Thiên Đồng

Ca Trù

3 bài viết trong chủ đề này

Trần Văn Khê : Ca Trù


Bề dầy lịch sử.


Ca trù theo một số chuyên gia , có thể sinh ra từ đời Lý ( thế kỷ thứ 11) hay muộn nhứt cũng từ đời Lê (thế kỷ thứ 15) cách nay hơn 500 năm. Có nhiều sách sử ghi lại lịch sử của Ca trù. Trong quyển « Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù « của Nguyễn xuân Diện do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành từ năm 2000 , tác giả đã cho chúng gta biết rằng tại Viện Hán Nôm, có tàng trử 39 quyển sách viềt bằng chữ Nôm vể Ca trù , 78 văn bia về thể lệ, sinh hoạt Ca trù. Và còn có 93 sách báo viết bằng chữ quốc ngữ về Ca trù.

Posted Image

Quách Thị Hồ - Đào nương bậc nhất thế kỷ 20

Chiều sâu của nghệ thuật.

Về mặt nghệ thuật thì Ca trù là một loại nhạc thính phòng vô vùng độc dáo.
Chỉ có 3 người mà nên đình nổi đám
Chỉ có 2 diễn viên một đào nương vừa ca vừa gõ phách, một người đàn đáy phụ hoạ và một người dánh trống chầu vừa tham gia vào buồi trình diễn bằng cách chấm câu , vừa phê phán khen thưởng bằng tiếng tom chát của trống để hướng dẫn người nghe biết tiếng ca lúc nào hay, tiếng phách lúc nào giòn, tiếng đàn lúc nào xuất sắc.
Nhạc và Thơ quyện nhau như bóng với hình
Người nghe một bài Ca trù thưởng thức được văn chương bóng bảy của câu thơ, thang âm, điệu thức dồi dào của nét nhạc, tiết tấu rộn ràng của tay phách, chữ đàn gân guốc hay bay bướm của nhạc công, không khí nghiêm trang hay rộn rã của buổi trình diễn nghệ thuật trong đó Thơ và Nhạc quyện vào nhau như bóng với hình.

Kỹ thuật hát tinh vi , độc đáo

Cách ém hơi, nhả chữ, đào nương không mở to miệng, gần như mím môi mà ca thì tròn vành rõ chữ, luyến láy khi đổ hột , lúc đổ con kiến, hơi trong cổ theo kỹ thuật "ậm ự" làm cho lời ca những đoạn buồn, như có tiếng khóc chẳng khác tiếng hát đặc biệt của người Á rập nghe "khàn khàn mà nức nở" xoáy lòng người nghe, khéo biểu diễn thì người cầm chầu không thể dằn lòng, phải thưởng tiếng hát với khổ chầu "xuyên tâm" , hay "song châu" .
Cổ phách, phách cái, phách con, cách gõ phách đặc biệt vô song
Đào nưong chẳng những hát hay mà tay phách phải vững : 5 khổ phách : sòng đầu, khổ đơn ( hay khổ giữa), khổ rải, khổ xiết, khổ lá đầu, cùng với tiếng đàn đáy đánh đoạn mở đầu. Lúc không hát, chỉ có tiếng đàn biểu diễn đoạn » lưu không « tiếng phách lại phải róc giòn cho người đàn thêm hứng..

Phách ca trù có môt không hai trên thế giới :

Phách là môt thanh gỗ hay thanh tre để trước mặt đào nương, gọi là cổ phách. Đào nương dùng hai dùi gỗ để gõ. Trong các nước trên thế giới, khi nhạc công gõ phách hay đánh trống, đều dùng hai dùi giống nhau.Chỉ có trong truyền thống ca trù hai dùi phải khác nhau. .
Hai dùi tròn dài, một dùi chuốc hơi nhọn ở phía đầu. Một dùi chẻ làm hai theo chiều dài nhưng cập lại để gõ. Dùi tròn, và nhọn, tượng trưng cho dương vật, dùi chẻ hai, là âm vật. Như vậy hai dùi là Dương Âm trộn hai tiếng khác nhau, một tiếng tròn, một tiếng dẹp, một tiếng cao, một tiếng thấp, một tiếng trong một tiếng đục, một tiếng nặng một tiếng nhẹ, một tiếng Dương một tiếng Âm, chen nhau, xen kẽ, pha trộn, khi gõ riêng từng dùi, khi gỏ hai dùi một lượt gọi là "chát" làm cho tiết tấu có nhịp hẵn hòi mà nghe như không có nhịp, thực mà như hư, có mà như không ,hiện mà như ẩn. Có chỗ tiếng phách bao trùm tiếng hát như làn sóng lượn, lúc điểm đều đặn chấm câu, gõ cùng một lượt với tiếng đàn và tiếng trống chầu.
Cách gõ phách làm người nghe hứng thú, không phải nghe tiếng gõ đều đều làm chán tai, mà có tiếng mạnh tiếng nhẹ như cách đánh castagnettes của người Tây ban Nha trong diệu hát flamenco, tiếng trống tabla va bahya của Ấn độ hay cách đàn Rubato đặc biệt của Chopin, khi tay trái đánh đều theo nhịp một cách rõ ràng, tay mặt tha hồ lả lướt trên phím ngà như mây bay, nước chảy không cần theo nhịp, và mang tên là "Rubato chopinesqueé. Trên thế giới chỉ có bốn thí dụ tôi vừa kể trên trong trăm ngàn cách đánh nhịp. Người Ấn độ hãnh diện với cách đánh nhịp như thế, và đã nghĩ rằng trên thế gian chỉ có bên Ấn độ là có đuợc Tala là tiết tấu nhịp điệu rõ ràng và Laya là nhịp mà như không có nhịp. Có người nhạc sĩ nói với tôi : Tala như bước đi của một người phụ nữ, đều đặn . Còn Laya là chiếc váy phất phơ theo bưóc đi. Ngưới ta nghe rõ và đếm đươc bước đi mà không đếm được cái phất phơ của chiếc váy.

Trong truyền thống Ca trù không có bài bản như trong Ca Huế hay đòn ca tài tử, mà có những "Lối", hay "Thể" theo danh từ dùng trong Ca trù biên khảo gần giống như Làn điệu trong Hát chéo và Hát bội.Lời thơ có trước Rồi nét nhạc tùy theo thanh giọng của câu thơ mà thể hiện. Nhưng cấu trúc âm thanh thì không thể sai.Thí dụ như có Ba thể điêu Bắc Phản , Mưỡu Hát nói mà có rất nhiều bài. Hát nói do nhiều nhà văn nổi tiếng đạt ra. Sách Ca trù biên khảo của hai tác giã Đỗ bằng Đoàn và Đỗ trọng Huể co ghi lại Dương Khuê,( 13 bài) Nguyễn công Trứ(52 bài), Cao Bá Quát,(16 bài ) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (12 bài) Vô Danh ( 38 bài)Trần Tế Xương (7 bài) Nguyễn Khuyến ( 6 bài)Nguyễn Quí Tân (5 bài)Nguyễn đức Nhu ( 6 bài) , Nguyễn văn Bình (9 bài) Cụ Ưng Bình ( 2 bài : nhưng thật ra Ông Cụ đã sáng tác mấy chục bài mà Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khuơng ái nữ của Cụ đã sưu tập ) Gân đây các Cụ Nguyễn Linh Ngọc, Chu Hà ngoài Bắc có rất nhiều bài. Cũng như trong Nam Nuyễn Quảng Tuân trong tập Ca trù Thú Xưa Tao nhã đã sáng tác hơn 70 bài hát nói với nhiều đề tài hiện đại như Ba lê cảm tác, những bài Hát cảm tác khi sang Nhựt, lúc sang Trung quốc .

Các thể rất nhiều.


