đúng lắm... trước nó là đất, bây giờ ra hình là cái chén”. Có ý bảo rằng: Đất có thể tạo nên nhiều thứ đồ dùng hình trạng khác nhau như chén, đĩa, bát, bình hoa... Nhưng cái thể chung nhất của các thứ đồ vật ấy vẫn là đất thôi. Người có con mắt đạo nhìn xuyên qua những hình tướng sai biệt bên ngoài để thấy cái “đồng nhất”, cái “nhất thể”, cái “nguyên sinh” của vạn vật, vốn không hai, không khác. Nếu có cái hai, ba, bốn, năm và nhiều vô lượng nữa thì vẫn chỉ là những “hoa đốm trên không” rốt cuộc sẽ bị hoại diệt như kinh Kim Cương chỉ rõ: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Nghĩa là phàm thứ gì có tướng trạng (như con người, các loài vật, nhà cửa, bàn ghế, cây cối, núi non, rừng rậm, tinh tú, các thiên hà) đều phải theo thời gian hư hoại. Từ nghĩa đó, Tổ nhìn thẳng vào ông chuyển trí để ông “thấu đáo kinh Kim Cương nghĩa lý nhiệm màu” và kêu lên: “Ôi! Tu trong mấy kiếp, đoạt lý một giờ...”.

Trở về nhà, ông không kể lại gì về chuyện mình đã gặp Tổ sư, mãi đến trước ngày rời Lhasa khoảng nửa tháng ông mới hỏi Samdhen: “Này huynh, vậy chớ huynh có biết hướng nam nơi dãy núi từ Bumpari chạy dài theo mé suối lớn có vị đại đức Lạt ma nào ẩn dật tu hành nơi ấy chăng?”. Samdhen đáp: “Khi tôi còn nhỏ trong khoảng 9 năm trời ở tại chùa Dzêsbung tôi đã nghe nói có nhiều vị đại Lạt ma ẩn dật trong hang núi để tu hành cao pháp (pháp tối thượng) nhưng ít ai gặp đặng các ngài... nhưng làm sao thầy biết vậy mà hỏi tôi?”. Ông đáp: “Nếu tôi không biết thì làm sao hỏi huynh đặng (...) tôi có đến gặp đại lão Lạt ma, người thông tiếng Hindou lắm”. Samdhen nài nỉ hỏi vị đại lão Lạt ma ấy nói gì. Ông bộc bạch thiệt tình: “Có, nhưng tôi không thể nói lại cho huynh hiểu... Vì nghe qua thì hiểu, mà nói lại thật khó lắm!”.

hanhtrinh.jpg

Tháp tròn tại chùa Tây Tạng (Bình Dương) tạo hình theo phong cách mỹ thuật Tây Tạng - Ảnh: Giao Hưởng

Về lại Việt Nam

Sau hơn 5 tháng ở Lhasa (28.5 đến 29.10.1936), ông từ biệt Pháp vương Tây Tạng và các Lạt ma để lên đường về lại Việt Nam. Chuyến về lượt này đông hơn, vì có thêm 8 mã tử tháp tùng và 36 con ngựa thồ đồ đạc, với lộ trình phải trải qua từ Xhuxul, Bede, Namcachê, Ralum, Yăngsê, Khăngma, Kala, Tunna, Pharijong (trả ngựa), tiếp đến: Gialinkha, Chima, Natăng, Linhđam, Tchongthapa, Arakara, Kalimpong. Trên những chặng đường đó, ông ghé qua nhiều xóm làng tuyết phủ như Dranhđaziga, Yokăng, Samadước, Xhalu, vượt qua đỉnh Kharula, Nađăng, Zêlêla, ghé các quán gió hú hẻo lánh ở Nepal để uống vài ly trà nóng biệt ly... Đến chân dãy Himalaya, ông theo các tuyến xe lửa đi thấp dần xuống đồng bằng có nắng và đặt chân vào đất Ấn Độ, tới Calcutta, rồi xuống tàu đi Ceylon, hồi tưởng mới ở đỉnh núi tuyết lạnh lẽo, bây giờ tựa như chớp mắt ngủ dậy “sáng ra đã thấy biển mênh mông” quanh mình. Lên bờ, ông ra mắt “giáo chủ tại Đại học đường Pali” và nhận thêm một pháp danh tiếng Pali nữa: Manjusri (Manhgiusshri). Qua chuyến đi, ông ghi nhận tượng ngài Di lặc thờ ở Ấn Độ (và ở Tây Tạng) có khác với tượng Di lặc đang thờ ở Việt Nam (và Trung Quốc)...

Về lại Việt Nam, trong sáu năm từ 1944-1950, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo (tức thiền sư Nhẫn Tế - Minh Tịnh) đã dịch bộ Lăng Nghiêm tông thông (do Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi soạn), sau này được ấn hành bởi Thành hội Phật giáo TP.HCM, năm 1997, gồm hai tập, 1.463 trang (tái bản trọn bộ bởi NXB Tôn Giáo - Hà Nội 2002).

Giao Hưởng

nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay