Công Minh

Văn hoá đông phương trong quy hoạch, kiến trúc và xây dựng.

11 bài viết trong chủ đề này

Xin trích đăng một số bài viết của GS.TS Nguyễn Trường Tiến trên Website của viện Địa kỹ Thuật Việt Nam ( VGI)

Văn hoá đông phương trong quy hoạch, kiến trúc và xây dựng.

Viện hàn lâm Kỹ thuật và Công nghệ ASEAN

Chủ tịch Hội Cơ học đất và Địa Kỹ thuật Việt Nam.

Phó TGĐ Tổng công ty Xây dựng Hà Nội.

Trưởng ban Kỹ sư – Tổng Hội XD Việt Nam

  • Mở đầu.
Từ rất xa xưa đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng dịch lý, phong thuỷ, tử vi, địa lý… để lựa chọn nơi sinh sống, làm nhà, xây dựng cung điện, đồn lũy, thành quách, chợ, đường xá, kênh mương, sông đào, lăng tẩm, đền thờ, miếu mạo… Các hiểu biết, kinh nghiệm về quy hoạch, kiến trúc, xây dựng… trên nền tảng của triết học, văn hoá phương Đông, văn minh phương Tây đã dần dần được hình thành, chắt đọng, được lịch sử kiểm chứng và cho con người những bài học quý giá. Xét cho cùng các giá trị văn hoá, lịch sử, triết học, địa lý, phong thuỷ… được thể hiện trong các công trình quy hoạch, kiến trúc, xây dựng là hành trang tuyệt vời, là nền móng vững chắc để chúng ta quy hoạch và xây dựng các dự án của tương lai, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Sự kết hợp hài hoà của văn hoá phương Đông với văn minh phương Tây, sự kế thừa và phát triển tư tưởng triết học, lòng nhân ái, truyền thống, lòng yêu nước… của tổ tiên, ông cha, học tập thừa hưởng và áp dụng kiến thức khoa học công nghệ là những yêu cầu bắt buộc để hình thành các ý tưởng quy hoạch, thiết kế và xây dựng Thủ đô. Tư tưởng triết học, cơ sở lý luận về văn hoá, khoa học công nghệ để quy hoạch, thiết kế và phát triển xây dựng ở Thủ đô cần được nghiên cứu thấu đáo, cẩn trọng và tường minh để có sức thuyết phục cao.

Phương pháp luận để nghiên cứu đề tài trên dựa vào các nguyên tắc sau đây :

· Tôn trọng và cầu thị các kinh nghiệm và sự hiểu biết của các nhà khoa học phong thuỷ, địa lý, dịch lý, văn hoá, lịch sử.

· Khai thác triệt để các kiến thức, kinh nghiệm được tập hợp trong sách, báo, thư viện về phong thuỷ, dịch lý, khả năng của con người.

. Khai thác các công trình thực tế, các công trình cổ, đô thị cổ, nghĩa trang và mộ cổ của Việt

. Tham khảo ý kiến của nhiều nhà chuyên môn trong và ngoài nước.

. Thái độ nghiên cứu là khách quan, trong sáng, cầu thị vì lợi ích chung, lâu dài, vì sự phát triển ổn định và bền vững.

Vì năng lực còn hạn chế, thời gian không có nhiều, chắc chắn một phần kết quả nghiên cứu được trình bày dưới đây còn thiếu sót. Tài liệu mang tính chất tham khảo, sẽ được bổ xung, sửa đổi và chi tiết thêm sau khi được tiếp nhận những lời chỉ bảo, góp ý của các thày và bạn bè gần xa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

2. Một số định nghĩa và khái niệm về Dịch lý và Phong Thuỷ áp dụng cho quy hoạch thiết kế.

2.1. Dịch lý và Phong Thuỷ.

Dịch lý và Phong thuỷ đã được nhiều tác giả hàng ngàn năm nay luận bàn, tổng kết, chiêm nghiệm, nâng cao. Việc áp dụng Kinh Dịch và Phong Thuỷ trong kiến trúc, quy hoạch được thực hành từ rất lâu ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc… Ngày nay có thêm các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu và tìm hiểu vệ sự thần bí của Âm Dương, Ngũ hành, Kinh Dịch và Phong Thuỷ. Những điều trình bày dưới đây mang tính chất hệ thống một số khái niệm, định nghĩa… nhằm áp dụng vào thực tiễn một cách đúng đắn và tin cậy.

2.2. Âm Dương và Ngũ hành.

Thuyết Âm Dương là một phạm trù triết học, một tư tưởng triết học, biện chứng, dựa trên quan sát vũ trụ và tự nhiên của người lao động. Một số quan niệm cơ bản là :

 Thuyết Âm Dương là hai mặt độc lập và thống nhất của sự vật. Trên thế giới và trong cuộc sống đều có thể quy ước vào hai phạm trù Âm và Dương. Lão Tử nói “Muôn vật mang Âm và ôm Dương”. Bầu Trời có mặt Trời được coi là Dương và có mặt trăng được coi là Âm.

 Âm Dương có thể chuyển hoá cho nhau, dựa vào nhau mà tồn tại. Sự tồn tại của mặt này là điều kiện tồn tại của mặt kia. Có Trời (Dương) mới có Đất (Âm).

 Âm Dương tồn tại ở cân bằng động, Dương phát triển mạnh, Âm sẽ tiêu. Mặt Âm tiến thì Dương lùi, ngày được coi là Dương, đêm được coi là Âm. Hết ngày đến đêm là quy luật.

 Âm Dương có thuộc tính cố định, trái ngược nhau. Dương là cương, là tiến, là động, là Vua, là chồng, là bên trái là ngoài. Âm là bề tôi, vợ, bên dưới, bên trong, bên phải là lùi…

 Âm Dương có mặt trong toán học (số Dương, số Âm và cân bằng ở bằng 0), trong vật lý học (cực Âm và cực Dương), trong y học (Đông y).

 Âm Dương phải hoà hợp, cân bằng “Âm phù, Dương trợ” đều cùng tồn tại và tôn trọng quy luật khách quan.

 Tư tưởng Chu dịch cho rằng “Thiên Nhân hợp nhất”, “Thiên Nhân đối ứng”, “Thiên Nhân cộng thông”, (Trời, Người cùng quy luật chung). Suy đạo Trời để rõ việc người. Nghĩa là Trời Đất, Người có quy luật chung. Thân thể con người là Trời Đất thu nhỏ. Phong thủy chính là người. Trời Đất có Âm Dương, con người có vợ chồng, Trời có 365 ngày, con ngừơi có 365 đốt, Đất có núi cao, con người có hai đầu gối, Đất có hang sâu, con người có nách, kheo, Đất có cỏ, con người có lông tơ, Đất có 12 kinh thủy, con người có 12 kinh mạch…

 Học thuyết Âm Dương nhắc nhở con người phải cân bằng Âm Dương ở mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong ứng xử. Con người không chỉ chú ý đến ăn uống (Âm) mà phải chú trọng bảo dưỡng phần tinh thần (Dương), theo đạo người quân tử và giàu lòng nhân ái.