Sách Ca trù biên khảo có ghi lại :

Khi Hát chơi tại nhà ả đào hay nhà quan viên 15 thể
Hát cửa đình 12 thể

Hát thi có 4 giai đoạn :
Vãn chỉ cần vài câu Gửi thư, ngâm vịnh để tỏ ra đào nương biết hát Giám khảo chứng nhận và cho phép vào hát Chầu thi.
Chầu thi có 28 khúc hát Giám khảo bảo hát khúc nào phải hát và sau khi trúng tuyển vào Chầu cầm ;
Chầu cầm có 17 khúc hát. Trúng tuyển Chầu Cầm mới đưọc vào giai đoạn chó là Hát lại hay Phúc hạch
Lúc thi giám khảo chấm hát, đàn ; Kỹ thuật xong mới đến nhan sac.
Và cuối cùng xét đến hạnh kiểm.
Giải nhứt là Thủ khoa ; Giải nhì Á nguyên
Đến đêm hát Giã đám, các đào nương trúng giải xếp hàng đôi :
Đứng đầu bên trái là Thủ khoa rội đền các cô giải ba, bớn, năm, sáu
Đầu hàng bên mặt là Á nguyên và tiếp theo giải bảy tám, chín mười

Sáng hôm sau đến lãnh thưởng :

Thủ khoa lãnh 30 quan tiền 10 vuông nhiểu điều, 1 cân trà Tàu và 1 cái quạt Tàu
Á nguyên lãnh 26 quan tiền 6 vuông nhiểu điều, nửa cân trà Tàu và một cái quạt Tàu
Từ giải ba 24 quan tiền trở xuống thì mỗi giải ít hơn giải trước 2 quan tiền 22, 20, 18 đến giải thứ 10 thì còn 10 quan tiền, không có nhiểu điều và trà Tàu mà chỉ có 1 quạt Tàu.
Xong rồi dự tiệc : ngoài các cổ cho chức sắc trong làng , Thủ khoa và Á nguyên ngồi một cổ, 8 cô từ giải 3 đén giải 10 chia ra ngồi 2 cổ. Thức ăn có giò, nem, ninh mộc,có sơn hào là hai con chim bồ câu hầm,và hải sãn là 1 con cua biển, 1 con cá trắm.
Mỗi cỗ có 2 bánh chưng, 2 bánh dầy, một mâm bánh đồ đường
Lúc ăn có nhạc bát âm giúp vui.

nguồn: http://www.tranquanghai.info

Share this post


Link to post
Share on other sites

CA TRÙ VIỆT NAM

Ca trù là một sản phẩm dân gian đã có lịch sử gần 1000 năm theo suốt chiều dài của Thăng Long – Hà Nội.
Tương truyền vào thời vua Lý Thái Tổ ( 1010 – 1028) đã từng có một ca nhi hát hay múa giỏi tên là Đào Thị biểu diễn xuất sắc dòng nhạc này và rất được vua khen ngợi.Người thời đó mộ danh tiếng của Đào Thị nên cứ phàm là con hát thì đều gọi là Ả đào vì vậy nên từ những ngày đầu ca trù được biết đến với cái tên hát ả đào.

Posted Image

Tuy vậy, ca trù lại có cội nguồn từ lối hát cửa đình - một lối hát tín ngưỡng thờ thành hoàng làng.
Lối hát cửa đình từ những ngày đầu được các trưởng tộc, trưởng làng dùng vào việc cầu trời đất, thánh thần. Lấy âm nhạc làm tín hiệu truyền lời thỉnh cầu của dân làng đến các đấng thần linh. Về sau, các bậc vua chúa cũng lấy dòng nhạc này để hát cúng trời đất và tổ tiên nơi thái miếu.
Theo như dân gian truyền miệng thì vào đời nhà Lê, Đinh Lễ - tự là Nguyên Sinh, người làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con nhà gia thế, tính tình phóng khoáng, không thích công danh bó buộc thường ôm cây đàn nguyệt đến bên bờ suối gẩy rồi hát để hoà với tiếng suổi chảy trong khe. Một hôm Nguyên Sinh đem đàn và rượu vào rừng thông để tiêu khiển bỗng nhiên gặp được hai cụ già. Đó chính là Lý Thiết Quài và Lã Động Tân ( hai vị trong bát tiên), hai vị tiên ông đưa cho Nguyên Sinh khúc gỗ ngô đồng và tờ giấy vẽ kiểu mẫu đàn rồi dặn đóng đàn theo kiểu mẫu như trong giấy. Tiếng đàn đó sẽ giải trừ được ma quỷ và mọi phiền muộn. Nguyên Sinh sụp xuống lạy tạ, lúc ngẩng lên hai vị tiên ông đã hóa ra đám mây trắng bay về lối tây.
Nhờ tiếng đàn kỳ diệu, Nguyên Sinh đã chữa được bệnh cho rất nhiều người. Một lần Nguyên Sinh đến Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, với tiếng đàn của mình Nguyên Sinh đã chữa khỏi bệnh cho cô gái tên Hoa, con gái của vị quan châu - Bạch Đình Sa khỏi bệnh câm. Cả nhà quan châu và dân làng mừng khôn xiết. Nhờ thế, quan châu đã tác thành cho Nguyên Sinh và Bạch Hoa nên duyên chồng vợ, sống với nhau rất hoà hợp. Nguyên Sinh đặt ra lối múa hát mới rồi lấy hai thanh tre vót thật đẹp để cho vợ gõ lên những mảnh gỗ theo nhịp mà hát. Sau đó hai vợ chồng từ biệt ông bà nhạc dẫn nhau về quê Nguyên Sinh là làng Cổ Đạm để lập nghiệp.
Ít lâu sau, Nguyên Sinh gặp lại hai vị tiên ông, được ghi tên vào tiên phả và cùng nhau hoá đi. Vợ Nguyên Sinh biết chuyện, bèn phát tán hết tài sản rồi đóng cửa dạy cho đám con em trong làng hát múa. Sau khi nàng lâm bệnh mà chết, dân làng Cổ Đạm và đệ tử nhớ ơn lập đền thờ gọi là đền Tổ cô đầu hay là đền Bạch Hoa công chúa. Triều đình phong tặng Đinh Lễ ( Nguyên Sinh ) là Thanh Xà Đại Vương, Bạch Hoa là Mãn Đào Hoa Công chúa.
Nhưng cho đến nay thì tư liệu chữ viết cho thông tin về ca trù sớm nhất là vào thế kỷ XV, trong “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của Tiến sĩ Lê Đức Mao soạn khoảng trước năm 1505 chép trong “ Lê tộc gia phả”. Bên cạnh đó, những tư liệu khảo cổ học sớm nhất ghi nhận ca trù là bức chạm khắc đàn Đáy, tìm thấy ở một số ngôi đình, chùa Bắc bộ thế kỷ XVI.
Ca trù tuy có nguồn cội từ lối hát dân gian nhưng khi vào đến chốn cung đình đã được sự nghiên cứu chỉnh sửa của các chuyên gia về âm luật trong chốn cung đình nên đã trở thành một bộ môn nghệ thuật sâu sắc, có tính thẩm mỹ cao. Thường được dùng trong các dịp yến tiệc, khánh tiết và tiếp đãi sứ thần.
