Thiên Đồng

Tâm Linh Không Tôn Giáo

9 bài viết trong chủ đề này

TÂM LINH KHÔNG TÔN GIÁO
Hỏi và đáp

Hỏi: Chúng ta đều là con người và dường như tất cả chúng ta đều có cố chấp. Chúng ta sinh ra là như vậy. Vậy, mục đích được sinh ra với tất cả những cố chấp đó là gì? Chúng ta là một phần của tự nhiên nhưng trong chừng mực nào đó chúng ta lại có những cố chấp này. Tôi hiểu rằng tốt hơn là không có cố chấp nhưng tại sao chúng ta lại có những cố chấp đó? Thưa Ngài vấn đề này là như thế nào?

Trả lời: Đây là một câu hỏi thú vị. Chúng ta được sinh ra như vậy... Tôi không biết lý do tại sao! Ha! Ha! Ha! Đó là những điều chúng ta phải nghiên cứu. Bạn có nghĩ như vậy không? Tôi thực sự không biết tại sao lại như vậy, nhưng chúng ta có xu hướng đó. Tôi đoán đó là xu hướng hoặc thiên hướng được phát triển qua nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ kể từ vô thủy luân hồi tới tận ngày nay. Do vậy, chúng ta có thiên hướng và xu hướng mãnh liệt đó. Tôi cho rằng đó là lí do tại sao điều đó gần như xuất hiện đồng thời. Đó là lý do chúng ta có thuộc tính đó. Tuy nhiên, hiện nay thực sự có cơ hội để hiểu biết về điều đó. Đó là lí do tại sao chúng ta phải làm việc siêng năng. Thật không dễ dàng gì. Trên lý thuyết thì có vẻ dễ dàng nhưng trên thực tế thì lại không. Điều đó khó lý giải vì nó đã tồn tại từ bao đời nay.

Hỏi: Nếu như chúng ta va đầu vào một cánh cửa thì lập tức chúng ta nổi giận. Điều này có tự nhiên không? Tôi cho rằng việc cảm thấy tức giận vào thời điểm đó là chuyện tự nhiên.

Trả lời: Đúng, theo quan điểm của chúng ta thì điều đó tự nhiên. Theo quan điểm của chúng ta, điều đó rất tự nhiên...ha, ha, ha! Điều đó tự nhiên nhưng không phải là tự nhiên, bạn có hiểu không? Đừng hiểu sai điều đó... bất kể khi nào bạn trở nên tức giận với những điều này, thì theo quan điểm của tự nhiên, điều đó không tự nhiên. Nhưng theo quan điểm tương đối của chúng ta thì điều đó là tự nhiên. Đó là những điều tôi muốn nói.

Hỏi: Nhiều người trong số chúng ta đang vật lộn với tâm linh. Có những phương thức nào tốt nhất để nhận thấy một số hoạt động không tốt của chúng ta trên thế giới được dừng lại? Chẳng hạn, chúng ta có nên cấm săn bắn, cấm vũ khí hạt nhân và cấm chiến tranh. Chúng ta cần cấm đến mức độ nào?

Trả lời: Tôi không cấm điều gì cả! Ha, ha, ha! Nhưng vào thời điểm hiện tại việc cấm săn bắn, hoặc cấm điều này hay điều kia là một ý tưởng rất hay. Điều này rất tốt, nhưng nó sẽ không có ích gì! Nó không bao giờ là điều cốt yếu bởi vì mọi người cần có tri thức thực sự. Họ cần tìm ra cái đích trong chính bản thân họ, tôi sẽ nói đó là tâm linh. Có thể tôi đang nghĩ vị kỷ, nhưng họ phải ngăn cấm tất cả những điều này trong bản thân họ thông qua sự hiểu biết. Nếu không, tôi không biết cần phải cấm điều này hay điều kia đến mức nào. Tôi không thể trả lời được câu hỏi này nhưng dẫu sao việc phát triển tâm linh là phương thức cấm có hiệu quả nhất! “Việc cấm có hiệu quả” là sự giải thoát cho chính bạn và tạo cho bạn sự tự do. Đó là vấn đề. Lấy ví dụ như, một khi chúng ta hoàn toàn giải phóng bản thân thì bạn sẽ không đi săn. Bạn sẽ không làm điều gì tiêu cực. Bạn sẽ thành tựu giác ngộ như Đức Phật. Đức Phật không làm những điều vô nghĩa này bởi Ngài không có nhu cầu. Việc cấm đoán là bởi vì những hành động vô nghĩa như vậy bị tạo ra từ cạm bẫy vô minh.

Hỏi: Ngài có cho rằng khả năng thực hành tâm linh của chúng ta và việc vô chấp phụ thuộc vào đời sống trong quá khứ hay nghiệp không? Bởi vì dường như một số người thấy việc thực hành và cư xử theo cách này dễ dàng hơn? Điều đó có đúng không?

Trả lời: Điều này phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩnbị mà bạn đã làm trong đời trước hay là trong thời gian trước đây của đời này. Những người thấy rất dễ dàng thực hành tâm linh nhất định đã có sự chuẩn bị trước đó. Dẫu sao, tất cả chúng ta đều đang trải qua quá trình chuẩn bị đó. Một số người phải đỉnh lễ hàng trăm, hàng triệu lần, và phải làm điều này hoặc điều kia. Tuy nhiên, nếu như bạn không hướng đến một mục đích nào, vậy thì thực hành tâm linh có ý nghĩa gì? Ngay lúc này, có thể có người sẽ hỏi: “Thực hành tâm linh có ý nghĩa gì? Phải đỉnh lễ để làm gì? Việc cúng dường mandala để làm gì? Thiền định hoặc trì tụng để làm gì”? Nhưng bạn có một mục đích - đó là để hiểu rằng chẳng có gì cần phải hiểu! Ha, ha! Vậy đấy!

Hỏi: Hầu hết những người thực hành tâm linh đều có sự chấp thủ với các bậc Thầy. Ngài có thể chỉ dạy về vấn đề đó theo một cách tích cực không?

Trả lời: A!. Đó là một câu hỏi khó! Ha, ha, ha! Đây là một câu hỏi phức tạp nhất. Tôi đang cố gắng tìm ra một câu trả lời đơn giản. Thành thực mà nói, tôi không có chấp thủ với Thầy của mình. Đó là sự thật. Đó là lý do tại sao tôi không hiểu được tại sao các học trò của tôi lại có sự chấp thủ chặt chẽ với tôi đến vậy; bởi vì tôi không trải nghiệm theo cách đó. Khi tôi gặp bậc Thầy, ngay lập tức bậc Thầy chuyển hóa thành Đại thủ ấn (Mahamudra), Đại toàn thiện (Dzogchen) và con đườngTrung đạo (Madyamika). Vậy, không có điều khiến tôi chấp thủ. Bởi vậy, thật khó hiểu tại sao và bằng cách nào mọi người lại chấp thủ. Tôi chỉ có thể đoán được lý do những người thực hành khác lại chấp thủ bởi vì có thể đối với họ thì bậc Thầy giống như một người bạn đồng hành. Đồng thời cũng có bậc Thầy được coi là người làm tất cả mọi điều để hoàn thành tâm nguyện của những người khác. Thật tội nghiệp! Bậc Thầy đó phải trở thành người cha, người bạn, đồng nghiệp... mọi thứ! Tội nghiệp, bậc Thầy đó phải làm nhiều điều.Khi bạn dịch thuật ngữ “Guru”, có nghĩa là một người gánh nhiều trách nhiệm năng nề trên vai. Tôi nghĩ điều này là sự thật; bậc Thầy có nhiều thứ để đảm trách. Thực sự thì giờ phút bạn gặp bậc Thầy, bậc Thầy cần thực sự được coi là Trung đạo (Madyamika), là Đại toàn thiện (Dzogchen). bậc Thầy không nên được coi là một con người. Khoảnh khắc mà bạn thấy hình ảnh con người của bậc Thầy đó là lúc bạn chấp thủ – Bạn không phải nói thêm gì nữa. Đó chính là chấp thủ và tôi nói rằng đó không phải cách hoàn toàn phù hợp để tiếp cận với bậc Thầy. Đó là lý do tại sao trong Mật Thừa (Tantrayana) hay Kim cương thừa (Thừa bí mật) chúng ta luôn nói rằng bậc Thầy cần được coi là Kim Cương Trì (Vajradhara), Phật A Di Đà (Amitabha) hay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Có rất nhiều cách để diễn đạt vấn đề này. Điều này thực sự có nghĩa là bậc Thầy cần được coi như lý Trung đạo (Madyamika) hay Đại Toàn Thiện (Dzogchen). Tuy nhiên, ngay lúc này chúng ta rất khó để hiểu được lý Trung đạo (Madyamika), Đại Toàn Thiện (Dzogchen) hay Đại Thủ ấn (Mahamudra) là gì. Vậy, tạm thời các bạn sẽ được giới thiệu về bậc Thầy là Kim Cương Trì (Vajradhara), một Đức Phật có màu xanh dương, ngài có hình dạng và màu sắc riêng. Điều này không có nghĩa là bậc Thầy phải có màu xanh da trời, với một vương miện lạ, cầm trong tay những vật lạ và những gì tương tự như thế. Tôi không tin các bậcThầy có màu xanh da trời, màu trắng hay màu đỏ (giống như Đức Phật A Di Đà (Amitabha). Tôi không biết là tại sao chúng ta lại thích bậc Thầy có màu đỏ hoặc màu xanh da trời, nhưng đó là phương tiện thiện xảo để dẫn bạn đến với Đại thủ ấn (Mahamudra), đến ý tưởng rằng bậc Thầy là Đại thủ ấn. Đó là cách đúng đắn để tiếp cận bậc Thầy. Đừng bao giờ coi bậc thày là một con người. Chắc chắn là như vậy! Dĩ nhiên, hiện tại thì chúng ta chưa ý thức ngay được điều đó, vì vậy, chúng ta vật lộn với suy nghĩ bậc Thầy là một con người. Nếu bạn đã trải qua điều đó, thì trên đây là vài lời khuyên: bậc Thầy có hình tướng của con người nhưng thực sự chỉ để giúp bạn giác ngộ.Rốt cuộc đó là toàn bộ vấn đề. Tôi hi vọng rằng điều này sẽ giúp một vài người trong số các bạn nhận ra và thực sự tiến bộ để trưởng dưỡng chính bạn và cuộc sống của bạn. Phật, Pháp, hay tâm linh thực ra là quá trình phát triển lối sống của con người, từ đời này sang đời khác. Đó là điều chủ yếu mà bạn phải hiểu. Bạn đừng bao giờ quan trọng hóa tâm linh, tôn giáo, Trung đạo, thực hành tâm linh hay bậc Thầy. Các đệ tử đừng bao giờ quan trọng hóa! Các bạn nên cố gắng bình thường một cách tối đa trong mọi thời điểm. Đó là những gì mà tôi luôn muốn nói. Đôi khi có nhiều người bảo tôi rằng: “Ngài là người rất đặc biệt. Ngài rất vĩ đại, hay thế này thế khác!”. Lạy Phật, tôi không muốn nghe điều đó! Làm ơn đừng nói như vậy! Tôi muốn các bạn nói rằng: “Ngài là người rất bình thường”. Điều đó rất tốt. Tôi thích là người bình thường. Bạn nên có thái độ bình thường đối với mọi việc. Điều này rất quan trọng. Qua việc coi mọi chuyện là bình thường, bạn sẽ có khả năng phát triển lối sống, cuộc sống hàng ngày của bản thân, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng trong vòng quay sinh tồn của bạn. Đó là những điều tôi mong muốn từ tận đáy lòng mình. Sau khi nghe bài giảng của tôi, hoặc bạn có thể gọi là gì cũng được, sẽ có những điều đọng lại trong tâm trí khi bạn trở về nhà. Điều này rất quan trọng. Tôi cho rằng điều này sẽ hỗ trợ cho sự tiến bộ hàng ngày trong cuộc sống của bạn và giúp các bạn tìm ra cách sống trong nhân gian. Đó là mong nguyện của tôi và tôi đề nghị các bạn hãy giành thời gian suy nghĩ tường tận về những gì tôi đã nói. Nhất định điều đó sẽ có ích cho bạn. Nếu điều đó không giúp ích gì thì ít nhất nó cũng không gây hại. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Cảm ơn các bạn rất nhiều. Hẹn gặp lại các bạn, nếu như tôi vẫn còn trên thế gian này. Mọi thứ không bền vững, chẳng có gì là vĩnh cửu. Có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau nhưng không quan trọng là các bạn gặp tôi bao nhiêu lần, điểm cốt yếu là hãy suy ngẫm. Nếu bạn suy ngẫm về chủ đề này, thì việc gặp gỡ và nghe tôi nói chỉ duy nhất một lần cũng đủ cho toàn bộ cuộc sống của bạn rồi. Các bạn không nhất thiết phải gặp lại tôi đâu. Chỉ cần nói chào tạm biệt là đủ rồi! Điều đó không quan trọng vì giáo pháp ở đó, tôi luôn ở đó. Nếu giáo pháp và sự suy ngẫm đồng thời có mặt thì sẽ không có sự tách biệt. Nếu như bạn không suy ngẫm, thậm chí nếu như bạn ở với tôi, hoặc bạn đang ngồi trên nệm của tôi, hoặc tôi đến và ngồi lên nệm của bạn thì điều đó cũng không có nghĩa lý gì. Sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu sự suy ngẫm về giáo pháp không có mặt. Bởi vậy, nếu tôi đến và ngồi lên nệm của bạn thì điều đó chỉ là chuyện rắc rối! Bạn có thể nói: “A, thật đáng khinh, nhầm chỗ rồi!”. Vậy việc luôn yêu cầu người khác ngồi lên nệm của bạn mọi lúc có ý nghĩa gì? Đó là sự rắc rối! Điều thực tế là bạn thực sự phải biết suy ngẫm và tư duy kỹ lưỡng về những điều này. Nếu làm được điều đó, bạn sẽ đi đến đích của tâm linh.

Nguồn: Sprituality without Religion,The Dragon, December 2005 Issue
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

Trước hết, tôi xin chào mừng tất cả mọi người tới dự buổi trò chuyện của tôi. Thực sự thì đây không phải là một bài giảng pháp mặc dù dường như buổi trò chuyện này có không khí trang nghiêm. Vậy, trước tiên tất cả chúng ta hãy thư giãn. Chúng ta không nên gò ép mình vào một thái độ cứng nhắc và bảo thủ để lắng nghe chủ đề thuyết giảng này

Hãy cố gắng hoàn toàn thư giãn và mở lòng để đón nhận

Dù các bạn nghe bất kỳ một bài giảng nào, không chỉ riêng thể loại bài giảng này, trước hết, bạn phải hoàn toàn thư giãn và loại bỏ bất kỳ điều vô nghĩa nào, ít nhất cũng là trong lúc này. Tôi đang nói đến những điều vô nghĩa như: tôn giáo, truyền thống hay văn hóa. Hãy cố gắng hoàn toàn thư giãn và mở rộng tâm mình để đón nhận mọi điều. Bất kỳ vật chứa nào; đơn cử như chiếc va-li, phải được mở ra để tiếp nhận món đồ. Ngược lại, bạn sẽ được gì nếu bạn vẫn đóng kín chiếc va-li đó? Ngay cả khi có đồ vật nào đó dịch chuyển về phía chiếc va-li, cuối cùng chúng sẽ dừng lại trên nắp chiếc va-li đó. Tương tự như vậy, học sinh hay những người muốn lĩnh hội một vấn đề, ví dụ như: một bài giảng, một tri thức hay học vấn, trước tiên tất cả chúng ta phải thực sự thoải mái. Thậm chí chúng ta không nên nghĩ rằng mình đang lĩnh hội một bài giảng quan trọng. Không, tôi cho rằng điều này lại sẽ là một hình thức bảo thủ. Đó là điều bạn cần loại bỏ để thư giãn. Sau đó, nếu muốn, bạn sẽ có thể sử dụng bản chất hoặc trí tuệ của mình để có hiểu biết sâu sắc về vấn đề. Điều này không chỉ đúng trong việc tiếp thu bài giảng trực tiếp mà còn đúng với tất cả các bài giảng. Do vậy, thậm chí nếu bài nói chuyện của tôi là vô nghĩa, thì các bạn vẫn có được thành quả và giá trị cô đọng nào đó hơn là việc chỉ nghe một bài giảng hời hợt.Những bài rao giảng sáo rỗng khá phổ biến. Trong chừng mực nào đó, tất cả các bậc Thầy thuyết giảng cùng một nội dung. Một vài người có năng khiếu về thuyết giảng, một số người thì không. Một số người có năng khiếu diễn thuyết trong khi những người khác thì không có năng khiếu đó. Về phần mình, tôi không khá lắm, chủ yếu là do tiếng Anh của tôi bị sai. Nhưng cho đến nay, tôi đã giảng bằng tiếng Anh nói sai của mình có lẽ đã được hơn hai mươi năm. Tôi cho là dẫu sao việc này cũng vẫn có hiệu quả; vì thế, tôi vẫn can đảm tiếp tục công việc này. Khi ai đó đề nghị tôi thực hiện một bài giảng, một bài nói chuyện hoặc thậm chí là tham dự hội nghị, tôi sẽ thực hiện lời đề nghị đó. Do vậy, tôi nghĩ mình không có nhiều ràng buộc lắm. Như các bạn biết, tôi đang thư giãn để nói về bất kỳ điều gì tôi muốn. Nếu như có người không đánh giá cao điều đó thì phải làm gì đây? Hoặc nếu những người khác tán thưởng, thì tôi xin cảm ơn! Điều đó không thành vấn đề. Tôi chỉ nói ra bất cứ thứ gì xuất hiện trong đầu, bất cứ điều gì chợt hiện ra trong tâm trí. Tôi đoán đó là do có sự thư giãn. Nếu tôi có một thái độ cứng nhắc mang tính truyền thống, ý thức về sự phù hợp hay nghiêm túc thì tôi sẽ không thể làm được điều đó. Tôi sẽ không thể trò chuyện! Thứ nhất, tôi không biết tiếng Anh và thứ hai, tôi không chuẩn bị một chút nào, vậy tôi sẽ nói về vấn đề gì đây? Tôi cũng chưa liệt kê hay chuẩn bị bất kỳ sơ đồ nào, vậy tôi sẽ nói về vấn đề gì đây? Sẽ có quá nhiều khó khăn và tôi sẽ không thể thực hiện được. Hoặc là tôi sẽ làm được, song việc đó đơn thuần chỉ là vô nghĩa. Dẫu sao thì việc đó sẽ rất khó khăn. Thật khó cho tôi, và cũng khó cho các bạn – những thính giả.Vậy, những vấn đề mà tôi đang nói tới là gì? Điểm cốt lõi là thư giãn và mở rộng lòng mình. Thậm chí hiện tại trông chúng ta có vẻ rất nghiêm túc, nhưng từ bây giờ trở đi chúng ta hãy để tâm mình thư giãn tự nhiên. Không nên để bất kỳ sự vô nghĩa nào làm hao tốn năng lượng và làm các bạn mất tập trung. Thông thường, có khá nhiều điều vô bổ xuất hiện và bủa vây các bạn. Ngay cả khi bạn giỏi hoặc tinh thông về những chuyện đó, tâm trí bạn vẫn bị đắm chìm. Thầy giáo bị bủa vây, học trò bị bủa vây và mọi người bị bủa vây trong những điều vô nghĩa. Mặc dù những điều này thoáng qua nghe có vẻ rất thú vị, mọi thứ chỉ là trò đùa! Chuyện đó giống như chất dẻo; nó không thực sự đem lại kết quả. Bởi vậy, tôi luôn khuyến khích mọi người hãy thư giãn, với nghĩa là hiểu và nhận được bản chất của mọi việc chứ không phải những trò tiêu khiển mang tính hướng ngoại.

Không nên xem xét hay thực hành bất kỳ hình thức tôn giáo nào một cách bảo thủ

Điều này gợi cho chúng ta về chủ đề mà chúng ta thực sự muốn trao đổi: tôn giáo. Khi vào đền, chùa, hoặc những nơi thờ phụng, chúng ta gò ép mình trong một khuôn khổ bảo thủ vì chúng ta cố gắng tỏ ra cung kính. Dĩ nhiên, cung kính là tốt. Cung kính tốt hơn là không cung kính, nhưng cùng lúc đó, mọi người không nên bị gò ép hoặc bị xao nhãng bởi những điều vô nghĩa. Đó là lý do tại sao tôi luôn nói rằng không nên xem xét hay thực hành tôn giáo, bất kỳ một tôn giáo nào, một cách cứng nhắc. Tôn giáo cần luôn được coi như một loại thực thể tinh thần có cả trái tim và khối óc. Nếu cơ thể của một người không có trái tim thì người đó không tồn tại được cho dù các bộ phận khác của cơ thể vẫn rất khoẻ mạnh. Tương tự như vậy, nếu bạn không có bộ não, cơ thể của bạn sẽ trở thành vô dụng. Cũng giống như thế, tôn giáo phải có tâm linh. Bằng cách nào để có tâm linh? Đó là vấn đề! Đáng tiếc là không có nhiều người biết đến điều này. Trước hết, tôi không rõ về các bạn, nhưng nhiều người giống như tôi tuyên bố rằng mình là những người có tâm tín ngưỡng (có nghĩa là: một người đứng đầu về tôn giáo, một vị sư hay một người thực hành tôn giáo) thực sự không biết mình có tín ngưỡng đến mức nào. Thứ hai là, thậm chí nếu chúng ta là những người theo tín ngưỡng, chúng ta hiểu bao nhiêu về tâm linh, điều trọng tâm hay còn gọi là bản chất của tôn giáo? Chúng ta đang bỏ lỡ hai điểm lớn trong vấn đề này, khiến cuộc sống của chúng ta trở nên vô nghĩa.Về mặt phát triển cho bản thân chúng ta, không chỉ trong cuộc sống tinh thần mà cả trong cuộc sống vật chất hàng ngày, chúng ta không biết mình đang đi về đâu. Chúng ta không rõ mình đang làm gì mặc dù chúng ta có thể đang làm việc một cách cần mẫn đối với các công việc như: việc hàng ngày ở cơ quan và ở nhà. Nói một cách sâu xa, chúng ta không hiểu mình đang tiến về đâu, đang làm gì, chúng ta là ai và tất cả những điều tương tự. Chúng ta không trả lời được những câu hỏi này. Thậm chí, đôi khi chúng ta không đưa ra được bất kỳ câu hỏi nào... Tuyệt thật! Nếu như chúng ta không đặt câu hỏi bản thân mình là ai thì chúng ta sẽ không phải lo lắng! Đơn giản là chúng ta có thể quên mình là ai, đang làm gì và bằng lòng với điều đó. Tôi tin rằng điều đó rất hay nhưng thỉnh thoảng lại khiến mọi người trở nên u tối. Đôi khi, việc không đưa ra câu hỏi là hay nhưng cũng có thể khiến bản thân các bạn đi theo con đường vô minh và liên tiếp bị sự thiếu hiểu biết sai khiến. Mặc dù bạn có thể cảm thấy khá thoải mái và không kiếm tìm thêm bất kỳ điều gì khác; bạn sẽ vẫn chỉ ở trong tâm trạng rối bời. Kết quả là cuối đời hoặc cuối một giai đoạn phát triển nào đó của mình, bạn sẽ nhận ra rằng mình đang ở trong tình trạng khổ ải. Bạn sẽ thấy mình khốn khổ. Chẳng hạn, bạn có thể có một cuộc sống gia đình rất hạnh phúc trong một vài thập niên, nhưng cuối cùng, bạn có thể phát hiện ra rằng bạn thật sự chưa bao giờ sống một cuộc sống tốt đẹp hoặc hoàn hảo. Lúc đó, bạn sẽ thấy mình hơi lầm lạc và do đó sẽ cảm thấy rất đau khổ. Điều này thật đáng buồn! Nhiều người gặp phải vấn đề này. Đó là vì họ đang lừa dối hoặc tự đưa mình đi đến chỗ bế tắc. Nhưng họ luôn nói: “Tôi ổn. Tôi không quan tâm”. Sau đó, do thiếu hiểu biết nên họ tạo ra nhiều nghiệp chướng.


Những câu hỏi nhỏ thỉnh thoảng được đưa ra là câu hỏi rất quan trọng; bắt đầu bằng câu hỏi là điều rất quan trọng

Do sự vô minh của chúng ta, những hành động tiêu cực dẫn đến bầu không khí tiêu cực, nhưng chúng ta lại không hay biết điều đó. Cuối cùng, chúng ta nhận ra, không phải là nhận thức được nguyên nhân, mà là kết quả hoặc hậu quả của những việc mà ta đang làm trong những thập niên qua. Sau đó, chúng ta cảm thấy buồn và chán nản. Chúng ta trở nên tuyệt vọng mặc dù thực sự không đến mức vô vọng. Chẳng có gì là vô vọng cả nhưng mọi người lại cảm thấy thế. Vì vậy, tốt hơn là nên tự vấn một chút. Những câu hỏi nhỏ thỉnh thoảng được đưa ra là những câu hỏi rất quan trọng; bắt đầu bằng những câu hỏi là rất quan trọng. Thỉnh thoảng, những câu hỏi có thể mang tính học thuật quá cao nhưng điều này không quan trọng. Đừng lo lắng, tôi nghĩ rằng chúng ta không gặp phải trường hợp rủi ro này. Nếu như các bạn cảm thấy có sự rủi ro thì lúc đó bạn có thể kiểm soát chính mình và không đặt quá nhiều câu hỏi trừ những câu hỏi nhỏ về lối sống của bản thân. Những câu hỏi đó sẽ giúp các bạn thư giãn hơn, có tâm linh chứ không tạo ra tính cứng nhắc, theo truyền thống và những sự cục cằn. Đó là điều không tốt! Không nên giống như vậy.Có nhiều học giả hàng ngày đưa ra hàng ngàn câu hỏi cho bản thân, thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp. Họ chỉ tạo ra thêm căng thẳng cho bản thân mình. Tiếp đó, họ trở nên bực dọc với bộ mặt luôn bừng đỏ vì cau có. Họ không thực tế được vì tinh thần họ luôn lơ lửng. Câu hỏi của họ đưa ra như một cơn gió liên tục thổi, vì vậy họ không có dịp để trở nên thực tế. Đây cũng là sự trải nghiệm của tôi. Hồi tôi còn đi học, tôi rất bảo thủ và có nhiều thắc mắc. Tôi thích tranh luận với bạn học.Tôi rất thích làm điều đó. Đó là một trong những sở thích chủ yếu của tôi. Tôi có thể dành hàng giờ để tranh luận về những điều không đâu, trò chuyện hoặc tranh cãi về màu sắc của các loài hoa hay về bản chất của cây cối, các loại cột và những thứ tương tự như vậy. Tôi có thể thao thao bất tuyệt, tranh luận, gào thét nhiều giờ về một loại vật chất nào đó như một cái cột! Tôi thích điều đó nhưng nó chẳng giúp ích gì cho tôi. Đôi khi điều này khiến bạn viển vông và lạc lối. Bạn sẽ lạc lối giữa vũ trụ mênh mông. Tôi nghĩ rằng đó không thực sự là kết quả mà chúng ta muốn có. Chúng ta muốn có tâm linh.

Chúng ta muốn đưa ra bất kỳ câu hỏi và câu trả lời nào về bản thân và bản chất của chúng ta

Điều này có nghĩa chúng ta muốn đưa ra bất kỳ câu hỏi và câu trả lời nào về bản thân và bản chất của chính chúng ta. Đó là cách để đặt câu hỏi và nhận được kết quả xác thực. Những câu hỏi đó cần giúp bạn liên hệ với hiểu biết sâu sắc của bản thân. Đó là cách nên thực hiện. Những câu hỏi đó sẽ giúp bạn cảm thấy thư thái. Chẳng hạn, bạn nên đặt những câu hỏi: “Tôi gặp rất nhiều vấn đề như: vấn đề về gia đình, quan hệ, sức khoẻ, và công việc – Cuộc sống của tôi là gì?” Khi bạn đặt những câu hỏi về cuộc đời của mình, câu trả lời sẽ giúp bạn nhận ra những điều nằm trong chính bạn.Bất kỳ trải nghiệm nào trong cuộc đời đều là sự thể hiện của chính bản thân bạn. Điều này có nghĩa là nó phản ánh các quan niệm của chính bạn. Nhưng không nhất thiết có nghĩa là tôi đang nói rằng đó là sự thể hiện do bạn có suy nghĩ sai lầm. Bất kỳ ý niệm nào đều giống như một gương mặt. Nếu như bạn đứng trước một chiếc gương lớn với gương mặt này, bạn sẽ nhận được sự phản chiếu của chính mình. Đôi khi bạn có một ý tưởng tốt, khiến bạn hứng khởi. Thỉnh thoảng bạn có một suy nghĩ tồi và bạn nhận được sự phản chiếu tồi khiến bạn thấy buồn. Bằng cách này, mọi người cứ trở đi trở lại luẩn quẩn từ tốt sang xấu và từ vui đến buồn. Nói cách khác, bạn sẽ khổ sở và trở nên mất niềm tin. Dẫu sao, đó là cách mà chúng ta sống nhưng thực chất lại làm chúng ta rời xa khỏi tâm linh bởi vì nó không tạo cho ta cơ hội để suy ngẫm về bản thân, bản chất của chúng ta và bản chất của thế giới. Liệu các bạn có rõ là tại sao điều đó lại xảy ra với mình không? Đó là vì mọi người quá bận rộn hoặc bị cuốn vào việc suy nghĩ về những điều vô nghĩa. Đó là lý do.

Tất cả những điều tích cực hay tiêu cực đều là sự phản ánh trải nghiệm và suy nghĩ của con người

Sự phản ánh mà chúng ta đang nói đến là suy nghĩ của các bạn. Suy nghĩ đó tạo ra nhiều loại trải nghiệm khác nhau. Khi bạn cố chấp vào một suy nghĩ thì những trải nghiệm của suy nghĩ này sẽ xuất hiện và nảy sinh bằng những cách khác nhau. Một vài suy nghĩ có thể hiện tích cực và một vài suy nghĩ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực. Một số quan niệm dẫn đến những việc làm sai trái như: trộm cắp, lừa gạt và sát sinh.... Nhưng tất cả những điều này dù tốt hay xấu đều là sự phản ánh trải nghiệm và quan niệm của chính các bạn.

Tất cả chúng ta phải giữ lý Trung đạo, không thiên lệch về bất kỳ cực nào

Vậy, chúng ta với cương vị là những người thực hành giàu kinh nghiệm cần có khả năng duy trì con đường “Trung đạo”. Trong đạo Phật, Nagarjuna (Bồ Tát Long Thọ) là một bậc Thầy vĩ đại. Ngài là người rất từ ái và uyên thâm trong việc thuyết giảng về lý Trung đạo hay còn gọi là Madyamika. Điều cốt lõi của vấn đề mà Ngài thuyết giảng với giọng hùng biện sang sảng được gọi là Madyamika, là việc tất cả chúng ta phải duy trì lý Trung đạo. Điều này có nghĩa là không thiên lệch về bất kỳ cực nào. Trên thực tế, những cực này liên quan đến sự trải nghiệm mà tôi đã nói đến - sự trải nghiệm tiêu cực hoặc tích cực sẽ đem lại cho mọi người những sự phản ánh và thể hiện khác nhau. Chúng ta nên cân bằng buông xả tất cả những điều này, nhưng không nên buông xả những điều này một cách tiêu cực hay thiếu hiểu biết mà nên buông xả một cách tích cực, an lạc và hiểu biết. Mọi người nên tôn trọng những trải nghiệm này nhưng cũng nên buông xả. Vậy, có thể thực hành được điều đó không? Đó là cách tốt nhất.Tôn trọng là điều rất quan trọng. Bạn phải tôn trọng mọi thứ nhưng đồng thời cũng nên buông xả những điều đó. Đó là triết lý còn đang thiếu trong cuộc sống thường nhật của chúng ta; cùng lúc chúng ta vừa tôn trọng vừa buông xả. Đôi khi chúng ta tôn trọng một điều gì đó nhưng không thể thờ ơ với những điều đó...Chúng ta tiếp tục quan tâm và bị cuốn vào điều đó. Cho dù chúng ta có trải nghiệm gì đi chăng nữa thì chúng ta vẫn bị lôi cuốn vào chuyện đó một cách cuồng tín và mù quáng. Đó không phải điều nên làm. Đôi khi, chúng ta buông xả đi nhiều thứ nhưng lại có lòng hận thù và thiếu tôn trọng. Tôi có thể buông xả một chuyện vì tôi không coi trọng hoặc không thích chuyện đó; tôi căm ghét nó. Đó cũng là điều không đúng và không phải là thực h%2
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

“Lòng vị tha là nguồn hạnh phúc lớn nhất”

Đức Dalai Lama. Thái Hà chuyển ngữ
23/07/2011 13:32 (GMT+7)

Đức Dalai Lama tự coi mình là một thầy tu mộc mạc giản dị – một người dậy lúc 4 giờ sáng và sử dụng hàng giờ mỗi ngày vào cầu nguyện và thiền. Nhưng mọi nỗ lực không bạo lực để giải phóng đất nước Tây Tạng của Ngài đã khiến Đức Dalai Lama trở thành một biểu tượng quốc tế của hòa bình trong suốt bốn thập kỷ qua. Trong 46 quốc gia mà Đức Dalai Lama đã được mời tới thăm, hàng nghìn người đã tập trung lại để nghe Ngài nói chuyện về những điều Ngài tin là thông điệp ý nghĩa nhất – Lòng thương người là con đường chắc chắn nhất dẫn tới hạnh phúc.

Posted Image

Trong một chuyến đi của Đức Dalai Lama tới Washington và viếng thăm Tổng thống Bush, Đức Dalai Lama đã có cuộc gặp gỡ với Oprah Winfrey – người dẫn chương trình đối thoại nổi tiếng trên truyền hình Mỹ và là nhà xuất bản tạp chí danh tiếng. Trong suốt thời gian buổi nói chuyện, Người lãnh tụ nổi tiếng về tôn giáo chia sẻ tại sao những thứ vật chất không thể thỏa mãn tâm hồn nhưng lòng thương lại có thể, mỗi con người có thể tìm thấy bí mật cho một cuộc sống tràn ngập niềm vui như thế nào và bí mật đơn giản một cách đáng ngạc nhiên để có được sự không hối tiếc.

Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn giữa Oprah và Đức Dalai Lama được trích dẫn và dịch từ Tạp chí Oprah, Số tháng 8 năm 2001.

Oprah: Một người của nền văn hóa chú trọng đến chủ nghĩa duy vật có thể đạt được hạnh phúc thực sự như thế nào?

Đức Dalai Lama: Thậm chí khi một người có đầy đủ tiện nghi của cuộc sống - thức ăn ngon, nơi ẩn náu tốt, một người bạn đời- cô ta hoặc anh ta có thể vẫn không thấy hạnh phúc khi gặp phải một tình huống bi kịch. Những tiện nghi vật chất có thể không làm dịu bớt được những nỗi đau khổ tinh thần, và nếu chúng ta nhìn gần lại chúng ta có thể thấy rằng những người có nhiều của cải chưa chắc thấy hạnh phúc. Thực tế, giàu có thậm chí thường mang tới nhiều lo lắng hơn. Mặt khác, những người không có một cuộc sống giàu sang vẫn có thể có một ngôi nhà với tình thương, dựa vào những chọn lựa của họ để thỏa mãn và thực hành khả năng kiềm chế ham muốn bản thân. Thậm chí khi chúng ta có khó khăn về vật chất, chúng ta vẫn có thể rất hạnh phúc.

Oprah: Vậy thưa Ngài, hạnh phúc bắt nguồn từ trong ý nghĩ của chúng ta?

Đức Dalai Lama: Đúng vậy. Đó là tại sao hạnh phúc về tinh thần thường quan trọng hơn các tiện nghi vật chất. Các tiện nghi bắt nguồn từ vật chất. Nhưng vật chất không thể cung cấp cho bạn có suy nghĩ bình an.

Oprah: Đúng vậy thưa Ngài.

Đức Dalai Lama: Khi bạn không toại ý, bạn thường muốn nhiều hơn, hơn và hơn nữa. Mong muốn của bạn có thể không bao giờ được thỏa mãn. Nhưng một khi bạn thực hành sự bằng lòng, bạn có thể nói với bản thân, “Oh đúng – Ta đã có mọi thứ ta cần”

Oprah: Cái tôi thu nhận được từ cuốn “Nghệ thuật của sự hạnh phúc” là tình thương là chìa khóa cho sự thanh bình và suy nghĩ hòa bình. Nhưng Ngài có thể động lòng trắc ẩn với mọi người như thế nào khi bản thân Ngài đang phải chịu đựng, thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Khi một người trong một tình huống khó khăn, thì vâng, nó thật khó để phát triển tình thương to lớn tới người khác. Đó là tại sao tôi thấy khó khăn khi nói với những người nghèo, “Xin có tình thương tới những người triệu phú.” Điều đó không dễ. Và nhưng thậm chí người giàu có những nỗi khổ, lo lắng, nghi ngờ và sợ hãi của riêng họ. Bởi vậy, trong nhiều trường hợp, người giàu có không hạnh phúc! Và có lúc họ thỉnh thoảng phải chịu sự đau khổ tinh thần khi đối mặt với những khó khăn nhỏ nhiều hơn so với những người đối mặt với những khó khăn này thường ngày.

Oprah: Phật giáo là một hướng đi tới hạnh phúc đúng không, thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Chắc chắn – mặc dù một vài người có ấn tượng rằng Phật giáo nói quá nhiều về nỗi khổ. Để trở nên phát đạt, một người ban đầu phải làm việc thật chăm chỉ, bởi vậy anh hoặc cô ta phải hi sinh nhiều thời gian rảnh rỗi. Tương tự, Phật tử sẵn sàng hi sinh các tiện nghi để anh ta hoặc cô ta có thể đạt được hạnh phúc dài lâu. Và để phát triển quyền năng hi sinh, bạn đầu tiên phải nhận ra rằng sử dụng toàn bộ thời gian và năng lượng của bạn theo đuổi các tiện nghi vật chất nghĩa là rốt cuộc bạn sẽ đau khổ. Nó là tất cả kết cục tốt và xấu và điều quan trọng khi nhận thức rằng có những kết cục lâu dài (cho từng hành động).

Oprah: Mặc dù Ngài tin rằng Phật giáo là hướng đi tới hạnh phúc, Ngài khuyến khích người khác duy trì niềm tin của riêng họ đúng không thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Đúng vậy. Tôi luôn đề cao rằng an toàn và tốt hơn là để mỗi người giữ niềm tin tôn giáo của riêng họ. Những tôn giáo chính thống khác đã tồn tại hàng nghìn năm và có truyền thống lâu đời.

Oprah: Ngài có tin rằng một ai đó có thể là người Thiên chúa giáo và vẫn thực hành Phật giáo không thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Có, tôi nghĩ vậy. Có những kỹ năng của Phật giáo, ví dụ như thiền mà bất kỳ ai có thể sử dụng. Và tất nhiên có nhiều linh mục Thiên chúa giáo và tăng ni cũng sử dụng các phương pháp Phật giáo để phát triển lòng mộ đạo, tình thương và khả năng tha thứ của họ.

Oprah: Chức năng tôn giáo phục vụ trong đời sống của chúng ta là gì vậy thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Nó giúp chúng ta phát triển tình thương, sự quan tâm và tôi nghĩ, một ý thức có mục đích.

Oprah: Và cái gì là mục đích của chúng ta ở đây trên trái đất này?

Đức Dalai Lama: Để giúp người khác.

Oprah: Như vậy lý do chính mà chúng ta tồn tại trên hành tinh này là để phục vụ người khác phải không, thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Đúng vậy.

Oprah: Một người có thể tốt mà không cần thực hành tôn giáo không?

Đức Dalai Lama: Có, và anh hoặc cô ta cũng có thể hạnh phúc.

Oprah: Liệu mọi người có thể hạnh phúc không, thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Có thể - tất nhiên. Và nó đáng giá cho bất cứ ai nỗ lực để đạt hạnh phúc. Giống như mục đích của một cái cây là lớn lên, thì mục đích chính của con người là sống sót và phát triển tới lúc chết. Đến chừng nào sự phát triển tinh thần được quan tâm, chúng ta không bao giờ nên tự mãn. Chúng ta có thể phát triển suy nghĩ của chúng ta mãi mãi – không có một giới hạn nào. Rất nhiều trong chúng ta không bằng lòng với những của cải chúng ta có, nhưng chúng ta bằng lòng khi chúng ta đạt tới sự phát triển tinh thần. Đó là sai lầm của chúng ta.

Oprah: Nếu tất cả chúng ta hiểu rằng mục đích duy nhất của chúng ta là giúp người khác, liệu cái đó có thay đổi được nhân loại không, thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Có và sự hiểu biết bắt đầu thay đổi thái độ của chúng ta. Chúng ta phải nhận ra rằng tốt nhất là tập trung vào tính duy nhất của chúng ta, chú trọng tới sự giống nhau trong mỗi chúng ta hơn là chăm chú vào cái khác biệt. Vâng, có những sự khác biệt giữa chúng ta. Nhưng nó không phù hợp để đề cao, bởi vì tương lai của tôi và của bạn được kết nối với tương lai của những người khác. Vậy chúng ta phải thực sự quan tâm tới toàn nhân loại. Khi chúng ta tập trung vào cá nhân chúng ta, nhân loại chắc chắn đau khổ. Và một khi nhân loại đau khổ, mỗi người chúng ta cũng sẽ chịu đau khổ.

Ví dụ, vài phút trước có một chuông báo cháy trong tòa nhà này. Tôi phản ứng ngay lập tức – không phải bởi tòa nhà này là một phần cơ thể tôi mà bởi tôi đang ở trong nó. Đó là tại sao tôi phải quan tâm tới nó. Tương tự, khi chúng ta yêu nhân loại hay không, chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta là một phần của nó. Tương lai của tôi phụ thuộc hoàn toàn vào tương lai của nhân loại, và bởi vậy tôi buộc phải quan tâm đến nhân loại. Đó là tại sao động lòng trắc ẩn thực tế là mối quan tâm lớn nhất của riêng tôi. Và một dấu hiệu về suy nghĩ hòa bình của riêng tôi đó là tôi có thể chia sẻ tiện nghi với người khác xung quanh tôi.

Oprah: Không thực hành lòng biết ơn cũng ảnh hưởng tới cuộc sống của chúng ta giống như cách mà tình thương ảnh hưởng đúng không, thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Thực sự như vậy. Khi bạn thực hành sự biết ơn, có một ý thức tôn trọng tới người khác.

Oprah: Đúng như vậy. Bây giờ chúng ta có thể nói về Ngài được không? Khi Ngài được phát hiện ra lần đầu tiên là Dalai Lama, Ngài có cảm thấy có một cái gì đặc biệt về mình không?

Đức Dalai Lama: Không có.

Oprah: Không có một phần nào trong ngài thấy rằng mình khác biệt sao?

Đức Dalai Lama: Thỉnh thoảng, tôi có cảm giác đấy, tôi có thể cảm thấy một vài tác động từ các kiếp trước. Vào những buổi sáng sớm, khi tôi đang nửa tỉnh nửa mơ, suy nghĩ của tôi rất rõ ràng. Và khi tôi ở trong tình trạng này, tôi đã từng có những thoáng hiện của ký ức từ những kiếp trước trong đó tôi nhận biết có những trường hợp từ một hai thế kỷ trước. Một lần tôi có cảm giác tôi ở Ai Cập 600 năm trước.

Oprah: Ngài có cảm thấy mình khác biệt so với hầu hết người khác không?

Đức Dalai Lama: Không, không có.

Oprah: Vậy giống mọi người khác, ngài làm chủ bản thân ngài phải không thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Đúng vậy

Oprah: Nhưng ngài cũng không làm chủ bất kỳ ai khác?

Đức Dalai Lama: Thực như vậy

Oprah: Lớn lên, ngài có nhớ có một thời thơ ấu bình thường không?

Đức Dalai Lama: May mắn thay, tôi đã có nhiều bạn chơi mặc dù hầu hết họ đã trưởng thành.

Oprah: Ngài đã từng bao giờ muốn có một gia đình hoặc trẻ con?

Đức Dalai Lama: Không. Khi tôi khoảng 15, 16 tổi, tôi có một vài sự quan tâm. Đó là sinh học. Nhưng sau đó một vài người bạn lớn tuổi hơn mà là nhà sư sau này đã trở thành người thế tục, và họ đã nói cho tôi về một vài sự phức tạp của việc điều hành một cuộc sống gia đình. Tất nhiên, có những niềm vui to lớn trong việc có một gia đình, nhưng cũng có rất nhiều vấn đề khác.

Oprah: Tôi vừa đọc thấy rằng Ngài sử dụng nhiều giờ trong một ngày để thiền. Giá trị mà thiền mang lại cho những người thậm trí không phải là Phật tử là gì?

Đức Dalai Lama: Thiền có giá trị cho tất cả nhân loại bởi vì nó bao hàm việc hướng vào nội tâm. Con người không phải theo tôn giáo để nhìn vào bên trong bản thân họ một cách cẩn thận. Nó có tính xây dựng và đáng giá để phân tích tình cảm bao gồm cả lòng thương và ý thức chăm sóc của chúng ta, bởi vậy chúng ta có thể trở nên bình tĩnh và hạnh phúc hơn. Lòng căm thù, ghen tỵ và nỗi sợ cản trở ý nghĩ hòa bình. Ví dụ khi bạn tức giận hoặc không tha thứ, bạn sẽ liên miên chịu nỗi khổ tinh thần. Tốt nhất nên bỏ qua hơn là phá hỏng ý nghĩ hòa bình của bạn với những cảm xúc mệt mỏi.

Oprah: Ngài dường như có rất nhiều niềm vui. Cái gì khiến cho Ngài hạnh phúc vậy, thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Tôi không đòi hỏi bản thân quá nghiêm trọng. Điều đó khiến tôi hạnh phúc.

Oprah: Một ngày hoàn hảo đối với Ngài là gì?

Đức Dalai Lama: Không bao giờ có một ngày hoàn hảo vì không có sự hoàn hảo trên thế giới.

Oprah: Vậy cái gì tạo nên một ngày tốt đẹp – một ngày mà Ngài thấy thực sự vui và cười rất nhiều?

Đức Dalai Lama: Tôi thực sự thích làm vườn và các đồ cơ khí. Và khi tôi có thời gian rỗi, tôi sử dụng một phần để đọc sách và học – chủ yếu là sách Phật giáo Tây Tạng cũng như các chủ đề ưa thích của tôi như tình thương và lòng vị tha. Trong những ngày đó khi tôi có thể sử dụng vài giờ để nhận được sự hiểu biết, tôi cảm thấy thỏa mãn. Tôi cảm giác như thể tôi đã sử dụng thời gian thật tốt.

Oprah: Ngài làm việc quá chăm chỉ và du lịch nhiều bởi vì Ngài muốn chú ý tới những gì đang xảy ra với người Tây Tạng đúng không?

Đức Dalai Lama: Không cần thiết. Như sáng nay tôi đã đọc một bài báo nói một vài thứ như “Đức Dalai Lama thăm sáu thành phố để giảng giải về sự áp bức người Tây Tạng của Trung Quốc”. Điều đó là sai. Tôi chưa từng ở bất cứ địa điểm nơi mà tôi không được mời đầu tiên. Và về lời mời, nếu tôi cảm thấy có khả năng đóng góp cho nhân loại, tôi sẽ làm theo mặc dù mệt mỏi.

Oprah: Ngài sẽ không hạnh phúc nếu người Tây Tạng không đạt được độc lập trước khi Ngài qua đời đúng không?

Đức Dalai Lama: Nếu tôi chết hôm nay, tôi sẽ có một vài mối bận tâm với người Tây Tạng. Nhưng bây giờ tôi biêt rằng cá nhân tôi đã làm nhiều như tôi có thể sử dụng sự tồn tại của mình cho người khác. Bởi vậy tôi không hối tiếc.

Oprah: Không một cái gì sao thưa Ngài?

Đức Dalai Lama: Đúng vậy.

Oprah: Ngài đã từng bao giờ tha thứ cho bản thân Ngài vì một cái gì chưa?

Đức Dalai Lama: Tôi đã từng phải tha thứ cho bản thân vì một số thứ nhỏ nhặt như chẳng may giết chết một côn trùng. Thái độ của tôi đối với muỗi và bọ gường không được hòa bình hoặc ưa thích cho lắm.

Oprah: Ngài đã từng bao giờ tha thứ cho bản thân Ngài vì bất kỳ lỗi lầm lớn nào chưa?

Đức Dalai Lama: Tôi mắc lỗi nhỏ hàng ngày. Nhưng lỗi lầm lớn ah? Dường như không. Tôi kiểm tra sự phục vụ của tôi với người Tây Tạng và với nhân loại và tôi đã làm nhiều như tôi có thể trong cuộc đời của tôi.

Oprah: Câu hỏi cuối cùng: Hàng tháng tôi đều làm một mục trong quyển tạp chí tên là “Cái tôi Biết chắc chắn”. Vậy cái gì Ngài biết chắc chắn nhất?

Đức Dalai Lama: Lòng vị tha là nguồn hạnh phúc lớn nhất. Không có nghi ngờ gì về điều này. http://www.oprah.com...-The-Dalai-Lama
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sodpa – Nhẫn Nhục Ba La Mật

Posted Image

Ngày 23 tháng 7 tại Nyoma, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đã khai thị hoàn toàn bằng tiếng Ladakh về chủ đề Sodpa tức “Nhẫn nhục ba la mật”. Sau đây là phần trình bày tóm tắt nội dung bài giảng pháp của Ngài:

Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành quan trọng nhất trong Bồ tát đạo. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa. Trước hết, khi bạn đang đau khổ tột cùng, đừng bao giờ buông xuôi và nản chí. Bạn cần lạc quan và tiếp tục thực hành thiện hạnh. Bạn cần phải kiên trì thực hành Phật Pháp. Chúng ta đã thực hành và nghe thuyết pháp rất nhiều, vậy mà dường như chúng ta chẳng hề tinh tấn và tiến bộ. Đó chính là vì chúng ta thiếu mất Sodpa.

Bất cứ khi nào cảm thấy vui sướng hạnh phúc, bạn đều dễ bị trôi lăn lạc bước. Bạn không biết tự thỏa mãn, bằng lòng, và tâm bạn luôn tràn đầy kiêu mạn tự hào. Chẳng hạn, nếu bạn là người giàu có nhất trong làng, bạn cảm thấy rất tự hào về mình và coi thường người khác. Có được sự giàu có và sức khỏe là điều rất tốt, bởi lẽ ai cũng cần có tài bảo và sức khỏe, nhưng đừng nên ngã mạn. Nếu bạn giàu có, hãy biết cảm ơn những nghiệp thiện mình đã tích lũy thay vì coi thường người khác.

Là người mạnh mẽ, đẹp đẽ, khỏe mạnh hay giàu có không nên là lý do khiến bạn trở nên ngã mạn, vì ngã mạn sẽ mang lại kết quả không tốt đẹp. Thí dụ, nếu bạn xinh đẹp và hãnh diện về vẻ đẹp của mình, bạn sẽ phải chịu nhiều đau khổ khi nhìn thấy chỉ một vết nhăn hay một cái mụn nhỏ nổi trên mặt. Lúc này đây, trước mặt tôi, tất cả chúng ta đều có làn da cháy nắng, đen đủi và nhăn nheo. Thật đáng tri ân vì chúng ta xấu xí, như vậy chúng ta sẽ không có cơ hội để ngã mạn và vì thế chúng ta sẽ không phải gánh chịu khổ đau. Ha! Ha! Ha!

Nếu bạn đang hạnh phúc, bạn không nên để mình lạc bước hay vui mừng quá độ. Bạn cần biết vì sao mình có được hạnh phúc và không nên kiêu mạn vì những gì mình đang có. Mỗi khi có được quyền lực và sự giàu sang, bạn phải hiểu rằng những điều đó rất vô thường và sẽ không trường tồn bền lâu.

Sodpa có nghĩa là bạn không nên kiêu mạn về bản thân khi mọi điều suôn sẻ thuận lợi đến với mình, và bạn không nên buồn rầu khi những người khác làm tốt hơn bạn, thay vì thế bạn cần phải hoan hỷ giống như chính mình đang thành công như họ vậy.

Thời xa xưa, vua chúa là những người có quyền lực. Họ dùng quyền lực để xây dựng nên rất nhiều thành lũy, cung điện, người dân chẳng có lựa chọn nào khác và buộc phải tuân theo. Giờ đây, tất cả những gì còn lại từ những công trình vĩ đại ấy chỉ còn là đất đá và đổ nát. Những vị vua đó đều đã qua đời từ lâu và bạn chỉ có thể biết tới những thành tựu lớn lao của họ qua những trang sử sách còn lưu lại. Điều này cho chúng ta thấy mọi thứ đều vô thường. Vì vậy, chúng ta cần thực hành Sodpa mỗi khi cảm thấy hạnh phúc hay bất hạnh.

Chúng ta luôn nghĩ và tin tưởng rằng tiền bạc là tất cả. Nếu có được tiền bạc, chúng ta sẽ có thể xoay chuyển được cả thế giới. Và để có được tiền, người ta sẵn sàng làm mọi điều xấu xa. Rất nhiều người trong chúng ta tin rằng nếu giàu có, chúng ta sẽ hạnh phúc. Nhưng sự thực lại không phải như vậy.

Sodpa thực chất chính là sự thực hành Bồ tát đạo. Nếu không có Sodpa thì sự thực hành Bồ tát đạo sẽ không thể nào viên mãn. Cho dù chúng ta có thực hành bất cứ pháp nào, như Lục độ Ba La mật hay bất cứ một công hạnh nào khác, chúng ta đều cần thực hành Bồ tát đạo với tình yêu thương và lòng bi mẫn. Nếu không có tình yêu thương và lòng bi mẫn, chúng ta sẽ không thể thực hành Lục Độ Ba La Mật cũng như mọi thiện hạnh khác.

Vạn Pháp đều không nằm ngoài từ bi và tính không. Từ bi là phạm trù vô cùng rộng lớn và tính không vô cùng sâu xa. Từ và bi giống như những đội quân đóng ở biên phòng để canh giữ biên giới cho tổ quốc, chống lại mọi thế lực thù địch. Chẳng hạn như đội quân biên phòng có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc ở biên cương, nếu chỉ đi người không thì quả thật là điều vô cùng ngu ngốc và vô nghĩa. Họ cần phải được trang bị vũ khí. Tương tự như vậy, bạn cần phải được trang bị tâm từ và tâm bi để có thể chống lại những xúc tình tiêu cực hiện tướng của ngũ độc, tức là sân giận, tật đố, chấp thủ, vô minh và ngã mạn. Vì vậy, nếu bạn tìm kiếm giác ngộ, bạn cần phải thực hành vì lợi ích của hữu tình chúng sinh. Nếu không có sức mạnh của tình yêu thương và lòng bi mẫn, bạn sẽ không thể đạt tới giác ngộ. Khi bạn thực hành tâm từ và tâm bi với động cơ chân chính, sự thực hành sẽ thực sự che chở và giúp đỡ cho bạn có thể chinh phục mọi xúc tình tiêu cực và vượt qua mọi chướng ngại. Thí dụ, có một lần Đức Phật, với tâm đại từ đại bi đã thành thục viên mãn, bị người em họ Ngài là Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) đem tâm đố kỵ âm mưu ám hại. Devadatta định hãm hại Đức Phật bằng một hòn đá tảng, nhưng hòn đá lại lăn xa khỏi người Đức Phật rồi quay vòng trở lại. Một thí dụ khác, Đức Phật đã gặp một đàn voi say điên cuồng giết hại mọi người và phá hoại nhà cửa. Khi tới gần Đức Phật, chúng bỗng trở nên hiền lành, bình tâm trở lại, và quỳ lạy dưới chân Đức Phật. Không ai có thể kiểm soát được đàn voi ấy, nhưng với lòng từ bi, Đức Phật đã có thể chế ngự được chúng.

Posted Image

Nhờ thực hành trưởng dưỡng tâm từ bi, Đức Phật đã hoàn toàn chuyển hóa sân giận, vô minh, bám chấp cũng như mọi xúc tình tiêu cực khác trong tâm mình. Nếu bạn không thể phá bỏ được những xúc tình tiêu cực ấy, không thể kiểm soát được tâm sân giận của mình, có thể rốt cuộc bạn sẽ giết hại kẻ thù của mình. Gia đình họ hàng quyến thuộc của kẻ thù sẽ truy đuổi bạn và kết quả là bạn có thêm nhiều kẻ thù hơn. Nếu giết hại 100 kẻ thù, bạn sẽ có thêm 5,000 kẻ thù khác. Bạn sẽ chỉ làm tăng thêm chứ không làm giảm đi những quả báo bất thiện. Vì vậy, nên bạn đừng nghĩ tới chuyện loại bỏ kẻ thù bên ngoài của bạn, thay vì thế, bạn cần phá hủy tâm sân giận bởi đó chính là kẻ thù bên trong của bạn.

Như vậy, số lượng kẻ thù sẽ tăng lên hay giảm đi chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào mình bạn. Tam độc hay ngũ độc được coi là kẻ thù bên trong của bạn, còn mọi người, chúng sinh hay hoàn cảnh đều được coi là kẻ thù bên ngoài. Chúng ta vẫn thường cố gắng hết sức để phá hủy những kẻ thù bên ngoài mà không hề biết rằng chỉ cần phá hủy được kẻ thù bên trong, mọi kẻ thù bên ngoài sẽ hoàn toàn biến mất.

Khi sân hận, bạn chiến đấu và giết hại kẻ thù, rồi sau đó bạn cảm thấy rất tự hào về mình. Nhưng đối với một con người, đây là điều tệ hại và xấu xa nhất không được phạm phải. Xét từ góc độ từ bi nhân ái, từ góc độ tâm linh hay thậm chí từ góc độ xã hội, sân giận là một điều vô cùng xấu xa. Mọi người có thể sẽ không chê bai trước mặt bạn, nhưng khi vắng mặt họ sẽ nói với nhau “Không nên gần gũi người đó”. Vì vậy chúng ta cần phải kiểm soát được tâm mình.

Nếu nói về tài bảo thế gian thì có bao nhiêu cũng không bao giờ đủ. Hôm nay bạn có thể có 10 đô la nhưng bạn vẫn ước ngày mai có 20 đô la, và mỗi ngày ước muốn đó càng tăng lên. Bạn không bao giờ mãn nguyện. Điều này giống như uống nước muối khi bạn đang khát. Càng uống bạn càng thấy khát. Đó chính là hậu quả của lòng tham muốn hay dục vọng. Cách đối trị là mỗi ngày bạn cần kiểm soát sự tham muốn trong nội tâm. Chẳng hạn khi thấy một thứ gì đẹp đẽ, tâm tham muốn bên trong của bạn lập tức muốn có được thứ đó. Nhưng bạn cần kiểm soát tâm mình bằng cách từ bỏ ham muốn đó. Mỗi ngày, từng ngày một, từng chút một, bạn làm như vậy, rồi sẽ tới một ngày bạn kiểm soát được tâm mình.

Chẳng hạn, nếu bạn nghiện thuốc hay nghiện rượu, bạn sẽ không thể bỏ được ngay một lúc. Cho dù bạn có phát nguyện, rồi cuối cùng bạn cũng sẽ không làm được. Vì thế, hãy cố đừng giữ bất cứ điếu thuốc nào trong túi, đừng đi chơi với những người bạn thích uống rượu. Hãy đề nghị bạn bè đừng uống rượu hay hút thuốc trước mặt bạn. Nếu bạn có thể thực hiện điều này từng chút một, có khi bạn chưa kịp nhận thấy thì bạn đã từ bỏ được thói quen xấu đó rồi. Nếu không, khi gặp gỡ bạn bè, có thể vì lịch sự, bạn sẽ uống một chút rượu hay hút một điếu thuốc. Và bạn tự nhủ rằng chỉ một lần này thôi thì cũng chẳng hại gì. Cứ như vậy cuối cùng mỗi lần bạn sẽ dùng thêm một chút, cho tới khi bạn sẽ chẳng thể ngừng thói quen xấu đó lại được nữa.

Tất cả những thói quen xấu như hút thuốc hay uống rượu đều rất tổn hại đối với con đường dẫn tới giác ngộ xét từ khía cạnh thực hành tâm linh và cả từ góc độ thế tục. Những thói quen này đều rất có hại tới sức khỏe. Hút thuốc rồi sẽ dẫn tới căn bệnh ung thư, thế nhưng mọi người vẫn cứ tiếp tục hút cho tới khi bị mắc bệnh thật sự. Khi họ mắc bệnh thì đã quá muộn rồi. Vì thế, nếu bạn có thể đấu tranh để loại bỏ chúng, từng chút một, từng ngày một bạn sẽ có thể đạt được tiến bộ. Đó cũng chính là thực hành Bồ tát đạo.

Bất cứ điều gì bạn nhìn thấy, nghe được hay cảm giác đều là do tâm tạo tác. Tâm chính là yếu tố mang lại cảm giác mãnh liệt về điều gì tốt, điều gì xấu. Chẳng hạn như ngọn đồi ngoài kia, tâm nói với chúng ta rằng ngọn đồi đó cao hay thấp. Ngọn đồi không phải do tâm tạo ra, nhưng tâm tạo ra những hoàn cảnh hay điều kiện về ngọn đồi. Chẳng hạn tâm nói với chúng ta món ăn này ngon hay dở, nói với chúng ta thứ này ngắn hay dài. Nhưng tất cả mọi thứ đều chỉ là vọng tưởng, ngay cả tâm cũng không phải là thật. Nếu bạn thử tìm kiếm xem tâm ở đâu; tâm có màu gì; tâm có kích thước như thế nào; bạn sẽ không thể nào tìm thấy câu trả lời. Đó chính là bản chất của tâm.

Có và không, xấu và tốt, cao và thấp, tất cả đều chỉ mang tính tương đối. Tự tính của vạn pháp là chân không. Do tâm là hư vọng nên mọi thứ do tâm tạo ra cũng đều là hư vọng, và chúng ta không nên đuổi theo hư vọng.

Chúng ta thường có khuynh hướng tham chấp ái luyến những con người, những hoàn cảnh, những sự vật hiện tượng tốt đẹp. Chẳng ai muốn chịu đựng đau khổ. Ai cũng muốn được hạnh phúc. Nhưng chúng ta cần phải hiểu được rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều là hư vọng. Giống như cầu vồng vậy. Tất cả những thứ tốt đẹp cũng giống như cầu vồng, đều không có thật. Thực hành xả chấp cũng là thực hành Bồ tát đạo. Bám chấp sẽ dẫn tới khổ đau vô lượng. Thế nhưng cũng đừng nên tuyệt vọng khi gặp đau khổ, vì đau khổ cũng chỉ là hư vọng mà thôi.

Posted Image

Khổ đau muôn hình vạn trạng, trong đó có bốn nhóm chính. Thứ nhất là bạn đau khổ khi không có được điều mình mong muốn. Thứ hai là ngay cả khi đã có được thứ mình mong muốn rồi, bạn vẫn đau khổ vì lo sợ sẽ đánh mất nó. Loại khổ thứ ba là bạn gặp gỡ những người hoặc những hoàn cảnh mà bạn không mong muốn song lại chẳng có cách nào để trốn tránh. Loại khổ thứ tư là bạn buộc phải xa lìa những người, những đồ vật hay những hoàn cảnh mà bạn yêu mến.

Đây là bốn loại khổ thông thường vẫn gặp. Có những người khổ vì ốm đau, có những người khổ vì mất người thân yêu v.v. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đau khổ. Nếu như bạn gặp phải bất cứ cảnh ngộ nào như vậy, bạn đừng nên tuyệt vọng. Bạn cần phải hiểu rằng đau khổ là bản chất của luân hồi. Hãy nghĩ về điều đó và tự nhủ, “Mình đang đau khổ bởi những nghiệp quả bất thiện trong quá khứ đang chín muồi”. Thay vì cảm thấy tuyệt vọng hay hoảng loạn, bạn hãy bình tâm và cầu nguyện. Hãy thử suy nghĩ và hành động tích cực, thiện lành, để trong tương lai và những đời sống sau nữa bạn sẽ không phải trải qua cảnh khổ tương tự. Trong khi đau khổ, bạn cũng cần nghĩ tới những người đang chịu đau khổ giống như bạn, hãy cầu nguyện cả cho họ và nguyện rằng họ sẽ không phải chịu đau khổ giống như bạn đang phải chịu.

Đau khổ là vọng tưởng và vọng tưởng giống như một giấc mơ. Thí dụ như khi bạn nằm mơ thấy con mình tử nạn, trong mơ bạn cảm thấy đau đớn tột cùng, cho dù đó chỉ là giấc mơ. Ngay khi thức dậy, bạn nhận ra rằng con bạn vẫn còn sống và đó chỉ là một cơn ác mộng. Điều này cho thấy những đau khổ chúng ta đang trải qua cũng chỉ là ảo vọng. Hiểu được rằng đau khổ là ảo vọng cũng là thực hành Bồ tát đạo.

nguồn: http://drukpavietnam.org

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ý nghĩa của Chân ngôn thần chú trong việc chữa lành

Chân ngôn là một đơn âm hoặc chuỗi âm thanh đầy năng lực, những âm thanh này chứa đựng hàng loạt sóng âm ba và năng lượng. Khi trì tụng, chân ngôn không chỉ giúp tiêu trừ bệnh tật, phiền não, nghiệp chướng mà còn có năng lực kết nối, hợp nhất tâm chúng ta với những tầng tâm thức cao hơn. Chân ngôn hay thần chú như vậy là chìa khóa trực tiếp giúp hiển lộ vũ trụ pháp giới bên ngoài và bên trong, là công cụ nhanh chóng, nhẹ nhàng, hiệu quả để tiếp cận những kênh năng lượng linh thiêng từ các chiều tâm thức cao hơn. Công lực của chân ngôn phụ thuộc vào trạng thái thiền định và nội chứng của bạn và đặc biệt vào sự hướng đạo chỉ dẫn từ một bậc Thầy tâm linh giác ngộ.

Posted Image

Chân ngôn thần chú là sự kết hợp của các chữ chủng tử linh thiêng phát ra những năng lượng tâm linh tích cực, một chân ngôn hay còn gọi là một Mantra không phải là lời cầu nguyện mà là bản chất sâu kín của thực tại nên đôi khi người ta trì tụng như là tán tụng. Trong tiếng Phạn, từ "Man" là "suy nghĩ", trong khi từ "Tra" có nghĩa là "giải phóng bản thân khỏi thế giới vật chất".Việc kết hợp nghĩa hai từ này tạo thành "Mantra" có nghĩa là tư tưởng được giải thoát và bảo vệ hay còn gọi là Bảo hộ tâm.