Hải Thượng Lãn Ông nói “Dương làm hại Âm thì kinh huyết khó cháy, Âm làm hại Dương thì thần khí lặng tắt”. Âm thịnh Dương suy, Dương thịnh thì Âm suy được diễn đạt bằng “trèo cao, ngã đau”, “tre già măng mọc”, “sướng lắm khổ nhiều”.

Thuyết Ngũ hành đóng vai trò hết sức quan trọng trong Dịch lý và Phong Thuỷ. Thuyết Ngũ hành là công cụ để mô tả vật chất, tự nhiên, năng lượng, phương vị, mầu sắc và sự ứng xử theo quy luật. Ngũ hành bao gồm : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, tương ứng với ngũ phương, ngũ sắc như sau :

Ngũ hành : Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ

Ngũ phương : Tây - Đông - Bắc - Nam - Trung ương

Ngũ Sắc : Trắng - Xanh - Đen - Đỏ - Vàng

* Ngũ hành tương sinh, tiết Sinh khí theo quy luật :

Kim sinh Thuỷ sinh Mộc sinh Hỏa sinh Thổ sinh Kim.

* Ngũ hành tương khắc, hạn chế lẫn nhau theo quy luật :

Kim khắc Mộc khắc Thổ khắc Thủy khắc Hoả khắc Kim.

Ngũ hành được hiểu là 5 loại vật chất, hành được hiểu là hoạt động và biến hoá. Sự vật có tính lạnh, mát, thấm xuống Đất, có vị mặn đều thuộc về Thủy. Sự vật có tính nóng, vận động lên trên, có vị đắng thuộc về Hoả. Sự vật có tính chất sinh trưởng, thăng phát, khoan khoái, chấp nhận thẳng cong, có vị chua thuộc về Mộc. Sự vật có tính chất thanh khiết, có vị cay là Kim. Sự vật có tính chất thu nạp, sinh hoá, đón nhận thuộc về Thổ. Con người thuộc mệnh gì, nên chọn mầu sắc, vị trí, ứng xử… phù họp với ngũ hành.

Share this post


Link to post
Share on other sites

2.3. Kinh Dịch.

Kinh Dịch là một bộ sách được viết cách đây khoảng 5000 năm (2800 BC), liên tục được phát triển, hoàn thiện phản ánh tính quy luật của vũ trụ, tự nhiên, sự sống… Tích luỹ tri thức, kinh nghiệm. Dịch là sự vận động, biến hoá, phát triển, như Dương cực sinh Âm, Âm cực sinh Dương, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Âm và Dương (Lưỡng nghi, hai con cá trên bát quái) được sinh từ Thái cực (Âm Dương hỗn hợp). Lưỡng Nghi sinh tứ tượng : Thiên (Trời), Địa (Đất), Nhật (Mặt Trời), Nguyệt (Mặt trăng). Tứ tượng sinh Bát quái.

Quẻ Càn

Tây Bắc : Trời (Heaven)

Quẻ Khảm

Chính Bắc : Nước, thuỷ (water)

Quẻ Cấn

Đông Bắc : Núi (mountain)

Quẻ Chấn

Chính Đông : Sấm, Mộc (Thunder)

Quẻ Tốn

Đông Nam: Gió, Mộc (wind)

Quẻ Ly

Chính Nam Hoả, lửa (Fire)

Quẻ Khôn

Tây Nam : Đất (Earth, Land)

Quẻ Đoài

Chính Tây : Hồ, đầm, kim (Lake)

Từ hai hào Âm và hào Dương xây dựng nên Bát quái. Các quẻ đơn trên chồng lên nhau theo quy luật nhất định trở thành 64 quẻ dịch và 384 hào. Trong lịch sử Việt Nam, Nguyễn Trãi được kể đến như một người am hiểu Âm Dương, Ngũ hành và Kinh Dịch. Nguyễn Trãi cho rằng Kinh Dịch đề xuất phép tắc vĩnh hằng, phổ biến, khách quan, bao quát đạo Trời, Đất, người, vũ trụ, sinh tồn, biến hoá và phát triển. Nguyễn Trãi nói “Trời Đất có 4 mùa, người có 4 đức : hiếu, lễ, trung, tín”. Ngũ hành chứa đựng mối quan hệ giữa Trời, Đất, Người. Ông quan niệm “Nếu hành Thổ không thịnh, điều tín không có, thì đạo Trời tất hỏng, việc người tất hư”.

Trong quá trình ứng dụng Dịch lý, Nguyễn Trãi đặc biệt nhấn mạnh vai trò của “Trời”. Cụ Phan Bội Châu quan niệm “Kinh Dịch là nhân sinh quan, vũ trụ quan của nhân loại”. Cụ cho rằng đúng như Kinh Dịch “Bình đẳng, đại đồng là chân tính, là hạnh phúc của nhân sinh” và “tinh thần quy củ có trật tự đạo đức là lẽ công bằng của con người”. Kinh Dịch (tiếng anh là I Ching) được các nhà khoa học phương Đông và phương Tây nghiên cứu để áp dụng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Những quan niệm chung là : “Không học dịch, làm gì rõ được chỗ đầu mối của tạo hoá”, “Dịch mà thông thì dự lý trong vạn vật tự thông”, “Chưa từng thấy chưa thông. Dịch lại thông được cả cái lý của sự vật”. Các nhà khoa học châu Âu, châu Mỹ đều cho rằng Kinh Dịch cho con người lời khuyên để sống hoà hợp với quy luật tự nhiên, là Kim chỉ Nam dẫn con người đến cuộc sống hạnh phúc hơn, thành đạt hơn. Thiện Khang Tiết cho rằng “Từ chỗ biến mà biết được chỗ bất biến mới bàn được dịch” nghĩa là Dịch là động. Âm Dương là cơ bản của biến động. Âm là tĩnh, Dương là động. Trong tĩnh có động, trong động có tĩnh. Nghĩa là không có một quẻ nào là hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu. Toàn bộ Kinh Dịch được đúc kết lại trong chữ “Thời vận”.

Học dịch để quy hoạch, thiết kế, ứng xử với Thiên nhiên, Trời Đất, con người, phải thực sự lưu ý các điểm sau :

- Sự vật có cùng mới biến, song là biến dần dần, không đột biến. Tiểu nhân thịnh thì quân tử suy, “Thiên điạ bế, hiền Nhân ẩn” để khỏi bị hại.