Từ khi Thăng Long không còn là kinh đô nữa, dòng nhạc ca trù ngoài phần làm hát cúng, mang tính chất linh thiêng thì ca trù vẫn được những gia đình quan lại và những bậc hào hoa kẻ sĩ trong các Phường, Hội trên đất cố đô ưa chuộng.
Dòng nhạc ca trù ở đất Hà Thành vẫn phát triển theo nhịp sống riêng của nó. Nhưng vào đầu thế kỷ XX , lối ăn chơi của người phương Tây đã tràn vào Việt Nam, cả Hà Nội và các tỉnh thành lân cận rộ lên cơn sốt đào rượu. Các quán cô đầu thi nhau mọc lên và các chủ quán lợi dụng lối hát ả đào để câu khách bằng cách thuê vài cặp đào kép giỏi nghề cầm ca hát mua vui, còn các cô không biết hát thì chuốc rượu cho khách, các cô này thời đó được gọi là đào rượu.
Cho đến năm 1945, để lập lại sự lành mạnh của nền văn hoá mới, chính quyền đã dẹp nạn đào rượu nhưng do giận cá chém thớt, người dân Hà nội nói riêng và người dân cả nước nói chung cũng ác cảm lây với lối hát ca trù. Các đào nương, kép đàn đã từng một thời vang bóng cũng dấu phách, dấu đàn và không dám nhắc đến hai từ ca trù nữa. Dòng nhạc này cũng từ đó bị lãng quên và mất dần.
Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát là người có công đầu tiên trong việc tuyên truyền giá trị nghệ thuật của ca trù.
Năm 1976, Giáo sư Trần Văn Khê ở Pháp về đã tìm và thu băng giọng hát của bà Quách Thị Hồ và đem đi giới thiệu với thế giới. Năm 1978, Hội đồng âm nhạc quốc tế của Unesco và Viện nghiên cứu quốc tế về âm nhạc đã trao bằng danh dự cho bà vì công lao đặc biệt trong việc bảo tồn một bộ môn âm nhạc truyền thống có giá trị văn hoá nghệ thuật cao.
Năm 1977, mới bắt đầu thấy lác đác sống dậy làn điệu ca trù qua sóng của Đài Tiếng Nói Việt Nam.
Năm 1988, tại liên hoan tiếng hát âm nhạc truyền thống tại Bình Nhưỡng với sự tham gia của 29 quốc gia, băng ghi âm tiếng hát của bà Quách Thị Hồ đã đại diện cho Việt Nam được xếp thứ hạng cao nhất.
Và đến năm 1991, với sự nỗ lực của đào nương Lê Thị Bạch Vân câu lạc bộ ca trù Hà Nội ra đời và theo sau đó là một vài câu lạc bộ nhỏ lẻ tiếp bước thế nhưng tất cả đều chỉ dừng lại ở mức độ hoạt động tự phát.
Năm 2000, Liên hoan ca trù Hà Nội mở rộng lần thứ nhất được tổ chức với sự tham gia của nghệ nhân 14 tỉnh thành, trong đó nhiều nghệ nhân đã bỏ nghề cả nửa thế kỷ.
Phải đến năm 2002 với sự tài trợ của quỹ Ford, Cục nghệ thuật biểu diễn đã tổ chức được một lớp học trong hai tháng và dạy được ba bài hát.
Năm 2005, liên hoan ca trù toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức.
Và cũng trong năm 2005, Bộ Văn Hóa chỉ đạo Viện âm nhạc Việt Nam hoàn tất hồ sơ về ca trù để đề nghị Unesco công nhận ca trù là di sản văn hoá phi vật thể truyền miệng của nhân loại.
Theo tư liệu Hán Nôm thì ca trù có khoảng 99 thể cách, cho đến ngày hôm nay thì chúng ta chỉ còn lưu giữ được 26 thể cách và 3 thể cách không được tài liệu Hán Nôm ghi nhận nhưng đã được tư liệu tiếng ghi lại.