Chân ngôn bí mật và linh thiêng diễn đạt những âm thanh và tinh túy năng lượng cơ bản để mang lại sự hài hòa của những yếu tố giữa thân và tâm.Trì tụng một chân ngôn đem lại năng lượng chữa lành kỳ lạ và giúp chúng ta đạt được sự cân bằng giữa thân và tinh thần, giống như thức ăn cung cấp cho cơ thể thì chân ngôn thần chú nuôi dưỡng chữa lành tâm hồn cho mỗi chúng ta. Theo cách này, chân ngôn chính là sự hỗ trợ tinh thần đầy năng lực, nó không chỉ là những âm thanh theo những quy ước mà là sự cộng hưởng những năng lượng nguyên sơ vi tế đã sẵn có trong mỗi chúng ta. Khi trì tụng chân ngôn sóng âm ba được cộng hưởng phát ra những năng lượng chữa lành nhẹ nhàng khắp thân tâm chúng ta. Diễn đạt dưới góc độ tâm linh, chân ngôn là phương tiện giao tiếp, kết nối của Bản Tôn, chư Phật và Bồ Tát với chúng sinh để có thể đem lại sự tịnh hóa nghiệp chướng và chứng ngộ cho hết thảy vạn loài hữu tình.

Về cách thức, nói chung, người mới trì tụng chân ngôn đầu tiên nên trì tụng để nghe rõ âm thanh mình trì tụng để sóng âm ba của chân ngôn phát ra lan tỏa sâu hơn vào tim và cuối cùng chúng ta có thể an trụ trong sự an tịnh, để siêu thanh bên trong tự nhậm vận hoạt động. Trên quan điểm thực hành, điều này vô cùng quan trọng.

Có một số chân ngôn mà chúng ta phải trì tụng lặng lẽ trong tự thân. Tuy nhiên, có một vài chân ngôn không được phép trì tụng nếu không được nhận quán đỉnh hoặc khẩu truyền từ bậc Kim cương Thượng sư. Trong trường hợp này, chúng ta cần đón nhận sự hướng đạo chính thức về cách sử dụng chân ngôn. Sở dĩ bậc Thầy tâm linh cần truyền trao chân ngôn thần chú cho đệ tử vì khi bậc Thầy giác ngộ tán tụng khẩu truyền cho đệ tử mình, cũng là ban truyền dòng ban phúc gia trì không gián đoạn để các đệ tử có năng lực gia trì và tiếp tục thực hành chân ngôn đạt được thành tựu. Nhờ vậy, năng lực và công đức tu trì chân ngôn sẽ tăng trưởng theo cấp số nhân. Trong thiền định Phật giáo, nhiều thứ có thể được sử dụng làm đối tượng của thiền định như hơi thở được sử dụng để nhiếp tâm tránh niệm, việc tỉnh giác lúc đi được sử dụng làm thiền định đi, những cảm xúc được sử dụng làm sự tập trung trong sự phát triển của lòng từ bi và quán tưởng hình ảnh và đối tượng được sử dụng trong việc thiền quán. Chân ngôn là âm thanh, từ hay cụm từ cũng được sử dụng là đối tượng của thiền định, âm thanh của chân ngôn có thể được trì tụng to hay trì tụng thầm.

Chân ngôn liên quan đến các yếu tố lịch sử cụ thể hay các Bản Tôn nguyên mẫu hay cũng có thể không có liên quan những điều trên. Ví dụ chân ngôn liên quan đến Đức Phật lịch sử là: "Om muni muni mahamuni Shakyamuni svaha", chân ngôn liên quan đến Bản tôn Đức Avalokiteshvara Quán Thế Âm Bồ Tát là "Om mani padme hum", hay Chân ngôn Prajnaparamita Bát Nhã Ba la mật "Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha" không chỉ liên quan với một bậc giác ngộ mà còn với một bộ kinh nổi tiếng là kinh Bát Nhã ba-la-mật (trí tuệ hoàn hảo).

Vô Úy

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nghiệp, hóa thân và quy y

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

Ngã chấp là nguyên nhân tạo ra thế giới khổ đau mà chúng ta đang sống. Chính vì thế khi bắt đầu tái sinh vào một cuộc sống mới chúng ta hoàn toàn không tự chủ, không tỉnh thức, do năng lực của vô minh chi phối. Cũng như vậy trong suốt cuộc sống của mình, chúng ta vẫn không có chút trí tuệ nào nên bị sức mạnh của nghiệp lôi cuốn.

Posted Image

NGHIỆP

Nghiệp một phần được biểu hiện qua quy luật nhân quả. Những gì chúng ta đang trải qua là kết quả của các nghiệp nhân do chính ta đã tạo trước kia. Mặc dù không hề muốn nhưng những người tàn tật mù lòa đau ốm đang phải trải qua một cuộc sống vô cùng đau khổ, không có chút quyền lựa chọn, bởi vì họ đang nhận được nghiệp quả do chính họ đã gieo nhân (nghiệp nhân). Tuy nhiên các nghiệp nhân này có thể được chuyển hóa hoặc tiêu hủy trước khi trổ quả nhờ vào sự thực hành pháp. Vì thế bạn không nên hiểu lệch lạc rằng “nghiệp là cố định” để rồi nhắm mắt buông xuôi, bi quan yếm thế, buông đời mình cho dòng nghiệp cuốn lôi. Trên thực tế, nghiệp có thể được chuyển hóa, chỉ cần chúng ta khéo sử dụng trí tuệ của mình hướng đạo cho các hành động của thân, khẩu, ý một cách đúng đắn, thì mọi khổ đau sẽ được chấm dứt.

Có rất nhiều giải pháp để tiêu trừ nghiệp xấu

Có rất nhiều cách để chuyển hóa và tiêu hủy các nghiệp nhân, trước khi chúng kết thành nghiệp quả. Một điều quan trọng bạn cần biết: tuy hiện đời chúng ta đang thụ nhận nghiệp quả đã chín, là những khổ đau hay hạnh phúc từ những nghiệp nhân của các đời trước, song cũng chưa hẳn là quá muộn, vẫn còn có rất nhiều cách để chuyển hóa chúng. Giống như khi mắc một căn bệnh, sẽ dễ dàng điều trị hơn nếu bạn phát hiện ra từ sớm.

Nếu chúng ta phát hiện ra căn bệnh quá muộn thì sẽ không còn hy vọng gì. Nghiệp cũng tương tự như vậy. Vì thế bạn phải quán sát và chuyển hóa nghiệp ngay từ hôm nay trở đi, thay vì chờ đợi đến ngày mai. Tôi nói như vậy bởi vì cuộc sống của chúng ta rất vô thường, không ai trong chúng ta có thể biết được chuyện gì sẽ xảy ra ngày mai. Cho nên, chúng ta cần bắt đầu thực hành pháp chuyển hóa những bất thiện nghiệp ngay từ giờ phút này.

Rất đáng tiếc, từ bao nhiêu kiếp rồi, do màn vô minh che phủ, chúng ta đã gieo trồng vô số nghiệp nhân bất thiện, vì vậy chúng ta đang phải gánh chịu những nghiệp quả bất thiện. Bởi thế, chúng ta cần phải tu tập để thực sự chuyển hóa và tiêu trừ chúng. Thực hành giáo pháp trong cuộc sống thường nhật chính là cách chuyển hóa và tiêu trừ ác nghiệp hữu hiệu nhất.

Tại sao chúng ta cần đến sự hướng đạo tâm linh

Bạn không nên chờ đến khi các nghiệp xấu trổ quả. Có rất nhiều cách để chuyển hóa bất thiện nghiệp nên bạn không nhất thiết phải ngồi bất lực để gánh chịu những quả khổ. Bởi vậy, có được giáo pháp và sự hướng đạo tâm linh là vô cùng cần thiết. Ý nghĩa chính của con đường tâm linh là chuyển hóa và loại bỏ những nghiệp nhân bất thiện mà ta đã gieo trồng, để có thể chấm dứt khổ đau. Sự thực hành tâm linh sẽ không thể trợ giúp bất kỳ khía cạnh thế tục nào khác ngoài việc này. Trong cuộc sống, chúng ta nên biết vừa lòng với những vật chất thế tục. Hiện tại, chúng ta vẫn có thực phẩm để ăn, quần áo để mặc, nhà để ở, bởi thế chúng ta không nên tìm cầu những thứ thế tục từ sự thực hành tâm linh bởi con đường tâm linh chỉ nhằm vào việc chấm dứt khổ đau. Nếu có ai trong chúng ta muốn được khổ đau, người đó không cần thiết phải tìm kiếm và thực hành tâm linh. Họ chỉ cần ngồi yên, không cần làm gì cả và chắc chắn họ sẽ có khổ đau. Nhưng trên thực tế, không ai trong chúng ta lại thích đau khổ, nên chúng ta phải thực sự bắt tay vào việc thực hành tâm linh để tiêu trừ tất cả những bất thiện nghiệp mà chúng ta đã tích lũy. Để làm được việc này chúng ta cần phải trưởng dưỡng tuệ giác. Bạn không nhất thiết phải chịu khổ đau phiền não, vì vẫn còn các giải pháp để tiêu trừ nghiệp xấu. Vì thế, chúng ta cần biết tìm cầu giáo pháp và sự hướng đạo, và cũng vì thế mà tâm linh có vai trò vô cùng quan trọng. Trên thực tế tâm linh không có mục đích tối hậu nào khác ngoài điều này. Chúng ta, theo cách nào đó, đều tự hài lòng vì số phận mình khá may mắn. Ta thấy mình có thực phẩm để ăn, quần áo để mặc, nhà cửa để ở, v.v... tức là từ góc độ thế tục mà nói, chúng ta chẳng thấy tâm linh có gì đáng giá. Mục tiêu chính yếu của tâm linh là giúp bạn tiêu trừ những nghiệp xấu mà bạn đã gieo trồng. Con đường tu tập tâm linh chủ yếu tập trung vào điều này vì chẳng ai muốn rước lấy khổ đau phiền não. Nếu có ai trong số chúng ta thích đau khổ thì chúng ta không cần tu tập trưởng dưỡng tâm linh làm gì. Chúng ta có thể cứ việc ngồi lỳ một chỗ mà không cần phải làm gì. Song như thế, chắc chắn chúng ta sẽ chịu nhiều đau khổ. Do chúng ta không muốn đau khổ, chúng ta cần tu tập, thực hành để tiêu trừ các nghiệp tiêu cực mà mình đã và đang tích tụ. Và để tiêu trừ được chúng, chúng ta cần phải trưởng dưỡng trí tuệ của mình.

Tâm của bạn nắm giữ toàn bộ trí tuệ của chân lý vũ trụ

Vậy nghiệp đến từ đâu? Nó tồn tại như thế nào? Cái gì đã tạo nên nghiệp? Đây là những điều mà bạn cần hiểu biết với trí tuệ chân thật. Nhờ đó, bạn có thể tiêu trừ tất cả nghiệp bất thiện. Bởi vậy, tất cả điều bạn cần là phát triển trí tuệ. Trí tuệ không phải là thứ mà tôi có thể chỉ cho bạn, tuy thế tôi có thể chỉ cho bạn chỗ để tìm kiếm trí tuệ, trí tuệ nằm ở chính trong tâm của bạn. Trí tuệ không phải là thứ bạn có thể mua hay lấy trộm từ bên ngoài, nó chỉ có thể được tìm thấy ở bên trong chính bạn, bên trong tâm bạn, bên trong tim bạn. Tâm của bạn nắm giữ toàn bộ trí tuệ của chân lý vũ trụ. Khi bạn có thể thực chứng được trí tuệ này, bạn sẽ thấu suốt được bản chất của vạn pháp.

Sự sáng tạo là một khía cạnh của tâm, ngã chấp là một khía cạnh của tâm, và trí tuệ cũng là một khía cạnh của tâm. Tâm chúng ta nắm giữ mọi thứ, bao gồm cả trí tuệ và vô minh. Chúng ta sống trong mê muội, bởi vì chúng ta đã không nhận ra bất kỳ thứ gì trên phương diện tâm linh. Theo phương diện này mà nói, chúng ta rất vô minh. Bởi chúng ta vô minh và lầm lẫn, nên chúng ta thấy tâm chúng ta có hai mặt: một mặt của trí tuệ và một mặt của vô minh. Nhưng về mặt tuyệt đối, bản chất chân thật của tâm chúng ta là thuần khiết thanh tịnh, không có vô minh trong đó, chỉ cần chúng ta đừng cho rằng tâm của chúng ta có hai mặt. Từ vô thủy cho đến nay chúng ta đã sống và tạo nghiệp dưới sự chi phối của ngã chấp. Vậy ngã chấp là gì? Nó thực sự là tâm mê lầm của bạn. Từ tâm vô minh này khởi sinh ái dục, từ ái dục phát sinh tất cả các loại cảm xúc, những cảm xúc này tác động toàn bộ đến hoạt động của thân và khẩu của bạn.

Trí tuệ là Thượng sư bên trong của bạn

Trí tuệ thực sự là bậc thầy “bên trong”, chỉ cho bạn thấy rõ tâm vô minh đang diễn tiến như thế nào. Bậc thầy bên ngoài là người giảng dạy giáo pháp và hướng đạo cho bạn trên con đường tâm linh, còn trí tuệ chính là bậc thầy bên trong của bạn, giúp cho bạn thấy rõ được chức năng của bản ngã. Khi nhận ra được điều này, bạn có thể hiểu được phương pháp về cắt bỏ ngã chấp hiệu quả hơn hàng trăm lần so với việc nương theo giáo pháp từ bậc thầy bên ngoài. Bởi vậy, chúng ta nói có bậc thầy bên trong, bậc thầy bên ngoài

và bậc thầy bí mật. Một người khi đã nhận ra được toàn bộ sự thật về ngoại cảnh một cách đúng đắn, họ sẽ nhận thấy tâm của họ tràn đầy trí tuệ. Sau đó mọi khổ đau sẽ chấm dứt. Lúc này ngã chấp hay ái dục không còn ảnh hưởng chi phối, khiến họ tạo nên lầm lỗi nữa. Người này sẽ giải thoát khỏi mọi sự trói buộc. Bất kì những gì họ làm sau đó, họ sẽ làm với trí tuệ và tự do. Nếu bạn không muốn tái sinh, sự ra đi của bạn cũng là một sự giải thoát. Còn nếu bạn muốn tái sinh, sự tái sinh đó sẽ là một tái sinh tự chủ với tuệ giác. Bạn sẽ chứng ngộ được trí tuệ vĩ đại hay còn gọi là sự giác ngộ. Sự giải thoát này còn gọi là đại hỷ lạc hay Phật quả.

Tâm là chủ thể tạo tác của vạn pháp

Tuy nhiên, do vô minh, chúng ta thường không hiểu điều này. Khi chúng ta nghe đến từ “Thượng Đế”, “Phật” hay “Khodah”, chúng ta nghĩ rằng các Ngài đang tồn tại ở một nơi nào đó “bên ngoài”. Quan điểm, thói quen tìm kiếm mọi thứ bên ngoài sẽ khiến chúng ta rơi vào sự lầm lạc vô phương hướng. Nếu bạn nghĩ rằng Phật hay Thượng đế ở bên ngoài, bạn sẽ bơ vơ không nhận được sự trợ giúp nào. Bạn sẽ mong chờ một vị cứu tinh đến giải thoát cho bạn, nhưng rốt cuộc chẳng ai đến cả. Rồi bạn nhận ra mình đang ở trong tình trạng tuyệt vọng, khi bạn nhận ra điều này thì đã quá muộn. Bạn đã trở nên quá già hoặc sắp chấm dứt cuộc đời. Vì thế, đây không phải là cách tiếp cận đúng đắn với con đường tâm linh. Cách đúng đắn là nhận ra mọi thứ ở bên trong chính bạn. Nếu bạn nhận ra rằng tâm là chủ thể tạo tác của vạn pháp, thì cho dù bạn không giải thoát ngay bây giờ, về mặt tâm lý bạn cũng cảm thấy mọi thứ ở trong tầm tay của bạn. Điều này có nghĩa là một bầu không khí hỷ lạc của sự giải thoát đã sẵn có ở đó. Cho dù có thể bạn chưa thành tựu được trong sự thực hành nhưng bạn vẫn cảm nhận được một trạng thái tự do giải thoát. Đây là kinh nghiệm của tôi, tôi hy vọng bạn hiểu được.

HỎI VÀ ĐÁP

Câu hỏi: Kính bạch Pháp Vương, xin cho con hỏi làm sao chúng con có thể đảm bảo chắc chắn rằng chúng con đang trải nghiệm trực tiếp với Thượng sư bên trong chứ không phải chỉ là sự phóng chiếu của tâm?

Trả lời: Tất nhiên, đó là một sự phóng chiếu của tâm. Chúng ta vẫn sẽ tiếp tục có những sự phóng chiếu cho tới khi đạt được giác ngộ, tuy nhiên Thượng sư bên trong là một cách phóng chiếu hoàn toàn khác. Ví dụ về mặt kinh nghiệm mà nói, bạn sẽ có một sự hiểu biết thấu suốt về sự hình thành của thế giới này, trước hết bạn sẽ biết điều đó. Tất nhiên, bạn cần phải thực hành theo sự hướng dẫn của Thượng sư bên ngoài. Nhưng nếu một sự hướng dẫn bạn có được từ trí tuệ của chính bạn lại đối lập với sự hướng dẫn của bậc thầy bên ngoài, thì điều này đáng nghi ngờ, bạn phải cẩn thận xem xét lại.. Còn nếu trí tuệ bên trong của bạn hướng dẫn những điều chính xác như bậc thầy bên ngoài đã dạy thì hãy yên tâm rằng bạn đang đi trên con đường đúng đắn.

Câu hỏi: Kính bạch Pháp Vương, nếu không có trí tuệ đúng đắn thì sự mâu thuẫn giữa bậc Thầy bên trong và Ngã chấp sẽ phát sinh. Nếu bản Ngã có xu hướng sai khiến chúng ta làm môt điều gì đó trái ngược với bậc Thầy bên trong, dường như phần trí tuệ đó của tâm vượt ra khỏi cả bậc Thầy bên trong và Ngã chấp. Con hiểu như vậy đúng không?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng cách hiểu này cũng đúng, hay ít nhất cũng không hoàn toàn sai. Nhưng nó chẳng liên quan gì đến những điều tôi nói. Mặc dù nghe có vẻ đúng nhưng bạn đã quá xa rời sự thực hành. Đây là lý do tại sao chúng ta phải thiền định và đi tới những nơi thâm sơn để nhập thất. Chúng ta muốn suy nghĩ và quán chiếu điều này một cách kỹ lưỡng. Sự quán chiếu vô cùng quan trọng để phát sinh trí tuệ. Ví dụ, khi chúng ta đang nói về đề mục này, có thể chúng ta đạt được một phần trí tuệ, cũng có thể không đạt được gì. Bạn không thể cố gắng đẩy trí tuệ này vào tim của bạn, nó chỉ có thể thấm vào tâm của bạn thông qua sự thực hành. Đây là cách thức đúng đắn để trưởng dưỡng chính mình.

Câu hỏi: Kính bạch Pháp Vương, có phải không có mối liên hệ nào giữa đời trước và đời này của Ngài?

Trả lời: Không, bạn không thể nói rằng không có mối liên hệ giữa đời trước và đời nay của tôi. Sự liên hệ vẫn rõ ràng ở đó bởi vì bạn vẫn là bạn, vẫn chỉ là một mà thôi. Sự khác biệt duy nhất chỉ là thân tướng thay đổi. Giống như trong một vở kịch, bạn thay trang phục và đeo một chiếc mặt nạ. Sau đó bạn lại đổi trang phục khác và đeo một chiếc mặt nạ khác. Sự liên hệ giữa đời trước và đời sau cũng tương tự như vậy. Trong những đời trước, có thể bạn đã từng là một con chó hay một con chim, nhưng đời này sắc tướng đã thay đổi, bạn trở thành một con người. Đương nhiên, bạn không thể nhớ được do khoảng cách về thời gian, do vô minh và do nhiều thứ khác. Nhưng đối với những người có trí tuệ và sự tỉnh thức, họ có thể nhớ được rất nhiều chuyện. Có rất nhiều những người như vậy, thậm chí họ là những người bình thường, không hẳn là những bậc hóa thân tôn kính hay những vị thánh nhân, họ vẫn nhớ về các đời trước của mình rất rõ ràng. Có một số người có thể kể lại những sự việc về đời trước của họ dưới sự chứng thực của người khác. Như vậy đây chỉ là một câu hỏi về việc bạn có nhớ hay không mà thôi.

Ví dụ trong trường hợp của tôi, tôi cũng chẳng nhớ sáng nay mình đã ăn gì, thì làm sao tôi nhớ chuyện đời trước? Nếu có sự tỉnh thức, thì ít nhất tôi cũng nhớ mình đã ăn gì sáng nay. Có rất nhiều người đã nói những điều tương tự như vậy nhưng với một thái độ bất cần. Họ nói: “Có sao đâu! Có thể tôi sẽ khổ đau trong đời sau nhưng điều đó chẳng hề hấn gì. Tôi sẽ không nhớ mà cũng chẳng thấy hối hận gì và bây giờ tôi đang thụ hưởng mọi thứ.” Nhưng đây không phải là một thái độ đúng đắn vì khi quả khổ chín, lúc đó sẽ trở nên quá muộn. Như những người tàn tật, mù lòa đang chịu đau khổ trong hiện tại. Đã quá muộn, họ không thể làm bất cứ điều gì để thay đổi tình trạng hiện tại bởi quả khổ của họ đã chín mùi. Họ không thể nói “Có sao đâu!” khi họ đang thực sự đau khổ. Người đang chịu khổ đau trong đời này chỉ là một với người gieo nhân của đời trước, đó chỉ là sự liên tục của cùng một dòng tâm thức.

QUY Y

“Quy y” và “Bồ đề tâm” là những thuật ngữ đặc trưng của đạo Phật. Sự thực hành đặc biệt về Quy y và Bồ đề tâm của Phật giáo là một điểm khởi đầu của con đường tâm linh. Bồ đề tâm là động lực cho con đường tâm linh của bạn.