- Dương lấy Âm làm nền. Âm Dương cùng tồn tại. Âm Dương thiếu một thứ thì không thành sự. Có thiện phải có ác, có quân tử phải có kẻ tiểu nhân. Dương phát triển là hợp với đạo Trời, hanh thông, Âm phát triển là bất thông. Nhịp sống con người là phải hoà đồng với nhịp sống Thiên nhiên. Âm là nền đất, nền móng của công trình và một dự án quy hoạch từ nghĩa đen và nghĩa bóng.

- Nội quái là 3 hào Nhất, Nhị, Tam, thượng quái là 3 hào Tứ, Ngũ, Lục. Hai quái này thường đối nghịch nhau. Nếu sự vật cực thịnh ở thượng quái (hào 4, 5, 6) sẽ bắt đầu tàng ẩn bĩ cực.

- Dịch lý là tự nhiên, con người phải làm theo tự nhiên. Lão Tử dạy ngừơi theo Đất (Âm), Đất theo Trời (Dương), Trời theo đạo và đạo theo Tự nhiên. Nghịch lại với tự nhiên cũng nằm trong tự nhiên.

- Trật tự các quẻ dịch cho ta thấy, quẻ Càn Khôn là các quẻ chính, trải qua nhiều quẻ mới có thể thành đạt, hanh thông; song để rồi vào bĩ cực một cách nhanh chóng. Kết thúc Kinh Dịch là quẻ vị tế nghĩa là chưa xong. Dịch kết thúc lại về với Thái cực với Hư vô, là vô hạn trong cái hữu hạn của một thời vận nào đó. Cây cối, dòng sông, biển cả, núi non, lửa cháy, cuộc đất, tài nguyên, con người… cũng sẽ trở về với hư vô theo Vận, Mệnh và Phong thuỷ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

2.4. Phong Thuỷ và áp dụng Phong Thủy, Dịch lý để chọn Dương cơ và Âm phần.

Phong Thuỷ nghĩa là gió và nước, song thực chất được hiểu là khí và nước. Khí có thể là Khí Âm, khí Dương, gặp gió sẽ tiêu tán, gặp nước sẽ tụ lại, không tản mát, có đi và có dừng. Khí được coi là nguồn năng lượng, một dạng tồn tại của vật chất, chan hoà trong vũ trụ, trong tự nhiên, trong sinh vật và trong con người. Phong Thuỷ được coi là một giá trị văn hoá và đã trở thành một môn khoa học được nhiều học giả tại Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Mỹ, Việt Nam… nghiên cứu. Tiếng anh gọi Phong Thuỷ là Fongsui. Một chuyên gia nổi tiếng về Phong Thuỷ cho công trình văn hoá và nghĩa trang Malaixia mang tên là TS. Fongsui. Phong Thuỷ được tồn tại và phát triển từ 3000 năm nay, là một phần trong nhân sinh quan về vũ trụ của triết học phương Đông, thể hiện sự ứng xử có quy luật nhất định của con người với tự nhiên, môi trường sống. Phong thuỷ theo khái niệm của Phương Tây chính là môi trường sống - là ngôi nhà chung của nhân loại. Phong thuỷ và Môi trường, là sự giao thoa tuyệt vời của Văn hoá Đông Phương và Văn minh phương Tây. Những nguyên tắc về Phong Thuỷ cho phép con người tận dụng hài hoà nguyên khí Âm, Dương, dồi dào sức khoẻ, an bình, thịnh vượng. Phong Thuỷ gắn liền với Âm Dương, Ngũ hành và sự sống của Thiên nhiên. Phong Thuỷ đã gắn liền với việc quy hoạch, xây dựng thành phố, thôn ấp, nhà cửa và lăng tẩm. Phong Thuỷ được gắn liền với một số phạm trù địa lý cơ bản : Long, Huyệt, Sa, Thuỷ, hướng. Nhà Phong Thuỷ phải tìm mạch (Long), xem cát (Sa), quan sát nước (Thủy), tìm Huyệt và lập Hướng.

Long được hiểu là sự mạch lạc của núi, đá là xương Long, Đất là thịt Long, cỏ cây là râu Long. Núi có tổ tông, là nơi xuất xứ, khởi nguyên mạch, có cha mẹ là phần đầu của sơn mạch. Sống lưng của núi liền hay đứt quãng, thế nằm của núi, sự tương xứng của các sao ngũ tinh và cửu tinh với Long cho phép đánh giá mạch của núi. Himalaya là núi của thế giới, Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn, Ngũ hành sơn… là núi của Việt Nam

Sa được hiểu là núi nhỏ, đồi nhỏ ở quanh chủ Long. Sa ở bên trái là Thanh Long, ở bên phải là Bạch Hổ. Sa ở đằng trước là Chu tước, sa ở đằng sau là Huyền Vũ. Sa sơn ở phía trước gần với chủ Long được gọi là án Sơn, xa là Triều sơn. Núi Ngự Bình của kinh đô Huế được coi là tiền án. Thủy là dòng nước chảy theo sơn mạch. Thủy khẩu là nơi nước chảy vào và chảy ra. Để tụ Thuỷ chỗ chảy vào nên rộng, chỗ chảy ra nên hẹp. Hình hài của sông, hướng chảy… cho phép đánh giá chất lượng của cuộc Đất. Sông Hồng, sông Cửu Long, sông Tô Lịch, sông Hương, sông Sài Gòn, sông Hậu, sông Gianh… là những dòng sông gắn với thành phố và đô thị của Việt Nam.

Huyệt được phân ra Dương huyệt và Âm huyệt. Dương cơ là nền nhà, đô thị cho người sống. Âm phần là nơi đặt mộ cho người chết.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phong Thuỷ quan niệm rằng Đất (trạch) và mệnh của từng con người phải hoà hợp, tương phối. Nghĩa là trạch và mệnh cùng loại sẽ tương phối, bình an, may mắn. Mệnh và trạch khác nhau là không tốt. Mệnh của mỗi người tính theo năm sinh, ứng với quẻ mệnh. Những ngừơi thuộc mệnh Thuỷ, Mộc, Hoả thuộc Đông tứ trạch (Đông, Đông Nam, Bắc, Nam, tương ứng với các quẻ đơn của Kinh Dịch : Chấn, Tốn, Khảm, Ly. Người thuộc mệnh Thổ hoặc Kim thuộc Tây tứ trạch. Phân loại trên được thể hiện :

Đông tứ trạch :

Ngũ hành : Mộc - Mộc - Thủy - Hoả

Mệnh : Chấn - Tốn - Khảm - Ly

Phương vị : Đông - Đông Nam - Bắc - Nam

Tây tứ trạch

Ngũ hành : Kim - Kim - Thổ - Thổ

Mệnh : Càn - Đoài - Cấn - Khôn

Phương vị : Tây Bắc - Tây - Đông Bắc - Tây Nam

* Ví dụ : Nam sinh 1949 (Kỷ sửu) tương ứng với mệnh Càn Kim (Tây tứ mệnh). Người Tây tứ mệnh nên chọn Tây tứ trạch (toạ Tây tứ trạch) để ở, nơi có Càn (Tây Bắc), Đoài (Tây), Cấn (Đông Bắc) và Khôn (Tây Nam).