Nghe thử một bài Trà do NSND Quách Thị Hồ biểu diễn:

http-~~-//www.youtube.com/watch?v=eZl8EEJJyF0&feature=related


nguồn: http://vietnamcatru.com

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ca Trù

Ca trù có nhiều tên gọi, tuỳ từng địa phương, từng thời điểm mà hát ca trù còn gọi là hát ả đào, hát cửa đình, hát cửa quyền, hát cô đầu, hát nhà tơ, hát nhà trò và hát ca công. Đây là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, độc đáo và có ý nghĩa đặc biệt trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, âm nhạc, tư tưởng, triết lý sống của người Việt.

Ca trù đã được Hội đồng thẩm định di sản của UNESCO đánh giá như sau:

Ca trù đã trải qua một quá trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, được biểu diễn trong không gian văn hóa đa dạng gắn liền, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù thể hiện một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính sáng tạo, được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các tổ chức giáo phường. Những giáo phường này đã duy trì các cộng đồng có quan hệ mật thiết, tạo nên nét đặc trưng cho ca trù. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội nhưng ca trù vẫn có một sức sống riêng bởi giá trị nghệ thuật của nó đối với văn hóa Việt Nam.

Ca trù độc đáo ở không gian nghệ thuật riêng, nhạc cụ và thể thơ riêng biệt. Theo các nghệ nhân dân gian, ca trù có 56 thể thức hoặc giai điệu khác nhau, mỗi loại này được gọi là thể cách. Kỹ thuật hát rất tinh tế, công phu như thể ca sĩ nắn nót, trau chuốt từng chữ. Nhạc cụ được tinh giản với sự tương phản âm sắc đã làm tôn vẻ đẹp của từng thành phần tham gia hoà tấu.

Tham gia biểu diễn ca trù có ít nhất 3 người:

- Một ca sĩ luôn là nữ (gọi là "đào" hay "ca nương") hát theo lối nói và gõ phách lấy nhịp (phách là một nhạc cụ làm bằng gỗ hoặc tre, được gõ bằng 2 que).

- Một nhạc công nam giới (gọi là "kép") đệm đàn đáy cho người hát. Đán đáy là một loại đàn cổ, dài, với 3 sợi dây tơ và 10 phím đàn.

- Ngoài ra, còn có một người chơi trống hoặc đánh trống chầu (gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát). Sự tán thưởng mà "quan viên" dành cho người hát, hoặc bài hát được biểu lộ qua cách đánh trống. "Quan viên" đánh vào thành trống nhiều lần biểu lộ chỗ đắc ý. Nếu không hài lòng với người hát, "quan viên" đánh hai nhịp trống.

Đào hát ngồi trên chiếu ở giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Không gian trình diễn ca trù có phạm vi tương đối nhỏ và sự tham gia từ phía khán giả là rất cần thiết

Hát ca trù là nghệ thuật hát thơ, có một hệ bài bản phong phú quy định cho từng lối hát thờ, hát chơi và hát thi. Lời lẽ, ca từ của ca trù mang tính uyên bác, ít lời mà nhiều nghĩa, giàu chất thơ, mang nhiều cảm xúc, trầm ngâm, sâu lắng. Ca trù có đủ các thể loại từ trữ tình lãng mạn đến sử thi anh hùng, triết lý giáo huấn… đã thu hút sự tham gia sáng tác, thể nghiệm tài năng của nhiều văn sĩ và trí thức. Có hiểu thấu nội dung và nghệ thuật ngôn từ trong các bài ca cùng sự biểu hiện tinh tế của các ca nữ trong sự phối hợp nhịp nhàng với ngón đàn, khổ phách... mới thấy hết vẻ đẹp và giá trị của loại hình nghệ thuật này.

Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, đến giữa năm 2009 có 63 câu lạc bộ với khoảng 769 người (bao gồm 513 đào nương và 256 kép đàn và người đánh trống chầu) ở 14 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Ðịnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, TP. Hồ Chí Minh) trên cả nước có hoạt động thường xuyên và có kế hoạch luyện tập truyền nghề ca trù. Tuy nhiên, số nghệ nhân có thể hát được từ 10 làn điệu trở lên là rất hiếm. Tại Viện Âm nhạc hiện đã lưu trữ được 7 điệu múa ca trù và 42 bài bản ca trù. Các văn bản Hán Nôm về ca trù là 26 bản và khoảng 25 cuốn sách về ca trù.

Ca trù được công nhận là đã có đóng góp lớn vào văn hóa Việt Nam. Từ ca trù, một thể thơ độc đáo ra đời và trở nên có vị trí sáng giá trong dòng văn học chữ Nôm của dân tộc. Đó là thể thơ hát nói, được ưa chuộng qua nhiều thế kỷ. Ngoài ra, đàn Đáy và Phách đã trở thành những nhạc khí đặc trưng của ca trù, góp phần đưa ca trù trở nên một thể loại thanh nhạc kinh điển của Việt Nam. Với bề dày của lịch sử, chiều sâu của nghệ thuật và mang bản sắc dân tộc rõ rệt ca trù đã khẳng định được vị trí quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới.

Với sự đồng thuận, tự nguyện và hiểu biết đầy đủ của các cộng đồng hát ca trù, cùng với các kế hoạch hành động, trách nhiệm, cam kết, ủng hộ và hỗ trợ của các cơ quan nhà nước đối với việc bảo vệ di sản đã góp phần đảm bảo sức sống của ca trù. Và với những đặc tính ưu việt, sau bốn năm chờ đợi, kể từ khi Chính phủ cho quyết định đệ trình UNESCO xét duyệt, ca trù của Việt Nam đã được ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp vào ngày 1/10/2009 tại Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất.

Posted Image

Nghệ thuật hát ca trù. Ảnh: rockviet.

Ca trù được công nhận là Di sản thế giới


Chiều 1/10/2009, nghệ thuật ca trù vừa trở thành di sản văn hóa thứ tư của Việt Nam được UNESCO công nhận. Ca trù được xếp vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.

Tiến sĩ Lê Thị Minh Lý, Cục phó Cục di sản văn hóa, cho biết, theo Công ước UNESCO 2003, các di sản văn hóa phi vật thể đại diện của các quốc gia sau khi được đề cử, công nhận sẽ đăng ký vào hai danh sách: Di sản đại diện của nhân loại và Di sản cần được bản vệ khẩn cấp. Trước đó, hôm 30/9, Quan họ đã được công nhân là Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại.

Chia sẻ hạnh phúc khi hai di sản của Việt Nam đều được thế giới công nhận tại kỳ họp thứ tư của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO, đang diễn ra tại Abu Dhab, thủ đô Các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất, ông Phạm Sanh Châu - Tổng thư ký Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam - cho biết, so với quan họ, việc xét duyệt hồ sơ ca trù gặp nhiều khó khăn hơn. Vì ghi danh vào hạng mục cần được bảo vệ khẩn cấp, nên khi xem xét, các chuyên gia Hội đồng chuyên môn của UNESCO ngoài việc đánh giá giá trị di sản, còn phải xét đến các phương pháp quản lý, bảo tồn di sản trong đời sống văn hóa cộng đồng.

Tâm sự với VnExpress.net về sự ghi nhận của UNESCO với hai loại hình văn hóa của Việt Nam, nhạc sĩ Đặng HoànhLoan, người có nhiều năm nghiên cứu về ca trù, cho biết: "Đó là quyết định rất đúng, rất hay, rất phù hợp với đặc trưng của từng di sản. Nó giúp chúng ta, không chỉ các nhà quản lý mà cả cộng đồng, có ý thức hơn trong việc bảo tồn các loại hình văn hóa truyền thống".

Trong số 15 hồ sơ của 9 quốc gia đăng ký vào danh sách Di sản cần được bảo vệ khẩn cấp, có 12 hồ sơ được công nhận. Được ưu tiên ở danh sách này là những di sản liên quan đến nghệ thuật truyền khẩu, các phong tục tập quán xã hội mang tính chất tín ngưỡng, tâm linh. Trung Quốc (3 di sản), Mông Cổ (3 di sản) và Mexico (2 di sản) là những quốc gia có nhiều Di sản cần được bảo vệ khẩn cấp nhất.

(Minh Tâm tổng hợp)
nguồn: http://www.hanoitourist.com.vn
xem một bài trù:

http-~~-//www.youtube.com/watch?v=kDn8JsTvjks&feature=related

Share this post


Link to post
Share on other sites