Để bắt đầu Quy y, chúng ta nên có một thái độ đúng đắn (chính kiến). Để Quy y chúng ta cần phải có trí tuệ xả ly từ bên trong. Trí tuệ hiểu biết về bản chất của luân hồi, của khổ đau, của hạnh phúc và của đời sống thường nhật là vô cùng quan trọng. Nếu bạn không hiểu gì về những điều này, thì cho dù bạn có thọ Tam Quy và Giới nguyện hay tự gọi mình là hành giả tâm linh, thiền giả hay Phật tử, điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì bạn không làm gì cả. Trí tuệ (chính kiến) rất quan trọng cho tất cả mọi việc, và đặc biệt quan trọng hơn nếu bạn muốn bước vào con đường tâm linh, bởi vì một người phải hiểu rõ toàn bộ những gì đang xảy ra trong cuộc đời của mình. Nếu bạn hiểu rõ về cuộc sống của mình, thì bạn sẽ nhậm vận hướng theo con đường tâm linh. Không có vấn đề gì dù bạn hiểu hay không hiểu về sự khác biệt giữa các tôn giáo như Đạo Phật, Thiên Chúa giáo, v.v.., bạn sẽ thực sự cảm thấy những sự thay đổi bên trong tâm của bạn. Nếu bạn đã biết một vài điều về một con đường tâm linh cụ thể, thì tất nhiên bạn sẽ cảm thấy một sự hấp dẫn đặc biệt hướng về con đường tâm linh đó. Thậm chí nếu bạn chẳng có khái niệm nào về con đường tâm linh thì bạn vẫn có những cảm nhận đặc biệt bên trong. Chúng ta có thể gọi những cảm thọ này là “sự xả ly”. Đây là sự xả ly bên trong. Bạn đang bắt đầu xả ly và đó là điều cần phải có. Sự xả ly này chính là điều chúng ta đang thiếu.

Cảm thọ về sự xả ly sẽ thúc đẩy bạn quy y

Nói một cách ngắn gọn, hiểu biết về toàn bộ cuộc sống sẽ làm nảy sinh một vài cảm nhận đặc biệt bên trong bạn, đó là sự xả ly. Bước kế tiếp là Quy y. Cảm nhận rõ ràng về sự xả ly sẽ thúc đẩy bạn thọ giới nguyện Quy y với một bậc thầy giác ngộ. Điều này sẽ xảy ra một cách tự nhiên bởi bạn sẽ nhận ra rằng mọi thứ trong cuộc đời của bạn và thế giới bên ngoài đều không phải là nơi nương tựa. Do đó, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn cần một nơi trú ẩn, một nơi nương tựa. Đây là bước kế tiếp hay sự cảm nhận tiếp theo trong dòng tâm của bạn.

Nếu bạn không hiểu biết về những gì đang xảy ra trong cuộc sống thì toàn bộ bầu không khí hay mỗi ngày trong cuộc đời của bạn sẽ bị xô đẩy và trôi trượt trong dòng đời đau khổ. Và bạn sẽ bị chìm trong biển luân hồi, càng ngày càng đắm sâu hơn mà không hề nhận ra được tình cảnh của mình. Đây là đặc điểm của khổ đau. Khi bạn có trí tuệ nhận ra điều này thì chính là lúc bạn muốn thoát khỏi biển khổ luân hồi, bạn sẽ tìm nơi nương tựa Quy y. Có thể bạn không biết gì về sự khác biệt giữa các con đường tâm linh hay sự khác biệt giữa các trường phái tôn giáo nhưng bạn chắc chắn sẽ biết rằng bạn cần phải tìm kiếm một nơi nương tựa đáng tin cậy. Đó là cảm thọ chân thật về sự xả ly.

Xả ly không có nghĩa là bạn chạy trốn khỏi gia đình, xã hội

Xả ly là một thuật ngữ phổ thông được sử dụng trong mọi tôn giáo, tất cả các bậc thánh nhân đều đã đi qua con đường xả ly và nhờ thế các Ngài đã đạt được giác ngộ. Họ nhận ra được toàn bộ cuộc sống của mình không có nơi nương tựa đáng tin cậy trong kiếp luân hồi, bởi vậy họ tìm kiếm môt con đường tâm linh, một chỗ nương tựa vững chãi. Đây là tiến trình mà chúng ta gọi là sự xả ly. Tất cả các hành giả Yogi, các bậc Thầy, các vị Thánh và các vị tu sĩ đều đạt được giác ngộ sau khi đã xả ly. Tuy nhiên, sự xả ly không có nghĩa là chạy trốn khỏi gia đình và xã hội bởi nếu đó là sự xả ly thì tất cả chúng ta đều có thể làm được; tất cả chúng ta đều giải thoát và sẽ chẳng còn ai sót lại trong cõi luân hồi.

Giác ngộ là điều duy nhất chúng ta có thể nương tựa. Bạn có thể suy xét kỹ lưỡng xem điều này có đúng hay không, có gì đáng tin cậy hơn sự giác ngộ hay không. Chúng ta có đủ trí tuệ để tự suy xét về những gì chúng ta được nghe. Bây giờ chúng ta nghĩ rằng bạn bè hay cha mẹ có thể là chỗ dựa. Cha mẹ thì nghĩ rằng con cái có thể là nơi nương tựa hoặc bạn có thể nghĩ rằng: “Ít nhất tôi có thể nương tựa vào chính mình”. Song nếu chúng ta tư duy, suy xét sâu xa hơn, theo kinh nghiệm cá nhân tôi, chúng ta không thể tìm thấy bất cứ thứ gì hay một ai để hoàn toàn nương tựa trên thế gian này. Thậm chí bạn cũng không thể nương tựa vào chính bạn ngay lúc này. Ví dụ, sáng nay tôi đã nói rằng sáng mai tôi sẽ đi Zurich nhưng bây giờ tôi lại nghĩ tôi phải đi lúc 10 giờ. Vì thế, tôi cũng thể tin vào quyết định của chính mình. Quyết định này lẽ ra phải là điều tôi có thể tin, nhưng bây giờ nó không còn đáng tin nữa.

Tất cả những gì xuất hiện trong tâm bạn như phiền não, yêu thương, tâm chí thành, lòng quyết tâm v.v... đều không đáng tin. Đây là những đặc điểm của cuộc sống. Chẳng hạn như sáng nay tôi rất vui nhưng giờ thì tôi không vui. Điều này có nghĩa là gì? Như vậy nghĩa là niềm vui của sáng nay cũng hoàn toàn không đáng tin. Tôi có thể nghĩ tôi hạnh phúc nhưng cảm nhận về hạnh phúc sẽ không kéo dài mãi mãi; nhưng chỉ vài giờ sau đó tôi có thể rơi vào tình cảnh vô cùng đau khổ. Bởi thế không có gì đáng tin cậy trên thế giới này. Đây là bản chất thật hay đặc tính của khổ đau, tuy nhiên chẳng có gì phải lo lắng về điều này. Nếu bạn lo lắng về điều này sẽ chỉ thêm đau khổ mà thôi. Thay vì ngồi lo lắng bạn nên tìm một giải pháp để thoát khỏi khổ đau. Giải pháp đó, theo kinh nghiệm của cá nhân tôi và cũng dựa vào các học thuyết và giáo pháp của các bậc giác ngộ.

Giác ngộ ở trong tâm của bạn và tiến trình này được gọi là “Quy y”

Giác ngộ là điều thực sự bạn có thể đạt được, bởi đó là bản chất tự nhiên của bạn. Giác ngộ là nét đẹp tự nhiên, tuyệt hảo, bền vững và có thể nương tựa. Nhưng hiện tại chúng ta đang ngụy tạo rất nhiều. Do quá nhiều sự phóng chiếu ngụy tạo, bản chất tâm của chúng ta không còn hiện diện một cách tự nhiên nữa, bởi vậy chúng ta không còn định tĩnh và an bình. Vẻ đẹp tự nhiên của chính bạn không còn ở đó, nó bị che lấp dưới bao nhiêu tầng lớp của sự ngụy tạo. Vì thế chúng ta không nên ngụy tạo. Sau khi dứt trừ và thanh lọc sự phóng chiếu ngụy tạo, bạn sẽ nhận ra sự giác ngộ ở bên trong tâm của bạn, và tiến trình này được gọi là “Quy y”. Quy y trong đạo Phật gồm: Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng (Quy y Tam Bảo). Thực chất ý nghĩa của việc Quy y là nương tựa vào giác ngộ, bởi vì bạn đang tìm kiếm thứ gì đó đáng tin cậy, và đó chính là giác ngộ.

Khi bạn hiểu rằng giác ngộ là thứ đáng tin cậy duy nhất, bạn hoàn toàn mong mỏi đạt được nó, bạn sẽ có một bức tranh về cái gọi là giác ngộ. Đây là thời điểm bạn cần thận trọng. Một số người có thể nghĩ rằng sự giác ngộ giống như pha lê hay một luồng ánh sáng lớn có thể chiếu khắp toàn bộ thế giới. Điều này không đúng. Một số người, đặc biệt là những Phật tử, họ tưởng ra hình ảnh của Đức Phật khi họ nghĩ về giác ngộ. Một số khác lại tưởng ra một người với bộ râu tóc dài và ngồi bất động. Mỗi loại hình ảnh phóng tưởng khác nhau và họ bám chấp vào những gì họ tưởng tượng ra. Đây không phải là một cách tiếp cận đúng đắn. Khi bạn ở giai đoạn này, bạn phải thực sự thận trọng, vì đây chính là giai đoạn quyết định. Bởi vì trong giai đoạn này, bạn có thể bước vào con đường giác ngộ, nhưng nếu trong giai đoạn này bạn lại có một hình ảnh sai lệch về giác ngộ thì bạn có thể bị lạc lối. Bởi vậy bạn phải thực sự thấy rõ giác ngộ là đại trí tuệ. Sự giác ngộ không có hình tướng, ánh sáng, mùi vị hay màu sắc. Nó không là gì cả và chính bản thân sự thấy biết là giác ngộ.

Quy y Phật, bạn nên hiểu Phật chính là giác ngộ

Trong thuật ngữ của Đạo Phật chúng ta nói về Phật, Pháp, Tăng. Phật là đối tượng Quy y đầu tiên. Khi bạn thọ giới nguyện Quy y Phật, bạn nên hiểu rằng Phật chính là Giác ngộ. Khi nói về Đức Phật, hầu hết mọi người đều có hiểu sai lệch. Họ chỉ nghĩ rằng danh từ Phật là nói đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đã chuyển bánh xe Pháp, giảng dạy triết lí Phật Pháp ở Ấn Độ. Thực ra, chúng ta không chỉ Quy y Đức Phật Thích Ca mà chúng ta còn Quy y tâm giác ngộ của mình. Đây là tinh túy của mười phương chư Phật, tinh túy của tất cả Bồ tát thánh hiền, tinh túy của vạn pháp và tinh túy của chính bạn. Và chúng ta gọi đó là Phật, đây là thuật ngữ của Phật Pháp. Toàn bộ giáo pháp được giảng dạy từ Đức Phật Thích Ca, người đã thực sự đạt được giác ngộ từ hơn 2.500 năm về trước. Bởi thế hồng danh của Đức Phật rất đặc biệt trong thuật ngữ của chúng ta, và đó lí do tại sao chúng ta sử dụng thuật ngữ này.

Giáo Pháp thực sự là tiến trình hiểu biết của giác ngộ

Khi nói về việc Quy y Pháp, bạn không nên chỉ nghĩ về các học thuyết, kinh điển hay giáo lý. Khi mọi người nghe thuật ngữ “Dharma” (Pháp Bảo), họ luôn luôn tưởng đến hình ảnh của sự tụng niệm ngồi nhắm mắt trước một bàn thờ. Nhưng điều này không hoàn toàn như vậy, mặc dù nó có thể là một phần của Pháp Bảo. Khi tôi còn nhỏ, mỗi khi nhắc đến thuật ngữ Dharma (Pháp Bảo) tôi luôn luôn tưởng đến hình ảnh một cuốn kinh ở trong tâm. Nhưng sau đó, khi nhận ra được ý nghĩa chân thật, tôi tự cười mình. Hình ảnh Pháp Bảo như một quyển kinh không mang đến ý nghĩa gì. Dĩ nhiên đọc kinh sách cũng có thể giúp cho bạn hiểu biết thêm nhiều điều, cho nên chúng ta cũng cần phải tôn kính kinh điển và giáo pháp. Nhưng tất cả kinh điển đều được in bằng giấy mực nên không thể giúp đỡ và bảo vệ bạn. Đây chỉ là một phần của đối tượng Pháp Bảo mà chúng ta Quy y. Pháp Bảo chân thật nhất là toàn bộ tiến trình của trí tuệ giác ngộ. Chúng ta Quy y nương tựa vào tiến trình hay con đường này.

Tăng Bảo có nghĩa là tâm của bạn tập trung hoàn toàn vào con đường tâm linh

Đối tượng thứ ba của Quy y là Tăng Bảo. Khi tâm chúng ta tràn đầy ước nguyện chân thành tha thiết được thực hành con đường tâm linh để chứng ngộ bản chất tâm chân thật của chính mình (sự giác ngộ), ước nguyện đó được gọi là Tăng. Nói một cách khác, thời điểm này bạn có thể bạn nói chính mình là Tăng (khoảng khắc tâm hành giả tha thiết chân thành muốn thực hành Pháp là thời điểm tâm hoàn toàn thanh tịnh và hòa hợp nên mới được gọi là Tăng - chú ý đây chỉ là phần lý, không giống với phần sự: Tăng phải là người xuất gia, thọ giới, đắp y, sống đời phạm hạnh). Về lý mà nói, Tăng có nghĩa là tâm của hành giả tập trung trọn vẹn vào con đường tâm linh, nên lúc đó hành giả là Tăng, không quan trọng việc hành giả đang thực hành theo pháp môn nào.

Việc hiểu kỹ về ý nghĩa cả hai phần sự và lý của Quy y Tam Bảo trong giáo pháp của Đạo Phật là vô cùng quan trọng trước khi Quy y. Tôi luôn luôn nói rằng danh hiệu của Tam Bảo là của Đạo Phật, nhưng ý nghĩa về sự và lý của ba ngôi này có thể được thực hành và được thấu hiểu ngay cả với những người không phải là Phật tử. Bởi vì ý nghĩa căn bản của Tam Bảo là “sự giác ngộ”: tịnh quang phải được tìm thấy ở trong chính bạn. Đây là điều mà mọi người nên trân trọng, bởi đó là bản chất của vũ trụ. Cũng là cái mà tất cả mọi người đều có. Ngay cả mọi loài, cho đến muỗi mòng, cũng có. Đây là lý do tại sao tôi gọi đó là chân lý của vũ trụ, không quan trọng gì nếu bạn tin hay không tin. Hầu hết chúng ta chưa đạt được giác ngộ bởi vì do vô minh, chúng ta đã không cảm nhận và không hiểu được điều này. Tất nhiên, loài muỗi hoàn toàn vô minh, còn chúng ta (loài người dường như rất thông minh và sáng suốt) nhưng cũng rất vô minh trong phương diện này. Thậm chí nếu bạn không tin vào bất cứ điều gì, thì đó cũng vẫn là một quy luật thiên nhiên muôn đời như vậy. Không có con đường nào ra ngoài quy luật đó. Điều này không có nghĩa là chúng ta ép buộc những người không tin phải tin theo. Không, tôi không muốn nói như thế. Chúng ta không thể ép buộc bất kỳ ai.

Quy y là bước đầu hướng tới giác ngộ

Giả sử thần kinh tôi có vấn đề bất ổn và tôi không thể phân biệt được mình đang đứng ngoài trời hay trong nhà, mặc dù chúng ta đang ở bên trong. Song tôi lại thấy như mình đang ở bên ngoài. Và rồi tôi cố thuyết phục rằng chúng ta đang ở ngoài. Có thể bạn rất tốt bụng nên đã không tranh cãi với tôi. Bạn có thể nói, “Ồ không sao, Ngài nói chúng ta đang ở bên ngoài, không có vấn đề gì cả, hãy để Ngài như vậy.” Rõ ràng chúng ta đang ở bên trong, song các tri kiến của tôi cứ cho rằng tôi đang ở bên ngoài. Cho dù tôi có cố sức tranh cãi mình đang ở bên ngoài thì sự thật tôi vẫn đang ở trong nhà. Đây chỉ là một ví dụ. Khi nào bạn vẫn còn đang ở trong thế giới này, chân lý vũ trụ vẫn trải khắp như hư không và bạn không thể từ chối nó. Nó vẫn ở đó. Đó là ý nghĩa điều tôi nói. Cho nên Quy y là bước đầu tiên hướng đến giác ngộ.

nguồn: http://drukpavietnam.org

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phụ nữ và giác ngộ không phân biệt giới tính
trong quan kiến Kim Cương Thừa

Bình đẳng giới và phong trào giải phóng phụ nữ, xét ở một mức độ nào đó, đã được cải thiện ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng, trong cộng đồng Phật Giáo vẫn tồn tại rất nhiều thành kiến và sự nghi ngờ đối với khả năng tu học, thành tựu, đặc biệt là thành tựu đại giác ngộ của người nữ... Dường như sự hiện hữu của những nữ nhân kiệt xuất trong lịch sử Phật Giáo chưa đủ sức thuyết phục đa số nhân loại tin tưởng vào năng lực của người nữ có thể thực sự thành tựu giác ngộ.


Posted Image



Đạo Phật không phân biệt giới tính, giác ngộ không phân biệt giới tính, nhưng sự bám chấp bản năng cố hữu đối với tự ngã và giới tính của bản ngã đã trở thành kiên cố vọng tưởng không thể dễ dàng đổi dời. Vì thế, sự phân biệt đối xử giới tính trong ngay cả cộng đồng Phật Giáo nói chung còn hết sức nặng nề. Do sự bám chấp cố hữu vào giới tính của các yếu tố văn hóa, giáo dục, xã hội cùng nhiều nguyên nhân khác, bản thân các nữ hành giả cũng có những nhận thức sai lầm và thiếu tự tin vào chính bản thân, vào chính khả năng, năng lực vốn thực sự hết sức siêu việt của mình.

Trước thực tại ấy, với mong muốn dẹp tan khối vọng tưởng kiên cố bám chấp vào giới tính, cải đổi cái nhìn thiên lệch và những tác động tiêu cực của xã hội lên người nữ, trang bị cho họ chính kiến và nhận thức đúng đắn để tự giải phóng bản thân, một sự giải phóng chân thật xuất phát từ quan kiến thanh tịnh về chân lý vạn pháp nhằm tiến tới thành tựu đại giải thoát hoàn toàn và rốt ráo, chúng tôi xin được đề cập tới chủ đề đại giác ngộ không phân biệt giới tính, đặc biệt là trong quan kiến của Phật Giáo Kim Cương Thừa, để thấy được thực tế phụ nữ hoàn toàn có tiềm năng và khả năng thành tựu đại giác ngộ, cũng như giới thiệu những phương cách giúp họ đạt được điều đó. Ngoài ra, trong phạm vi hiểu biết và khả năng khiêm tốn của mình, người viết còn mong muốn được giới thiệu và đề xuất những giải pháp thực tiễn đối với mỗi cá nhân cũng như những giải pháp mang tính xã hội và cộng đồng để góp phần cải thiện, giải quyết thực tại bất bình đẳng này vì lợi ích của hết thảy nữ nhân và chúng sinh không phân biệt.

Trong thế giới quan của Đạo Phật, tất thảy vạn loài chúng sinh đều vốn sẵn đủ Phật tính, tất cả mọi người đều có tiềm năng và khả năng chứng đạt giác ngộ dù người đó là ai, thuộc đẳng cấp xã hội nào và dù đó là người nam hay nữ.

Ngay từ thời Đức Phật trụ thế, Ngài đã tuyên bố và ấn chứng quyền được tu tập giáo pháp giải thoát cũng như khả năng tu tập thành tựu giác ngộ tối thượng của người nữ. Sự quyết định và ấn chứng của đức Phật chính là một bước ngoặt của lịch sử nhân loại, mang lại cho người nữ quyền được tham dự vào Tăng đoàn, quyền được đón nhận giáo lý và tu tập giáo pháp giải thoát, được khai phát trưởng dưỡng những phẩm hạnh cao quý bi- trí- dũng để chứng đạt cảnh giới giác ngộ. Có thể liệt kê một số các hàng nữ hành giả cũng có khả năng vượt bậc, chứng đắc vô sở úy như Tỳ kheo ni Maha Pajapati Gotami, bậc đại trí tuệ đệ nhất Khema, bậc thần thông đệ nhất Uppalavanna, trì luật đệ nhất là Patacara, thuyết pháp đệ nhất là Dhammadinna, tu thiền đệ nhất là Nanada, chuyên cần tinh tấn đệ nhất là Sona, thiên nhãn đệ nhất là Sakula, thắng trí tấn tốc đệ nhất là Bhaddà Kundalakesa…

Như vậy, sự ấn chứng của đức Phật và những minh chứng thành tựu Phật quả giải thoát của chính các nữ hành giả thời đức Phật tại thế giúp khẳng định rằng người nữ hoàn toàn không thua kém với người nam về phương diện khả năng và sự thành tựu quả vị giác ngộ tối thượng.

TRÍ TUỆ PHỤ NỮ VÀ NGUYÊN LÝ MẪU TÍNH TRONG KIM CƯƠNG THỪA


Đến đây, một câu hỏi cần được đặt ra: tại sao trên mọi bình diện học thuyết và thực tế cuộc sống, Đạo Phật đều chủ trương không phân biệt giới tính, và với bằng ấy sự ấn chứng của Đức Phật cũng như thực tế lịch sử đã chứng minh rằng người nữ thật sự có khả năng thành tựu và chứng đạt giác ngộ không khác gì người nam, vậy mà hiện thực xã hội ngày nay lại cho thấy các nữ hành giả phần nhiều vẫn còn quá tự ti, không tin vào khả năng thành tựu Phật quả ngay trong thân nữ vốn được coi là bất tịnh và bất tài đến như để trở thành Ma Vương cũng là điều không thể? Nặng nề hơn nữa là phần đông xã hội và nửa kia của thế giới luôn áp đặt lên họ những thành kiến cố hữu, đánh giá thấp và thiếu niềm tin ở người nữ, luôn phân biệt đối xử giữa nam và nữ, giữa tăng và ni, giữa nam cư sĩ và nữ cư sĩ; hoặc phủ nhận nhiều khả năng nhất định của nữ giới. Nếu được hỏi người nữ có thể chứng đạt đại giác ngộ trong thân nữ hay không, chắc chắn câu trả lời nhận được từ nhiều người sẽ là không hoặc tỏ thái độ nghi ngờ vì cho rằng về mặt lý là có thể nhưng về mặt sự thì không. Hệ quả là nữ giới bị kìm hãm sự phát triển và bị phong tỏa trên con đường tiến tới giác ngộ cứu kính.