*** Nguyên tắc chung là người có tứ mệnh Đông phải ở Đông tứ trạch và người Tây tứ mệnh phải ở Tây tứ trạch.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Các nhà Phong Thuỷ cho rằng cửa chính vào nhà và mệnh cũng cần tương phối với nguyên tắc ngừơi Đông tứ mở cửa theo hướng cửa Đông tứ. Căn cứ vào quẻ mệnh của từng người để tìm hướng tốt cho bản thân theo thứ tự của 4 ngôi sao lành và tránh 4 ngôi sao dữ như sau, theo 8 phương vị.

* Sao lành : - Sinh khí - Thiên Y - Diên niên - Phục vị

* Sao dữ : - Hoả hại - Lục sát - Ngũ quỷ - Tuyệt mệnh

+/ Ví dụ Nam mệnh Càn thuộc Tây tứ mệnh, sinh vào các năm 1931, 1940, 1949, 1958, 1967, 1976, 1985 (cách nhau 9 năm)… tương đồng với Tây tứ trạch, tương ứng với sao tốt ở 4 phương vị sau :

Tây : Sinh khí

Đông Bắc : Thiên Y

Diên niên : Tây Nam

Phục vụ : Tây Bắc.

Nên tránh làm cửa chính và chọn hướng chính tương ứng với phương vị và sao dữ theo thứ tự :

Đông Nam : Hoả hại

Bắc : Lục sát

Đông : Ngũ quỷ

Nam : Tuyệt mệnh

+/ Nam có mệnh Khôn Thổ (sinh năm 1932, 1935, 1941, 1944, 1950, 1953, 1959, , 1962, 1968, 1971, 1977, 1980…) có thể chọn hướng cửa chính về 4 hướng Đông Bắc (Sinh khí), Tây (Thiên Y), Tây Bắc (Diên niên), Tây Nam (Phục vị), tránh 4 hướng dữ là : Đông (Hoả hại), Nam (Lục sát), Đông Nam (Ngũ quỷ), Bắc (Tuyệt mệnh).

Quẻ mệnh Nam được tính như sau :

(100 – năm sinh) : 9 tìm số dư không chia hết.

Quẻ mệnh của nữ được tính :

(năm sinh – 4) : 9 tìm số dư không chia hết

Số dư không chia hết và mệnh được liên hệ như sau :

1 - Khảm

2- Khôn

3 - Chấn

4- Tốn

5 - Khảm ( với Nam ) - Cấn ( với nữ )

6- Càn

7- Đoài

8- Cấn

9- Ly

*** Chú ý lấy ngày 5/2 Dương lịch làm mốc sinh trước ngày này thì tính vào năm cũ (kinh nghiệm tham khảo)

+/ Ví dụ : Nam sinh năm 1944

(100 – 44) : 9 = 56 : 9 = 6 dư 2 thuộc mệnh Khôn

+/ Ví dụ : Nữ sinh 1956

(56 – 4) : 9 = 5 dư 7.Thuộc mệnh Đoài.

Hướng tốt của mệnh này là Tây Bắc (Sinh khí), Tây Nam (Thiên Y), Đông Bắc (Diên niên), Tây (Phục vị). Hướng xấu là Bắc (Hoả hại), Đông Nam (Lục sát), Nam (Ngũ quỷ), và Đông (Tuyệt mệnh).

Nhận xét chung là :

- Người có Đông tứ mệnh, tốt nhất là chọn hướng Sinh khí, sau đó đến Thiên Y, Diên niên, Phục vị. Nên hướng vào phương vị của Đông tứ trạch và tránh các cửa Tây tứ trạch. Xấu nhất là Tuyệt mệnh sau đó đến Ngũ quỷ, Lục sát, Hoả hại.

- Người Tây tứ trạch nên đặt cửa chính, hướng chính, bàn làm việc theo 4 phương của Tây tứ trạch.

- Các quan niệm trên giành cho người sống lựa chọn hướng nhà, hướng cửa chính, lập bàn thờ, bàn làm việc…

- Việc lựa chọn Âm phần được lựa chọn theo phương vị để toạ (quay đầu về hướng phương vị lành, sao tốt). Nghĩa là : người về cõi vĩnh hằng có thể toạ đầu hướng về Dương cơ. Thí dụ: Nam sinh năm Mậu Thìn (1928) thuộc mệnh Ly Hoả, Đông tứ trạch khi về cõi vĩnh hằng có thể toạ vào các hướng là Đông (Sinh khí), Đông Nam (Thiên Y), Bắc (Diên niên), Nam (Phục vị). Khi nằm ngủ hàng ngày, cũng nên quay đầu về hướng trên để tiếp nhận năng lượng.

- Thông số quan trọng nhất để lựa chọn Dương cơ và Âm phần là mệnh của mỗi người, nếu là làm nhà (Dương cơ) chọn mệnh của người chủ gia đình.

Share this post


Link to post
Share on other sites

2.5 Tiềm năng của con người - Nguồn gốc của vũ trụ và của loài người.

Nguồn gốc của vũ trụ, nguồn gốc của loài người, tiềm năng của con người đã được đề cập và nghiên cứu hàng ngàn năm nay. Văn hoá Đông Phương, triết học phương Tây, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Nho giáo, Lão giáo…đều đề cập đến sự bắt đầu của vũ trụ, của trời đất, của con người và vạn vật. Loài người hiện đang đi tìm người ngoài trái đất, tìm sự sống trên vũ trụ, tìm công nghệ xây dựng kim tự tháp, vườn tượng đá ở úc, vết chân lạ trên núi Nam Mỹ… nhiều nhà khoa học châu âu đi tìm nguồn gốc loài người ở Tây Tạng và bí mật của mắt người. Mắt người là bộ phận quan trọng nhất để thể hiện tâm đức và anh linh. Nhìn mắt là biết người. Phân tích mắt có thể dựng được cả hình thể con người. đôi mắt được thờ ở các chùa của Tây Tạng và Toà thánh Tây Ninh…… Có những luận điểm cho rằng con người đã xuất hiện 30.000 năm nay. Trong quá khứ con người có tiềm năng và sức khoẻ hơn hẳn chúng ta ngày nay. Có những vị Thiền sư, Pháp sư, Giáo chủ, hoà thượng… có khả năng thiền định để nhìn, nghe và nói bằng ý tưởng. Thiền sư Thích Như Trí (Chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh) nhập tháp cách đây 283 năm, để thiền táng, được phát lộ vào 5/3/2004. Nhiều nhà khoa học đã tìm thấy mối quan hệ đặc biệt giữa Kinh dịch, Phong thuỷ, Âm dương, Ngũ hành, Phật học… với khoa học hiện đại. Nhiều nhà khoa học quốc tế đi tìm sự sống sau cái chết theo những quan niệm của Khổng tử và Văn hoá Đông Phương. Có thể nói đến thế kỷ XXI, sau một thế kỷ của chiến tranh, của phát triển, bùng nổ dân số, phân chia quyền lực, gia tăng sự cách biệt giàu nghèo, thực dụng, vật chất, hưởng thụ, nhân loại lại khát khao tìm đến các giá trị văn hoá, tâm linh, tinh thần, đạo đức, nhân văn… để tìm lại sự cân bằng. Để phát hiện chính mình. Thiện và ác, Giàu và Nghèo, Vật chất và Tinh thần, Đức và Lợi, Họa và Phúc, Âm và Dương, Tiểu nhân và Quân tử, Trí tuệ và Ngu dốt, Quá khứ và Tương lai, ổn định và Phát triển… đều là những cặp phạm trù có thể giải thoát bằng nhân sinh quan và thế giới quan đúng đắn. Không nên coi các giá trị văn hoá Đông Phương là lạc hậu, mê tín, hoang tưởng. Không nên coi văn minh phương Tây là con đường duy nhất để đi lên. Chúng ta phải lựa chọn con đường ngắn nhất để tiếp cận chân lý, để tiến đến trạng thái trí tuệ siêu việt. Trước hết phải "chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài". Phải có đạo đức của con người, đạo đức nghề nghiệp để sống, làm việc và ứng xử. Khổng tử dạy rằng :