Posted Image



Nguyên nhân thì rất nhiều, nhưng căn nguyên chính nằm ở sự nhận thức. Phàm phu chúng ta chưa có trí tuệ viên mãn như chư Phật, chư Bồ Tát, nhưng trước hết chúng ta phải có nhận thức đúng đắn khế hợp với chính pháp. Sự phân biệt giới tính sở dĩ tồn tại là do chúng ta còn bám chấp những tà kiến sai lầm. Hoặc có thể nhiều người trong chúng ta mặc dù đã quá quen thuộc với ý niệm Đạo Phật là không phân biệt giới tính và giác ngộ không phân biệt giới tính, nhưng sự hiểu biết ấy có lẽ chưa đủ sâu sắc để cải biến định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức của chúng ta về vấn đề phụ nữ và giác ngộ. Vậy, chúng ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về trí tuệ phụ nữ trong giáo pháp của Đạo Phật, đặc biệt là trong truyền thống Kim Cương Thừa để có được chính kiến thực sự sâu sắc có công năng đập tan vọng tưởng phân biệt giới tính.

Trong Đạo Phật, nguyên lý mẫu tính nêu biểu cho trí tuệ bản lai. Vì Phật quả là sự viên mãn của trí tuệ bản lai, nên trí tuệ còn được xem như là mẹ của hết thảy chư Phật. Trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa và Bát Nhã Tâm Kinh, Đại Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật chính là biểu tượng của trí tuệ ban sơ đại toàn thiện đại viên mãn này. Trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, sự viên mãn của trí tuệ sâu xa của nguyên lý mẫu tính được gọi là “Thai tạng của chư Như Lai” hay “Mẹ của chư Phật”. Trí tuệ Bát Nhã là tính chất trí tuệ sắc bén với sự xả bỏ bản ngã. Năng lực này của trí tuệ sâu xa là suối nguồn, hay thai tạng nơi chư Phật hiển lộ, và vì thế được gọi là “Thai tạng của chư Phật”. Và trí tuệ ấy được thể hiện bằng hình tượng Bát Nhã Phật Mẫu. Do đó, trong Đạo Phật, trí tuệ phụ nữ chính là trí tuệ tính không siêu việt. Phụ nữ và phương diện nữ tính bên trong mọi chúng sinh bất kể nam hay nữ biểu trưng cho đại trí tuệ siêu việt.

Thông thường, nhiều người quan niệm rằng phụ nữ được liên hệ với tình thương, lòng nhân từ, từ bi chứ không phải trí tuệ, còn người nam mới là đại diện của trí tuệ. Và sự từ bi của người nữ thường được cho là chỉ dừng lại ở lòng tốt, nhân hậu, tử tế, thương người. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này là do chúng ta không hiểu về những nguyên lý mẫu tính và phụ tính bên trong mọi sinh linh. Thực tế, mỗi hữu tình đều mang trong mình hai nguồn năng lượng mẫu tính và phụ tính. Theo quan điểm Kim Cương thừa, mỗi một người nam hay nữ đều sẵn đủ toàn vẹn viên mãn của mẫu tính và phụ tính. Những nguyên lý này là dòng năng lượng chảy trong cơ thể cả nam giới và nữ giới. Khía cạnh năng lượng nam tính chính là tâm đại từ bi vô lượng và năng lượng âm tính chính là đại trí tuệ toàn tri - cội nguồn của vạn pháp. Hai nguyên lý mẫu tính và phụ tính hay đại trí tuệ siêu việt và đại từ bi vô lượng là tương sinh tương hợp và bất khả phân, chính vì thế mà mọi hữu tình đều bình đẳng, vốn sẵn đủ Phật tính và đều có khả năng giác ngộ thành Phật. Nhìn từ bình diện chân lý tuyệt đối, trí tuệ và từ bi hay hai dòng năng lượng phụ tính và mẫu tính là bất khả phân, nhưng một cách tương đối, sự thể hiện ra bên ngoài dưới lăng kính nghiệp báo của chúng sinh chúng ta lại thấy chúng dường như phân chia tách biệt, có nam có nữ. Sự phân biệt giới tính chính từ đây thành lập và giải thích tại sao sự bám chấp này lại kiên cố nặng nề như vậy. Do vô minh và nghiệp lực chi phối nên chúng ta chỉ thấy khía cạnh là nam hoặc là nữ trong mỗi người mà thôi. Bên cạnh đó từ khi sinh ra chúng ta được rèn luyện một cách sai lầm trong cách nhìn nhận sai lầm của nhiều nền giáo dục, văn hóa và tôn giáo, khía cạnh nam tính trong người nữ không được coi trọng và nhìn nhận đúng mức, thậm chí bị xuyên tạc và bị gạt ra khỏi nguồn năng lượng - tiềm năng giác ngộ của chính họ. Vì thế, chúng ta không có khả năng hợp nhất viên mãn những nguồn năng lượng này. Đàn ông cố che giấu khía cạnh nữ tính nơi mình, còn phụ nữ thì lại sợ bộc lộ năng lượng nam tính trong họ. Kết quả là họ luôn cảm thấy cô đơn và thiếu thốn và cần một đối tượng bên ngoài để thỏa mãn sự cô đơn đó. Chính họ đã lãng quên suối nguồn Phật Mẫu tính và Phật Phụ tính trong chính mình. Cứ như thế, họ cứ tìm cầu những giải pháp bên ngoài và càng mãi trôi lăn trong những chướng ngại khổ đau không cùng tận. Trong hoàn cảnh như vậy, người nữ ngày càng trở nên tự ti hơn, ngày càng giới hạn mình vào những thiên kiến hạn hẹp.

Có bao giờ chúng ta tự đặt câu hỏi rằng chúng ta thực sự là ai, tại sao chúng ta lại sân giận, ham muốn, khi sân giận ham muốn chúng ta vừa thỏa mãn lại vụt tắt ngay, rồi lại tiếp tục các sân giận, ham muốn khác, tại sao lại cứ mãi lặp đi lặp lại như thế. Ham muốn tiếp tục ham muốn, thôi thúc làm chúng ta khát khao, đau khổ và tuyệt vọng. Cái gì trong nó và cái gì ngoài nó? Đại giác ngộ thành tựu chỉ khi chúng ta có thể hợp nhất được hai dòng năng lượng Phụ tính và Mẫu tính, từ bi và trí tuệ.

VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHỤ NỮ VÀ KHẢ NĂNG CHỨNG ĐẠT PHẬT QUẢ TRONG THÂN NỮ THEO THẾ GIỚI QUAN KIM CƯƠNG THỪA

Kim Cương thừa cho ta một cái nhìn toàn diện, chi tiết, cụ thể và minh xác về những nguồn năng lượng từ bi và trí tuệ trong bản thân mỗi chúng ta, cách chúng vận hành, trôi chảy, tương tác với nhau như thế nào, làm thế nào để nhận diện được chúng, và cách thức chuyển hóa để đạt được sự cân bằng đại hợp nhất siêu việt hai nguồn năng lượng này. Chính khi đó đại giác ngộ vô thượng được thiết lập. Hết thảy chúng sinh nam nữ không chỉ bình đẳng về Phật tính và còn bình đẳng về cả khả năng chứng đạt Phật quả, nghĩa là không phải người nam có thể thành tựu dễ dàng hơn người nữ, và ngược lại, người nữ khó hoặc thậm chí là không thể viên mãn đạo quả trong hình tướng nữ nhân. Chính vì thế, trong Kim Cương Thừa, phụ nữ chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, không thể thiếu và bằng nhiều cách khác nhau nêu biểu cho nguyên lý mẫu tính giác ngộ.

Người nữ được liên hệ với Đất mẹ, với vai trò nền tảng và kho tàng, suối nguồn của cuộc sống, năng lượng, về thể chất và tâm linh của tất cả chúng sinh. Kim Cương thừa nhấn mạnh tới nguyên lý Mẫu tính giác ngộ thông qua những hình ảnh Phật mẫu Bát nhã, Phật mẫu Tara, biểu trưng cho cội nguồn của vạn pháp. Cho nên được gọi là mẹ của hết thảy chư Phật. Đặc trưng của nguyên lý Mẫu tính là năng lực hàm chứa, sản sinh và sáng tạo. Phật mẫu không phải là một ý chí sáng tạo ra quy luật và thế giới mà chính là bản thể của thế giới.

Trong Kim Cương thừa, tầm quan trọng và năng lực giác ngộ của người nữ được thể hiện thông qua các Thangka, Mandala, các biểu tượng và pháp khí. Hình ảnh Kim Cương Thánh Mẫu, Dakini trong tư thế vũ điệu thắng lạc hoặc an tọa trong tư thế thiền định với khế ấn đặc trưng, trang hoàng bằng những bảo man quý báu, những mảnh xương và vương miện bằng xương hoặc bằng hoa. Điều này khẳng định chắc chắn khả năng đạt được giác ngộ quả tức thân thành Phật ngay trong một đời của người nữ là điều có thể.

Trong Mật điển tán thán tầm quan trọng và khả năng thiền định của nữ giới, như các bậc Yogini, Dakini, hay những bậc Trì Minh. Yogini nghĩa là hành giả nữ thực hành yoga, người nữ với năng lực thần thông hay Bản Tôn Thánh Mẫu. Dakini vượt trên nhận thức thông thường, đó là những “Không Hành Mẫu”, các ngài du hí tự tại trong tự tính pháp giới. Các ngài còn là bậc trì giữ trí tuệ, hiện thân của đức Phật mẫu Bát nhã, mẹ của chư Phật.

Những Dakini Trí Tuệ là những bậc đã giác ngộ như Vajra Yogini, họ cũng được miêu tả như là các Phật Mẫu Minh Phi của các bậc Hoạt Phật hay các bậc Bồ Tát. Dakini là một nguồn gốc của quy y. Bên cạnh việc quy y Tam Bảo, chúng ta cũng quy y tam Căn Bản (Guru, Yidam và Dakini – Thượng Sư, Bản Tôn và Không Hành); Dakini đại diện cho cội nguồn của các công hạnh giác ngộ bởi vì Dakini là năng lượng giác ngộ mẫu tính nêu biểu cho trí tuệ bản lai.

Dakini được gắn liền với hư không và có khả năng sản sinh vô số tiềm năng của những công hạnh giác ngộ mà có thể chia thành bốn: Tức tai, Tăng ích, Kính ái và Hàng phục. Dakini cũng là những hiện thân của sự hợp nhất tính không và trí tuệ. Và sự hợp nhất này là siêu việt vô song. Đây là cảnh giới của sự tỉnh thức được kiểm soát, vững chắc và hoàn toàn tự do. Mọi người đều có khả năng và tiềm năng để chứng ngộ tự tính Dakini trí tuệ cho chính mình bất kể bạn là nam hay nữ.

Điều này có nghĩa là không có sự phân biệt giới tính, bất kể người nào cũng có phẩm chất của một Dakini trí tuệ hay năng lượng giác ngộ mẫu tính. Mặt khác lòng bi mẫn lại liên quan đến năng lượng Phụ tính và khi cả trí tuệ và lòng bi mẫn được trải rộng đến hoàn hảo, chúng ta đạt được giác ngộ và trở thành Phật. Dakini - những bản tôn hóa thần đại diện cho trí tuệ vĩ đại và nam hóa thần đại diện cho lòng đại bi.

Ngoài những biểu tượng giác ngộ trên, tầm quan trọng của người nữ còn được thể hiện thông qua việc trì giới trong Kim Cương thừa. Giới nguyện Samaya có tầm quan trọng trong Phật Giáo Kim Cương thừa, được các hành giả trì giữ nghiêm mật trên đạo lộ tu tập của mình. Có 14 đọa lạc căn bản, nếu hành giả phạm sẽ làm phá vỡ lời thệ nguyện trì giữ Samaya. Căn bản đọa thứ 14 nói rằng: Nếu miệt thị và coi thường người nữ thì có nghĩa hành giả đã phạm giới nguyện Samaya. Một khi còn những thái độ miệt thị như coi phụ nữ không có năng lực và khả năng tâm linh cũng tức là đã phạm vào giới nguyện Samaya. Nếu hành giả chỉ cần có một ý niệm không muốn giúp đỡ một người nữ cũng đã làm phá bể giới Samaya, còn trong trường hợp, nếu hành giả coi một nữ huynh đệ kim cương là kẻ thù thì đó là sự phá bể giới nguyện cao nhất.

Như vậy, ta thấy Kim Cương thừa chống lại mọi quan điểm phân biệt giới, mang lại một sự bình đẳng lớn lao cho người nữ và đặc biệt đề cao, coi trọng địa vị và tầm quan trọng của người nữ trong việc hành trì tu tập Mật giáo, bởi Kim Cương thừa dựa vào một nguyên lý vô cùng xác đáng: nguyên lý nữ tính nêu biểu cho trí tuệ tính không. Nói cách khác, người phụ nữ hiển diện một cách trực tiếp trong mục đích và lý tưởng của đạo Phật, bởi vậy miệt thị phụ nữ cũng chính là miệt thị đạo Phật. Sự miệt thị như vậy là một chướng ngại cho sự tu tập giác ngộ của cả nam và nữ.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ NỮ HÀNH GIẢ THÀNH TỰU GIÁC NGỘ TRONG KIM CƯƠNG THỪA?

Quay trở về với thực tế cuộc sống, rất nhiều người cho rằng phụ nữ không thể chứng đạt giác ngộ vì lý do thể chất yếu đuối, tâm sinh lý và nghiệp chướng nặng nề. Xét ở một chừng mực nào đó, sự thực là bản thân phụ nữ có rất nhiều thiếu sót và hạn chế. Về thể chất, phụ nữ không mạnh mẽ như nam giới, hơn nữa còn phải chịu ảnh hưởng tác động tiêu cực của thân thể vật lý mà điển hình là với chu kỳ hàng tháng. Ngoài ra, phụ nữ thường có thiên hướng dễ bị tình cảm chi phối nên khó kiểm soát được cảm xúc trong khi tu tập. Với thiên chức làm mẹ, phụ nữ thường hướng nội vì phải chăm sóc gia đình, con cái. Vì hầu hết thời gian, tâm trí và sức lực dành cả cho gia đình nên thật không dễ dàng để họ có thể dâng hiến trọn vẹn cho sự tu tập và giải thoát.
Posted Image
Bên cạnh những trở ngại đến từ bên trong, người phụ nữ còn gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại đến từ phía xã hội. Do nền giáo dục dựa trên sự phân biệt giới tính mang tính cố hữu, ngay từ thuở nhỏ, thay vì được giáo dưỡng và phát triển các phương diện mẫu tính và phụ tính giác ngộ trong mình, các bé gái được dạy dỗ từ thái độ, nhận thức cho đến những hành vi ứng xử bên ngoài như đi đứng, nằm ngồi, ăn mặc, v.v… theo cách mà xã hội áp đặt cho rằng một người nữ cần phải như vậy. Không những chỉ phải đối mặt với những thành kiến ngoài xã hội, khi bước chân vào con đường thực hành giáo pháp, các nữ hành giả cũng còn phải đối mặt với rất nhiều mặc cảm phân biệt giới tính một cách có ý thức và vô thức ngay trong bản thân cộng đồng Phật Giáo nói chung.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm bất lợi và trở ngại trên, người nữ cũng có những thế mạnh nhất định trong tu tập thực hành. Đó chính là tín tâm dâng hiến và sự nhẫn nhục bền bỉ. Với tín tâm thanh tịnh và đức tính nhẫn nhục, nữ hành giả hoàn toàn có thể vượt qua được những chướng ngại về thân và tâm sinh lý hướng về đại giải thoát.

Vậy, làm thế nào để nữ hành giả tu tập thành tựu giác ngộ?

Để thực hành giáo pháp Kim Cương Thừa, điều kiện tiên quyết là nữ hành giả phải tìm được bậc Thượng sư giác ngộ thuộc một dòng truyền thừa không gián đoạn, bất luận ngài là nam hay nữ và nghiêm cẩn tu tập theo sự giáo huấn, hướng đạo của ngài.

Kim Cương thừa có nhiều phương pháp thù thắng để chuyển hóa những năng lượng tiêu cực, chứng đạt tính toàn vẹn nguyên thủy- sự hợp nhất từ bi và trí tuệ vĩ đại trong ta. Dưới sự dẫn dắt của một bậc Thượng Sư giác ngộ, nữ hành giả có thể tu học bốn thứ lớp Tantra: Tantra nghi quỹ, Tantra hành động, Tantra Yoga và Tantra Yoga tối thượng. Mỗi thứ lớp dành cho một đối tượng hành giả đặc biệt; và điều khác biệt giữa thứ lớp này thứ lớp kia là mức độ năng lượng ham muốn mà hành giả có đủ thiện xảo để hướng nó vào con đường tu tập.

Phật Giáo Kim Cương Thừa đưa ra rất nhiều phương pháp thiện xảo để trưởng dưỡng và tịnh hoá tâm. Những phương pháp này bao gồm các cách tu tập, quán tưởng về bản tôn, lập đàn, những nghi lễ đặc sắc, trang hoàng rực rỡ, vũ điệu và nghệ thuật linh thiêng, pháp thực hành yoga vi tế để chuyển hoá toàn bộ sự khao khát trần tục vào trong lĩnh vực hỉ lạc và giác ngộ thức tỉnh.

Ngoài ra, một trong những mục đích chính của việc hành trì Kim Cương thừa là sự hoàn hảo thanh tịnh bên trong và thế giới bên ngoài bằng cách quán tưởng vũ trụ là một cảnh giới mandala, còn tự thân là Hóa Phật Bản tôn. Bản tôn được quán tưởng tượng trưng các hiện tướng của năng lượng giác ngộ và những công hạnh giải thoát. Ví dụ, Đức Phật mẫu Tara biểu trưng cho sự giải thoát, bảo vệ những người cầu nguyện khỏi sự nguy hiểm tinh thần và vật chất với lòng bi mẫn của đức từ mẫu, trong khi nụ cười hỷ lạc và an bình của ngài biểu trưng cho sự an lạc, vượt thoát khổ đau. Đức Kim Cương Thánh Mẫu Vajrayogini là đức Phật mẫu thành tựu chứng ngộ đại hợp nhất tính không và đại hỷ lạc, thể tính của ngài là không hình, không tướng, tuy nhiên ngài hóa thân thị hiện trong sắc tướng thiếu nữ trẻ trung để mang lại sự tự tin, sự tín tâm cho người nữ giúp họ có được niềm tin vững chắc vào bản tính Phật mẫu, bản chất Phật tính và tiềm năng giác ngộ vốn có trong mình từ đó giúp khai phát, hiển lộ niềm tự hào kim cương về bản chất Phật Mẫu tính nơi mình.

Trong Kim Cương thừa, cũng giống như những bậc Đại Thành tựu giả xuất hiện trong hình tướng nam nhân, có rất nhiều những Yogini vĩ đại thành tựu giác ngộ tối thượng trong thân người nữ ngay trong một đời. Các Ngài đã khai phát, chứng ngộ nguồn năng lượng Phật Mẫu tính và Phật phụ tính trong mình. Đây là những tấm gương, là những mẫu hình sống động cho nhiều thế hệ, đặc biệt đối với người nữ, những người chân thành khát ngưỡng tìm cầu giáo pháp giải thoát. Các Ngài không chỉ là những bậc thành tựu giác ngộ ngay trong một đời mà những công hạnh nhập thế của các ngài cũng vô cùng mãnh liệt và lợi ích, có những ảnh hưởng và đóng góp to lớn cho Phật Giáo Kim Cương thừa. Bởi vậy công hạnh và tiểu sử của các nữ hành giả Kim Cương thừa khơi dậy niềm cảm hứng, sự tôn kính, hy vọng và tín tâm bất thoái chuyển đối với người nữ rằng họ có thể tu tập giáo pháp giải thoát và thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Công hạnh và tiểu sử của các nữ hành giả Yogini vĩ đại trong lịch sử Kim Cương Thừa như Đức Yeshe Tsogyal bậc trí tuệ đa văn đệ nhất giống như ngài Ananda, Yogini Niguma nữ đại thành tựu giả đã sáng lập sáu pháp Yoga của Niguma, Gelongma Palmo ngưới sáng lập pháp thực hành Nyungnay- pháp đại thành tựu Avalokiteshvhara, Machig Labdron (1055-1152) bậc thượng thủ dòng truyền thừa Chod...được ghi lai một cách minh xác trong lịch sử là những minh chứng cho chân lý rằng: sự thành tựu giác ngộ nơi người nữ ngay trong một đời là một thực tế. Tiềm năng giác ngộ, nguồn năng lượng Phật mẫu tính và Phật phụ tính đều sẵn có nơi mỗi người nam và cả người nữ. Bởi vậy cho dù là người nam hay người nữ, dù ở địa vị xã hội nào, nếu có tín tâm dâng hiến, sự tự tin tu trì thì đều có thể chứng đạt hợp nhất bi trí dũng, để đem suối nguồn giác ngộ lợi ích cho muôn loài chúng sinh.

GIẢI PHÁP MANG TÍNH XÃ HỘI VÀ CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI NỮ - BƯỚC CẢI CÁCH TRONG NHẬN THỨC VÀ HẠNH ĐỘNG ĐỐI VỚI NỮ HÀNH GIẢ TRUYỀN THỪA DRUKPA

TrPosted Imageong giới hạn khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu về Truyền Thừa Drukpa thuộc truyền thống Kim Cương Thừa – Đại Thừa Phật Giáo, dưới sự dẫn dắt của Đức Toàn Tri Tôn Quý Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII với những chủ trương và hành động thực sự dựa trên căn bản của giác ngộ không phân biệt giới tính, đã và đang đem lại sự giải phóng đích thực như thế nào cho các nữ hành giả.

Dòng truyền thừa Drukpa có lịch sử phát triển huy hoàng hơn 800 năm tới nay với những bậc hành giả chân tu, khổ hạnh, thanh tịnh và thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII luôn tâm nguyện mang lại cơ hội bình đẳng trong việc thực hành giáo pháp cho những nữ hành giả và trì giữ dòng truyền thừa Togdenma. Đức Pháp Vương đã chia sẻ quan kiến rằng: “Giác ngộ không phân biệt giới tính, từ bi không phân biệt giới tính, trí tuệ không phân biệt giới tính. Về bản lai, chúng ta đều là Phật”, và “Tất cả mọi người, bất kể là nam hay nữ, đều có tiềm năng và có quyền chứng đạt Phật quả cứu kính”.

Ngài đã thực hiện rất nhiều dự án với tâm nguyện nâng cao địa vị của nữ hPosted Imageành giả trong cộng đồng tâm linh dòng truyền thừa Drukpa. Ngài đã bảo trợ nâng đỡ tự viện Druk Gawa Khiwa Abbey- một cộng đồng tâm linh cho nữ hành giả. Nơi đây, các nữ hành giả đã được trao cơ hội tu tập các pháp tu thâm diệu của Truyền Thừa Drukpa, trong số đó đã có những nữ hành giả đã có những sự tiến bộ tâm linh cao cấp, được tu các pháp tu đặc biệt như Sáu Pháp Yoga của Naropa dưới sự hướng đạo trực tiếp của đức Pháp Vương. Pháp vương cũng đã trao cho nữ hành giả rất nhiều cơ hội sự bình đẳng trong sự tu tập như trong suốt Lễ hội Naropa, đức Pháp vương đã cho phép 200 ni sư chịu trách nhiệm cử hành nghi lễ trước sự hiển diện của hơn 135 ngàn tăng ni Phật tử. Có thể nói đây là một bước đột phá trong truyền thống Phật Giáo Kim Cương Thừa bởi lẽ thông thường cácPosted Image chư tăng vẫn đảm nhận vai trò này.



Một sự kiện nữa nổi bật gần đây nhất là vào tháng 7 năm 2009, theo gót chân sen của Đức Pháp Phương, hơn 400 chư ni đã tham gia chuyến bộ hành triều bái thánh địa kéo dài 400 km từ Manali đến Ladakh (Ấn Độ), băng qua những dãy núi Himalaya hùng vĩ trên độ cao từ 3.000 đến hơn 5.000 km so với mực nước biển trong thời tiết khắc nghiệt, nhiệt độ xuống dưới 00C. Chuyến hành trình mặc dù đầy gian nan, khó nhọc và cam go, thánh thức đối với ngay cả chư tăng và các nam hành giả, nhưng các sư ni đã xuất sắc hoàn thành không chỉ vì sự nghiệp tâm linh của bản thân mà còn vì lợi ích của hết thảy dân làng vùng Himalaya cũng như của chúng hữu tình vô lượng. Đây cũng là một minh chứng tuyệt vời cho khả năng, đức tính nhẫn nhục, tín tâm dâng hiến chí thành và ý chí siêu việt của các nữ hành giả.

Posted ImagePosted Image


Trong lịch sử dòng truyền thừa Drukpa có rất nhiều các bậc nữ hành giả Yogi thành tựu giác ngộ ngay trong một đời. Đức Pháp vương tâm nguyện phục hồi, trì giữ dòng truyền thừa Togdenma của các nữ hành giả Yogini thành tựu hiện đang có nguy cơ thất truyền.

Hai nữ hành giả thành tựu giác ngộ trứ danh được rất nhiều người trên thế giới tôn kính trong dòng truyền thừa Drukpa hiện nay là Khandro Thrinlay Chodon và Jetsunma Tenzin Palmo. Khandro đản sinh trong một gia đình của các đại Thành tựu giả Yogi, trứ danh với sự thành tựu các pháp tu cao cấp thanh tịnh của truyền thừa Drukpa. Jetsunma Tenzin Palmo là một trong những người nữ Phương Tây đầu tiên được thụ giới là một Ni sư Kim Cương thừa. Dưới sự hướng đạo của Thượng sư, Tenzin Palmo đã nhiều năm tu tập nghiêm cẩn và thành tựu các giáo pháp của truyền thừa Drukpa.

Cả hai Ngài đều đang triển khai rất nhiều dự án hoằng dương giáo pháp rộng khắp trên thế giới, đặc biệt là các dự án như xây dựng ni viện, trung tâm nhập thất, đào tạo, nâng đỡ và tạo điều kiện cho các ni sư và nữ cư sĩ có cơ hội được tu tập giáo pháp giải thoát. Các Ngài là những tấm gương điển hình của nữ hành giả chứng ngộ trong thân người nữ, hòa nhập giáo pháp trong thế giới đương đại.

THAY LỜI KẾT – DỰ ÁN CHÙA TÂY THIÊN – GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG NGƯỜI NỮ VÀ THIỆN HẠNH SỐNG ĐỂ YÊU THƯƠNG

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin được đề xuất một số giải pháp và ý tưởng thông qua mô hình dự định của dự án chùa Tây Thiên (gồm ba ngôi: chùa Thượng Tây Thiên, Tây Thiên-Phù Nghì và chùa Thiên Ân) thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, được thiết kế và xây dựng theo truyền thống Truyền Thừa Drukpa thuộc Kim Cương Thừa – Đại Thừa Phật Giáo.

Nằm trong thung lũng lòng chảo của hệ thống núi Tam Đảo, Tây Thiên là khu địa linh với cảnh quan hết sức nên thơ, hùng vĩ. Ba ngọn núi Thạch Bàn ở giữa, hai bên tả hữu là Phù Nghĩa và Thiên Thị đều cao hơn một ngàn mét với những dòng suối trong xanh đổ xuống từ trên cao và uốn lượn quanh co tạo nên một bức tranh thiên nhiên kỳ tú, diễm lệ. Tại nơi danh lam thắng cảnh tập hợp với mật độ dày đặc các di tích Phật Giáo và đình đền miếu mạo cổ này, dự án chùa Tây Thiên được quy hoạch trên quần thể của ba ngôi chùa cổ: chùa Thượng Tây Thiên, Tây Thiên-Phù Nghì và Thiên Ân Thiền Tự. Qua những nghiên cứu khảo cổ gần đây, ba ngôi cổ tự này được xác định có niên đại ít nhất từ thời Trần thế kỷ XIII sau Công Nguyên và ngoài Yên Tử, Tây Thiên chính là một trung tâm Phật Giáo mang tầm quốc gia thời Trần. Đặc biệt, căn cứ vào nhiều sử liệu cho biết Đạo Phật được truyền vào nước ta từ thời vua Hùng thứ VII (Hùng Chiêu Vương) vào khoảng thế kỷ thứ II-III trước CN và nhiều nhận định cho rằng Tây Thiên chính là chiếc nôi đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam.

Theo kế hoạch, dự án chùa Tây Thiên sẽ là một quần thể kiến trúc tâm linh đặc biệt bao gồm tự viện, trung tâm nhập thất, khuôn viên cử hành các đại lễ, các nghi quỹ, cầu nguyện, tán tụng, trì chú, thiền định, vũ điệu Kim Cương Thừa; và có trung tâm giáo dục như giảng đường lớn nơi đào tạo ni chúng và Phật tử học về mật điển, như các môn học về âm nhạc Kim Cương Thừa, kiến trúc, điêu khắc, hội họa Kim Cương Thừa, kiến lập Mandala. Chương trình trọng điểm trong dự án chùa Tây Thiên sẽ liên quan đến việc giáo dục nội điển, giáo pháp Kim Cương thừa của truyền thừa Drukpa, đào tạo ni chúng và Phật tử theo những căn cơ và nhóm đối tượng khác nhau. Ngoài việc được cung cấp kiến thức và thực hành tu trì các giáo pháp căn bản và sâu xa của Phật Pháp, từ cách tiếp cận trực diện của Kim Cương Thừa đối với vạn pháp, người nữ còn hiểu được bản chất Phật tính, các nguyên lý phụ tính và mẫu tính trong chính mình, hiểu được thân vật lý, tâm sinh lý, thân vi tế, cơ chế vận hành của thân tâm, những nguồn năng lượng, quá trình phát khởi, diễn tiến, kết thúc và chu trình, quy tắc vận động của các trạng thái xúc tình phiền não, phương thức nhận diện và chuyển hóa những năng lượng tiêu cực ấy thành mật ngọt cam lồ, trí tuệ và dũng lực, v.v…Thông qua nền giáo dục nội điển này, người nữ sẽ hiểu được bản chất tại sao mình lại thực sự bình đẳng với nam nhân, không chỉ là bình đẳng trên phương diện tự tính tuyệt đối hay về mặt lý thuyết, mà còn thật sự bình đẳng trên phương diện tương đối, về khả năng, tiềm năng, năng lực, sức mạnh, trí tuệ,…Trên cơ sở đó, người nữ mới có thể thiết lập và phát triển sự tự tin vững chắc, vô tác, bất thoái chuyển ở nơi chính nội tâm mình. Mặt khác, vì nam nhân cũng là đối tượng của chương trình giáo dục này nên họ cũng sẽ được trang bị một nền tảng nhận thức đúng đắn về bản thân mình cũng như về nữ giới, giúp họ từ đó không chỉ chuyển hóa một cách có ý thức những thành kiến sai lầm và sự bám chấp, phân biệt giới tính, phân biệt đối xử với nữ giới, mà còn tôn trọng, tự giác hỗ trợ và tạo điều kiện cho người nữ phát triển.

Trên cơ sở được trang bị đầy đủ các giáo pháp nội điển cùng kiến thức và các kỹ năng hiện đại, các hoạt động nhập thế độ sinh cũng sẽ được tổ chức thông qua các dự án Sống Để Yêu Thương (Live To Love) do Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đề khởi. Các dự án Sống Để Yêu Thương được chia thành năm nhóm chính: Giáo Dục, Y Tế, Bảo Vệ Môi Trường, Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa và Cứu trợ.

Thứ nhất, về dự án Giáo Dục, đối tượng ưu tiên đầu tiên của chúng tôi sẽ là trẻ em nghèo. Trên cơ sở không phân biệt tôn giáo và thành phần xã hội, trẻ em sẽ được dạy văn hóa, ngoại ngữ, các kỹ năng sống, giao tiếp, phương pháp học tập, đặc biệt là phát triển nhân cách, phát triển lòng từ bi và trí tuệ để trở thành một công dân tốt và có ích cho gia đình cùng xã hội. Ngoài ra, chương trình Giáo Dục đặc biệt chú trọng hoằng dương chính pháp thông qua phối hợp đa dạng nhiều kênh truyền thông khác nhau như thành lập các website, phát hành các tập san định kỳ, tổ chức các diễn đàn trao đổi Phật Pháp và chia sẻ, nâng cao nhận thức của nhiều thành phần xã hội và để cùng nhau giải quyết các vấn đề thực tại của cuộc sống.

Thứ hai, về lĩnh vực Y Tế và chăm sóc sức khỏe, các sư ni chủ động trang bị cho người dân nhận thức chân thực về giá trị đời sống, những kỹ năng, phương pháp đặc trưng của Kim Cương thừa như: lễ dài, Yoga, thiền định giữ tâm trong sáng, các phương pháp thiện xảo thanh lọc tâm thức và thể chất trong xã hội hiện đại; giới thiệu những phương pháp ăn chay thực dưỡng tự nhiên để thân tâm an lạc; chủ động hợp tác với các bệnh viện, các trung tâm chăm sóc y tế và sức khỏe truyền bá nhân rộng pháp tu Kim Cương thừa về tạng thư sống chết, khai thị thân trung ấm, chuyển hóa tâm thức cho những người sắp chết. Ngoài ra, kết hợp với giáo dục kiến thức và đạo đức học Phật Giáo, chương trình Y Tế cũng chú trọng giúp cộng đồng giải quyết những vấn nạn nhức nhối của xã hội hiện đại như nghiện hút.

Thứ ba, công tác Bảo Vệ Môi Trường cũng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng có thể được thực hiện thông qua việc chủ động tạo một kênh thông tin giữa cộng đồng người dân, các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và các cơ quan truyền thông đại chúng trong việc đề xuất, thông tin và xử lý các khu vực, vùng miền bị ô nhiễm môi trường, tuyên truyền, vận động người dân sử dụng tiết kiệm, hợp lí nguồn năng lượng tự nhiên như điện, nước. Tổ chức triển khai các hoạt động định kỳ như nhặt rác, dọn vệ sinh tại các nơi công cộng, các địa điểm du lịch tâm linh; triển khai dự án trồng cây gây rừng, phóng sinh...

Thứ tư, dự án Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa được bắt đầu bằng bảo tàng trưng bày triển lãm văn hóa Phật Giáo Kim Cương Thừa với những tác phẩm nghệ thuật như tranh cuộn Thanka, Mandala, các pho tượng Phật, Bồ Tát và Truyền Thừa Thượng Sư, tranh ảnh, băng đĩa, ấn phẩm nhằm giới thiệu và bảo tồn nền nghệ thuật Phật Giáo Kim Cương Thừa. Ngoài ra, tại đây sẽ lưu giữ và trưng bày các giá trị truyền thống của nền văn hóa Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt là những giá trị vật thể cũng như phi vật thể với nhiều yếu tố đặc trưng của Mật Giáo vốn đã bắt rễ sâu xa trong tiềm thức và được thể hiện ra ngoài đời sống thường nhật của Phật tử và người dân Việt Nam. Theo đó, những nghiên cứu lịch sử và các tác phẩm lịch sử sẽ được công bố và phổ biến rộng rãi.

Thứ năm, những công hạnh từ thiện cũng cần được đẩy mạnh bằng việc triển khai quyên góp, ủng hộ, cứu trợ đồng bào gặp lũ lụt, khó khăn, những học sinh nghèo, đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa… Để nhân rộng được mô hình tới nhiều nhóm đối tượng đang cần được giúp đỡ, các sư ni và Phật tử sẽ chủ động tạo một kênh thông tin với chính quyền các địa phương, kết hợp với các tổ chức xã hội chuyên nghiệp, có uy tín và các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm triển khai hoạt động này một cách có hiệu quả nhất.

Dù không phải là nhà hoạt động thế tục cũng như chưa đủ khả năng hoằng dương nhập thế, tuân theo những huấn từ của Đức Phật và Đức Pháp Vương, chúng tôi nguyện phát huy hết khả năng khiêm tốn của mình để phát triển ni chúng Tây Thiên với thành tâm hy vọng sẽ có những đóng góp thiết thực vì lợi ích của nữ giới và bình đẳng hữu tình. Trên thực tế, khi kiến lập tịnh thất Tây Thiên, chúng tôi đã có tâm nguyện sẽ mở rộng cánh cửa nơi thâm sơn cô tịch này để khuyến khích và trợ giúp các sư ni trẻ tuổi trên bước đường vượt qua trở ngại, khó khăn tìm cầu ánh sáng giải thoát. Chúng tôi vui mừng nhận thấy ngày nay các ni sư trẻ tuổi đã nghiêm túc rèn luyện trong giới hạnh thanh tịnh, ngày càng tinh tấn tu tập để có thể hoằng dương Phật pháp vì lợi ích hết thảy hữu tình. Dù còn nhiều khó khăn, thiếu khuyết, chúng tôi cũng đang nỗ lực cân bằng giữa yêu cầu tu tập miên mật và những hoạt động Phật sự biến bi tâm thành hành động thuộc thiện hạnh Live To Love (Sống Để Yêu Thương) cao quý của Đức Pháp Vương.

Phụ nữ có một vai trò quan trọng bởi vì thiên chức và bản tính linh hoạt của họ góp sức vào hoạt động phụng sự nhân loại. Bởi lẽ phụ nữ vốn dĩ đã là chất xúc tác tự nhiên mang lại sự thay đổi cho xã hội ngay cả khi họ không có những nỗ lực gì đặc biệt, cho nên người phụ nữ càng tích cực thì nhân loại càng được lợi ích lớn lao. Chúng tôi mong nguyện rằng dự án Tây Thiên sẽ góp một bàn tay nhỏ bé mang lại tầm ảnh hưởng tích cực, rộng lớn và dài lâu đến với cộng đồng và xã hội, và nguyện rằng chúng ta sẽ không chỉ có một số ít những nữ nhân kiệt xuất mà là vô số những bậc nữ giác ngộ đầy lòng từ bi và trí tuệ tuôn tràn về phía vô lượng khổ não chúng sinh.



Posted Image

Posted Image

Nguồn: Bài viết tại Hội nghị ni giới Phật giáo quốc tế tổ chức tháng 1 năm 2010, T/p HCM Việt Nam.
Vô Úy – Drukpa Việt Nam

Share this post


Link to post
Share on other sites

Guru yoga và thực hành nghi quỹ Quan Âm

Posted Image


Một trong những pháp thực hành quan trọng nhất của Kim Cương thừa là Guru Yoga. Guru Yoga có nghĩa là phương pháp tu tập xây dựng nhịp cầu nối tâm linh với Căn bản Thượng sư. Căn bản Thượng sư là hiện thân của ba đời chư Phật, chư đại Bồ tát. Ví dụ như với đức Phật Di Đà hay Bồ Tát Quán Thế Âm.


Trong truyền thống Kim cương thừa, có rất nhiều các pháp thực hành khác nhau nhưng Guru Yoga là một pháp thực hành căn bản, giúp hành giả hợp nhất với tâm giác ngộ của căn bản Thượng sư trong hình tướng của một vị Phật hoặc một vị Bồ tát, như quán tưởng bậc Thầy trong hình tướng đạo sư Liên Hoa Sinh, trong hình tướng đức Phật A Di Đà hay Bồ tát quán thế âm. Bởi vậy Guru Yoga cũng có thể gọi là Thượng sư Tương ưng Pháp. Nghi quỹ thực hành Bồ tát quán thế âm là Guru Yoga hợp nhất với việc quán tưởng Thượng sư trong hình tướng của đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Đó là phương pháp giúp mỗi người khai triển trí tuệ và tình yêu thương nơi mình. Trong đời sống này, đặc biệt trong xã hội hiện đại, càng cần có từ bi và trí tuệ. Mọi việc làm chúng ta đều cần tâm từ bi, bằng không việc làm đó không thể đem lại lợi ích. Do đó phát triển từ bi và trí tuệ là rất quan trọng.

Guru Yoga là pháp thực hành vô cùng quan trọng trong Kim Cương thừa. Trong truyền thống Thượng tọa bộ và Đại thừa không đề cập tới Thượng sư tương ưng pháp. Tất nhiên, nếu chưa có tri thức căn bản về Phật pháp và về Kim cương thừa thì cũng không dễ gì có thể hiểu được ý nghĩa pháp tu này. Guru nghĩa là gì? Guru bao gồm thượng sư bên ngoài, bên trong và bí mật. Thượng sư bên ngoài chính là Bậc Thầy gốc trong hình tướng loài người, ngài là hiện thân của Tăng già, Thượng sư bên trong chính là Pháp bảo tôn quý của đức Phật, mà chúng ta được đón nhận từ căn bản Thượng sư bên ngoài, Thượng sư bí mật chính là bản tâm giác ngộ của mỗi chúng ta. Guru Yoga là phương pháp tiếp cận với Thượng sư, các ngài là hiện tướng Tăng già, các ngài giúp chúng ta khai mở tuệ giác, chứng đạt bản chất Phật - thể tính của chính chúng ta.

Kim cương thừa là pháp thực hành quan trọng và rất thực tiễn. Kim cương thừa nhấn mạnh tới Tăng già. Tăng già là quan trọng nhất. Vị trí của Tăng già được đặt lên hàng đầu. Mà căn bản Thượng sư là đại diện của Tăng già. Đối với Kinh thừa lại khác. Đại thừa Phật giáo đặt tầm quan trọng của giáo pháp lên hàng đầu. Giáo pháp là quan trọng nhất, nếu không có giáo pháp chúng ta không thể tu tập, chứng đạt giác ngộ giải thoát. Còn Phật giáo Nguyên thủy đặt tầm quan trọng tới đức Phật Thích Ca, bậc khai sáng giáo pháp giải thoát. Đây là một vài điểm đặc trưng của ba thừa Phật giáo.

Trong tu tập Kim Cương thừa, nhấn mạnh tới bậc thượng sư bên ngoài. Thực tế cuộc sống chúng ta nhấn mạnh quy y bậc Thầy. Bậc Thầy là căn bản thượng sư, là người mà chúng ta trực tiếp đón nhận giáo pháp. Các ngài là người chúng ta có thể diện kiến, giúp chúng ta khai mở trí tuệ và tâm từ bi nơi chính mình. Ngài là bậc Thầy bên ngoài hay còn gọi là Tăng già.

Guru hay bậc thầy bên ngoài là vô cùng quan trọng. Tại sao thế? Bởi nói về mặt tuyệt đối, đức Phật chưa từng nhập diệt nhưng vì vô mình che lấp nên chúng ta không thể kết nối trực tiếp được với đức Phật. Giáo pháp của Ngài vẫn thường trụ, nhưng chúng ta không đủ trí tuệ và phẩm hạnh để thấu hiểu được, bởi vậy căn bản Thượng sư của mình trở nên vô cùng quan trọng. Ngài là nhip cầu trung gian giúp chúng ta kết nối được với đức Phật và giáo pháp tinh túy. Thượng sư bên ngoài với đầy đủ phẩm hạnh và trí tuệ nội chứng, giúp chúng ta thấu hiểu và chứng đạt thượng sư bên trong, qua đó chứng đạt được thượng sư bí mật. Đức Pháp vương dạy rằng, trong truyền thống Kim cương thừa, nhấn mạnh tới việc quy y một bậc Thầy đầy đủ sự nội chứng và các phẩm hạnh thanh tịnh, nếu không có hướng đạo của bậc thầy thì chúng ta không thể tu tập, thực hành giáo pháp. Chúng ta hiện giờ đây chưa đầy đủ trí tuệ, nếu chúng ta không có dẫn dắt của bậc thầy chúng ta sẽ không thể có phương hướng trên con đường tu tập tâm linh của mình. Do đó bậc thầy giác ngộ trong hình tướng loài người là vô cùng quan trọng. Một bậc Thầy đủ sự nội chứng và phẩm hạnh có khả năng dẫn dắt, hướng đạo cho chúng ta. Cũng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu chúng ta chọn sai một bậc thầy. Chúng ta sẽ bị dẫn sai đường, lạc lối nếu bị dẫn dắt bởi một bậc thầy chưa đủ phẩm hạnh. Một bậc thầy với đầy đủ khả năng nội chứng bên trong sẽ giúp chúng ta tiến từng bước vững chãi trên con đường tu tập tâm linh. Bậc Thầy trí tuệ chính là hóa thân chư Phật, chư Bồ tát. Vì thương xót chúng sinh vô minh nên các ngài đã hóa thân từ cảnh giới giải thoát, đến với thế giới này, để dẫn dắt cứu độ chúng sinh thoát khỏi luân hồi sinh tử. Như vậy, pháp thực hành Guru Yoga giúp hành giả kết nối và có thể nương tựa nơi một bậc Thầy đầy đủ phẩm hạnh giác ngộ.