Tâm còn chưa thuận, Phong thuỷ vô ích.

Bất hiếu cha me, Thờ cúng vô ích.

Anh em chẳng hoà, Bạn bè vô ích.

Việc làm bất chính, Đọc sách vô ích.

Làm trái lòng người, thông minh vô ích.

Chẳng giữ nguyên khí, uống thuốc vô ích.

Thời vận không thông, Mưu cầu vô ích.

Hơn 2500 năm, lời dặn của Người còn nguyên giá trị trong cuộc sống hôm nay của cả nhân loại. Có lẽ vì vậy, các nhà khoa học thế giới được giải thưởng Nobel vào năm 1982 họp mặt tại Paris đã thừa nhận : Loài người muốn tồn tại và phát triển trong thế kỷ XXI phải đến với Đông Phương và Học Khổng tử. Học lòng nhân ái và đạo làm người. Dân chủ và khoa học là hai phạm trù cần thiết bổ xung cho Văn hoá phương Đông và Nho học.

Cách đây gần 150 năm, khoảng 1860 Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị vua Tự Đức cho xây dựng trường Đại học Khoa học đầu tiên của Việt Nam. Không được chấp nhận, Người dự báo phải 100 năm nữa Việt Nam mới có trường Đại học khoa học.

Cách đây hơn 70 năm nhà Nho học Trần Trọng Kim và nhà báo Phan Khôi tranh luận về Nho học và Tây học bất phân thắng bại. Ông Trần Trọng Kim đã mời nhà báo Phan Khôi cùng mình xây dựng một toà nhà với nền móng là Văn hoá Phương Đông, Nho học và phần trên là văn minh phương Tây. Đó là sự kết hợp đúng đắn Quy hoạch, Kiến trúc, Xây dựng thủ đô là để phục vụ con người, vì sự an toàn và chất lượng cuộc sống của con người, hoà hợp với thiên nhiên, phong thuỷ (môi trường), phải biết rõ Mệnh và Vận (cơ hội, oportunity). Nhiều khái niệm và định nghĩa cần được so sánh giữa tiếng Anh, tiếng Hán và tiếng Việt để hiểu chính xác hơn giá trị văn hoá và KHKT.

Xét cho cùng, con người phải tự tìm chân lý trong chính bản thân mình bằng con đường tự học, tự rèn luyện, tự tu thân, tích đức cho hôm nay va mai sau. Vòng tròn của quy luật, bánh xe của luân hồi cho phép quá khứ, hiện tại và tương lai được tưởng tượng, được chiêm nghiệm và được dự báo ngay tại một thời điểm của hiện tại. Thế giới hôm nay, khoa học hiện đại hôm nay đã, đang và sẽ được tiếp tục chứng minh là xoay quanh và tiệm cận với Tâm và Thức của văn hoá Đông Phương, của Phật giáo. Con người được coi là Phong Thuỷ, được coi là tiểu vũ trụ. Phải chăng nếu vũ trụ là vô tận, vô hạn, vĩnh hằng thì con người cũng co khả năng vô hạn, vô tận và vĩnh hằng. Khoa học càng hiện đại, trí tuệ con người càng sáng suốt, tình cảm con người càng nhạy cảm chúng ta càng tìm thấy sự tương đồng đến huyền diệu giữa thành tựu hôm nay và giá trị văn hoá Đông Phương và Phật học. Đó là điều mỗi chúng ta có thể kiểm chứng và chiêm nghiệm với một thái độ cầu thị, khiêm nhường, tình cảm mãnh liệt, trí tuệ sáng suốt và chí khí vững vàng. Quy luật, Thống nhất, Đối lập, mâu thuẫn, sinh tồn, huỷ diệt, sống chết… có thể tìm thấy được trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Xét về thực chất tính quy luật, tính logic là phạm trù của tự nhiên, của triết học, của khoa học, được con người khám phá, trở thành định nghĩa và khái niệm, quyết định sự ứng xử của mỗi con người.

Share this post


Link to post
Share on other sites

3. Những con số thực tế và những hạn chế.

3.1 Những con số thực tế :

Theo những thông tin của quốc tế và của Việt Nam các chỉ số sau đây được tập hợp để suy ngẫm về bức tranh toàn cảnh về kinh tế.

 Tổng GDP trên toàn thế giới năm 2003 là khoảng 66.000 tỷ USD.

 Thế giới chi phí trong năm 2003 khoảng 1000 tỷ USD cho quân sự .

 GDP của Mỹ khoảng 10.000 tỷ USD, Trung Quốc 1.000 tỷ USD, Đông Nam á 500 tỷ USD và Việt Nam khoảng 40 tỷ USD.

 Doanh thu của một số tập đoàn kinh tế lớn, thí dụ Metro Cash khoảng 50 tỷ USD.

 Thu ngân sách của Việt Nam hàng năm khoảng từ 9 - 10 tỷ USD, trong đó khoảng 25% từ dầu khí, 25% từ thuế xuất nhập khẩu.

 Chi phí cho xây dựng cơ bản hàng năm khoảng 3,5 - 4,0 tỷ USD, chi phí cho giáo dục đào tạo khoảng 2 tỷ USD. Người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về nước hàng năm khoảng 2 - 4 tỷ USD.

 Tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp nhà nước khoảng 13 tỷ USD, tổng số dư nợ khoảng 20 tỷ USD. Khoảng từ 3 - 5 năm Chính phủ phải xử lý nợ khoảng 1,3 tỷ USD.

 Nợ tồn đọng trong xây dựng cơ bản cho đến năm 2003 là khoảng 730 triệu USD. Thất thu thuế năm 2002 khoảng 130 triệu USD. Lợi nhuận của các doanh nghiệp xây lắp khoảng 1% trên doanh thu.

 Khoảng 60% nợ tồn đọng là nợ xấu, nợ dài hạn. Những số liệu đây cần được đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao hiệu quả điều hành và định hướng một cách khoa học cho tương lai.

 Trong cuộc sống của cổ nhân, các chữ số và thứ tự số đều mang một nội dung và ý nghĩa nhất định. Các số từ 1 đến 9 đóng vai trò hết sức quan trọng để diễn đạt bát quái (8), âm dương (2), Thiên, Địa, Nhân (3), Ngũ hành (5), các hướng (4), Vận, Mệnh, Mã số (6,7,9). Phân tích những số liệu thực tế và số tự nhiên sẽ cho những kinh nghiệm lý thú.

3.2 Những hạn chế trong đầu tư quy hoạch, kiến trúc và xây dựng.

Cả nhân loại đang có xu hướng "xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn", phấn đấu vì một cuộc sống có chất lượng hơn. Tiêu chí của nhiều tổ chức quốc tế và quốc gia là Trách nhiệm (Responsibility), Dân chủ (Democracy), và Tường minh (Transparency). Tiêu chí của nhiều công ty xây dựng quốc tế là An toàn (Safety), Chất lượng (Quality), và Hiệu quả (Eficiency). Nói chung các nhà quản lý, hoạch định chính sách, quy hoạch, kiến trúc, xây dựng đều lựa chọn 3 tiêu chí, 3 điểm của một mặt phẳng để tìm lại sự cân bằng, phát triển và hoà hợp với thiên nhiên. Sự cân bằng của Thiên - Địa - Nhân, sự cân bằng của Quá khứ, Hiện tại và Tương lai, sự cân bằng Âm, Dương, sự cân bằng của các giá trị hữu hình và vô hình của vật thể và phi vật thể. Quy hoạch, kiến trúc và xây dựng chưa vận dụng và khai thác giá trị văn hoá Đông Phương. Phong thuỷ - Môi trường, Vận, Mệnh, cơ hội, thời cơ… chưa được coi trọng. Chúng ta đang chặn các dòng sữa mẹ (sông) đang làm vẩn đục không khí, phá hoại rừng, làm cạn kiệt Khí, Nước và Tài nguyên thiên nhiên. Trời được coi là Cha, Đất là Mẹ, sông suối là sữa mẹ, Rừng, cây xanh, hồ nước là Anh Em. Các loại sinh vật là bạn bè. Họ chưa được kính trọng, tôn trọng và chưa được yêu thương. Chúng ta thiếu trách nhiệm và quá "vô tình" với văn hoá Đông Phương, với Khổng tử, Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, với Tổ tiên và với thiên nhiên…

3.3 Một số hạn chế :

 Văn hoá phương Đông chưa được nghiên cứu, tổng kết và áp dụng trong quy hoạch, kiến trúc và xây dựng. Thế hệ chúng ta không được học và nghiên cứu chữ Nho, Dịch lý, Phong thuỷ, Âm dương, Ngũ hành và vô tình với văn hoá Đông Phương.

 Chúng ta lo cho hiện tại và tương lai (Dương), mà không để ý đến quá khứ và giá trị văn hoá của cha ông (Âm).

 Chúng ta quan tâm nhiều đến Danh và Lợi, ít chú ý đến Phúc và Đức. Phải trồng cây Đức mới có quả Phúc. Nếu không có Đức (Âm), chỉ có Tài (Dương) sẽ mất cân bằng.

 Chúng ta chấp nhận các giá trị văn hoá hữu hình (vật thể) song chưa quan tâm đến và chưa nhìn thấy các giá trị văn hoá vô hình (phi vật thể). Phải có trí nhớ và trí tưởng tượng trong quy hoạch và xây dựng.

 Chúng ta cố chinh phục tự nhiên, chinh phục biển cả, núi cao, sông dài, vũ trụ… song ít nghĩ đến việc chinh phục chính chúng ta và hiểu về con người. Người là trung tâm của vũ trụ, người là phong thủy. Quy hoạch, kiến trúc, nhà ở, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, văn hoá…của con người và để phục vụ con người sống và nghĩa trang cho người chết chưa được quan tâm đúng mức. Chúng ta ở trên cây, là lá, là hoa, là quả song chưa tìm hiểu rõ gốc và rễ của cây.

 Chúng ta ít để ý đến tính quy luật. Vạn sự có thể thay đổi nhưng quy luật là không đổi.

 Chúng ta là ai, chúng ta phải làm gì cho non sông đất nước và đến lúc nào lại về cõi vĩnh hằng… là những câu hỏi chưa có câu trả lời thích hợp. Hàng loạt thói hư tật xấu, tham nhũng, quan liêu, mua bằng cấp, địa vị… đều có nguồn gốc từ sự suy đồi đạo đức và lừa dối.

 Chúng ta dễ dàng chấp nhận các thông tin, tư liệu sẵn có, thiếu sự tìm tòi, phân tích, suy luận để tìm ra tính quy luật và tính logic. Nếu không hiểu về lịch sử, về quá khứ, về các giá trị văn hoá phương Đông, có cách gì chúng ta vững tin để đến với tương lai.

 Chúng ta chưa hiểu được Vận, Mệnh và Phong thuỷ và tìm cách lý giải vì sao Bác Hồ dự đoán từ năm 1941 là 1945 Việt Nam độc lập, trong kháng chiến chống Pháp Bác dự đoán 1954 kháng chiến thành công và báo trước cuộc chiến tranh chống Mỹ sẽ kết thúc với "Điện Biên Phủ trên không".

 Chúng ta cũng không hỏi vì sao Nguyễn Bỉnh Khiêm (sinh năm 1491) đã dự báo với sấm Trạng Trình, tiên đoán 500 năm sau đất nước Việt Nam sẽ phát triển, sánh vai với bạn bè quốc tế (khoảng 2041 - 2043, tùy thuộc vào năm Người dự đoán, 1491 + n9).

 Chúng ta cũng chưa tìm hiểu thật kỹ vì sao Vua Lý Công Uẩn và Thiền sư Vạn Hạnh chọn Thăng Long là Thủ đô và gắn với Thành Đại La của Cao Biền. Vì sao chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh) là nơi địa linh nhân kiệt với Thiền sư Thích Như Trí.

 Tại sao chúng ta có Bát quái ở cửa Tây Thành Thăng Long (bên bờ sông Tô Lịch) gắn liền với tên tuổi của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi và Tướng nhà Minh (Hoàng Phúc) được xây dựng vào khoảng 1405 và phát lộ vào năm 2001. Tại sao Hoàng thành được phát lộ vào năm 2003.

 Cách đây hơn 60 năm xuất hiện các nhà văn kiệt xuất của Việt Nam : Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng… và các nhân vật Chí Phèo, Thị Nở, ông giáo Thứ, chị Dậu, Xuân tóc đỏ, TPN, Bà Phó Đoan… Nhiều câu chuyện năm xưa, cách đây 60 năm lại được tái tạo. Không hiểu quá khứ làm sao vượt được thách thức của hiện tại và dự đoán được tương lai.

 Việt Nam có lịch sử 4000 năm, Hà Nội sắp tròn 1000 tuổi. Cách đây 1000 năm Hà Nội là những con sông, hồ nước, đầm lầy, đồi, gò, núi Nùng… Sau đó có Hoàng Thành, Đàn Nam Giao. Tại sao các đỉnh núi, đỉnh đồi phía Tây và phía Đông Hà Nội đều đối xứng qua Hồ Hoàn Kiếm. Vì sao đường nối tâm Hồ Tây và tâm Hồ Hoàn Kiếm lại có trục Tây Bắc - Đông Nam, trùng với trục của kinh thành Huế do Vua Gia Long lựa chọn.

 Hướng Tây Nam - Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội nói lên điều gì? Tại sao phía Đông Bắc của châu á lại phát triển vượt bậc trong 50 năm qua.

 Phía Tây và Tây Bắc của Hà Nội là gì? Phía Tây Bắc của Tổ quốc là Tây Tạng, là đỉnh Himalaya. Có những giả thiết cho rằng Tây tạng là nguồn gốc của loài người. Là chốn linh thiêng. Hai dòng sông lớn, sông Hồng và sông Cửu Long của Tổ quốc đều bắt nguồn từ đây. Nền văn minh lúa nước và Trống Đồng Đông Sơn đều có cội nguồn từ phía Tây và Tây Bắc của Hà Nội. Vì sao đồng bằng sông Cửu Long lại hiền hoà, đẹp đẽ, kiên cường, bất khuất, trung hậu và đảm đang đến vậy. "Miền Nam đi trước về sau".

 Vì sao Bác Hồ lại chọn phía Nam và Đông Nam của Tổ quốc (Gió - Tốn, Ly - Hoả) để tìm đường cứu nước và trở về từ phương Bắc (Khảm- Thuỷ). Bác sống nhiều năm ở Đá Chông. Đá Chông - Tản Viên - Viên Namlại nằm trên một đường thẳng và sẽ là trục chính của Công viên nghĩa trang Khoang Diệu.

Có nhiều việc, nhiều sự kiện, nhiều mảnh đất, nhiều dòng sông, nhiều con người, nhiều cây lớn… có những sự trùng hợp đặc biệt. Thật thú vị biết bao, nếu chúng ta có thể giải thích và đưa ra những nhận xét mang tính quy luật, logic và khoa học để kiểm chứng quá khứ, vượt qua thử thách của hiện tại, hướng đến tương lai với niềm tự hào, kiêu hãnh và ý chí của ngàn năm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

4. Phong thuỷ của Thủ đô Hà Nội.

Thủ đô Hà Nội là trái tim của cả nước. Qua các thời đại Lý - Trần - Lê thành Thăng Long vẫn cùng một vị trí. Các kết quả nghiên cứu và khảo cổ học cho thấy :

 Thành Thăng Long tọa Bắc, hướng Nam (đúng như kinh đô của các nước Đông á). Nghĩa là toạ không hướng không. Tọa vào Hồ Tây và kéo dài về phía Nam (đường Lê Duẩn hiện nay).

 Thành Thăng Long lấy tâm điểm là núi Nùng (nền điện Kinh Thiên trong Hoàng Thành, không phải núi Nùng ở Vườn Bách Thảo). Khu vực đang khai quật hiện nay đang nằm ở phía Tây điện Kính Thiên.

 Phía Bắc thành Thăng Long có chùa Trấn Quốc, Trấn Vũ, chùa Linh Sơn. Phía Nam có Cột cờ, chùa Long Khánh, đàn Nam Giao (nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo), chùa Hàm Long. Phía Đông có Đình bạch Mã, Ô Quan Chưởng, chùa Cầu Đông, Đình Đông Môn. Phía Tây có chùa Một Cột, chùa Láng, chùa Huy Văn, Đình Đông Các.

 Thành Thăng Long nằm bên bờ sông Tô (chạy từ bờ phía Bắc qua phố Phan Đình Phùng hiện nay). Giang thần sông Tô được phong là Quốc đô thành hoàng đại vương.

 Sau khi triều đình nhà Nguyễn chuyển kinh đô về Huế, Tiến sĩ Vũ Tông Phan đã vận động xây dựng đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc để tụ tập sĩ phu Bắc Hà. Ông mở trường học tại trụ sở báo Nhân dân ngày nay. Vì vậy từ 200 năm nay, Hồ Hoàn Kiếm là địa chỉ quan trọng nhất của thành phố Hà Nội.

 Hiện nay Hà Nội có 3 hồ quan trọng nhất là Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây và Hồ Thuyền Quang (hồ Hale). Nên lấy hồ Hoàn Kiếm là tâm để mở rộng và phát triển Hà Nội trong tương lai theo các đường vòng tròn đồng tâm. Không nên kè kín Hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm như Hồ Hale. Đất, Nước và Khí không thể giao hoà với thiên nhiên và vũ trụ.

 Theo quan niệm truyền thống Bắc (Khảm Thuỷ) là quyền lực, Đông (Chấn – Mộc) là liên kết (hướng ngoại), Nam (Ly Hoả) là năng động và Tây (Đoài – Kim – Hồ) là thách thức, hướng nội và trở về cội nguồn, Trung tâm là Thổ (đất), tài chính, tiềm năng. Hà Nội phát triển đền thờ, miếu mạo, Phật giáo ở phía Bắc. Công nghiệp, dịch vụ, liên doanh, hợp tác quốc tế ở Đông và Nam. Khu hành chính tương lai của Hà Nội nên chuyển dịch về Tây và Tây Bắc. Hoà Lạc, Sơn Tây, Ba Vì, Vĩnh Phú, Việt Trì… là cội nguồn và Thủ đô đầu tiên của người Việt. Quanh hồ Hoàn Kiếm là trung tâm Tài chính, văn hoá.

 Hà Nội hiện nay vừa thừa nước vào mùa mưa vừa thiếu nước về mùa khô. Phong thuỷ là Khí và Nước. Việc quy hoạch, kiến trúc và xây dựng Hà Nội trong 50 năm qua cho chúng ta những bài học về phong thuỷ, dịch lý, ngũ hành, cân bằng âm dương 50 công trình nào là tiêu biểu của 50 năm qua? và đặt cho chúng ta những câu hỏi lớn.

- Hà Nội nên tái tạo sông, hồ, cây xanh… ở đâu ?.

- Làm gì để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long ?. Làm sao vẽ lại được quy hoạch và công trình của 1000 năm qua?

- 1000 năm sau con cháu sẽ nghĩ gì về các nhà quy hoạch, kiến trúc và xây dựng hôm nay ?.

Share this post


Link to post
Share on other sites

5. Kết luận và kiến nghị.

Quy hoạch, Kiến trúc, Xây dựng để phát triển ổn định, bền vững và Hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển bền vững là chung sống hoà hợp, bạn bè với thiên nhiên. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi sự cố gắng của mỗi một quốc gia và mỗi một con người. Với hệ thống thông tin liên lạc quốc tế, trái đất trở nên bé nhỏ. Sự phân chia nghèo giầu giữa các quốc gia, sự chênh lệch giầu nghèo giữa con người và con người ngày càng lớn. Chiến tranh, khủng bố, mất ổn định, tàn phá đất đai, thiên nhiên vẫn là những thảm hoạ treo lơ ửng trên đầu nhân loại. Làm gì, để ai cũng có nhà ở, được học hành, sống trong hoà bình, giàu lòng nhân ái, có cuộc sống có chất lượng ngày càng cao hơn và đất nước có thể sánh vai với các quốc gia phát triển.

Quy hoạch, thiết kế kiến trúc, xây dựng một công trình, một khu dân cư phải biết điều kiện địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, hướng gió, cấp nước, thoát nước… Đó chính là những kiến thức của văn hoá phương Đông và văn minh phương Tây. Xây dựng một công trình cho tương lai phải biết quá khứ, hiện tại và chắt đọng được giá trị văn hoá Đông phương để thỏa mãn các nhu cầu của tương lai.

Quy hoạch kiến trúc và xây dựng thủ đô phải kể đến các bài học của lịch sử, của văn hoá, của truyền thống. Phải cân bằng âm dương, phải có đủ ngũ hành và tôn trọng các hiểu biết của Khoa học Phong thuỷ. Nên sớm quy hoạch và xây dựng các đường vành đai đồng tâm, lấy Hồ Hoàn Kiếm là tâm, sớm xây dựng hệ thống giao thông ngầm. Tôn tạo sông Hồng, xây dựng nhà cao tầng và đường xá dọc theo hai bờ sông (không nên bị giới hạn bởi đê điều). Phải khai thông sông ngòi, hồ ao, trồng thêm cây xanh. Nên xây dựng các hồ lớn ở phía Tây và Tây Bắc Hà Nội. Chú ý phát triển Hà Nội ở các phương vị : Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam. Sử dụng các đường cong hình tròn (trời tròn) và vuông (đất vuông) trong quy hoạch và kiến trúc. Trong vuông, ngoài tròn (đồng tiền chinh) là Đạo người quân tử theo quan niệm của văn hoá Đông Phương và của Khổng tử. Chăm lo xây dựng nhà ở, trường học và trạm xá cho dân nghèo với khoa học công nghệ tiên tiến. Tập trung xây dựng nghĩa trang theo lời dạy của Khổng tử : Đạo trị thiên hạ trọng nhất ba việc "ăn, tang và tế". Hà nội đã phá huỷ đàn Nam Giao. Nên phục hồi lại một công trình văn hoá. Nên lập sa bàn toàn bộ thành phố Hà Nội như kinh nghiệm của một số nước đã phát triển Thủ đô cho 1000 năm sau. Nên tái tạo lại Hoàng Thành và xây dựng dự án "Vườn Thăng Long trong lòng Hà Nội" để có dịp trở lại với cội nguồn và làm sống lại các giá trị văn hoá Đông Phương.

Giáo dục đào tạo nâng cao các kiến thức về địa lý, về khí hậu, về môi trường để phát triển ổn định, bền vững phù hợp với quy luật…xét cho cùng là phát huy bản sắc văn hoá dân tộc (nội lực, tiềm năng…). Tranh thủ cao sự hợp tác quốc tế (khoa học công nghệ, quản lý điều hành, tài chính…) là con đường ngắn nhất để hội nhập. Hãy đơn giản hoá các vấn đề phức tạp và tìm câu trả lời các vấn đề hôm nay bằng những tinh hoa được chắt đọng từ văn hoá Đông Phương và văn minh phương Tây. Dịch lý, Ngũ hành, Âm dương, Phong Thuỷ, Khoa học Công nghệ, Khoa học Quản lý, Kinh tế học, Dân chủ, Chủ nghĩa Mác trên nền của Đạo đức : Nhân (thương yêu con người, không ham, không sợ gì), Nghĩa (ngay thẳng, trung thực). Trí (sáng suốt, biết người, biết việc), Dũng (dũng cảm, dũng khí đấu tranh), Liêm (không tham danh, lợi, ham học, ham làm). Tóm lại nếu không có đức, Văn hoá, Trí tuệ, Sức khoẻ, tình cảm, trách nhiệm, khoa học công nghệ, dân chủ, tường minh và chí khí không thể có được những dự án quy hoạch, những công trình kiến trúc và xây dựng sống mãi với thời gian.

Con người không sống yên ổn được với nhau trên trái đất, sao lại phải đi tìm sự sống ở các vì sao. Con người cứ tự hào là chinh phục được thiên nhiên, song lại chưa thấy được chính mình, không biết sợ chính mình thì thật là vô nghĩa.

“ Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi” “Rau răm đã bay về trời, còn lại rau .…. một đời khổ đau” " Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo".

Những câu nói của cổ nhân là các gía trị văn hoá Đông Phương để chúng ta cùng suy ngẫm. Xin được làm cỏ, làm cây, làm rau, làm một bình rỗng để tiếp nhận khí và nước.

Bài viết này được thực hiện theo yêu cầu của Hội Khoa học và Kỹ thuật Xây dựng Hà Nội. Chắc chắn không tránh được những sai sót. Xin nhận được ý kiến đóng góp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đọc bài viết trên khá hay, nó giới thiệu sơ lược về lý thuyết căn bản của phong thuỷ, nhưng có một chút lấn cấn sau đây:

Thời vua Gia Long chạy nạn ra biển đông, có lưu truyền câu nói sau:

" Gió đưa cây cải về trời

Rau răm ở lại chịu lời đắng cay".

Có phải chăng tác giả bài viết trên đã nhớ mang máng về câu nói trên, cho nên đã viết như sau:

“Rau răm đã bay về trời, còn lại rau .…. một đời khổ đau”

còn về giai thoại câu nói trên, thì những ai đọc về lịch sử ở giai đoạn này đều biết.

Share this post


Link to post
Share on other sites