Tại sao thượng sư bên ngoài lại được đặt ở vị trí quan trọng nhất trong truyền thống Kim Cương thừa. Tại sao bậc Thầy bên ngoài lại quan trọng như vậy? Bởi vì bậc thầy là kết tinh của mười phương ba đời chư Phật. Lời của Ngài là Pháp bảo tôn quý, tâm của Ngài là bản chất Phật Đà. Chúng ta cần quy y nương tựa một bậc thầy giác ngộ. Kính ngưỡng căn bản Thượng sư quan trọng hơn cả đức Phật, bởi chỉ thông qua bậc Căn Bản Thượng sư, chúng ta mới có thể tiếp cận được với Phật, Pháp, Tăng. Căn bản Thượng sư là hiện thân của Bồ tát Quán thế âm, là hiện thân của đạo sư Liên Hoa sinh. Mặc dù ngay vào giây phút này đây, chúng ta có thể chưa tin, chúng ta có thể khởi nghĩ rằng ngài là người nữ, người nam, với thân vật chất, vật lý vậy làm sao thầy lại là hiện thân của Bồ tát? Thực sự hiện thân ở đây không phải là về phương diện vật lý mà là hiện thân trí tuệ và sự nội chứng bên trong. Đối với một hành giả Kim cương thừa, cần phải luôn nhấn mạnh về thân giác ngộ, sự nội chứng sâu thẳm bên trong. Do đó, chúng ta phải khắc cốt ghi tâm rằng, dù ở hình tướng nào, các ngài cũng đều là hiện thân của chư Phật. Bậc Thượng sư chính là đối tượng quy y trong Kim Cương thừa. Hành giả phải luôn ghi nhớ và hiểu rõ. Điều tôi đang cố luận giải tới các bạn là thượng sư có nghĩa là lama, một tăng già có đầy đủ phẩm hạnh. Thượng sư bên ngoài có thể trợ giúp phát triển thượng sư bên trong và tiến tới chứng đạt Thượng sư bí mật, tức là sự giác ngộ. Đức Pháp vương có nói tới các truyền thống Phật giáo. Guru Yoga là phương thức thực hành, là đặc trưng của Kim cương thừa. Bậc Thầy là hiện thân trong hình tướng Tăng già. Phẩm chất của ngài là phẩm chất giác ngộ, ta có thể tiếp cận trực tiếp với các ngài, ta có thể lãnh ngộ giáo pháp nơi ngài. Thông qua đó giúp chúng ta nhận biết bậc thầy bên trong, thông qua thực hành giáo pháp, lãnh hội bậc thầy, từ đó chứng đạt phật quả, tức là thượng sư bí mật. Đó là lý do tại sao Kim cương thừa nhấn mạnh tới thượng sư bên ngoài. Bởi vậy chúng ta cần đặt trọn niềm tin vào thượng sư bên ngoài, phẩm hạnh của ngài mở rộng lan tỏa khắp không gian, vũ trụ. Đối với một quan kiến thanh tịnh, chúng ta không được coi ngài là người nam, nữ hay một vị tăng thông thường, mà phải thấy thầy là hiện thân Tăng già, là tinh túy của mười phương Tam thế Phật. Ngài là toàn thể vũ trụ. Đây chính là nghĩa của Guru Yoga, là phương pháp thực hành để khai mở tình yêu thương, mở rộng lòng mình hòa nhập với vũ trụ. GuruYoga là phương cận hợp nhất với tâm giác ngộ của căn bản Thượng sư.

Đức Pháp vương dạy rằng có hàng triệu phương cách và phương pháp thực hành Yoga. Guru Yoga là phương cách rất thiết thực và căn bản trong truyền thống Kim cương thừa. Điểm tương đồng trong tất cả các thừa là phát triển từ bi và trí tuệ. Đây cũng là hai phương diện chính trong truyền thống Kim cương thừa. Đức Pháp vương đã dạy rằng, Guru Yoga có nghĩa là lan tỏa, mở rộng tới khắp vũ trụ. Đây là phương pháp thiết thực hàng ngày đối với mỗi người chúng ta, giúp chúng ta mở rộng lòng mình, mở rộng tâm hồn để cảm thông hơn, bao dung hơn. Guru Yoga có nghĩa là lan tỏa tâm từ bi, tình yêu thương, ôm trọn vẹn vũ trụ trong tình thương và từ bi của chúng ta. Đây không chỉ là mục đích sự phát triển cá nhân, mà là bao trùm toàn bộ vũ trụ. Do đó ta phải nương theo giáo pháp của bậc Thượng sư.

Ngài dạy phương pháp tu tập này không chỉ quan trọng đối với đời sống tâm linh, mà quan trọng hơn nữa là giúp chúng ta làm thế nào sống cuộc đời này một cách an bình, trí tuệ trong tình thương yêu của mỗi người. Trong một gia đình, các thành viên trong gia đình cần phải thương yêu, cảm thông, tha thứ lẫn nhau thì gia đình đó mới có hạnh phúc. Như vậy một xã hội muốn có hòa bình, hạnh phúc, con người càng phải mở rộng lòng mình, ban trải tình yêu thương đến với mọi người. Ân phước mà một bậc căn bản Thượng sư ban cho chúng ta không gì hơn là giáo pháp, là kinh nghiệm chứng ngộ của ngài, giúp rộng mở chan trải tình thương với con người cũng như mọi loài.

Đức Pháp vương cũng đã dạy lời trì tụng đã được dịch sang tiếng Việt bởi vậy chúng ta hãy cố gắng hiểu những lời trì tụng để có thể tăng trưởng tín tâm hơn đối với giáo pháp.

Tiếp đến đức Pháp vương đã luận giải và cử hành nghi thức cúng dường mandala, sám hối tịnh hóa nghiệp chướng. Đức Pháp vương dạy rằng, phương pháp tu tập này giúp tích lũy công đức, cúng dường mang lại sự giàu có về vật chất và tâm linh ở đời này và vô số đời sau. Chúng ta cúng dường lên Tam bảo, lên thượng sư, chư Bách thần hộ Pháp và tới tất cả mọi người và vô lượng chúng sinh. Chúng ta có thể cúng dường pháp thí, như chia sẻ giáo pháp, trợ giúp tâm linh cho người khác, cúng dường tài thí như cúng dường cơm ăn, thuốc men, quần áo, những thứ đơn giản nhất mà chúng ta có để mang lại cho người khác một đời sống bình an. Cúng dường bố thí là một phương pháp chuyển hóa bản ngã vô minh, giúp chúng ta tu tập hạnh bố thí, mở rộng vòng tay của mình, chia sẻ từ vật chất đến tinh thần với mọi người để tích lũy công đức và giảm thiển bản ngã của chúng ta.

Tiếp đến đức Pháp vương đã cử hành và luận giải kỹ về phương pháp sám hối tịnh hóa nghiệp chướng. Ngài dạy rằng, trong đời sống của mình, chúng ta rất vô minh, chúng ta phạm rất nhiều tội lỗi trong đời này và vô số đời trước. Nhiều người cho rằng, trong đời này, mình không tạo lỗi, mình hoàn toàn thanh tịnh. Ý nghĩ đó là hoàn toàn sai lầm. Thực chất chúng ta rất dễ dàng phạm và tạo rất nhiều nghiệp bất thiện. Bởi vậy chúng ta cần phải sám hối trước Tam bảo, vũ trụ và quan trọng là sám hối với lương tâm chính mình, để xa lìa nghiệp bất thiện. Chúng ta trì tụng thần chú, thành tâm sám hối và nguyện quyết tâm từ nay không tạo tội lỗi như vậy nữa. Sám hối là một phương pháp vô cùng quan trọng và đầy uy lực trong Kim Cương thừa.

Đức Pháp vương cũng đã giảng giải rất kỹ về việc quán tưởng khi trì tụng thần chú Quán Thế âm. Ở đây có điểm khác biệt giữa phương pháp Kim cương thừa và Đại thừa. Trong Phật giáo Đại thừa, chúng ta trì tụng danh hiệu đức Phật, quán tưởng chư Phật là hình ảnh bên ngoài, đối diện trước mặt chúng ta. Đó là hình ảnh chúng ta lấy làm đối tượng tu tập. Cách quán tưởng như vậy là thông thường, chưa phải là tuyệt đối. Trong Kim cương thừa có điểm khác biệt. Ở đây chúng ta cần quán tưởng các ngài không phải là đối tượng bên ngoài, mà phải quán tưởng ngài bất khả phân với căn bản thượng sư của mình. Hành giả cần phải thiền định trong trạng thái tâm bất khả phân với căn bản thượng sư. Ví dụ như: Quán tưởng đức Quán âm trong tâm giác ngộ của mình và thiền định bản thân trong trạng thái bất khả phân với Bồ tát Quán thế âm. Tâm nguyện khi thực hành không phải chỉ để cầu nguyện những mục đích thế gian mà quan trọng là khi thực hành trì tụng thần chú, phải cầu nguyện giúp đỡ cho người khác, mục đích chính là để có trí tuệ và từ bi giác ngộ bất khả phân với Bồ tát Quán thế Âm.

Ngài cũng đã dạy mọi người quán tưởng tự thân là đức Bồ tát quán thế âm. Thân ta không còn là thân bằng máu thịt vật chất thông thường nữa mà lúc này là thân thanh tịnh của đức Bồ tát quán thế âm. Phía trên đỉnh đầu, chúng ta hãy quán tưởng, đức Phật Di đà bởi vì ngài là bản thể của tất cả các Bậc Thượng sư. Khi trì tụng chân ngôn, hành giả cũng cần phải an trụ trong trạng thái vô niệm.

Pháp vương cũng luận giải rất kỹ về ý nghĩa và mục đích nghi thức cúng dường Ganachakra. Gana có nghĩa là trí tuệ căn bản, chakra có nghĩa là thể hiện bằng hành động qua tình yêu thương và trí tuệ hiểu biết. Nghi thức này thể hiện sự hợp nhất trí tuệ và tình yêu thương.

Tất cả các lễ phẩm chia xuống mà hành giả có thọ dụng thể hiện phần trí tuệ và từ bi. Như vậy hành giả phải giữ tâm an tĩnh và thanh tịnh khi thọ dụng phẩm vật cúng dường được ban xuống.

Cuối cùng đức Pháp Vương cũng căn dặn rằng, mọi người đã vừa được ngài truyền trao quán đỉnh Quán thế âm, có nghĩa là mọi người đã phép thực hành nghi quỹ này. Tuy nhiên để thành tựu pháp tu tập, mọi người cần thực hành mỗi ngày hoặc cũng có thể trì tụng theo Phương pháp của Phật giáo Đại thừa để phát triển tình thương và trí tuệ, đem ánh sáng trí tuệ cho mọi người và mọi loài.

(Bài toát yếu phần giảng pháp về Guru Yoga của Đức Pháp Vương trong chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba)

Share this post


Link to post
Share on other sites

UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị


“Tâm nguyện lớn nhất của tôi là tất cả mọi người sống trong hòa hợp tương thân tương ái”.


Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn!
Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý,
Ngài là chủ hết thảy Đạo sư,
Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình.
Dưới gót sen cao quý quang vinh,
Dốc lòng thành con nguyện quy kính!

Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”.

Do các hành giả tha thiết thỉnh cầu nên Pháp Vương đã tùy căn duyên viết ra các chương luật uy nghi giới hạnh khai, giá, trì, phạm dễ hành trì dưới đây cho những Phật tử phúc duyên hy hữu theo giáo pháp của Ngài.

Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách, bao gồm bảy loại giới nguyện biệt giải thoát, dẫn dắt chúng ta trên nhiều đạo lộ khác nhau để đạt đến giải thoát. Giới nguyện tinh túy nhất là:

1

Phải từ bỏ việc làm hại người khác, ý muốn làm tổn hại người khác bởi vì chúng dẫn tới những ác hạnh, đây là pháp thực hành của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Pháp tu tập này là nền tảng của tất cả các thừa.

2

Luôn học cách giúp đỡ mọi người và không ngừng tu tập, trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm tôn quý vì pháp tu trì chính này là con đường chung của Đại thừa. Đây là cốt tủy để thực hành thành công bất kỳ một Pháp nào và tiêu trừ si ám trên con đường đạo.

Điều tối quan trọng là thiện nam tín nữ, từ trẻ đến già, những người đã phát nguyện thực hành Phật Pháp và được tạo nguồn cảm hứng từ chính niệm, phải tinh tiến thực hành hai pháp trên và không được sao nhãng bởi những hoạt động trần tục ích kỷ và vô nghĩa.

Điều trọng yếu để tu tập tối thượng đạo đầy ý nghĩa nhiệm màu là phải có động cơ thanh tịnh và hành động chân chính.

3

Dựa trên nền tảng sự hiểu biết chân thực của mình, bạn phải bày tỏ sự thân thiện, tình yêu thương và sự tôn kính lên Bậc Thầy - người dìu dắt hướng đạo mang lại cho cuộc đời bạn trở nên đầy ý vị giải thoát, và đối với Phật tử, Tăng đoàn là những thiện tri thức đã ủng hộ, nâng đỡ bạn tu tập thực hành Phật Pháp.

Thượng sư tôn quý, người khai thị tự tính tâm cho bạn thông qua con đường đạo giải thoát thông thường và siêu việt trong truyền thống Kim Cương Thừa, Ngài chính là Dharmakaya (Pháp thân) hiện thân trong hình tướng loài người để hướng đạo dẫn dắt chúng ta tới bến bờ giải thoát. Ngài đã dìu dắt hướng đạo chúng ta theo chính đạo, Ngài từ bi hơn tất cả chư Phật và Bồ Tát. Do đó, điều tối quan trọng cần thấu hiểu rằng, bạn phải luôn nhu hòa nhẫn nhục theo ‘ba cách’ để Ngài hoan hỷ, đó là thực hành tâm linh, thân phụng sự và cúng dường phẩm vật với chí tâm bất thoái. Đây là tinh yếu của tu tập Kim Cương Thừa.

4

Những hành giả thiện nam, tín nữ thường trú ở Trung Tâm nên thường xuyên tham gia tu tập thực hành vào buổi sáng và buổi tối, tụng kinh và các thiện hạnh hàng ngày; thiện hạnh tu tập Nyungnay (Bát Quan Trai Giới) được thực hiện vào những ngày rằm và mùng một, mùng tám hàng tháng.

5

Đặc biệt là lễ cúng Ganachakra nên được cử hành vào buổi sáng mùng 10 với pháp thực hành GuruYoga và vào tối ngày 25 với pháp thực hành Dakini.

6

Nói chung, bạn nên chí thành tha thiết, xả thân hành trì với bất kỳ một phương pháp tu chuyển hóa tâm thức nào, cụ thể là bốn pháp tu mở đầu cho tới khi chứng đạt Giác Ngộ. Nếu nghĩ rằng, chỉ thực hành một vài lần bốn pháp tu mở đầu là đủ thì thực sự là ngộ nhận và sai lầm.

7

Những Pháp hữu tri thức nên yêu thương cảm thông, tận tâm chia xẻ và tương thân tương ái. Những tập khí xấu phải được từ bỏ như: Cố chấp vào những tà kiến, buông lung nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói ác khẩu, nói thêu dệt.

8

Mọi gốc rễ của lầm lỗi là do khẩu nghiệp tạo nên. Do vậy, điều quan trọng phải chính niệm, kiểm soát được khẩu nghiệp trước công chúng.

9

Sự quá thân cận gần gũi với người khác có thể làm kích động ngọn lửa ái kết và hận thù. Bởi vậy, duy trì khoảng cách đúng mực ngay từ ban đầu là rất quan trọng.

10

Cho dù bạn tham gia vào những hoạt động tâm linh hay thế tục thì trước tiên bạn phải soi xét kỹ lưỡng, tường tận động cơ của mình. Ngay cả khi động cơ đó không phải quá tồi nhưng bạn phải xét xem hành động đó có mang lại lợi ích cho người khác hay không. Bạn nên giác tỉnh rằng, việc tham gia vào bất cứ hoạt động nào mà không có sự quán chiếu, suy xét là dấu hiệu của thiếu hiểu biết và si mê.

11

Đừng nên cô phụ tự tính của chính mình với sự ngã mạn dựa trên một chút kiến thức thiển cận. Thay vào đó, bạn nên tri ân phụng sự Đạo sư- người đã soi rọi con đường chính đạo và phụng sự cả những Pháp hữu của mình. Sau khi đã phụng sự được một chút cho Phật Pháp, Tôn Sư, Bằng hữu, Giáo thọ…bạn không nên khoe khoang về những gì bạn đã làm mà nên tùy hỷ khiêm cung.

12

Những người vốn thiếu trí tuệ và trình độ giáo dục hạn chế thì không nên tự ti và mất niềm tin, mà hãy nhiệt thành tham gia vào thiền định hay nhiều những thiện hạnh khác để trưởng dưỡng việc thực hành tâm linh của mình, tuy nhiên phải nhớ rằng, luôn tuân thủ mà không được vi phạm giáo huấn của Căn bản Thượng sư. Nếu những hoạt động như vậy không làm người khác an vui thì thật là đáng tiếc.

13

Khi thấy những Pháp hữu khác có trình độ cao hơn, bạn nên tùy hỷ chứ không được ghen tị. Thậm chí ngay cả khi bạn không có ý muốn ca ngợi người bạn đó một cách cởi mở, thì bạn cũng nên giữ yên lặng và không nên phê bình chỉ trích, điều này là rất quan trọng.

14

Trong mọi hoàn cảnh, bạn nên luôn hồi quang tự kỷ, khắc kỷ khoan tha, trau dồi giới hạnh, hoàn thiện thân tâm. Chính cái ý nghĩ chỉ trích người khác là ngọn lửa để thiêu trụi công đức của chính bạn. Vì vậy hãy từ bỏ nó.

15

Khen mình, chê người là nhân của động cơ chấp thủ bè đẳng và thù hận, nó là trở ngại đối với mục đích chí hướng của Bậc giác ngộ và hoàn toàn trái ngược với việc tu tập chính Pháp. Vì vậy, hãy từ bỏ những cách nói như vậy.

16

Nếu một người nào đó buông lung phóng dật trong lời nói thì tốt hơn hết bạn không nên phê bình chỉ trích gì, nếu không thể thực hành tâm linh thì bạn hãy trở lại nơi ở và ngủ một giấc thật sâu.

17

Hãy luôn hồi quang phản chiếu chính mình và tham gia vào các hoạt động Phật Pháp. Tư tưởng bạn không nên bị chi phối bởi “Tám Món Bận Tâm Thế Tục” và buông lung trong sự lừa dối, xảo trá, ngộ nhận… Đây là điều tối quan trọng.

18

Ngoại trừ những người mà nội chứng của họ về ý niệm Đại từ, Đại bi và Bồ Đề Tâm đã được tán thán bởi một đạo sư phẩm hạnh thì Pháp nhũ của các Ngài thực sự đem lại giải thoát an lạc cho chúng sinh, còn những Giảng Sư chỉ giảng pháp dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp theo nghĩa đen thì không những hoàn toàn tổn hại cho chính họ mà còn làm cho những người khác si mê lầm lạc. Một việc làm như thế sẽ gây tổn hại nhiều hơn lợi lạc. Bởi vậy không cần thiết phải vội vàng để có được địa vị hay danh hiệu Khenpo hay Lama.

19

Tóm lại, trong bất cứ sự tu tập Phật Pháp nào nên hướng tới mục đích là trau dồi trưởng dưỡng tâm mình. Việc thực hành Pháp với mục đích để có được danh tiếng và sự tôn trọng không phải là việc thực hành chính Pháp mà chỉ dẫn đến quả báo đọa lạc tam đồ. Vì vậy, việc hiểu được chính tà và thực hành chính đạo một cách đúng đắn là đạo của Bậc Hiền Trí.

20

Những Phật tử thiện nam tín nữ đang phụng sự ở Trung Tâm nên chắp táp với động cơ thanh tịnh, với tín tâm chí thành dâng hiến, sự chứng minh của Tam Muội Gia Giới cùng với tâm hỷ lạc.

21

Trong trường hợp thân tâm đau ốm bệnh tật, thì nên đi chữa bệnh hoặc về nhà tĩnh dưỡng nghỉ ngơi.

22

Gây ra sự bất an và hiểu lầm giữa những Pháp hữu, Phật tử và Tăng Đoàn, từ trẻ đến già thông qua những lời phù phiếm buông lung thêu dệt, đơn giản chỉ bởi những tâm nguyện của mình chưa được viên mãn, sẽ tích lũy vô số ác nghiệp. Do đó, phải tinh tiến nỗ lực từ bỏ những ác hạnh như vậy.

23

Thịt, rượu, thuốc lá, thuốc phiện…không những trái với mục đích giải thoát của Phật Pháp mà còn như một lưỡi kiếm sắc cắt vụn cơ thể của bạn. Bởi vậy, những ai biết trân trọng sự quý giá của thân người hãy nên tự kiềm thúc thân tâm và hạn chế sử dụng chúng.

24

Ngay cả khi bạn chưa thể hoàn toàn bỏ được chúng thì hãy nỗ lực cố gắng không sử dụng chúng trước những hình ảnh, biểu tượng của Phật, Pháp, Tăng, trong những chốn thực hành tâm linh, thiền thất v.v…

25

Tóm lại, những người khoác tăng phục sau khi đã nghe và suy ngẫm về giới luật thì nên trì giữ, cố gắng nỗ lực từ bỏ những hành động phi Pháp; không được tự cao tự đại và phải luôn tàm quý khiêm cung, không nên tranh giành địa vị và danh tiếng.

26

Những hành giả đạo Phật nên từ bỏ mười bất thiện nghiệp và hãy luôn cố gắng kiểm soát ‘tam nghiệp’ (thân, khẩu, ý) trong mọi thời khắc để cuộc sống vô thường ngắn ngủi này đầy ý nghĩa.

Mặc dù, sự hiểu biết tâm linh còn chưa tỏ tường rốt ráo, tuy nhiên, tôi là người đã xa lìa tất cả bất tịnh nhiễm ô của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, xin viết phẩm uy nghi giới hạnh này vì lợi ích của những hành giả có thiện nguyện cao quý thực hành Phật Pháp.

Vua Pháp Dawoe Shonnu (Đức Gampopa) đã dạy:

“Mặc dù nhiều người có hình tướng là những hành giả Pháp với tư tưởng thanh tịnh thực hành Pháp nhưng cũng có những hành giả còn bị chi phối bởi ác hạnh của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, đó là nhân của địa ngục”.

Cầu nguyện cho những thiện duyên hành giả đã thể nhập vào cửa giải thoát, sẽ được nâng đỡ bởi những tư tưởng thiện hạnh cao quý, xua tan đi những tà kiến phi Pháp!

Cầu nguyện cho họ thấy được chân giải thoát Pháp!

Để viên mãn lời thỉnh cầu tha thiết của Pháp hữu Drukpa Lama Nawang, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII đã rủ lòng từ bi viết phẩm uy nghi giới hạnh này xuất phát từ dòng tâm thức của Ngài vào ngày 15 tháng 9 năm 2000.

Nguồn: IDP Website: drukpa.com

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay