Posted 12 Tháng 9, 2011 BINH THƯ YẾU LƯỢC Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn-----o0o----- BINH THƯ YẾU LƯỢC Đề Mục•THIÊN-TƯỢNG •GIẢN-MỘ •TUYỂN TƯỚNG •MỆNH TUỚNG •TƯỚNG-ĐẠO •GIẢN-LUYỆN •QUÂN-LỄ •THUỞNG PHẠT •MẠC-HẠ •BINH-CỤ •HIỆU-LỆNH ---------o0o---------Lời nói đầu. Việc binh là việc sống chết của nhân-dân, là việc còn mất của quốc-gia nên bất cứ triều-đình nào, chánh-phủ nào, cũng đều phải lưu tâm đến binh-học. Bởi lẽ ấy, các võ-quan thời xưa đều phải thi võ-thuật và chịu khảo-hạch về binh-thư. Nhưng các binh-thư lại có rất nbiều thứ. Phần Nghệ-văn-Chí trong Hán- thư có chép rằng : Nhiệm-hoành chia các binh-thư ra làm 4 loạỉ : 1.Binh Quyền Mưu, 2.Binh Hình-thế. 3.Binh Âm Dương 4.Binh Kỹ-xảo. Nếu điểm qua các binh-thư trứ danh của Trung-quốc trong các đời thì về đời Tam-hoàng có các sách:Huỳnh Đế Binh PhápỐc-Kỳ-Kinh của Phong-Hậu Trong đời Chu được soạn các sách:Thái-Công Binh-pháp của Lã-VọngLục-Thao của Triều-đình ChuChu-Công Tư-Mã-Pháp Tư-Mã Binh-pháp của Điền-Nhương-Tư (nuớc Tề)Tôn-Tử Binh-pháp của triều-đình NgôNgô-Tử Binh-pháp của triều-đình NgụyUất-Liễu-Tử Binh-pháp của Uất-liễu (học trò của Quỉ Cốc Tử) Trong đời Hán có:Tố-thư của Huỳnh-thạch-côngTâm-thư của Khổng-minh Vào đời Đường có:Thái-Bạch Âm-Kinh của Lý ThuyênLý-Vệ-Công Vấn-Đối của triều-đình Đường,… Nếu chỉ xét riêng các binh-thư còn thấy được ngày nay cũng có tới 53 nhà: -13 nhà về Quyền Mưu -11 nhà về Hình Thế -16 nhà về Âm-duơng -13 nhà về Kỹ Xảo Xem trên thì đủ hiểu rằng binh-học sâu rộng như rừng, như biển, làm sao các võ-quan có thể đọc hềt các binh-thư được. Bởi thế, các đời sau có soạn những bộ binh thư tổng-hợp thường được gọi là Võ Kinh. Trong đời Tống có các bộ:Võ Kinh Tổng-Yếu (40 quyển) của nhóm Tăng-Công-LượngHổ Kiềm-Kinh (20 quyển) của Hứa ĐộngBị-Luận (l quyển) của Hà-Khứ-PhiMỹ-Cần-Thập-Luận (l quyền) của Tân-Khí-TậtVõ-Kinh Thất-Thư gồm có 7 sách tuyển-định là: 1.Thái-Công Binh-pháp 2.Lục-Thao 3.Tư-Mã pháp 4.Tôn-Tử 5.Ngô-Tử 6.Uất-Liễu-Tử 7.Lý-Vệ-Công Vấn-Đối Trong đời Minh có các bộ :Võ-Kinh Khai-Tông (14 quyển) của Huỳnh-Hiến-ThầnVõ-Kinh Tá-Nghị (7 quyển) ;Võ Biên (12 quyển) của Đường-Thuận-ChíVõ-Bị Chí (240 quyển) của Mao-Nguyên-NghiVõ-Bị Tâm-Lược (7 quyển) của Thi-Vĩnh-Đồ, vân vân. Các binh thư soạn ra thực là nhiều, không kể xiết! Nhưng từ đời Minh trở về sau binh-học của Trung quốc có vẻ suy-đồi nên các binh-thư soạn ra về sau ít được người đời nhắc nhở. Trong dĩ-vãng, nước Việt-nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh. Các triều đại lớn như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều được xây-dựng và giữ-gìn bằng chiến-công nên không thể xao-lãng nghề võ. Vì chịu ảnh hưởng của văn-minh Trung-quốc, các võ tướng Việt Nam ắt phải đọc những binh thư của Trung-quốc điều ấy cũng hợp lẽ, vì các binh-thư ấy rất có giá-trị, không phải riêng đối với Á-Đông, mà còn đối với thế giới nữa. Thử hỏi các binh-gia Âu-tây ngày nay, ai mà không biết uy-danh của SUN TZE tức là Tôn-Tử? Ngoài ra, các triều-đình Việt Nam cũng có san-định võ-kinh riêng để cho các tướng sĩ học tập. Nếu chỉ kể những bộ nổi tiếng nhất thì đời Trần có bộ Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền và bộ Binh-Thư Yếu-Lược của Hưng-Đạo Vương Trần-Quốc-Tuấn, đời Nguyễn có bộ Hổ-Trướng Xu-cơ của Lộc-Khê Hầu Đào-Duy-Từ. Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền là một binh-thư rất quí, thuộc loại âm-dương học, không thể phổ-thông ra ngoài dân chúng, vậy ta không thể bàn-luận điều gì. Nhân-Huệ-Vương Trần-khánh-Dư đề tựa sách ấy, viết như sau: “Phàm dùng binh giỏi thì không cần bày trận, bày trận giỏi thì không cần đánh, đánh giỏi thì không thua, khéo thua thì không mất. “…Ngài Quốc công của chúng ta (tức là Vương Hưng-Đạo) xem hoạ đồ của các nhà mà soạn thành một bộ sách, tuy chỉ chọn lấy các chỗ tinh-vi nhưng sao lục đầy-đủ các chỗ cốt-yếu, loại bỏ các chỗ vụn vặt, rút lấy các chỗ thực-dụng, đều lấy năm hành tương ứng chín cung thay nhau, phối-họp cứng mềm, xoay-chuyển tuần-hoàn, lạ-lùng bất ngờ, về thần-sát thất-diêu {trời, trăng và 5 sao kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), hưng-thần ác-tưóng, tam cát ngũ-hung đều chỉ bày rõ ràng…” “Sách ấy dùng đã ba đời trăm đánh trăm thắng, cho nên đương thời có thể làm rúng-động quân Hung-nô (Mông-cổ) ở phía bắc, làm cho nước Lâm-Ấp ở phía tây phải khiếp uy, nên sách này được biên-chép làm của gia~truyền không được phép tiết lộ ra ngoài. “Có lời di-chúc (của Vương Hưng-Đạo) dặn rằng : Về sau con cháu, bồi-thần học được bí thuật nay phải thi hành cho sáng suốt không được bày trận ám-muội hồ đồ. “Lại có di-văn (của Vương) dạy rằng : nếu không tuần lời dạy..thì sẽ chiêu vời tai-ương hoạn-nạn cho tới con cháu, đó là bởi tiết lộ thiên-cơ vậy” Xem lời dặn của Vương, ta đủ hiểu rằng Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền là sách thuộc loại âm-dương-học chỉ dành riêng cho các bậc quân-su để cha truyền con nối mả giữ nước. Thêm nữa, danh-từ Vạn-Kiếp Tông tỏ rõ ý-chí của Vương muốn lập một tông-phái võ học tại Vạn-kiếp và Vạn-Kiếp Tông Bí-Truyền chính là binh-phả biệt-truyền của môn-phái. Trái với bộ sách bí truyền nói trên, bộ Binh-thư Yếu-Lược là một võ-kinh thông thường có thể phổ-biến trong giới tướng-sĩ. Trong bài hịch răn dạy các tỳ-tướng, Vương há chăng nói “Các ngươi nếu chuyên tập sách này, nghe lời dạy bảo của ta, ắl đó là duyên thầy-trò kiếp xưa; còn nếu khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, ắt đó là mối cừu-thù kiếp trước!” hay sao? Tại sao các bộ Võ-kinh của triều Tống rất được thông-dụng mà Vương lại còn soạn ra bộ Binh-Thư Yếu-Lược? Hoặc Vương thấy các võ-kinh của Trung-quốc không được đầy đủ nên Vương muốn thêm vào những kinh-nghiệm của mình chăng? Hoặc Vương muốn người Việt phải có óc tự-lập, tự chủ nên Vương tự soạn ra một bộ binh-thư riêng biệt cho giới võ tướng Việt-nam chăng? Dầu sao, bộ Binh-Thư Yế-Lưọc đánh dấu một giai-đoạn mới cho nền binh-học Việt-nam bắt đầu muốn giữ một bản-sắc độc lập Một điều đáng để ý là bổn Binh-thư Yếu-lược còn lại ngày nay có chứa nhiều sự-kiện lịch-sử liên-quan đến hai triều Lê, Nguyễn: điều ấy chứng tỏ rằng triều Nguyễn cùng dùng sách ấy và đã thêml vào nhiều đoạn mới. Vậy ta có thể kết-luận rằng :•Binh-thư Yếu-Lược là bộ võ-kinh đầu tiên của Việt Nam được thông-dụng trong các triều Trần, Lê, Nguyễn. Về sau, xu-hướng tự-lập, tự-cường của nền binh-học Việt Nam càng được nhận thấy rõ ràng trong cuốn Hổ-Trướng Xu-Cơ mà Lộc-Khê Hầu Đào-Duy-Từ" đã tự soạn ra cho triều Nguyễn khác hẳn các binh-thư xưa, sách này được chia ra 3 phần theo thuyết tam-tài : Thiên-tập, Địa-tập và Nhân-tập. Sau đây xinh trích dẫn một đoạn trong bài tựa của Hầu Tước Lộc-Khê ở đầu cuốn Hổ Trướng Xu-cơ:“Người xưa có nói rằng : - Nếu đùng chiến tranh để ngăn ngừa chiến tranh dầu phải đánh nhau, việc ấy cũng nên làm. - Nếu giết người để yên người, dầu phải giết người, việc ấy cũng nên làm. “Nhưng trong việc chinh-chiến có rất nhiều phép tắc, sát phạt có nhiều phương-sách chứng giống nhau. Có trí thì dùng trí, không trí thì dùng sức. “Việc đánh phá các chỗ vững bền, cầm bắt tinh-binh của địch, cỡi ngựa múa roi, bỏ công-lao ra sống vào chết, nuôi chí thịt nát xương tan, đó chẳng qua là làm kẻ võ dũng, đâu có thể địch lại muôn người? Đó gọi là không dùng trí thì dùng sức vậy! “Nay tôi thà đấu trí hơn là đấu sức, do đó ngẩng mặt tuân theo diệu ý của thánh hiền đời trước, cúi xuống nhờ cậy vào tài năng khéo-léo của các bạn lành, kiếm hết các kinh sách lạ-lùng trong thiên-hạ, tìm xem các phép-tắc khác thường xưa nay, rửa nghiên thấm bút, cúi chép một sách đặt nhan đề là Hổ-Trướng Xu-Cơ Trong sách ấy, bất cứ là hoả-công, thủy-chiến, trận rắn, trận chim, chiến lược, mưu-kế, các việc cơ-mật của binh-gia không chỗ nào mà không hoàn bị. Nếu tướng súy có cơ trí học được sách ấy thì có thể lập được công danh đứng trên muôn người đem lại thái bình trong mới hồi trống ! Vậy nên trân-trọng giữ-gìn sách ấy mà chớ truyền thụ cho người ngoài vận-dụng.” Lý-do chính đã thúc giục Hầu-tước Lộc-Khê soạn ra bộ Hổ-Trướng Xu-Cơ là các binh-thư của Trung-quốc quá rườm-rà và khó hiểu. Ta hãy xem một đoạn trích-dẫn từ bài tựa của ông Cao-Khuê Chiêu-Dương trong bổn chép tay vào đời Đồng-Khánh.“Nếu có ai hỏi tôi rằng : Phàm việc còn mất của xã-tắc, việc mừng lo của nước của Vua đều tùy-thuộc vào một nguời tướng-suý. Cho nên làm tướng mà học binh-pháp thì cốt phải tinh-thông chớ chẳng cần học nhiều, cần phải mạnh-dạn mà phải gom kiêm mưu-trí nhờ đó mà khi ra khỏi cửa thành, tướng-suý có thể nắm vững then chốt phép cầm binh, là nơi treo giữ số-mệnh của ba quân. Nếu nghề võ chẳng được tinh-thông mà tướng-súy lại thiếu mưu-trí thì trong khoảnh-khắc lật nguợc bàn tay, giang-son phải chịu đổi dời, như thể chẳng đáng cẩn-thận hay sao? “Vả lại các sánh đã soạn ra không phải là không hay nhưng lời-lẽ quá rườm rà, rắc rối, nhiều chỗ tinh thô chẳng giống nhau, khiến cho độc-giả như ngồi đáy giếng nhìn lên trời cao, thả một con thuyền lênh-đênh trên biển cả, mờ-mịt không biết nguồn cội ra sao, mênh-mông chẳng dò ra manh-mối, đành phải chịu như thế vậy ! “Cho đến triều ta, có ngài Lộc-khê có chí-khí ngang-nhiên khác thường cứ xem ngài phò-tá Vua Thánh-tổ nhà ta. Để danh tiếng nghĩa-đũng lại ngàn năm mang lại thái-bình trong một ngày như thế trong thâm tâm của ngài thực có chứa muôn ngàn giáp-binh vậy. Đến khi ngài trả ấn về hưu, vui cạnh núi vườn, cứ xem cái xu-hướg ấy cũng đã biết rằng ngài đứng ngang hàng với các bậc Y Doãn, Lữ-Vọng, Tử phòng, Khổng-minh vậy. “Đến khi năm trời sắp hết lại sợ tâm-thuật của ngài không được truyền lại. tài-trí thần-diệu phải bị chôn vùi nhưng may-mắn có ông Triệu-Điền lanh-lợi hơn người được ngài đích-thân truyền dạy, rồi tới hai vị Bửu-Thúc, Cao-Lượng khám-phá các điều sở-học của ngài Lộc-Khê và của ông Triệu-Điền mà người đời chưa từng biết, đem ra truyền dạy cho nhau, thực là của báu của trời đất, há dễ ai mà thâu lượm hết được. “Lại gặp bạn tôi là Hà-Hồ cũng ham-thích môn học bí truyền, nên chẳng tiếc công-lao, rửa nghiên thấm bút, chép ra một pho chia thành ba cuộn gọi là Hổ-Trướng Xu-Cơ, trong đó tỏ bày tất cả then máy huyền-bí của trời-đất, gom hết tinh-hoa của vũ-trụ, nên tôi không thể nén lòng phấn-khởi, vui~-mừng mà cũng viết thêm ít lời như trên đây”. Ta xem trên thì đủ hiểu rằng, sau Binh-Thư Yếu-Lược, bộ Hổ-Trướng Xu-Cơ là Võ Kinh mới nhất của Việt-nam vậy. Như thế đã từ lâu, tổ-tiên của chúng ta muốn sáng-tạo một nền binh-học độc-lập. Óc tự-lập, tự-cường ấy không phải là không chinh-đáng. Đọc lịch-sử, ta thấy rằng ngoài việc bình Chiêm, sáp-nhập Chân-lạp, đánh Xiêm, Lào để mở rộng bờ cõi, nước Việt-Nam nhỏ bé đã lập nhiều chiến-công hiển-hách để giữ-gìn non sông: Đời Ngô phá Hán Đời Lý đánh Tống Đời Trần bình Nguyên Đời Lê đuổi Minh Đời Tây-sơn phá Thanh Và trong khoảng 20 năm gần đây quân Việt mặc dầu ở phe-phái nào cũng đều chứng tỏ khả năng chiến-đấu khác thường khiến cho hoàn-cầu phải mỗi ngày chú ý đến chiến-cuộc ở Việt Nam. Nếu những chiến-công kể trên chỉ là những thắng-lợi lẻ tẻ và tạm thời, do sự may-mắn đem lại thì ta không nên vội tự khen. Thực ra, những chiến thắng ẩy chỉ lầ những đoá hoa tô-điểm cho những chiến-cuộc có thể kéo dài hàng chục năm trời. Chính những chiến cuộc lâu dài này mới chứng tỏ sức chiến-đấu dẻo dai và sức sống mãnh liệt của người dân Việt. Không cần phân-biệt kết-cuộc thành hay bại, ta hãy xét các sự kiện sau đây: - Hai Bà Trưng-Trắc, Trưng-Nhị đánh quân Hán, hạ được 65 thành-trì, tự lập làm Vua, đánh nhau với danh-tướng Mã-Viện gần 3 năm mới chiu tử-tiết. - Bà Triệu-Thị-Chinh cầm đầu l.000 thủ-hạ đánh nhau với quân Hán trong 3 năm mới chịu tử-tiết. - Lý-Nam-Đế rồi tiếp theo là Triệu Việt Vương đánh nhau với quân nhà Lương trong 50 năm mới chịu thua. - Dương-Diên-Nghệ rồi tiếp theo là Ngô-Quyền phải đánh nhau với quân Nam-Hán trong 7 năm mới giành độc-lập - Lý-Thường-Kiệt đánh nhau với quân Tống gần 2 năm. - Trần-Hưng-Đạo phải đánh nhau trong 5 năm với hai đạo quân Mông-cổ mới đuổi chúng về nước. - Lê-Thái-Tổ phải đánh nhau gần 10 năm với quân Minh mới khôi phục giag-sơn. - Nội-chiến Lê-Mạc 60 năm - Nội-chiến Trịnh-Nguyễn : 45 năm - Tây-sơn đuổi Nguyễn, Trịnh : 17 năm - Nguyễn đuổi Tây-Sơn : 24 năm - Chiến-cuộc Việt-Pháp-Mỹ : gần 20 năm. Xem thế, ta thấy rằng hình như Trời bắt-buộc nước Việt phải trãi qua nhiều cuộc chiến-tranh lâu-dài để khiến cho dân Việt có một truyền thống chiến-tranh trong huyết-quản. Do đó, dân Việt có một định mệnh khác thường : Người Việt phải là một nông dân và là một chiến sĩ. Sau bao cuộc chiến tranh tàn-phá, dân Việt lại sinh-sôi nảy-nở, bành-trướng thêm, lại càng làm cho thế-giới biết rõ mình hơn và sắp bước vào giai-đoạn xây-dựng một nền văn-minh lành-mạnh truyền-bá khắp thế giới. Với một định-mệnh khác thường như thế, dân Việt phải rút sức mạnh tự mình, do đó phải có một nền võ-học tự-cường và một nền văn học tự chủ. Ngày nay trong lúc nhân-dân đang tranh-đấu để giang-sơn được độc-lập và thống-nhất, việc binh-học tỏ ra cần-thiết hơn bao giờ hết. Vậy đã đến lúc nên nghĩ tới việc san-định một võ-kinh hợp-thời cho quân-lực Việt-nam, thâu tóm mọi kiến-thức xưa nay. Để dọn đường cho các nhà binh-học tương-lai, tôi nghĩ rằng việc tham-khảo các binh-thư thời trước chưa hẳn là hoàn-toàn lỗi-thời và vô-ích. Tôi vốn là người tân học nhưng đứng trước sách cũ của tổ tiên, chẳng dám chê-bai và khinh thường bởi nghĩ rằng : Dầu hay dấu dỡ, đây là di-thư của tổ-tiên. Nhờ đó tổ-tiên của chúng ta đã dựng nước và giữ nước, va nhờ đó mới có chúng ta ngày nay. Chúng ta nên trân trọng giữ nó như của báu quốc truyền vậy. ---oOo--- Đối với tôi việc phiên dịch sách Binh Thư Yếu Lược này của Vương Hưng-đạo chẳng những làm sống lại một thời dĩ-vãng xa-xăm, bấy giờ nhân-dân Việt-nam bị lôi-cuốn vào một cuộc tử chiến với quân Mông-cổ, mà còn nhắc lại cho chúng ta nhớ lại một đường lối tu-tập đã bị bỏ quên từ lâu: đó là Thánh đạo. Bởi thế ở đầu sách tôi có viết bài tiểu sử và đức độ của Vương đề cụ-thể-hóa nền thánh-đạo của nho-học Á-đông . Về bài này, tôi không có may-mắn tham-khảo được nhiều sách mà chỉ đọc qua-loa vài đoạn trong ba bộ sách là bộ Đại-Việt Sử-Ký của Ngô-Sĩ-Liên, bộ Khâm Định Việt-Sử Thông Giám Cuơng Mục và bộ Lịch-Triều Hiến-Chương Loại-Chí (phần Nhân-Vật Chí) của Phan-Huy-Chú Nhưng về truyện của Vương, hai bộ sau không chép chi-tiết nào khác bộ trước, thành-thử rốt cuộc tôi chỉ sử-dụng bộ thứ nhất mà thôi. Tôi thành-thực nhận rằng đó là một khuyết-điểm lớn và xin để dành việc thâm cứu cho các sử gia. Để làm bài tựa cho bộ sách này, tôi có chép nguyên-văn bài hịch của Vương và đưa ra một bản dịch tuy không hay bằng các bản dịch văn-hoa đã biết nhưng sát nghĩa hơn để quý vị độc giả xem đối-chiếu với Hán-văn. Bộ sách dịch này sẽ không hoàn thành được nếu không có sự trợ-lực của cựu Thiếu-tướng Mã Nguyên-Lương ở Long Hoa đã kiểm-điểm giùm bổn Hán-văn, và Dật-Sĩ Nguyễn-Phưóc-Hải ở Long-Khánh nhuận-đính giùm bản dịch. Vậy tôi xin ghi nơi đây lời cảm-tạ đối với hai tiên-sinh, vùa là thầy hay vừa là bạn quý. Tôi vốn là người tân-học không thuộc sử kinh, lại không thông binh lược, nên việc phiên-dịch không thể tránh khỏi có nhiều sai-lầm. Vậy tôi xin nhận lỗi trước và thành-thực mong quý vị độc giả bố-thí lời chỉ-giáo.Ấp Tây Nhì, Xã Phú Nhuận, Quận Tân Bình, Tỉnh Gia Định, Mười Sáu Tháng Giêng Kỷ Dậu.LÊ XUÂN MAIkính đề QUYỂN THỨ NHỨT TƯỢNG TRỜI 1. PHÉP BÍ-MẬT XEM SẮC TRỜI VÀ SẮC MÂY TRONG TIẾT NGUYÊN ĐÁN Tiết Nguyên-đán, đúng tháng giêng, ngày mồng một, giờ tý lên lầu bí mật xem bốn phương. Nếu thấy khi mây màu vàng thi năm ấy thóc lúa trúng mùa lớn. Nếu thấy khí mây màu trắng thì có việc binh-biến xảy ra, nếu chỉ có một vầng mây hiện ra một mình ở hướng nào thì ở hướng ấy có nạn đao-binh. Nếu thìn bốn phương không thấy mây mà chỉ thấy hai màu đỏ trắng liền nhau, thì màu đỏ tượng trưng cho máu, màu trắng tượng-trưng cho chất kim (gươm, đao) hai màu ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy sẽ dấy loạn. Màu xanh là điềm có nạn gió bão, mầu đen là điềm có nạn mưa lụt ; nước nào có điềm ấy thì phải phòng-bị2. PHÉP XEM KHÍ HẬU BỐN MÙA : NGÀY LẬP-XUÂN : Vào giờ dần, giờ mão, nếu ở hướng đông có mây trắng hiện ra như là trời thòng binh-khí xuống, xứ nào có điềm ấy thì sẽ sinh loạn lớn. Nếu mây có hình-đạng như thanh kiếm treo ngược, đầu trên bằng, đầu dưới nhọn, thì xứ ấy sẽ chết hết, đó là điềm xấu. Mây ấy ở cao thì nạn còn chậm, mây ấy ở thấp thì nạn chết mau đến. Trong mọi trường-họp đêu phải lấy trăm phép toán thêm vào để biết chính-xác hơn. NGÀY LẬP-HẠ : Vào giờ tý, giờ ngọ, nếu thấy ở hướng nam có mây đỏ như là binh trời bày việc chiến-tranh, hoặc giống như chỉa dáo, có hình dạng như khăn tay màu hồng thì ở hướng ấy có việc đao-binh xảy ra trong năm ấy, không đợi tới năm sau. NGÀY LẬP THU : Vào giờ thân, giờ dậu, nếu thấy ở hướng tây có mây trắng mọc thẳng ngay lên, nếu ở tiết lập-thu thì trong năm ấy về hướng tây có binh dấy loạn. Nếu vào giờ ngọ mà có mây trắng chắn ngang giữa trời như là tiến binh lập trận thì sẽ có binh dấy loạn. NGÀY LẬP ĐÔNG : Vào giờ tý, giờ sửu, nếu ở hướng bắc có mây trắng hình dạng như chim thì ở dưới hướng ấy trong năm tới, vào tháng tư sẽ có việc đao-binh. Nếu mây trắng có hình-dạng giống như Hồ-binh bày trận tiến binh thì năm tới vào thắng bảy xứ ấy sẻ nổi loạn. Hễ nghe có loạn thì phải chuẩn-bị gấp rút việc binh-mã3. PHÉP XEM MÂY BAY ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI. Mây là khí núi nhân vì gặp đá mà bốc lên, nên gọi là mây. Sách Cấm-thư nói rằng : Ngày Nguyên-đán vào giờ tốt bậc chủ-tướng nên đi lên lầu xem-xét. Bốn phương trong sáng mà chỉ có một đám mây xanh hiện ra giữa. trời thì thiên-hạ sẽ đói kém mất mùa. Nếu lâ mây trắng, sẽ có quốc-tang. Nếu là mây đỏ sẽ có đổ máu, thiên-hạ đều dấy binh, các giống mọi rợ ở hướng đông và ở hướng bắc sẽ xâm-phạm biên-giới. Nếu là mây đen, sẽ có mưa lụt. Nếu là mây vàng đó là điềm lành. Nếu ở bốn phương trời có gió bụi màu đỏ bay đầy núi sông thì sẽ có mưa.4. PHÉP NGHE SẤM SÉT ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI. Sấrn là trống của trời, nổ ra thì làm cho người ta sợ-hãi tới muôn dặm. Nếu tiếng sấm phát ra hòa nhã khác thuờng thì trong năm ấy ở hướng có tiếng sấm sẽ được an-ổn. Nếu sấm dội kinh-khủng thì bên chủ nên chuẩn-bị việc binh vì sẽ có giặc gây loạn lớn. Nếu sấm động ở hướng chấn (đông), sẽ thấy cây-cối tốt-tươi, năm lành, nhiều sương. Nếu sấm động ở hướng ly (nam), sẽ có đại-hạn (nắng lâu không mưa). Nếu sấm động ở hưóng khôn (tây-nam), sẽ có tai-nạn lớn. Nếu sấm động ở hướng đoài (tây), sắt sẽ trở nên quí-báu, nạn đao binh sẽ xảy ra. Nếu sấm động ở hướng càn (tây-bắc), đó là điềm xấu. Nếu sấm động ở hướng cấn (đông-bắc), sẽ có nhiều bệnh và nạn đao-binh. Nếu sấm động ở hướng khảm (bắc), năm ấy sẽ mưa nhiều. Tại nơi đang hành-binh, nếu quân đang sợ-hãi thì lúc nghe sấm sẽ thua lớn; nếu nghe sấm trước rồi mới sợ hãi sau, quân sẽ bi chấn-động và kiếm chỗ ẩn-núp.5. PHÉP NGHE SẤM NGÀY NGUYÊN ĐÁN: Tiếng sấm hòa-nhã thì thiên hạ an-ổn và được mùa. Nếu ánh chớp chói mắt, sấm nổ điếc tai thì thiên-hạ sẽ rối-loạn, nên lo gấp việc binh-bị, thấy điều ấy chẳng khá khinh-thường. Sấm-sét là do âm-dương biến-chuyển và cảm-ứng nhau mà sinh ra. Tướng đang hành binh, nếu sấm nổ đằng sau lưng thì binh sẽ gặp nhiều điều tốt lợi ; nếu sấm nổ ở trước mặt thì binh sẽ gặp điều xấu lắm. Nếu sấm nổ trước rồi mới thấy sét đánh thì tiểu nhân thịnh mà quân-tử suy ; nếu thấy sét đánh trước rồi mới nghe sấm thì quân tử thịnh mà tiểu-nhơn suy. Sấm thuộc âm, sét thuộc dương. Tháng giữa xuân (tháng hai) sấm bèn phát, tháng giữa thu (tháng tám) sấm bèn ẩn, nếu nghịch thời sẽ có việc đao binh nổi lên.6. PHÉP XEM HƯỚNG GIÓ THỔI LÊN TRỜI HAY XUỐNG ĐẤT Gió từ hướng khảm (bắc) – thổi lại gọi là hắc-tuyền-phong (gió suối đen) : năm ấy không có nạn đao-binh, nhân dân bị bệnh-tật và giữa năm chết về bệnh ôn dịch. Gió từ hướng cấn (đông-bắc) thổi lại gọi là huỳnh-tuyền-phong (gió suối vàng) : năm ấy không có việc binh, cọp beo xuống đòng nội làm tổn hại nhân dân. Gió từ hướng chấn (đông) thổi lại gọi là vọng-nữ-phong (gió gái trông chồng) : năm ấy không có việc binh, sinh~mạng của nhân dân bị nguy-khốn. Gió từ hướng đoài (tây) thổi lại gọi là kim-liên-phong (gió sen vàng) : năm ấy không cô việc binh, gái phạm vào tâm tư của trai, dân.chúng bị chết về bệnh ngặt. Gió từ hướng ly (nam) thổi lại gọi là hỏa-huyết-phong (gió máu lửa) : năm ấy nắng lâu không mưa, có nạn đao-binh. Gió từ hướng khôn (tây-nam) thổi lại gọi là thai-bệnh-phong (gió bệnh thai nghén) : năm ấy không có việc binh, đàn-bà nhiều người chết vì sinh-đẻ. Gió từ hướng càn (tây bắc) thổi lại gọi là tang-phục-phong (gió tang-phục) : năm ấy người người chét gấp, có dân nổi loạn. Nếu hành-quân tới trận, gặp năm tuổi của tướng-súy, gió từ hướng sao Thái-tuế thổi lại gọi là đại sát phong (gió giết nhiều) thì tai-hoạ đang đến gấp.nguồn: http://lamhongs.wordpress.com 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 9, 2011 7. PHÉP BÍ MẬT DẠY CÁCH XEM GIÓ TÁM HƯỚNG * Thứ nhứt: Gió dữ sắc đỏ : Nếu trong nưởc có hiền thần bị tù-tội, thì người ấy thình-lình thấy sắc đỏ hiện lên khắp mặt. Bỗng dưng trời đất biến ra hồng Hiền-sĩ bất ngờ vuớng ngục gông Kỳ-hạn không ngoài trăm ngày tới Nước chia hai xứ quyết tranh hùng * Thứ hai: Gió bắc sắc vàng : nhìn không thấy người, ắt có trung-thần bị tội chết : gió từ hướng bắc thình-lình thổi tới làm cát bụi sắc vàng tung bay là đó vậy : Bỗng dưng trời đất biến ra vàng, Tất có trung thần phải chết oan, Hạn tới không ngoài ba tuần nhật, Bốn phương yêu quái khởi làm càn. * Thứ ba: Gió sắc đen : Hoặc ban đêm hoặc ban ngày, trời quang tạnh mà mặt trời, mặt trăng và các sao vẫn không sáng, gió ấy bỗng thổi đến làm cho trời đất u ám ; trong vòng 300 ngày (10 tháng) sẽ có mọi-rợ miền nam và miền đông xâm-lấn biên giới. Gió đen bỗng thổi giũa trời quang Trời đất sao trăng phải tối-tăm Trăm ngày chưa tới là kỳ-hạn Man ải ắt khởi cuộc xâm lăng ! * Thứ tư: Gió giết giặc : (sát tặc phong) : Hoặc tại bản-dinh hoặc ở giữa trận, gió làm cho nhành reo, cây gãy, chốc chốc lại thổi, phầng kè ngày đêm, mỗi ngày đi được ba mươi dặm. Giữa trận tùy thời ta hay theo Nhành rung cây gãy, gió kêu gào Ba quân gấp tiến theo chiều gió, Gặp thời giao-chiến, lập công nhiều ! * Thứ năm: Gió dữ thừa lệnh quỷ-thần (thần lệnh ác-phong) : Bỗng thấy gió ẩy uyển~chuyển thồi tới luôn cả ngày đêm. Giữa ngày bỗng nổi gió thần-phong, Nhổ trại, cầm thương tất gặp hung, Trước đường khòng quá muời dặm đất, Phải phòng bên địch phục binh-hùng ! * Thứ sáu: Gió làm bại binh : (Bại binh-phong) : Hoặc mau hoặc chậm, thồi ngược tới trước mặt ta, chốc chốc lại thổi, trận này kbó định : Dàn binh bỗng thay gió bại binh, Rát mặt bụi mù gió lớn kinh. Ba quân truyền lệnh lui binh-mã Giao-chiến thời này ắt hại mình ! * Thứ bảy: Gió nóng ác hại (ác-noãn-phong) : Gió nóng như lửa xuyên qua người, đang yên-ồn bỗng nổi lên, về mùa đông cũng chảy mồ-hôi, trong bụng hơi nóng trong vòng trăm ngày thiên-hạ sẽ đổ máu. Bỗng trận cuồng-phong thổi nướng người Nóng ran sĩ tốt đẫm mồ hôi Trăm ngày chưa tói, phòng đánh lớn Máu đổ xương rơi ắt loạn rồi ! * Thứ tám: Gió mưa ác hại (Thủy-ác-phong) : Gió phá-hoại tới ruột xương người đang yên-lặng bỗng gió thổi tới vùn vụt, lạnh buốt như sương tuyết, sĩ-tốt không mở mắt ra được Binh-mã phải giải-tán, chắc-chắn sẽ thua. Lạnh thấu ruột xương, ấy thủy-phong, Thuyền, cầu thủy trận cũng toi công, Ba quân truyện lệnh không nhìn rõ Binh phục bên đường. phải khá phòng . 8. PHÉP XEM GIÓ LÀNH : Khi có gió lành (báo điềm lành) thì ngày trong sáng, hơi gió hòa-nhã ; theo phần ngày nào, phần tháng nào, phần giờ nào, hoặc theo phương sinh-khí nào mà tới thì lòng người vui đẹp, nước được điều tốt lành. Về ngày, âm đương là điều bí-yếu: các ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc về hướng phần dương ; các ngày ất, binh, kỷ tân, quí thuộc về hướng phần âm. Hướng quí là hướng dương. 9. PHÉP XEM GIÓ DỮ : Khi có gió báo nạn dữ thổi tới, thì ngày đó nặng nề u-ám, khí trời tối-tăm, bế-tắc, tiếng gió gào thét như là giận-dữ, cát bay lá rụng, gió theo phương dữ mà thổi đến. Nên gấp lo việc binh-bị để giữ kỹ, thế nào cũng có giặc tới. 10. PHÉP BÍ MẬT XEM CHÍN THỨC MÂY: * Thứ nhất: Trời có sắc xanh biển : Trời mờ-mit, hỗn-độn, xanh thẩm, thấy mặt người cũng có màu xanh ắt là giặc tây nhung xâm-phạm biên-giới, nước trung-ương chẳng được yên-ổn : Thứ nhút, trời xanh thẩm lạ-lùng Đế Vương lên điện hỏi Chu-Công, Hiện ra điềm ấy chừngh nủa tháng, Biên-cương ắt phạm giặc Tây-Nhung. * Thứ nhì: Trời có sắc hồng : Điềm này chủ về việc đại-tướng, hiền-than bị tù hãm, đang yên-ổn mà bỗng đựng sinh ra như vậy Khi sắc hồng ấy hiện ra thì trung-thần bi chết oan. Tự-nhiên trời đất biến ra hồng, Hiền-sĩ không ngờ vướng ngục gông, Ví bằng chẳng có cuồng-phong khởi Trăm ngày hai nước cũng giao-phong * Thứ ba: Trời có sắc vàng : Trung-thần, mưu-sĩ bị chết oan. Nếu dùng chín người để xem-xét sắc trời ấy thì mọi người đều nhận ngay là màu vàng. Đang yên, tròi đất biến ra vàng, Ắt có trung-thần phải chết oan, Máu lan đầy đất trong muời tháng, Yên, Tần, yêu-quái khởi làm càn. * Thứ tư : Trời có sắc đen : Điềm này chủ về việc trong vòng ba trăm ngày sắp tới sẽ có kẻ . âm-mưu làm loạn. Bấy giờ sắc trời u-ám. Đang yên, trời đất biến đen sì Ắt có kẻ nao mưu loạn chi Một tháng mà thôi, cơn loạn lạc Tự -nhiên dập tắt chớ hồ nghi . * Thứ năm : Trời làm sợ hãi vô cớ (sợ hụt) : Trời phát ra tiếng nổ như sấm, bay ra vang dội tới ngàn dặm. Tự-nhiên trời đang quang-đãng mà sinh ra như vậy. Cây có điều hòa lặng-lẽ bao Tiếng vang như sấm tự trời cao Kinh-hoảng không quá ba tuần nhựt Bốn phương cùng khởì việc binh-đao. * Thứ sáu : Trời mở cửa : Nghe tiếng động lan ra giống như tiếng trời mở cửa. Bậc đế-vương đăng đàn bái tướng, trong một trăm ngày lệnh chúa hưng vượng, bèn trước hết dấy binh dẹp luạn. Nếu trong một tuần nhật, cửa trời mở về phương Ngọc-nữ thì có tiếng nổ như sấm nhưng không phải sấm. Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh, Ngọc-nữ phương trời cửa mở nhanh Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm. Trăm ngày chưa tới ắt ra binh, Bỗng dưng phá giặc ngoài biên-cảnh, Hưng lệnh trời ban xuống nước mình, . Để khiến ba quân tùy tướng lệnh, Vua bèn bái tướng mới xuất-chinh. * Thứ bảy : Trời thòng binh khí : Khí mây thòng xuống ở chân trời, như là dao cưa. Nên gấp tiến binh, đánh thì thắng lớn. Mây trời hình:dạng giống cưa dao, Thòng xuống chân trời, giặc bại mau Hướng ấy tuớng binh cùng quyết chiến, Bốn phuơng tám sớ tất hàng đầu. * Thứ tám : Khí trời không điều hòa : Bốn mùa đều trái thời-tiết : Hè làm tiết đông, bắc-phiên phản, Đông làm tiết hè, ắt chinh nam, Thu làm tiết xuân, giặc đông dậy, Xuân làm tiết rhu, giặc tây tràn. * Thứ chín : Trời sinh biến ở hướng càn : Chủ về việc hiền-thần khó trách luận để nhà Vua nghe theo. Mặt trời và mặt trăng khi sắp lặn còn cao một trượng thì có sắc đỏ. Nhật nguyệt máu hườm, biến sắc đây Âm dương có biến, chủ không hay Tư-thiên rõ việc, bàn sai quấy, Ngoài cuộc nói vào xét chẳng sai. 11. PHÉP XEM HAI MẶT TRỜI MỌC KỀ NHAU. Hai mặt trời cùng mọc thì thiên-hạ sẽ động binh, kẻ vô-đạo bị tiêu diệt, hai quân đánh nhau có sức mạnh ngang nhau. Hai mặt trời cùng mọc thì sẽ có đánh lớn, thành-trì bị phá-hoại, đồng nội chia ra nhiều phần mà đánh nhau. Hai mặt trời mọc kề nhau ở nước nào thì nước ấy gặp loạn lớn, nạn dữ . Chất tinh trắng của mặt trời rơi xuống đất xứ nào thì ở xứ ấy bên chủ (quốc-vương, chánh-phủ) phải thất-bại. Dưới mặt trời có ánh-sáng giống như chân chim thì xứ bên phe chủ bị tai-ương, việc binh thất-bại, quân-đội tiêu-diệt. Trong mặt trời có vết đen thì vua tôi chống đối nhau, trăm họ gặp việc xấu. 12. PHÉP XEM CÁC LOẠI NHẬT-THỰC: Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời. Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối tháng) và ngày sóc (đầu tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm lấn nhau, đi lạc đường tới ôm nhau, đô gọi là nhật-thực. Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu làm hại nhà Vua, ắt là mặt trăng đi ngược án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn. Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không sáng nữa đó gọi là mặt trời bệnh. Mặt trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng dưng không sáng nữa, đó gọi là mặt trời chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu gặp nạn lớn, các gian-thần đều nổi lên khuấy rối. Nếu mặt trờí đỏ như máu thì tbiên-hạ sẽ có loạn lớn. Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất thành. Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì binh-gia nghỉ việc giao chiến. Vào tháng tám mùa thu mà có nhật thực thì. có việc đao-binh xảy ra và phe khách được thắng. Vào tháng mười hai mà có nhật-thực, điều ấy chủ về việc có binh dấy loạn. Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì rợ man (phía nam) và rợ di (phía đông) nổii loạn, nên gấp lo việc binh-bị Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ thì sẽ có việc đao-binh. Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh, tân, nhâm, quí thì không nên tính tới việc binh. 13. BÀI THƠ MẶT TRĂNG LẠC ĐƯỜNG : Trăng lạc giữa trời, chúa chẳng hay Hậu-cung say đắm may nàng phi, Ba tuần chưa tới binh liền dấy Âm dương sai lạc khiến vong nguy. 14. PHÉP BÍ-MẬT XEM TRĂNG : Mặt trăng mới mọc ma đi về hưởng bắc đó gọi là “cung giương” thì có kẻ âm-mưu vào thành khuấy rối. Nếu mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen chắn ngang như chữ nhất thì trong ngày ấy có mưa. Mặt trăng mới mọc mà có đám mây đen ở giữa có dạng như cầm thú thì: - nếu vào ngầy giáp ất sẽ có hại về hướng đông; - nếu vào ngày bính đinh, sẽ có hại về hướng nam; - nếu vào ngày mậu kỷ sẽ có hại về nước trung-uơng; - nếu vào ngày canh tân, sẽ có hại về hướng tây ; - nếu vào ngày nhâm quí sẽ có hại về hướng bắc. Trong mặt trăng có sao lọt vào sẽ thua quân, chết tướng. Có mây trắng như rắn rít xuyên qua mặt trăng thì sẽ có tướng chết, quân thua. 15. PHÉP BÍ-MÂT XEM TRĂNG TRÒN KHUYẾT : Mặt trăng giống như tròn nhưng chẳng phải tròn, giống như khuyết nhưng chẳng phải khuyết, lặn mà chẳng lặn, ắt có gian-thần mưu phản. Mặt trăng giống như tròn mà chẳng phải tròn, bờ trên và bờ dưới đều bị khuyết, mọc tại Phù-tang, lặn tại Phù-tang, đó là điềm loạn-thần làm cho nước nhà bại-vong. 16. PHÉP XEM CÁC LOẠI NGUYỆT-THỰC : Binh chưa đánh mà đã gặp nguyệt-thực thì đến khi đánh, binh ấy sẽ được thắng lớn. Binh đang ở trong mà đã gặp nguyệt thực, điều ấy chủ về việc có tai ương. Mặt trăng đang tròn đầy mà bi ăn, điều ấy chủ về việc binh sẽ bị chết ở đồng nội. Mặt trăng bị ăn một bên thì tướng súy và bề tôi không còn giữ đạo. Mặt trăng bị ăn ở phía dưới thì công việc cửa tướng-quân mất phép-tắc, lề-lối. Nguyệt-thực mà có màu xanh thì ngũ-cốc trở nên quí-báu, híếm-hoi, thiên~hạ đói kém. Nguyệt-thực mà có mầu đỏ thì lúc khởi đầu lợi cho pbe khách. Nguyệt-thực mà có màu vàng thì có việc lập chư-hầu thành vương-quốc. Mặt trăng bị ăn hết thì sẽ có quân thua tướng chết. Hai mặt trăng cùng mọc thì thiên-hạ có loạn lớn. Mùa xuân bi ăn về phía đông, mùa hè bị ăn về phía nam,mùa thu bị ăn về phía tây, mùa đông bị ăn về phía bắc thì xứ gặp nguyệt-thực sẽ có điều lo buồn về việc binh. Mặt trăng đang bị ăn mà mọc lên thì chỗ đóng quân bi tổn hại, lại thêm nữa có sự mất mát đồ-đạc, tướng chết, binh tan. 17. PHÉP XEM MẶT TRỜI VÀ MẶT TRĂNG ĂN NHAU : Nguyệt-thực xảy ra vào ngày dần, ngày mão, thì lúa rẻ, nhândân chiu thiệt-hại, nên khởi binh trước, lợi chủ mà hại khách. Nguyệt-thực xảy ra vào ngày ngọ, ngày mùi, điều ấy chủ về việc có trâu ngựa chết, binh dấy loạn tại phía tây đánh về phía đông. Nguyệt-thực xảy ra vào ngày thân, ngày dậu, trong năm này có khí độc gây ra nhiều bệnh. Nguyệt-thực xảy ra trong ngày hợi, điều ấy chủ về việc thiếu-thốn ngũ-cốc. Nguyệt-thực xảy ra vào ngày tý, ngày sửu, điều ấy chủ về việc đói-kém, loạn-lạc. 18. PHÉP BÍ MẬT XEM ÂM DƯƠNG XÂM PHẠM NHAU : Đường mặt trăng mọc lên và đi theo là: - thanh-đạo về mùa xuân; - bạch-đạo về mùa thu; - xích-đạo về mùa hạ; - hắc-đạo về mùa đông ; - huỳnh-đạo trong bốn tháng 3, 6, 9, 12. Nếu đế-vưong trái đạo thì mặt trời và mặt trăng chạy trái đường, lấn âm, ôm dương, nên gọi là âm dương lấn nhau, thiên-hạ sẽ có loạn lớn. Nếu mặt trăng và mặt trời cùng đi ngang nhau, tbì có quan đại-thần âm-mưu nổi loạn. Nếu hai mặt trăng chọi nhau, điều ấy chủ về việc có hai vua tranh thiên hạ. Nếu mặt trời và mặt trăng chọi nhau điều ấy chủ về việc trong nước có đổ máu, thiên-hạ có loạn lớn. 19. PHÉP BÍ-MẬT XEM ÂM DUƠNG BỐN MÙA : Mặt trời có sắc trắng thì trong vòng chín ngày có rợ tây nhung xâm-phạm biên-giới. Mặt trăng có sắc trắng thì hiền-thần bi lao tù. Mặt trời có sắc đỏ thì có âm-mưu dấy loạn trong. nước. Mặt trăng có sắc đỏ thì loạn âm. Đây là cách xem nhật nguyệt, âm-dương chậy loạn : Mặt trời hè không theo nam-đạo, mặt trời đông không theo bắc-đạo thì trong vòng trăm ngày rợ man. (phía nam), rợ di (phía đông) sẽ xâm-phạm biên-giới. Mặt trăng đi về hướng bắc gọi là mặt trăng trương cung, thì có kẻ âm-mưu vào thành dấy loạn, bên ngoài giặc phiên. sẽ dấy binh xâm-đoạt nước trung-ương. 20. PHÉP BÍ-MẬT XEM SAO THÁI-BẠCH, THẦN-TINH : Sao mai gọi là Thần-tinh, sao hôm gọi là Thái-Bạch đều là một sao. Sao Thái-Bạch bi vầng sáng mặt trăng che khuất, điều ấy chủ về việc tướng súy phải chết. Sao Thái Bạch được mặt trăng chở ở trên, thì trong năm ngày sẽ có dấy binh. Tháng tám ngày mồng ba, sao Thái.Bạch đi sai đường về phía bắc thì sẽ có binh đánh nhau. Sao Thái-Bạch đi về phía bắc thì nước nhỏ rối loạn. Sao Thái-Bạch đi về phía nam thl nước lớn rối loạn. Sao Thái Bạch ở trong mặt trăng cũng được gọi là nguyệt-thực. Sao Thái Bạch là điềm xấu của nhà Vua. Sao Thái-Bạch mọc bên trái mặt trăng thì nước âm rối loạn, mọc bên phải mặt trăng thì nước dương rối loạn. Sao Thái-Bạch dính liền với mặt trăng thì trong ba năm có việc đao-binh, mất đất. Sao Thái-Bạch chạy vào mặt trăng thì tướng – quân phải chết. Sao Thái-Bạch bảy ngày không mọc thí sẽ có nạn đao-binh dữ-dội.. Nếu sao Thái-Bạch lên giữa trời mà sáng ra thl ba quân tan-vỡ, loạn-lạc. Nếu trên có một đế-tinh và dưới có một cá-tinh thẳng hàng với nhau thì các quan phản Vua. Nếu sao Thái-Bạch xuất hiện không đúng lúc thì Vua Tôi cùng khởi binh. Sao Thái-Bạch mờ tối thì chủ-tướng gặp việc xấu. Sách Cấm-Thư chép rằng : Thái-Bạch Thần-Tinh cùng một ngày mọc lên ở hướng đông, ắt có dấy binh ở hướng đông ; nếu cùng mọc lên ở hướng tây, ắt có binh dấy lên ở hướng tây. Nếu cùng mọc ở hướng đông mà không gần nhau, từ hai mươi tới ba mươi ngày không lặn vào hướng đông-nam thì có điều binh nhưng không đánh ; đến mùa xuân, mùa hạ sẽ có dấy binh. Thần-Tinh và Thái-bạch mọc ở hướng đông, gần nhau trong khoảng ba bốn thước thì từ bai mươi tới ba mươi ngày có binh đánh lớn. Thần-Tinh đi theo Thái-Bạch ở hướng đông thì có dấy binh ở khắp nơi, từ đó đến sáu mươi ngày sẽ có dấy binh ồ-ạt. Thái-Bạch từ Thần-Tinh đi ra thì lợi chủ. Nếu mọc ở hướng đông thì lợi cho việc đánh hướng tây,binh ở phía đông được thắng lớn ; nếu mọc ở hướng tây thì lợi cho việc đánh hướng đông, binh ở phía tây được thắng lớn. Thái-Bạch và Thần-Tinb cùng mọc ở hướng đông; Thái-Bạch mọc trước, Thần-Tinb theo sau rồi vượt qua Thái-Bạch mà đi trước thì xứ ở dưới có binh làm phản, không tới một năm sẽ thấy ứng-nghiệm. Thần-tinh mọc ra như tờ giấy mà Thái-Bạch chưa mọc thì tướng-quân phải chết; thấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ẩy có quân tan, tướng chết. Thái-Bạch mọc ở hướng đông, Thần-Tinh ở phía trước mà không mọc thì trong vòng năm mươi ngày có âm-binh dấy loạn trong nước. Thái-Bạcb có vầng sáng thì trong thiên-hạ có ân-xá cho kẻ phạm tội. Thần-Tinh có vầng sáng thì sẽ có dấy binh và mưa lụt. Vầng sáng của Thái Bạch và Thần-Tinh mà có ánh sáng màu vàng che khuất. thì sẽ có quân tan, tướng chết. 22. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO LÀNH : Sao Cảnh Tinh là sao đức-tinh. Sao ấy lớn có hình-đạng như nửa mặt trăng hiện ra vào ngày ba mươi, mồng một. Nước nào thấy được sao ấy thì gặp nhiều điều tốt lành. Sao Chu Tinh có sắc vàng, ánh sáng rực rỡ, nước nào thấy được thì gặp điều tốt lành, ai thấy được thì người ẩy gặp điều tốt lành. Sao Hàm-Dự sáng như sao Tuệ, nước nào thấy được thì gặp điều vui mừng, rợ man phía nam vào cống-hiến. 23. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO BẮC-ĐẨU : Bắc-đẩu có sao nhỏ thì thiên-hạ không yên, mọi việc chiến tranh cùng dấy lên. Bắc đẩu có khí đỏ xâm- nhập, điều ấy chủ về việc quân phải thua lớn, nếu cử binb g~p thì có hại. Nếu có mây trắng xâm-nhập, điều ấy chỉ về việc đổ máu nhiều. Nếu có mây như xà-mâu ăn vào, điều ấy chủ về việc có loạn lớn, nên ra ngoài. Nếu có mây hình-dạmg giống như con heo, điều ấy chủ về việc binh sợ-sệt vô cớ. Nếu có khí vàng tản-mác ở đông, tây thì không nên dấy binh động chúng. Nếu có vết đỏ, đầu lợt, đuôi đậm, điều thấy chủ về việc quân được thắng lớn. Nếu có màu đỏ lạt thì đại thần làm loạn. Nếu có mây ở phía đông và tây thì phe chủ cử đại-binh, phe khách nên lui về mà giữ. Nếu có mây đỏ xây thành bốn phía, điều ấy chủ về việc dấy binh lớn. Nếu hiện ra ban ngày thì xã-tắc không yên, bậc vương*giả gặp tai-biến. Nếu đang xoay trận mà đêm sau xem lại, thấy sao Bắc-đẩu có mây xuyên vào thì ba mươi ngày sau lại bị một lần lữa. Nếu đêm mồng một đầu năm có sắc hồng bọc quanh sao Bắc-đẩu, thì hai mươi ngày sau sẽ có tướng chết quân bại. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 9, 2011 24. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO KHÁCH Các sách Thiên văn đều nói: Chẳng phải thường được thấy mà tình cờ mới thấy được sao ấy trên trời, thì đó là sứ giả của Thiên Tinh Đại đế: sao ấy là then chốt của bí thuật xem điềm tốt xấu. Hoặc mọc ở hướng tây, hoặc nằm ở hướng đông. Nếu thấy sao ấy trong nhiều ngày thì có vỉệc to tát xảy ra mà lại có họa lớn; nếu chỉ thấy sao ấy trong ít ngày thì có việc xảy ra nhưng không quan trọng lắm mà tai họa chỉ nhỏ nhẹ mà thôi. Hoặc hình dạng biến ra sừng nhọn ắt là có âm mưu gây loạn; nếu sắc của nó mờ lạt, ắt là có binh nổi loạn. Nếu có sao (nhỏ) mà thấy nó có sắc trắng thì sẽ có việc binh đao xảy ra trong địa phận của nó ; nếu sao ấy có ánh sáng như gai nhọn thi xứ ở đỉnh bị quân tan, tướng chết, bị giặc lấn đất, đoạt ấp, thiên hạ loạn lớn. Hễ hằng ngày thấy sao ấy trên trời, không đúng vào giờ khắc nào cả, thì sao ấy gọi là sao khách. 25. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO CHỔI Ngày xưa kinh của họ Sở nói rằng: Sao Tuệ gọi là sao chổi, hoặc dài vài thước, hoặc dài một trăm thước, sao ấy hiện ra ắt có dấy binh. Khi nhà Vua sắp gặp tai họa mà sao chổi hiện ra, nếu sao ấy chỉ về hướng nào thì đánh thắng về hướng ẩy, chỉ vào ta thì ta gặp điềm xấu, chỉ vào người thì người chịu thất bại, đều phải phân biệt đia phận mà đoán. Sao chổi dài ba trượng thì việc xấu kẻo dài một năm, dài bốn trượng trở lên thì việc xấu kéo dài ba năm, dài một trăm năm mươi trượng trở lên thì việc xấu kéo dài bảy năm. Sao chổi hiện ra ắt là nước địch chịu việc binh biến. Sao chổi lớn thì tai họa lớn, sao chổi nhỏ thì tai họa nhỏ , đuôi sao chổi mà cong giống như lá cờ thì nhà Vua đẹp giặc bình định bốn phương. 26. – PHÉP XEM CHUNG NĂM SAO 1) Sao Tuế Tinh có ý nghĩa là hướng đông, là mùa xuân, là hành mộc, là đức nhân trong năm đức thường của con người (nhân, nghĩa, lễ trí, tín), là vẻ mặt trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính, tư). Đức nhân mà thiếu sót, vẻ mặt mà hư hỏng, thời tiết mùa xuân mà bị trái ngược, khí mộc mà bị tổn thương, ắt sẽ thấy sự trừng phạt. Sao Tuế Tinh là chủ đầu tiên của phước may. Về mùa xuân, được gọi là Nhiếp Đề; Về mùa hạ, được gọi là Trùng Hoa; Về mùa thu, được gọi là Ứng Tinh; Về mùa đông, được gọi là Kỷ Tinh. Sao Tuệ Tinh tượng trưng cho bậc có đức, muốn được thấm nhuần sự sáng suốt của người ấy. Bậc Vua của loài người mà có đức ắt là Tuế Tinh tới lui cùng thời với nhà Vua, nước ấy được phước may, không thể đánh nước ấy được. Bậc chúa loài người mà không có đức, ham thích việc chiến tranh, thì Tuế tinh cũng theo đó mà mờ tối, đổi màu làm cho tước vị bị tù hãm thất thường; nếu nhân đó tai ương xảy ra thì nước nhà sẽ gặp việc xấu … (*), điều ấy chủ về trong năm ấy, ngũ cốc và người sinh ra nhiều, nhà Vua sẽ trông nom đạo làm người ở khắp các nước chư hầu trong thiên hạ. Tuế Tinh ở vào nước nào, thì nước ấy được đức dầy, ngũ cốc tươi tốt, bậc chúa loài người sống lâu và gặp điều tốt lành. Nếu phước may xung khắc với Tuế Tinh thì có tai họa. Tuế Tinh ở yên ở các trung độ thì tốt lành; nếu mờ tỏ không chừng thì nước ấy có việc lo buồn, không thể bày việc và dùng binh. 2) Sao Oanh Cảm Tinh có ý nghĩa là hướng nam, là mùa hạ, là hành hỏa, là đức lễ (trong ngũ thường), là sự thấy. Lễ nghi và sự thấy mà thiếu sót, thời tiết mùa hạ mà bị trái ngược, khí hỏa mà bị thương tổn, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt. Sao ấy khiến cho công việc sai phép tắc, đi ra thì mất lửa, đi vào thì binh tàn, tan rã ở đất khách, nước nhà phải rối loạn. Sao ấy gây ra giặc giã, bệnh tật, chết chóc, đói kém, sao ấy ở đâu thì ở đó phải chịu tai ương. Nếu vành bọc quanh sao dao động, đổi màu và làm trở lại như thế, khi thì ở trước ở sau, khi thì bên trái bên phải, nước ấy càng chịu tai ương nhiều hơn. (*) Không nhận ra chữ nên không dịch được. 3) Sao Trấn Tinh có ý nghĩa là trung ương, là bốn tháng 3, 6, 9, 12, là hành thổ, là đức tín. Bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí đều lấy đức tín làm chủ. Vẻ mặt, lời nói, sự thấy, sự nghe đều lấy tư duy làm chủ. Bốn vị sao kia (Tuế Tinh, Oanh Cảm Tinh, Thái Bạch, Thần Tinh) đều mất đức tín nên báo điềm nước sẽ biến động, ắt bậc vương hầu không bình yên. Sao Trấn Tinh mà lu mờ, ắt là việc binh bất lợi. Sao ấy ở nước nào thì ở nước ấy được điều tốt lành. Sao ấy nằm vào được chỗ tốt thì đàn bà con gái được phước may, không thể đánh nước ấy được. Sao ấy không nằm được chỗ tốt thì đàn bà, con gái có điều lo buồn. Sao ấy ở yên không dời chỗ thì nước ấy có việc lo buồn. 4) Sao Thái Bạch có ý nghĩa là hướng tây, là mùa thu, là hành kim, là đức nghĩa, là lời nói. Trong năm việc (mạo, ngôn, thị, thính, tư), lời nói mà bị sai lầm, thời tiết mùa thu mà bị trái ngược, khí kim mà bị tổn thương, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt. Nhìn cách sao Thái Bạch lui tới để xem về việc binh; sao ở cao hay thấp, đi chậm hay mau, yên tịnh hay rối loạn, mọc hay lặn đều tượng trưng cho phép dùng binh. Nếu nói về điềm xấu, khi sao ấy mọc ở hướng tây mà đi sai lạc thì rợ di (phía đông) và rợ địch (phía bắc) sẽ bị thất bại; nếu mọc ở hướng đông mà đi sai lạc thì nước trung ương sẽ bị thất bại; nếu chạy dọc trên trời (theo phương nam bắc), đó gọi là rối loạn kỷ cương thì bậc vua chúa loài người phải chịu lưu vong; nếu ban ngày thấy sao ấy tranh sáng với mặt trời thì nước nhỏ mạnh, nước lớn yếu. 5) Sao Thần Tinh có ý nghĩa là hướng bắc, là mùa đông, là hành thủy, là đức trí, là sự nghe. Đức trí và sự nghe mà thiếu sót, thời tiết mùa đông mà bị trái ngược, khí thủy mà bị tổn thương, ắt là sẽ thấy sự trừng phạt. Sao Thần Tinh chủ về sự giết chóc, là khí sát phạt, là sao tượng trưng cho sự chiến đấu, quân đội ắt là bị hãm ở đồng nội. Sao Thần Tinh tượng trưng cho sự phòng bị của tướng súy; tướng tay không chẳng có quân lữ, đó là hình phạt dành cho tướng súy. 27. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO BĂNG Sao băng là sứ giả của Trời, từ trên rơi xuống gọi là lưu tinh, từ dưới chạy lên gọi là phi tinh, sao lớn gọi là bôn tinh, tất cả cũng đều là lưu tinh cả. Sao lớn thì có sứ mạng lớn, sao nhỏ thì có sứ mạng nhỏ. Nếu có nghe tiếng kêu, đó là tượng trưng cho sự giận dữ. Nếu chạy mau thì kỳ hạn đến gấp rút, nếu đi chậm thì kỳ hạn còn lâu. Nếu sao lớn mà không sáng, đó là việc của dân chúng; sao nhỏ mà sáng đó là việc của người tôn quí. Nếu sao khi ẩn khi hiện đó là công việc có thành có bại. Nếu sao trước lớn mà sau nhỏ thì có điều lo sợ; nếu sao trước nhỏ sau lớn thì có việc vui mừng. Nếu sao chạy ngung ngăng như con rắn thì có kẻ âm mưu làm việc gian tà. Nếu sao chạy băng qua mau, băng qua mà không kịp tới (rớt), đường băng dài thì việc lâu dài và quan trọng; đường băng ngắn thì việc mau chóng và không quan trọng. Sao băng rơi xuống nơi nào thì dưới nơi ấy có việc binh đao. Sao băng di chuyển mà bị ngăn trở thì có mưu sự xảy ra. Về sao băng, hãy xét ngày giờ, xem sao ở địa phận nào để mà luận : Màu xanh tượng trưng việc lo buồn, đói kém. Màu đỏ tượng trưng việc đao binh, khô hạn. Màu vàng tượng trưng việc vui mừng, việc sửa sang đất nước. Màu trắng tượng trưng việc đao binh, hình phạt. Màu đen tượng trưng bệnh tật, bệnh dịch, chết chóc, hỏa tai. Khi sao băng có ánh sáng giống như tấm vải, nếu là màu xanh thì có sứ các nước tới viếng, nếu là màu đỏ thì có việc đao binh, nếu là màu đen thì có việc chết chóc. Nếu sao băng rất lớn, ánh sáng chiếu xuống đất, màu xanh và mào đỏ túa ra bốn bên thì ngũ cốc mất mùa. Sao băng phạm vào mặt trăng hay triền mặt trăng mà ánh sáng đỏ hướng về phía mặt trăng thì thiên hạ không yên ổn. Khi gặp lưu tinh và bôn tinh, nếu dấy binh sẽ thắng trận. 28. PHÉP BÍ MẬT XEM SAO YÊU QUÁI 1) Sao Thiên Ngô: Cũng có tên là Giác Tinh, vốn thuộc về sao Tuệ tinh (sao chổi) nhọn dài bốn thước. Nếu mọc ở hướng đông bắc, thì chủ về việc tranh đoạt. Nếu sao tuệ (chổi) mọc ở hướng đông thì có tên là Thiên Cách thì nước ấy không thể cử sự, nếu dùng binh thì phải mất thành. Sao Thiên Ngô dài hơn bốn thước thì chủ về việc yêu quái nổi lên khuấy phá. 2) Sao Xi Vưu Kỳ (giống cờ giặc Xi Vưu đời vua Huỳnh Đế). Giống loại sao Tuệ (chổi) nhưng có đuôi cong như hình lá cờ. Hoặc hiện ra một mình giống như một đám mây đỏ, sắc của nó trên đỏ dưới trắng, sao ấy hiện ra ở hướng nào thì ở hướng ấy có binh dấy loạn. Sao Xi Vưu Kỳ mọc ra, chủ về việc đánh dẹp bốn phương. Lại có nói sao Xi Vưu Kỳ thuộc loại sao Oanh Cảm, nhờ có khí đỏ bồi đắp mà trở nên to lớn, sắc của nó chiếu ánh sáng xuống đất, tên của nó là cờ Xi Vưu, chủ về việc binh dữ dấy loạn, rợ man (nam) và rợ di (đông) xâm phạm biên giới. 3) Sao Nguyệt Hoàng: Hình nó lớn và có sắc đỏ, ở cách mặt đất chừng ba trượng giống như bó đuốc, chủ về việc bên trong có giặc giã, tai nạn, nơi nào thấy sao ấy thì có dấy binh, trong và ngoài đều gặp nạn đao binh. 4) Sao Chiếu Minh: Hình lớn mà không có sừng nhọn, khi thì lên cao khi thì xuống thấp, nước nào thấy sao ấy hiện ra thì chịu nạn đao binh. Sao Chiếu Minh có hình dài 3 thước, lại có thêm 3 sao ở trên, đó là loại sao Oanh Cảm. 5) Sao Tư Nguy: Có hình dạng như sao Thái Bạch, có 2 mũi nhọn như hai cái đuôi, mọc ở hướng tây, cách xa mặt đất sáu thước và có sắc trắng, đó gọi là sao Tư Nguy. Sao mọc ở hướng nào thì ở nơi ấy việc hành binh của phe chủ không được thuận lợi. 6) Sao Thiên Sàm: Mọc ở hướng tây, giống như một cây kiếm dài bốn, năm trượng, có tên là Thiên Sàm. Sao ấy mọc ở nơi nào thì ở nơi ấy có dấy binh, nước nào thấy sao ấy thì có loạn lớn. 7) Sao Ngũ Tàn: Mọc ra ở hướng đông, cách mặt đất chừng ba đến bảy thước, giống như mũi thương chĩa ra nên gọi là tàn, như có mũi nhọn dài ló ra. Ngũ Tàn có nghĩa là chia ra năm phần. Nơi nào có sao ấy thì phải chịu nạn hủy hoại, bại vong. Lại có nói sao ấy giống như lửa có màu đỏ hoặc màu xanh. Sao Ngũ Tàn xuất hiện ở nơi nào thì ở nơi ấy có nạn binh đao, nhà tan nước mất. 8) Sao Trường Canh: Giống như tấm vải dính vào da trời, nơi nào thấy sao ấy thì có dấy binh gây loạn. 9) Sao Thiên Tặc: Mọc ra ở hướng nam, so ấy lên cách mặt đất sáu thước và có màu đỏ, dao động mà chiếu sáng, đó gọi là sao Thiên Tặc. Nó mọc ở hướng nào thì dưới hướng ấy có dấy binh gây loạn, đất ấy phải bại vong. 10) Sao Cuồng Thỉ: Giống như sao băng có hình mũi tên, màu xanh đen, đi như con rắn, trông như có sừng, dài chừng vài thước. Thấy nó ắt là có binh mưu phản nhân cơn loạn mà gây loạn. Lại có nói rằng khi gặp sao Cuồng Thỉ thì quân sĩ sinh ra nhát sợ, binh Tần phải thua, Hạng Vũ chấp chánh. Nơi nào thấy sao Cuồng Thỉ xẹt xuống hướng tây thì đó làm điềm diệt vong. 11) Sao Thiên Cẩu: Hình dạng của nó giống như chó chạy, có sắc đen vàng và có tiếng kêu, phía trên giống như con chó. Sao ấy rơi vào xứ nào thì xứ ấy trông như có ánh lửa rực rỡ xông lên trời, trên nhọn, dưới tròn mà nghiêng về một bên, giống như sao Điền Tinh mà có lông, một bên có sao chổi ngắn, phía dưới có sao Cẩu Tinh mọc ra có ánh sáng màu đỏ, trắng, tức đó là sao Thiên Cẩu. Lại có nói rằng sao băng có ánh sáng, thấy rơi xuống mà phát ra tiếng kêu, có chân (*) màu trắng, ở giữa màu vàng giống như hình con chó, chủ về việc có dấy binh, giặc tới phá quân giết tướng, đổ máu ngàn dặm. Nó có một tên thứ nhất là Lưu Tinh, một tên thứ hai là Doanh Đầu Tinh, đó cũng là sao Thiên Cẩu. 29. PHÉP BÍ MẬT LUẬN VỀ TÁM SAO YÊU QUÁI Sách Binh Pháp nói rằng: Thần nhân ban cho sách lạ về sao yêu quái, thế gian thường chẳng được thấy. Nếu lại sao ấy hiện ra thì không thể không xem xét; nước nào có sao ấy hiện ra thì quan Tư Thiên Giám phải quan sát kỹ. Theo phép này nếu sao đeo theo mây mà xuất hiện thì rất khó mà đo lường. Thứ nhất: Mao Đầu Tinh: Hình của nó dài như măng tre. Giữa ngày so hiện giống đầu lông, Nước chủ đang yên bỗng bận lòng Sao hiện không đầy ba tuần nhật, Nước sinh tai biến phải long đong! Thứ hai: Đới Tinh: Sao ấy dài thẳng một đường, trên dài ba phân, dưới dài một phân. Treo kiếm bên trời, ấy tướng quân, Đới ra nhất định dấy đao binh, Ban ngày sao hiện, binh nên tiến, Thấy ở nơi nào, ấy giặc sanh! Thứ ba: Thương Ngân Tinh: Khí của nó hợp thành một đường đâm xuyên qua mình nó và chui qua thẳng. Sao cặp một đường ngó giống thương, Xuyên hẳn qua sao thật lạ thường, Hiện ra không quá ba tuần nhật, Binh dấy đồng thời khắp bốn phương. Thứ tư: Trương Cung Tinh: Nó dài một đường như hình cung giương. Hình sao trông giống chiếc cung giương Chủ tướng tới lui phải hiểu thông Sao hiện trước nhà binh dấy động, Hưng binh đánh trước mới thành công! Thứ năm: Thần Xoa Tinh: Trên có ba đường, dưới có một đường. Thấy được Thần Xoa thật ít khi, Gặp thời sao hiện, chủ thiên di, Hiện ra không quá trăm ngày chẵn, Máu chảy tràn trề, nước loạn ly! Thứ sáu: Trường Canh Tinh: Có hình như sợi tơ thòng xuống, có khí trắng. Một làn khí trắng giống đường thương, Sao hiện nơi nào, đấy nhiễu nhương, Giữa ngày sao hiện như mây lụa, Nước phải kinh hoàng chịu họa ương. Thứ bảy: Phao Giáng Tinh: Có đám mây giống như đầu người. Hình mây trông chẳng khác đầu lâu, Sao hiện nơi nào chúa phải sầu, Hiện ra chẳng đợi qua hai tháng, Ma quỷ hại người, đổ máu nhiều. Thứ tám: Đảm Kỳ Tinh: Giống như mây, dài như lá cờ trương ra. Sao yêu xuất hiện trải cờ ra, Biên ải man di quấy nhiễu ta, Hiện ra chẳng quá ba tuần nhật, Thây chết đầy đồng, ngửi thối tha. 30. PHÉP XEM SAO YÊU QUÁI HIỆN RA BAN NGÀY Sao hiện ra ban ngày, hình giống như cây cối, chủ về việc có đao binh và đổ máu. Nếu ban ngày có hai sao hiện ra thì thiên hạ sẽ đổi đời. Nếu ba sao hiện ra thì rợ di (phía đông) và rợ địch (phía bắc) xâm phạm biên giới. Bốn sao hiện ra thì vua tôi âm mưu dấy loạn. Năm sao hiện ra thì nước ngoài xâm đoạt nước trung ương. Một sao hiện ra vào tháng tám ban ngày thì nên phòng ngừa kẻ gian tà mưu sự. Nếu sao xẹt một bên thì chủ về việc có đánh lớn, đổ máu. Nếu sao quay đuôi lại, xẹt xuống một bên thì chủ về việc mất nước. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 9, 2011 31. – PHÉP XEM TƯỢNG TRỜI KHI HÀNH QUÂN A. Một là khi gặp trời đất tối tăm, sương mù mờ mịt, gió tung cát bụi, cờ xí không thấy rõ, chiêng trống nghe không được, thì không thể xuất binh. Nếu có giặc thừa lúc tối tăm ấy kéo kỵ binh kiêu dũng, dời quân đến đánh ta thì ta ắt phải dặn dò đôi ba phen, ước thúc ba quân, giữ kỹ dinh trận, không cho loạn động, chỉ dùng các vật ngăn chận, bia, phên để đón đỡ tên và đá bắn tới, dùng cung mạnh nỏ cứng ngồi nấp mà bắn giặc. Ta chờ đến khi giặc giải đãi thì thừa dịp bên địch tối tăm hỗn loạn, ta xua sĩ tốt mạnh dạn lén đi ra mặt sau quân địch để chận ngang đường rút lui cùng các chỗ hiểm yếu, bấy giờ ta đánh thì có thể bắt được chúng. B. Một là khi gặp trời đất mưa gió tối tăm… sương mù mờ mịt tất cả bốn phía, thì không thể tiến binh, cũng không thể dời trại, vậy nên giữ kỹ dinh trại, để phòng ngừa sĩ tốt biến loạn hoặc giặc ở ngoài tới đánh. C. Một là khi gặp gió to, mua lớn, lạnh nhiều, nắng gắt, không thể ra binh đánh dẹp, vậy nên vỗ về giúp đỡ quân sĩ, giữ vững dinh trại, tất nhiên giặc cũng không thể ra binh. Nếu binh ta đi đường mà thình lình gặp giặc thì nên lập gấp dinh trận để chờ khi trời tối và chờ lúc thế giặc suy giảm. Bấy giờ ta gắng tìm phương sách hay, xét thời trời, thăm dò chỗ sơ hở của địch. D. Một là gặp khi tuyết đổ mờ mịt, trong vòng trăm bước không thấy người ngựa, trong trường hợp ấy thường thường giặc đặt kỳ binh nấp ở nơi hiểm ải để chờ đánh ta vào lúc vô ý. Nếu ta ra quân đối ứng với giặc thì chúng sẽ giả vờ thua chạy mong rằng ta đuổi theo để dẫn dụ ta vào chỗ chúng đang phục binh. Theo cách tự nhiên, ta trước hết nên chọn năm bẩy tỳ tướng, vài mươi đội tỉnh kỵ, chờ khi giặc tới bốn phía tả hữu trước sau, cho quân đến dẫn dụ ta, hoặc dùng quân tỉnh kỵ bày trận thế xông vào đánh ta, tức thời từ đằng sau quân ta, ta khiến hai viên tướng đi ra, góp kế di chuyển và ứng biến với nhau, đem người ngựa đi vòng quanh, tìm đường về của ngựa giặc, rồi dò xem có phục binh hay không tại các nơi hiểm ải trên đường về ấy. Nếu ta có tức thời chia binh ra hai ba nhóm, thay phiên nhau mà đánh thì giặc phải thua chạy. Nếu giặc đến đánh ta trước, bên ta đầu đuôi chẳng thấy nhau, như thế quân ta phải rời khỏi chỗ mà giặc đặt phục binh, rồi đem nhuệ binh quay ngược lại đánh ngang vào hông giặc. Bấy giờ đám giặc đến đánh ta không biết rằng bên kia phục binh đã thua chạy, ta bèn sai một toán tỉnh kỵ, vừa đánh vừa lui, thay phiên nhau bọc đánh đích, chờ giặc đi vào chỗ ta phục binh, ta liền đem đầu đuôi giáp lại thì có thể cầm bắt toàn thể quân địch. Đó là chỉ giảng sơ lược về trường hợp toàn quân đang giao thông, phải biết tùy lúc gấp hay hoãn mà ứng đối. Đ. Gặp cơn tuyết lớn bay mịt mù như vậy, nếu ta có cung cứng, ngựa hay, người mạnh thì việc xảy ra tầm thường không quan-trọng. Khi đi săn bắn chơi, còn phải xem trời mây huống hồ là hai toán quân tranh nhau thắng bại, muốn thâu lợi lớn về phía mình. E. Sau cơn tuyết lớn, khi biết là bộ binh của ta khó tiến, quân giặc bèn lập mưu lạ đem nhiều tinh kỵ tới bốn phía chung quanh dinh lũy của ta, khiêu chiẽn để dẫn dụ quân ta, hoặc dùng tinh kỵ chạy qua chạy lại xung phong vào quân ta. Nếu ta đem binh ra, tức thì giặc phân binh tứ tán, đầu đuôi hiệp lại để tới đánh ta, một là đánh dinh trại của ta, một là chận đường lương thảo của ta, ngăn cho hai đầu đuôi của ta không cứu ứng nhau được. Nếu đúng như thế, quân ta ngăn rào cho kỹ mà đừng đi ra, chờ giặc đem binh mạnh tới đánh, ta bèn dùng cung nỏ cứng, loại nỏ sàng tử, cái thì bắn ở trên, cái thì bắn ở dưới. Khi thế giặc đã yếu, không còn chí chiến đấu nữa, ta có thể đem toàn quân ra bắt giặc. G. Một là ngày mới ra quân, nếu có mưa nhỏ gọi là mưa nhuận binh, ắt sẽ có thắng lớn. Nếu có mưa lớn gọi là mưa mộc thi (thây gỗ) thì phải chọn ngày khác để tiến binh. Việc tuy gấp rút cũng không thế tiến binh được bởi vì thời trời chưa thuận, chỉ tổn hại nhân mạng và khí cụ mà sĩ tốt lại không đẹp lòng. H. Một là gặp cơn gió lớn thổi tung cát bụi thì không thể tiến binh đánh dẹp. Nếu binh đang đi đường thì nên tìm ngay tại đó có chỗ nào tiện lợi để lập dinh trại, chỉnh đốn binh mã. Nếu phía truớc bỗng gặp phục binh đánh cắt đứt quân ta, hoặc có đánh lớn, đó là điềm cho biết ý trời không thuận cho sự ra binh. Nếu đóng dinh trại ở đồng ruộng thì nên dặn dò quân sĩ hai ba lần hãy giữ vững dinh trại để phòng ngừa giặc theo chiều gió đến la ó mà đánh đinh trại của ta. Nếu ta lập trận đã xong mà có gió ấy thì cũng không đánh mà nên giữ vững. I. Một là gặp mặt trời và mặt trăng hơi bị ăn, thì không nên tiến binh đánh dẹp, mà chỉ ra lệnh cho ba quân giữ gìn chắc chắn để phòng ngừa giặc đến đánh. K. Một là quân đang đi đường, gặp nhiều ngọn gió lớn xáp nhau, đập vào nhau, khi thì thổi khi thì nghỉ, bấy giờ phải sợ giữa đường có phục binh đánh, vậy nên đề phòng. L. Một là gió đập vào mặt người thì không nên tấn binh. Nếu khi phát binh đi trên đường thì gập gió thuận thổi, khi đi được nửa đường hoặc trở về thì gặp gió nghịch thổi, bấy giờ nên lập đinh trại ngay tại đó. Nếu cứ tiến binh, ắt sẽ gặp phục binh. Nếu gặp giặc phải đánh, mà có gió nghịch không phân lớn nhỏ thì không nên giao chiến mà nên giữ vững.Vì đạo trời chưa thuận nên phải thế. M. Một là khi mới phát binh, gió mưa chẳng có, đi được nửa đường, bỗng có đánh lớn, và có mưa to gió lớn, thì nên chọn gấp chỗ lập dinh trại để giữ vững mà chớ nên tiến binh. Nếu cứ đi tới ắt có huyết chiến. N. Một là quân đang đi trên đường hay đang đóng dinh trại ở đồng nội, mà gặp mưa to gió lớn, tuyết rơi sương mù, tối tăm mờ mịt thì không nên tiến binh dẹp giặc. Nên vỗ về sĩ tốt để giữ vững là hơn hết. O. Một là quân đang đóng dinh trại tại đồng nội, chỉ có điềm trời là sắc mây, móng trời, sao băng sa xuống, đất cát thay đổi, chim bay, thú chạy, có giống vật lạ chạy vào dinh trận cắn quân lính, thì nên bói đề tìm hiểu. 32.- PHÉP XEM SƯƠNG RƠI ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI Hễ về tháng ba mùa hạ, dương-khí tới mà bỗng nhiên sương rơi xuống lộp độp làm cho đầu cành cây ẩm ướt, ắt sẽ có binh dấy lên từ phương bắc, đến lấy nước, phá thành. Chủ nên phòng bị vực binh. Ngày xưa, hiền thần Trâu Diễn nước Yên bị giam trong ngục, trời bèn giáng sương vào tháng ba thì không tới một tuần, có binh dấy ở phương bắc. 33.- PHÉP XEM MƯA TUYẾT Tuyệt là tinh túy của mưa móc không phải do trời mà khởi, không phải do đất mà sanh, mà chính do việc binh của nước mà ứng. Mùa đông sinh tuyết thì thuận, mùa hè sinh tuyết thì nghịch. Vào tiết hạ chí mà tuyết bay ngàn dặm thì có dấy binh ở biên giới phía bắc. Chủ nên phòng bị. 34.- PHÉP XEM MÓC RƠI ĐỂ ĐOÁN THỜI TRỜI Móc là do âm khí kết lại mà thành, nó đông lại như mỡ, trông đẹp đẽ như kẹo. Nếu được như vậy, thì thuận lòng trời, binh sẽ gặp điều tốt lành. Nếu lạnh nhức xương, tê da, ắt sẽ nghịch lòng trời, hành quân sẽ đại bại. Móc cũng có tên là “rượu của trời”. Ngày xưa, người ta tin rằng Vua Hán Võ Đế được thần tiên dùng tay hứng cho mà uống, chắc phải có lợi gì. 35.- PHÉP XEM MƯA GIÓ NGÀY MỒNG MỘT Ngày mồng một tháng giêng mưa to, gió lở, thổi cát bụi bay lên, làm tróc nóc nhà, chủ về việc tơ lụa hiếm hoi, nghề tằm thất bại, lúa mất mùa. Ngày mồng một tháng hai có mưa thì tơ xấu, mất mùa lúa. Ngày ba mươi mà mưa thì dân gặp nhiều tật bệnh, chết chóc nhiều và gặp việc dữ. Ngày mồng một tháng ba có mưa gió thì có nhiều bệnh, có sâu lúa sinh ra, hai thứ lúa mì lớn nhỏ đều không chín, nhân dân chịu sầu khổ. Ngày mồng một tháng tư có mưa gió thi lúa mì xấu, gạo trở nên đắt đỏ. Ngày ba mươi có mưa lớn thì có bồ cào (sâu keo) gieo nạn dữ. Ngày mồng một tháng năm có mưa gió thì trâu bò trở nên đắt đỏ. Trong năm ấy nhân dân sẽ đói kém, trở nên sầu oán và sẽ có dấy binh. Ngày mồng một tháng sáu có mưa gió thì lúa gạo trở nên hiếm hơi đắt đỏ. Ngày mồng một tháng bảy có mưa gió thì lúa gạo trở nên đắt đỏ, nhân dân không yên ổn, thiên hạ loạn lớn. Ngày mồng một tháng tám có mưa gió thì đất âm có nhiều vải và lúa mì, khan hiếm gạo và dầu mè. Ngày mồng một tháng chín có gió mưa thì hột mè khan hiếm cho đến xuân hạ năm sau. Ngày mồng một tháng mười có gió mưa là chủ về việc có khô hạm, hột mè khan hiếm. Ngày mồng một tháng mười một có gió mưa thì việc binh gặp nhiều tai nạn. . Ngày mồng một tháng chạp có gió mưa thì mùa xuân bị khô hạn, mùa hè bi lụt lội, gạo lúa trở nên đắt đỏ. NGÀY LẬP ĐÔNG: Vào giờ tý, giờ sửu, nếu ở hướng bắc có mây trắng hình dạng như chim thì ở dưới hướng ấy trong năm tới, vào tháng tư sẽ có việc đao-binh. Nếu mây trắng có hình-dạng giống như Hồ-binh bày trận tiến binh thì năm tới vào thắng bảy xứ ấy sẻ nòi loạn. Hễ nghe có loạn thì phải chuẩn-bị gấp rút việc binh-mã . MỘ BINH 36.- TUYỂN MỘ Đặt ra ba bậc đề tuyển mộ tráng sĩ. Từ quan lại trở xuống, đều phải cử người mà mình biết rõ. Những kẻ giặc cướp thi để vào bậc trên, những kẻ đả thương hoặc trộm cắp cho vào bậc thứ hai, những kẻ không lo việc nhà thì cho vào bậc dưới. Khiến nhóm họp các tướng và để 300 cỗ xe ngựa cho họ dùng, rồi tuyển mộ quân cảm tử để hầu hạ họ: nếu không phá được địch, cũng không đến nỗi mất nhuệ khí. 37.- BINH MẠNH Trong phép chiến thắng có 5 việc cốt yếu: 1) Sắp sẵn bào giáp, binh khí. 2) Lo kiếm người, ngựa. xe cho đủ. 3) Chứa trữ nhiều. 4) Huấn luyện sĩ tốt. 5) Chọn tướng giỏi. Năm việc trên đã chuẩn bị xong rồi mới có quân đội mạnh mẽ được. 38.- CHỌN BINH ĐỂ TẬP LUYỆN Binh cần tinh nhuệ chớ không cần nhiều. Nên chọn những kẻ khoẻ mạnh mà dùng chớ chọn những kẻ ốm yếu để khoe số đông. Những hạng có thể thâu nạp để huấn luyện là những kẻ: 1) Có nhiều anh em. 2) Không cha mẹ. 3) Tuy đơn độc nhưng có con nối dõi, 4) Nhà tuy nghèo nhưng có tài sức mạnh khoẻ. CHỌN TƯỚNG 39.- XÉT TƯỚNG Muốn biết nguời nên xét tám chứng cớ sau này: 1) Thứ nhất là hỏi họ, buộc họ phải trả lời để dò xem kiến thức tường tận của họ. 2) Thứ hai là lấy lời gạn hỏi họ để xem tài ứng biến của họ. 3) Thứ ba là dùng gián điệp dò xét họ để xem lòng thành thực cửa họ. 4) Thứ tư là buộc họ giảng giải rõ ràng để xem đức độ của họ. 5) Thứ năm là dùng tiền của mà sai khiến họ để xem tánh liêm khiết của họ. 6) Thứ sáu là dùng sắc đẹp mà thử họ để xem lòng trinh chính của họ. 7) Thứ bẩy là đem việc khó mà bảo họ để xem lòng dũng cảm của họ. 8) Thứ tám là cho bọ uống rượu say để xem thái độ của họ. 40.- DÙNG TƯỚNG Hỏi: Nếu có một viên tướng mạnh dạn, một viên tướng cơ trí phải dùng họ như thế nào mới được? Đáp: Tướng mạnh dạn thì có tài đánh phá chỗ kiên cố của địch, vây hãm trận địch, có tướng mạnh thì có thể gây nên thế mạnh. Về việc lo liệu đối phó với quân địch, sắp đặt kế hay, tùy cơ ứng biến, nếu không có tướng cơ trí thì không thể làm được. Nếu tướng chỉ cậy dõng cảm mà thôi thì phải thua mưu trí vậy. Cho nên ngày xưa, xây đàn, lên đài, đẩy trục xe (*), ắt phải tìm mời tướng súy có cơ trí để làm chỗ trông cậy cho người tướng mạnh dạn. Do đó người làm chủ tướng không cần phải biết phép thuật, đánh gươm cưỡi ngựa, bắn cung, mà cần phải hiểu biết thông suốt các việc xưa nay. Vậy phải giao trách nhiệm chỉ huy cho ai? Muốn biết một viên tướng là tài giỏi hay ngu tối, ta phải thử thách họ để coi họ động lòng hay không. 41.- CÁCH ĐỐI PHÓ VỚI TƯỚNG NGU TỐI CỦA ĐỊCH QUÂN Thử thách mà động lòng đó là hạng tướng ngu tối. Tướng ngu tối thấy lợi thì động lòng, khinh thường quân địch nên động lòng. Về phương pháp đối phó, ta nên dùng hai cách phỉnh gạt sau này để bắt tướng ấy: - Đối với tướng tham lợi, ta dùng mồi nhử để bắt họ. - Đối với tướng coi thường đối phương, ta giả vờ khiếp nhược để câu nhử thì có thể bắt được họ. 42.- CÁCH ĐỐI PHÓ VỚI TƯỚNG GIỎI CỦA ĐỊCH QUÂN Thử thách mà không động lòng, đó là hạng tướng tài giỏi. Tướng tài giỏi, có mưu trí đầy đủ nên không động lòng, có pháp thuật đầy đủ nên không động lòng. Về phương pháp đối phó, ta nên dùng hai cách giúp thêm sau này để chống chọi. - Khi hai bên dùng trí đấu nhau, mưu-trí của ta không hơn được mưu trí của địch, thì ta dùng pháp thuật giúp thêm vào, để che ngăn chỗ sơ hở khi địch nhân lúc ta thua trí mà đánh vào. - Khi hai bên dụng phép thuật để đánh nhau, mà phép thuật của ta không hơn được phép thuật của địch, thì ta dùng mưu trí giúp thêm vào, để ngăn ngừa sự biến loạn, khi địch thừa dịp ta sơ hở về phép thuật mà đánh vào. 43.- CHIẾN LƯỢC Đây là mưu đánh. Khi giao binh, nếu muốn biết tình trạng hư thực của địch, ta hãy làm cho người lộ hình tích mà giữ cho ta vô hình. Ta làm cho người bộc lộ tình trạng hư thực, đánh vào chỗ sơ hở của họ mà thành ra đánh được chỗ vững bền của họ. Nếu ta đánh vào chỗ vững mạnh của địch, ắt là ta sai lầm, nếu ta đánh mạnh vào chỗ sở hở của địch thì ta được vững mạnh, sai lầm ở trên là bởi lẽ đó. Sâu kín đến nỗi trở nên vô hình, giấu kỳ ở trong chính, giấu chính ở trong kỳ, lấy kỳ làm chính, lấy chính làm kỳ. Phép đánh là dùng chính để hợp, dùng kỳ đề thắng, phép chiến thắng không ra ngoài kỳ chính, cách biến hóa của kỳ chính không bao giờ hết được. Kỳ và chính sinh ra nhau như vòng tròn không có đầu múi. Xét hư thực, hiểu rõ đâu là vững chắc đâu là sơ hở, khéo dùng phép kỳ chính, đó là ba vật báu của binh pháp. Biết mình biết người, trăm đánh trăm thắng. Nuôi khí lực của dân, định tâm chí của quân, đó gọi là biết mình. Xét tình hình quân địch, đó gọi là biết người.Việc ấy có ba điều trọng yếu, phát xuất từ ba căn bản, tại sao thế? Theo phép cầm binh thì “dụng” bên ngoài khoan nghiêm không chừng, nhưng “thể” bên trong phải nghiêm, cho nên binh gia và pháp gia phụ giúp cho nhau; hình trạng bên ngoài thì động tĩnh vô thường nhưng phải lấy tĩnh làm chủ, cho nên binh gia và âm phù gia (pháp sư) phải nhờ cậy nhau. Việc hình pháp không cần phải kiêm thêm việc binh, nhưng trái lại việc binh chưa bao giờ khỏi kiêm thêm việc hình pháp; pháp thuật không cần dùng binh mã, nhưng binh gia chưa bao giờ khỏi dùng pháp thuật. Cho nên mới nói rằng: ba điều trọng yếu do ba căn bản. Dùng sở trường của các nhà rồi suy tính lợi hại, như thế mưu lược sẽ được hoàn bị. 44.- CÁCH DÙNG TƯỚNG Hỏi: Phép dùng tướng như thế nào? Đáp: Tại một việc cơ quyền mà thôi. Tướng nói có thể dùng dân thì phải dùng, tướng nói không thể dùng dân thì không dùng. Tướng nói có thể dùng binh thì phải dùng, tướng nói không thể dùng binh thì chớ dùng. Tướng nói có thể đuổi đánh quân địch thì phải đuổi đánh, tướng nói không thể đuổi đánh thì chớ đuổi đánh. Như thế quân pháp không rối loạn, cơ quyền không bị cản trở. Nhưng muốn biết dùng tướng, trước hết phải biết chọn tướng. Muốn biết chọn tướng, trước hết phải biết xét tướng. Ba việc hiểu biết ấy đem lại quyền năng thần diệu cho tướng súy, cho nên không thể không xem xét cẩn thận. Phép khiển tướng, dùng binh như thế đầy đủ rồi sao? Tuy nhiên theo Tôn Ngô thì phải lo đánh thành, còn theo lời Mạnh Tử, Tuân Tử thì chưa được. Vì sao nói thế? Đáp rằng: Kế hoạch căn bổn đã mất nên mới dùng Tôn Ngô, đó chỉ là búa rìu dùng để đẽo gọt nước nhà. Bên ngoài dữ ác, bên trong đẽo gọt thì cơ mất nước chỉ còn kiễng chân mà mong chờ. 45.- CHIẾN LƯỢC Việc cốt yếu trong khi đánh giặc là trước hết xem xét tài năng của tướng địch, tùy theo hình thế mà dùng cơ quyền, ắt là không mệt nhọc mà được thành công. Tướng địch ngu ngốc mà lại tin người thì ta có thể hứa hẹn để dẫn dụ. Tướng địch tham lam mà không cầu danh thì ta có thể dùng tiền mà hối lộ. Nếu tướng địch nhẹ dạ vô mưu, thì ta có thể làm cho phải vất vả, khốn đốn. Bên địch trên giàu mà kiêu căng, dưới nghèo mà oán hận thì ta dùng mẹo ly gián. Bên địch tới lui ngờ vực, dân chúng không biết trông cậy vào đâu, thì ta làm cho chúng rúng động rồi đuổi đánh chúng. Bên địch sĩ tốt khinh tướng súy mà có bụng muốn trở về, thì ta ngăn chận lối đi dễ, mở thông lối đi khó rồi đón đánh thì cầm bắt được. Bên địch đường tới dễ đường lui khó thì ta vời chúng đến mà đánh, bên địch đường tới khó đường lui dễ, thì ta đến gần chúng mà đánh. Địch đóng quân ở chỗ ẩm thấp, nước không có chỗ chảy thông, trời mưa dầm lâu ngày thì ta có thể khơi nước chảy vào để chúng bị chết đuối. Địch đóng quân ở chốn đồng hoang, lau cỏ um tùm, khi có gió mạnh ta dùng lửa để đốt chúng chết cháy. Địch đóng quân lâu ngày ở một chỗ, tướng sĩ biếng nhác, quân ấy không phòng bị, ta có thể ẩn nấp mà đánh úp. 46.- CÁC HẠNG TƯỚNG SÚY Tướng súy có nhiều hạng: - Có tướng nho nhã - Có tướng mạnh dạn - Có tướng khôn lanh - Có tướng tài giỏi. Tướng nho nhã thì có mưu trí Tướng mạnh dạn thì đánh mạnh Tướng khôn lanh thì biết ứng biến Tướng tài giỏi thì có nhiều khả năng. Nếu tướng gồm kiêm được hết thì không việc gì mà không thần diệu, nếu tướng biết phòng bị thì không có việc nào bất lợi. 47.- HÒA MỤC Hòa mục là giềng mối chính của sự trị an. Trong nước hòa mục thì việc binh tốt đẹp. Lính đồn thú ngoài biên cảnh hòa mục thì không có việc kinh sợ. Nếu bất đắc dĩ mới đặt giới cấm thì sự hòa mục càng được quí trọng. Vua tôi hòa mục sau mới chuyên dùng. Tướng văn tướng võ hòa mục sau mới thành công. Tướng sĩ hoà mục sau mới nhắc nhở công lao của nhau mà tưởng thưởng, khi gặp nguy nan mới cứu viện nhau. Vậy sự hòa mục là đường lối tốt đẹp bất đi bất dịch cửa phép trị quốc hành binh. 48.- TRỌNG THƯỞNG TƯỚNG SÚY Tướng súy đánh trống, phất cờ, khi gặp nạn thì quyết tử chiến, xông pha gươm dáo, chống chọi nổi với địch thì được thưởng công, nêu danh, thua địch thì binh chết nước mất. Như thế vấn đề còn, mất, yên, nguy chỉ tùy thuộc vào một mảy tơ hào, do đó không thể không trọng thưởng tướng súy. 49.- TÀI DỨC CỦA TƯỚNG SÚY Tài đức của tướng súy kẻ ít người nhiều chẳng giống nhau. - Che giấu điều gian tà, chứa trữ tai họa, chẳng biết dân chúng hờn oán, đó là tướng coi 10 người. - Siêng năng cần mẫn, nói năng kín đáo rõ ràng, đó là tướng coi 100 người. - Ngay thẳng mà biết lo âu, mạnh dạn mà biết chiến đấu, đó là tướng coi 1000 người. - Ngoài mặt mạnh mẽ, trong lòng hăng hái, hiểu rõ điều lao khổ của người, thương xót cảnh đói rét của người, đó là tướng coi muôn người. - Gần hiền, cử tài, được một ngày thì cẩn thận một ngày, thành tín, rộng lượng, sửa trị việc rối loạn mà vẫn thanh nhàn, đó là tướng coi 100 ngàn người. - Nhân ái đối với người dưới, dùng tín nghĩa để hàng phục nước láng giềng, trên hiểu thiên văn, dưới thông địa lý, giữa rõ nhân sự, coi người trong bốn biển như trong một nhà, đó là tướng-súy của tất cả thiên-hạ, không ai có thể đối địch lại được. 49.- THỜI TIẾT Việc điều binh khiển tướng là việc lo sợ của binh gia vậy nên cần chờ mặt trời, mặt trăng (ngày, tháng thuận lợi) để được thành công. 50.- PHÉP LẬP ĐÀN Lập đàn 3 tầng cao 3 trượng để tượng trưng tam tài, rộng 24 trượng để tượng trưng 24 khí. Giữa đàn có 25 người đứng, mặc áo vàng, tay cầm cờ vàng, đuôi báo, trấn giữ ở giữa cung mậu, kỷ, thổ đề tượng trưng việc chỉ huy trận hình Phía đông đàn có 25 người, mặc áo xanh. tay cầm cờ xanh, trấn giữ hướng đông, giáp, ất, mộc để tượng trưng thanh long (rồng xanh). Phía tây đàn có 25 người, mặc áo trắng, tay cầm cờ trắng, trấn giữ hướng tây, canh, tân, kim để tượng trưng bạch hổ (cọp trắng). Phía nam đàn có 25 người, mặc áo đỏ, tay cầm cờ đỏ, trấn giữ hướng nam, bính, đinh, hỏa để tượng trưng chu tước (phượng đỏ). Phía bắc đàn có 25 người, mặc áo đen, tay cầm cờ đen, trấn giữ hướng bắc, nhâm, quý, thủy để tượng trưng huyền võ (rùa đen). Chung quanh đàn có 365 người cầm cờ đủ mầu để tượng trưng vòng trời 365 độ Như thế là đầy đủ. Đại tướng theo phương sinh khí, lên đàn bái tướng tế trời đất, đóng giữ sáu nhung(?), sắp đặt mà dùng. Bên trái và bên phải có các quan văn võ đứng hầu, nếu có ai làm huyên náo hoặc đứng sai hàng lối thì sẽ có quân pháp trừng phạt. 51- TRAO MỆNH CHO TƯỚNG SÚY Việc yên nguy của xã tắc đều tùy thuộc vào một người chủ tướng nên mới khiến quan Thái Sử giữ trai giới ba ngày, đến Thái Miếu bói ở mu rùa để chọn ngày tốt trao rìu búa. Vua đi vào cửa miếu, quay mặt về hướng tây mà đứng, tướng quay mặt về hướng bắc mà đứng. Vua tự cầm đầu rìu đưa cán cho tướng mà nói rằng: Từ đây cho tới trời, tướng quân hãy lo chế ngự. Rồi cầm cán búa đưa lưỡi búa cho tướng mà nói rằng: Từ đây cho tới vực thẳm, tướng quân hãy lo chế ngự. Tướng nhận búa rìu lạy tạ mà trả lời Vua: Hạ thần nghe rằng việc nước không thể theo ngoài, trị quân không thể theo trong. Hai lòng không thể thờ vua, chí khí chia lìa không thể ứng phó với địch quân. Thần đã chịu mệnh, cầm rìu búa, không dám sống mà trở về. Mong Vua ban cho thần một lời nói trao mệnh, nếu Vua không chịu thần không dám làm tướng. Làm như thế thì trên không có trời. dưới không có đất, ở trước mặt không có địch, ở sau lưng không có Vua. 52.- DÙNG TƯỚNG Đời sau dùng người không được như thế. Nghị bàn một người mà phần thi hành về một người khác. Như thế người nghị bàn không biết sự khó khăn của người thi hành mà chỉ nói lý thuyết cao siêu. Người thi hành muốn tuân thụ ý của người nghị bàn nhưng không hợp với thời cơ. Thậm chí có khi một người thi hành mà có tới mấy chục người nghị bàn. Ở giữa kẻ hiền và người gian lẫn lộn, kẻ thương và người ghét đều theo ý riêng của mình mà nói. Kẻ thương tuy ít mưu nhưng cũng phụ hội mong cho thành. Kẻ ghét tuy mưu hay những tìm nhiều cảnh để khuấy rối. Không biết liệu lường địch yếu hay mạnh như thế nào mà cứ cho rằng đánh ít thì thắng ít, đánh nhiếu thì thắng lớn. Không hỏi thời thế khó dễ như thế nào mà thấy quân nghỉ ngơi thì buộc tội trì hoãn, thấy quân giữ vững thì buộc tội biếng nhác. Kẻ thi hành liếc trái, nhìn phải, muốn đánh hay giữ, tới hay lui, đều không tự chủ được. Đến khi có mười cỗ xe nguyên nhung chưa kịp đi mà quan trên đã ban lệnh rối rít, mệnh lệnh trong quân đã định mà bọn áo gấm ngồi cao đã tới làm rộn, việc đem sĩ tốt ra mà đánh hay đem tướng ra mà đánh đều do bọn nghị bàn đề xướng tất cả. Các đời Đường, Tống, Minh đều thất bại vì nạn nói trên, đời Tống vấp nặng mà đời Minh lại càng nặng hơn nữa. Kẻ luận việc đời Tống nói rằng: Nếu chỉ bàn suông mà thành công, thì ai bàn ít mà rõ việc, đó là kẻ sáng suốt trong thiên hạ. Không chết vì tay giặc cướp mà chết vì tay người nhà, không chết ở nơi biên cương mà chết vì kẻ can gián ngồi cao, điều tệ hại ấy sinh ra do những người chỉ lo làm mà không chịu luận bàn. Trái lại đối với những kẻ chỉ bàn suông mà không làm thì họ cứ bàn luận phân vân như tơ vò không thể gỡ rối. Xét lại việc xưa nay, Hán Tuyên Đế sử dụng Triệu Sung Quốc, là biết phép dùng tướng vậy. ĐẠO LÀM TƯỚNG 53.- CẨN MẬT Biến động là nguồn gốc của kỳ chính, gặp việc chẳng hé môi, dùng binh chẳng nói năng. Cho nên khi có việc, không gì hơn được trước, khi động không gì hơn kín lặng, khi dùng không gì hơn bất ngờ, khi lập mưu không gì bằng đừng cho ai biết. 54.- HƯ THỰC Kẻ thắng trước thì trước hết tỏ ra mình yếu hơn địch cho nên sĩ số chỉ bằng nửa mà sức đánh gấp bội địch. Cho nên chưa thấy thắng mà đã đánh, dầu đông quân cũng sẽ thất bại. Kẻ đánh giỏi ở yên thì không lộn xộn, thấy thắng được thì dấy binh đánh, thấy không thắng được thì dừng lại. Ngày xưa kẻ giỏi dùng binh trong lòng muốn như thế nhưng tỏ ra ngoài rằng mình không muốn như thế, khiến cho địch ngờ rằng mình không muốn như thế, để thi hành ý muốn của mình đúng như thế, đó là phép vi diệu, để phá quân, bắt tướng, hàng thành, phục ấp. Bây giờ nếu ý muốn chẳng phải thế, thì làm ra vẻ muốn như thế, khiến cho địch ngờ rằng mình muốn như thế, để mà thi hành ý muốn riêng của mình, đó là phép vi diệu để phá quân, bắt tướng, hàng thành, phục ấp. Cho nên việc bày ra ngoài là ảnh. Cho nên làm ra cho người thấy, nhưng không có ý ấy, thì trong ảnh lại có ảnh hiện ra. Hai gương cùng treo soi nhau, đã sâu kín lại càng sâu kín. Địch sắp đặt mưu kế mà ta phá hoại được, địch toan đoạt lợi ta mà ta ngăn chặn được, ắt là cơ trí của địch phải thất bại. Chúng giả vờ khêu chọc ta để đánh úp ta, ta phá được. Chúng giả phô trương, ta phá được. Chúng giả đánh, ta phá lực lượng của chúng. Chúng dẫn dụ lừa dối ta, ta phá hỏng mưu mô của chúng. Hoặc ta dùng cách giả trá để phá chúng, hoặc ta dùng cách tín thực để phá chúng. Hư thì không thực, giả trá thì không tạo công. Thực thì không hư, thành việc thì được kết quả. Vận hành ở đất không có, lay chuyển ở mối đầu đứng yên. Sâu kín tối tăm. Địch muốn làm nhưng chẳng lo toan được. Địch muốn mưu đồ nhưng chẳng có tâm trí để làm việc ấy, đó là sự thần diệu của cách biến hóa hư không vậy. 55.- XỬ THẾ Bỏ mình để báo ơn Chúa mà không khiến được sĩ tốt đồng lòng cùng chết, như thế chẳng phải là tướng giỏi thành công. Cùng sĩ tốt ăn uống mà về sau quên lúc đói khát trên ngựa. Cùng sĩ tốt hưởng bổng lộc mà về sau quên việc xông pha nguy hiểm. Cùng sĩ tốt thức ngủ nhưng về sau quên việc đánh dẹp gian lao. Lo điều lo của sĩ tốt, cùng chịu điều khổ của sĩ tốt, những về sau quên vết thương tên bắn. Việc đã xong thì tình phải tròn. Cho nên chiến đấu là điều trọng yếu, chịu thương tích chết chóc là phận sự, xông pha gươm dáo, tranh đi trước người là nhiệm vụ, nhưng nếu không biết đường lối thì đó là việc nguy hiểm. Kẻ quên mình ở hoàn cảnh nguy hiểm mà lại vui vẻ được, kẻ ấy sẽ ăn vật độc như ăn kẹo. 56.- CHIẾN LƯỢC Đem binh uy hiếp chỗ mà thiên hạ không biết, chế ngự chỗ mà thiên hạ không dám cựa, đánh vào chỗ mà thiên hạ không thể giữ, trấn giữ chỗ mà thiên hạ không dám đánh, chạy vào chỗ mà thiên hạ không thể chống cự, rời bỏ chỗ mà thiên hạ sẽ không đến. Ta trấn nhiếp chỗ nào thì thị uy ở chỗ ấy khiến cho địch chưa dùng binh mà đã sợ ta. Đến khi dùng binh mà địch không chống nổi ta thì bởi chúng đã một lần sợ ta rồi nên ngàn năm chúng cũng sẽ sợ tài của ta. 57.- THẾ CHỦ ĐỘNG Tới lui đánh giữ đều do nơi ta, đó là có cơ đánh thắng. Do ta thì ta chế ngự được địch, do địch thì bị địch chế ngự. Ta muốn chế ngự địch mà dầu địch không muốn cũng không cưỡng lại được, đó là do ta sắp đặt khiến cho phải được như thế. 58.- TÁNH TỰ NHIÊN Tự tánh thì chẳng có gì mà chẳng chứa đựng. Quen làm một việc lâu ngày ắt là đem dùng được tự nhiên. Cho nên kẻ giỏi dùng binh thì chẳng thấy gì ngoài việc binh, chẳng luận đàm gì ngoài mưu lược, chẳng trị chỗ nào mà không biến hóa xen trộn. Đó là khi thấy việc biến xẩy tới thì chẳng cần chờ an bài bèn tính toán so đo để trong mọi việc kinh dinh chẳng có điều gì mà không hoà hợp, ổn thỏa. Trời tự nhiên mà vận hành, đất tự nhiên mà ngưng tụ. Việc binh thi hành tự nhiên cho nên chẳng bao giờ mà không thắng. 59.- THÁNH ĐẠO Dùng mưu trí để hàng phục thiên hạ mà thiên hạ chịu khuất phục mưu trí của mình thì mưu trí ấy cũng chưa phải là tối thắng. Dáng hình pháp để chế ngự thiên hạ, mà thiên-hạ chịu theo hình pháp thì hình pháp ấy cùng chẳng có gì hay. Dưới mưu trí hay hình pháp đều chẳng phải là điều hay nhứt trong những điều hay. Ngày xưa Thánh Võ giữ thế mà chẳng vây thành, chẳng đánh lũy chẳng bày trận, đó là nhờ nương náu ở chỗ hư không và dựa vào chỗ ít oi. Un đúc trong thế không tranh mà được vậy. Sâu xa trong sạch, tang tình tang... 60.- TIẾT CHẾ Ngày xưa, Vua Đường Thái Tôn hỏi Lý Tịnh rằng: - Hiện nay, về tướng súy chi có Lý Tích, Đạo Tông và Tiết Vạn Triệt. Nhưng trừ Đạo Tông là chỗ thân thuộc để riêng ra ngoài, thì ai có thể kham được việc lớn? Lý Tịnh đáp: - Bệ hạ thường nói Lý Tích và Đạo Tông dùng binh không thắng lớn mà cũng không thua to. Còn Vạn Triệt nếu không thắng lớn thì phải thua to. Nhân nghe thánh ngôn của Bệ Hạ, thần cạn nghĩ rằng: Không cần thắng lớn mà cũng không thua to đó là binh có tiết chế. Nếu chỉ một là thắng lớn, hoặc một là thua lớn, thì đó chỉ là may mắn mà được thành công. Cho nên Tôn Võ nói rằng: Tướng đánh giỏi luôn luôn đứng vào thế không thua nhưng không bỏ lỡ cơ hội đánh bại quân địch. Đó là nhờ sự tiết chế ở nơi ta vậy. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 9, 2011 ( Thiếu một đoạn) 91.- PHẨM CÁCH CỦA TƯỚNG SÚY: Người tướng có nhiệm vụ nguy hiểm, bởi vì nhiệm vụ quan trọng ắt phải nguy hiểm. Cho nên người tướng giỏi không ỷ mạnh, không cậy thế, được thương yêu mà không mừng, bị lăng nhục mà không sợ hãi, thấy lợi mà không ham, thấy rượu ngon sắc đẹp mà không mê say, một lòng liều thân vì nước mà thôi. 92.- ĐIỀU MONG ƯỚC: Bốn điều mong ước là: - Đánh thì mong dùng được kế lạ. - Mưu đồ thì mong được kín nhẹm. - Quân lính thì mong được yên tĩnh. - Lòng người thì mong được chuyên nhất. 93.- TƯỚNG GIỎI: Đức tánh của người tướng giỏi là: cứng rắn mà không bị bẻ gẫy, mềm mỏng mà không bị vày vò. Cho nên có thể dùng yếu để chống mạnh, dùng mềm để chống cứng. Mềm mãi, yếu mãi thì sẽ bị tước đoạt. Cứng mãi mạnh mãi thì sẽ bị thất bại. Không cứng, không mềm, đó là lẽ thường của đạo. 94.- HAI TÁNH XẤU: KIÊU CĂNG VÀ BIẾNG NHÁC: Người tướng không thể kiêu căng. Kiêu căng thì thất lễ. Thất lễ bị người rời bỏ. Bị người rời bỏ thì quân lính sẽ phản loạn. Người tướng không thể biếng nhác, nếu biếng nhác thì việc tưởng thưởng không được thi hành chu đáo, sĩ tốt sẽ không hết lòng vâng mệnh, quân đội sẽ không lập công, nước nhà sẽ bị hư hoại, giặc cướp sẽ đầy rẫy. Khổng Tử nói: Nếu có người tài giỏi như ông Chu Công, nhưng kiêu căng và biển lận thì kẻ ấy không dùng được, không cần xét tới các đức tánh khác. 95.- NĂM ĐỨC TÍNH: - Cao quý, trong sạch để khuyên đời - Hiếu kính để nêu danh - Tín nghĩa để giao du với bạn bè - Nhân ái để dung người - Hết sức để lập công. Đó là năm đức tính của người tướng. 96.- TÁM VIỆC XẤU: - Có mưu trí mà không phân biệt được phải trái. - Biết lễ nghi mà không dùng được bậc hiền lương. - Làm chính trị mà không chỉnh đốn được hình pháp. - Giàu mà không cứu giúp được kẻ nghèo. - Có trí thức mà chẳng có thể chuẩn bị khi việc chưa thành hình. - Lo toan mà không phòng bị được việc nhỏ kín. - Khi thành đạt mà không thể tiến cử kẻ mà mình biết khả năng. - Thua mà không thể tự mình ngăn mình đừng hủy báng. Đó là tám việc xấu. 97.- KHINH NGƯỜI: Kinh thư nói rằng: Khinh lờn người quân tử thì không thể được lòng hết mọi người, khinh lờn kẻ tiểu nhân thì không thể dùng hết người. 98.- PHÉP DÙNG BINH: Điều cốt yếu trong việc dùng binh là: cầm nắm lòng dạ của mọi anh hùng, thi hành nghiêm chỉnh việc thưởng phạt, bao gồm nghề văn nghiệp võ, kiêm cả hai thuật cứng mềm, xem hết các thuyết lễ nghĩa, trước dùng đức rồi sau mới dùng võ lực, yên tĩnh như cá lặn, di chuyển mau lẹ như con rái cá, phá tan chỗ kín liền của giặc, bẻ gãy chỗ mạnh của giặc, dùng cờ xí rực rỡ, ban hiệu lệnh bằng chiên trống, lui như núi dời, tiến như gió mưa, dấy binh như xuống dốc, đánh mạnh như cọp dữ, bức bách nhưng dung nạp địch, lấy lợi để dụ địch, dùng lễ để giữ địch, tự hạ mình để địch sinh kiêu căng, kết thân để ly gián địch, làm cho ta thêm mạnh, mà trái lại làm cho địch suy yếu. 99.- CHÁNH TRỊ CỦA TƯỚNG SÚY: Ai bị nguy khốn thì làm cho họ yên ổn, ai sợ sệt thì làm cho họ vui lòng, ai phản nghịch thì đem họ trở về, ai bị oan ức thì giải cứu họ, ai cường thắng thì đè nén họ, ai yếu đuối thì nâng đỡ họ, ai nhiều mưu kế thì gần gũi họ, ai dèm pha thì lật tẩy họ, ai được của cải thì cho họ, không ỷ sức mạnh mà khinh địch, không cậy giầu có để tỏ vẻ kiêu ngạo đối với người, không cậy được yêu mến để thị uy, tính toán trước rồi sau mới dấy binh, biết chắc thắng rồi sau mới đánh, được ngọc lụa không được dùng làm của riêng, được con trai, con gái không được tự sai dùng. Như thế, khi sửa trị và ban bố mệnh lệnh mọi người đều tình nguyện chiến đấu, dùng binh không đổ máu nhiều mà địch tự thất bại vậy. 100.- TAY CHÂN CỦA TƯỚNG SÚY: Bậc tướng súy ắt phải có kẻ tay chân làm tim bụng, có kẻ tay chân làm tai mắt, có kẻ tay chân làm móng răng. Nếu không có người làm tim bụng thì cũng giống như người đi đêm không đuốc, không có người làm tai mắt cũng giống như ở chỗ tối tăm không biết cách vận động, không có người làm móng răng cũng giống như người đói ăn vật độc không thể nào khỏi chết. Cho nên người tướng giỏi phải có những kẻ nghe rộng, nhiều mưu trí làm tim bụng, phải có những kẻ trầm lặng, dò xét kỹ càng, cẩn thận, kín đáo làm tai mắt, phải có những kẻ gan dạ, mạnh dạn làm móng răng. 101.- TRÍ VÀ NGU: Dùng ngu để chống trí là nghịch, dùng trí để chống ngu là thuận, dùng trí để chống trí là có cơ mưu. 102.- BA CƠ HỘI: Có ba đường lối: - Thứ nhất là công việc; - Thứ hai là thế lực; - Thứ ba là tình cảm. Cơ hội của công việc đã xẩy tới mà không ứng biến được, là không có trí thức. Cơ hội của thế lực đã chuyển tới mà không mưu đồ được là không có tài năng. Cơ hội của tình cảm đã phát sinh mà không thi hành được là không mạnh dạn. Người tướng giỏi ắt nhân cơ hội mà xếp đặt để thắng trận. 103.- LỀ LỐI: Khi ra quân, phải có lề lối. Mất lề lối thì phải gặp việc bất lợi. Lề lối có 15 thứ là: Thứ nhứt: Biết lo liệu, nghĩa là rành rẽ về việc gián điệp Thứ hai: Biết nói, nghĩa là giữ gìn lời nói Thứ ba: Mạnh dạn, nghĩa là đánh với số đông mà không nhiễu loạn Thứ tư: Liêm khiết, nghĩa là thấy lợi mà vẫn nghĩ đến điều nghĩa Thứ năm: Công bằng, nghĩa là thưởng phạt đều nhau Thứ sáu: Nhẫn nhịn, nghĩa là giỏi chịu điều xấu Thứ bảy: Khoan hồng, nghĩa là dung nạp người Thứ tám: Tín thực, nghĩa là nhận lời một cách khó khăn Thứ chín: Cung kính, nghĩa là giữ lễ đối với các bậc hiền tài Thứ mười: Sáng suốt, nghĩa là không dung nạp các điều sai lầm Thứ mười một: Cẩn thận, nghĩa là không làm điều trái lẽ Thứ mười hai: Nhân ái, nghĩa là giỏi nuôi dưỡng sĩ tốt Thứ mười ba: Trung nghĩa, nghĩa là liều thân vì nước Thứ mười bốn: Giữ phận, nghĩa là biết dừng, biết đủ Thứ mười lăm: Có mưu trí, nghĩa là tự lo cho mình rồi sau lo cho người 104.- TƯỚNG LÀ GỐC: Vả lại nước lấy binh làm gốc, binh lấy tướng là gốc, sĩ tốt lấy tướng làm chủ. Bởi thế muốn có binh mạnh để đánh thắng hoặc giữ vững thì trước hết phải biết dùng tướng, tìm được người phò tá rồi sau mới có thể thị uy giữa thiên hạ, làm cho mọi rợ bốn phương phải tới hàng phục, đó là gốc lớn của kẻ được nước. 105.- PHÒNG THỦ VÀ TẤN CÔNG: Tướng chỉ biết dùng phép chính mà không dùng phép kỳ, đó là tướng phòng thủ. Tướng chỉ biết dùng phép kỳ mà không dùng phép chính, đó là tướng chuyên về chiến đấu (tấn công). Tướng chuyên về kỳ hay chuyên về chính đều có thể giúp nước được cả. 106.- QUAN SÁT: Khi dấy binh, lập dinh, đánh trận, hãy xem cờ xí lay động thế nào, lắng nghe tiếng chiêng trống, tính toán ngày giờ để xem điềm tốt xấu, tùy theo cách chuyển vận của năm hành, tùy theo sự ra vào của thần vị, để tùy cơ ứng biến mà dùng binh. 107.- THIÊN TƯỚNG: Nếu có bậc thiên tướng thì quân địch không biết quân ta từ đâu mà tới, thực giống như thần linh dùng binh. Quân ta không biết tướng ấy làm gì. Tướng ấy động hay tĩnh đều có tiết độ phương hướng, nắm sự thắng bại trong tay, thấy trước lòng dạ của trời đất quỷ thần nên có thể làm cho binh sĩ yên lòng. 108.- TƯỚNG CẦM NẮM HẾT THẢY: Trong biên giới, việc của trăm họ đều giao cho tướng. Ngoài biên giới, việc của nước ngoài cũng giao cho tướng. 109.- KHÔNG CẦN DÙNG BINH: Ngạn ngữ nói rằng: Tướng văn, tướng võ hiểu rành việc nước thì không cần dùng binh. 110.- ĐẠI TƯỚNG: Biết mềm, biết cứng; tài hoa mà mạnh dạn; dũng cảm mà mưu cao; tròn nên có thể vận chuyển; quay về mà ngay thẳng; thông hiểu khắp muôn loài mà lòng muốn giúp thiên hạ; người thông thạo các điều trên có thể gọi là bậc đại tướng. 111.- NƯỚC MẠNH HAY YẾU TUỲ THUỘC VÀO TƯỚNG SUÝ: Cho nên nói rằng: tướng súy là người giúp nước, giúp chu đáo thì nước mạnh, giúp sơ hở thì nước yếu. Dùng tướng ắt phải xem dáng mạo, xét thần khí để biết lòng dạ như thế nào. Đặt làm vua cũng do nơi tướng, chọn người hiền tài để trao quyền bính, cất nhắc mà chẳng nghi ngờ, tướng súy ắt bên trong phải ứng biến cho ngay thẳng, bên ngoài phải xử sự phải thuận mệnh. Ứng biến ngay thẳng thì quân kỷ nghiêm minh, xử sự thuận mệnh thì bề tôi giữ tròn trinh tiết, dấy binh chống địch há chả là nạn chết chóc hay sao? 112.- TÀI NĂNG CỦA TƯỚNG SÚY: Việc thành bại của quân lữ đều có thể trông thấy ở người tướng, há là hành vi của người tướng hay sao? Hành vi của người tướng là việc dùng. Trí ngang với muôn người mà nếu không dùng được muôn người thì cũng giống như kẻ ngu. Võ dũng hơn ba quân thì cũng giống như kẻ yếu đuối. Kẻ giỏi làm tướng thì đường đường chính chính nhưng cũng biết biến hóa, cứng cỏi nhưng biết thương người, nhân từ nhưng có thể chém giết, mạnh dạnh nhưng hiểu biết rành rẽ, có đầy đủ kế sách để chế ngự bọn lại sĩ, có thể lay chuyển mọi trở lực, lập được công lao to tát để trừ họa, dẹp loạn. 113.- CHỌN TƯỚNG: Quốc gia dùng binh, ban bố luật pháp, quyền sinh sát đều ở trong tay đại tướng. Người tâm phúc của nước nắm giữ vận mệnh của ba quân, đâu có thể tuyển dụng bừa bãi được? Nếu muốn trao mệnh cho tướng thì phải xem trước thử người tướng có được chân thành hay không. Muốn biết có được hay không, phải quan sát bốn điều: Thứ nhất là vẻ mặt. Thứ hai là lời nói. Thứ ba là cử động. Thứ tư là việc làm. Sách Vạn Cơ Chi nói rằng: Tuy có quân đội trăm vạn, cũng phải kiếm cho được bậc tướng súy nuốt địch rồi đem tất cả lợi khí của quốc gia mà trao cho tướng ấy. Nếu không được người như thế, thì dùng tướng cũng vô ích. 114.- TÁM LOẠI TƯỚNG SÚY: Tướng súy có hai hạng lớn nhỏ, mỗi hạng có bốn thứ. Nếu không thuộc vào tám loại ấy, sao đáng gọi là tướng? Bốn loại tướng bậc cao là: - Thứ nhất: Thiên tướng (xem mục số 107). - Thứ hai: Địa tướng. - Thứ ba: Nhân tướng. - Thứ tư: Thần tướng. Bốn loại tướng bậc thấp là: - Thứ nhất: Uy tướng. - Thứ hai: Cường tướng. - Thứ ba: Mãnh tướng. - Thứ tư: Lương tướng. 115.- ĐỊA TƯỚNG: Hạng địa tướng có các đặc điểm sau này: Đến nơi nào thì quan sát địa lý kỹ càng, núi đầm xa gần, rộng hẹp, khó dễ như thế nào, rừng rú thưa dày như thế nào, khe lạch sâu cạn như thế nào. Nếu xem tướng ấy chỉ huy, thì khi chiến thắng, trước và sau không trở ngại, trái và phải không ngưng trệ, lính bộ và lính kỵ đi lại tiện lợi, qua và kích dùng rất thích hợp, quân lính tới lui rất thuận tình, người và ngựa không bao giờ bị cùng khốn, công hay thủ đều được tiện lợi, hành quân thì kiếm được vùng nhiều cỏ nước, người và ngựa khỏi bị đói khát, dầu có rơi vào đất chết cũng sống sót, gặp đất nghịch thì dùng thuận, gặp đất thuận thì dùng nghịch, không cần chọn đất khó hay đất dễ đều có thể yên ổn để hành động về sau, hành động rồi thì quyết thắng đó là hạng địa tướng. 116.- NHÂN TƯỚNG: Hạng nhân tướng có các đặc điểm sau này: Không tham tiền của, làm việc có tiết độ, chẳng mê tửu sắc, giữ mình theo lễ, đem lòng trung thờ bề trên, cùng chia xẻ vui buồn với sĩ tốt, đoạt của cải của địch mà không dành riêng, bắt được đàn bà con gái mà không giữ riêng, dùng mưu mà biết dung hòa, nghi ngờ mà quyết đoán, dũng cảm mà không xúc phạm ai, nhân ái mà không bỏ luật, trừng phạt tội nhỏ, tha thứ lỗi lớn, khi phạt tội không chừa kẻ thân thuộc, khi thưởng công không chừa kẻ thù địch, giúp đỡ người già nua, vỗ về trẻ thơ ấu, an ủi kẻ sợ sệt, làm vui lòng kẻ lo buồn, phán xét kẻ thưa kiện, tố cáo kẻ nhũng lạm, trừ dẹp bọn giặc cướp, ức chế kẻ cường hào, che chở kẻ yếu đuối, sai khiến kẻ dũng cảm, trừ giết kẻ ngang dọc, có kẻ đến hàng phục thì cho làm lại chức cũ, ai mất thì trả lại cho họ, đuổi bỏ kẻ vong bản, ban tước cho kẻ theo mình, kiềm chế kẻ hung bạo, gần gũi kẻ mưu trí, lìa xa kẻ dèm pha, được thành mà không cần đánh, được đất mà không cần giữ, gặp địch cạn hẹp thì chờ xem cách chúng biến hóa, gặp địch dối trá thì theo mệnh mà hành động, gặp cảnh nghịch thì xem xét, gặp cảnh thuận thì tiến đánh, đó là hạng nhân tướng. 117.- THẦN TƯỚNG: Hạng thần tướng có các đặc điểm sau này: Lấy trời để tỏ bày, lấy đất để biến hóa, lấy người để sử dụng, lấy ba tướng để kiêm các việc ấy, đó gọi là thần tướng. 118.- CƯỜNG TƯỚNG: Hạng cường tướng có các đặc điểm sau này: Khi hành binh không cần xét thiên thời địa lợi, dùng người không cần biết là mạnh dạn hay nhát sợ, nghe có địch thì đi ngay ắt không ngờ lo, khi có ai trái lệnh, không cần biết là tội to hay tội nhỏ, đều dùng hình pháp để xét xử, ai nghe tướng ấy đều sợ hãi, ai chống lại thì quyết phá, đó là hạng cường tướng. 119.- MÃNH TƯỚNG: Hạng mãnh tướng có các đặc điểm sau này: Không cần biết quân đội nhiều hay ít, không cần biết địch mạnh hay yếu, ba quân đều tuân lệnh răm rắp, quân có thể biến hóa hàng muôn ngàn cách khác nhau theo ngón tay chỉ huy, ra quân bất ngờ, cử động thần diệu, một ngựa một kiếm có thể xung phong đi trước, khiến quân địch không kịp xoay trở, phải sợ mà tránh xa, đó là hạng mãnh tướng. 120.- LƯƠNG TƯỚNG: Hạng lương tướng có các đặc điểm sau này: Bên ngoài thì uy nghiêm, bên trong thì dữ tợn, ở giữa thì mạnh mẽ, gồm kiêm tất cả ba tướng mạo ấy, đó là hạng lương tướng. 121.- CÁCH DÙNG CÁC LOẠI TƯỚNG: Tướng là người mà nước nhà sai dùng: Nước được thiên tướng, thì có thể chống cự với quân địch làm trái đạo trời. Nước được địa tướng, thì có thể chống cự với quân địch làm trái đạo đất. Nước được nhân tướng, thì có thể chống cự với quân địch làm trái đạo người. Nước được thần tướng, thì có thể chống cự với mọi địch thù trong thiên hạ, mỗi lần dấy binh không hề tính toán sai lầm. Uy tướng có thể giúp thiên tướng, cường tướng có thể giúp địa tướng, mãnh tướng có thể giúp nhân tướng, lương tướng có thể che chở cho bốn phương. Tuy nói là mãnh tướng, cường tướng nhưng có thể hành động mau lẹ, được việc. Nên các hạng tướng súy không thể dùng riêng một mặt. Như trên là thể của tướng. 122.- ĐỨC HẠNH CỦA TƯỚNG SÚY: Hạnh của người tướng là không lưu luyến vợ con để tỏ rằng mình liều thân vì nước. Về mệnh của Vua, tướng không dám khinh lễ nghi để tỏ rằng mình tha thiết được trọng dụng. Khi tướng ở ngoài, có thể có lúc không tuân lệnh Vua, mà chỉ ráng làm lợi cho nước nhà, đối với mình thì trong sạch, đối với kẻ sĩ thí quí trọng. Bởi thế cho nên nếu tướng súy không nghe lời khuyên can thì các anh hùng sẽ lẩn tránh, tướng không theo kế sách hay thì mưu sĩ sẽ bỏ đi, coi thiện ác như nhau thì kẻ hiền và người ngu ở lẫn lộn, thưởng phạt lộn xộn thì giềng mối sẽ tan rã, thường mừng thì thiếu uy nghiêm, thường giận thì lòng người xa lìa, nói nhiều thì việc cơ mật phải tiết lậu, ham thích nhiều việc thì tâm trí nghi ngờ, mê loạn; khoan dung thì làm cho quân sĩ cảm kích, hung bạo thì làm cho quân sĩ tức giận. Tướng chuyên quyền thì kẻ dưới quy lỗi về tướng, tướng tự cho mình là tài giỏi thì kẻ dưới không có công trạng, tướng nghe lời dèm pha thì kẻ ngay thẳng sẽ xa lìa, tướng làm việc tư tà thì kẻ dưới trộm cắp, tướng lưu luyến chốn nội phòng thì sĩ tốt sinh ra dâm đãng. 123.- PHƯƠNG CHÂM CỦA TƯỚNG SÚY: Khinh rẻ tiền của, sắc đẹp để giữ mình trong sạch; Tránh xa các việc hiềm nghi để vượt lên; Lặng lẽ lo xa để khỏi thất bại; Tùy theo thời cơ mà biến hóa cho thuận tiện để lập công; Rộng rãi với người, dốc lòng làm việc để qui tụ tình thương; Nghe điều lành, đuổi bỏ kẻ dèm pha để tiến xa; Trước đo lường, sau hành động để mà ứng biến; Trước tin sau nói để hàng phục kẻ dưới; Trừng phạt tội lỗi, tưởng thưởng công lao để sửa người; Xét xưa rõ nay để soi sáng cho người; Coi rẻ sắc đẹp, quý trọng người để được người; Lìa bỏ việc tư, liều thân vì việc công để giữ nước; Thần sắc phải ngay thẳng, hình dung phải đoan trang; Cử động nhanh như gió, ngừng nghỉ lặng lẽ như gò núi; Đánh trận như sấm sét, sắp đặt khéo léo như quỷ thần; Suy tư như ảnh chiếu, mệnh lệnh như sương tuyết; Nếu được như thế, tướng súy có thể đảm đương việc lớn của quốc gia. 124.- LÒNG NHÂN ÁI CỦA TƯỚNG SÚY: Trong quân có bệnh tật, tướng phải thân hành chữa trị. Trong quân có việc chết chóc, tướng phải khóc thương. Quân đóng giữ ở nơi xa thì cho phép vợ đến thăm viếng. Khi làm lễ khao quân thì phải chia đều cho quân lính và lại sĩ. Khi muốn dấy binh hoặc sắp đặt việc gì thì phải nhóm họp tất cả tướng tá để bàn luận, mưu kế phải sắp đặt xong rồi sau mới đánh. Cho nên tướng súy đối với quân lính phải có ban huệ “đổ rượu” ban ân “hút máu”. Ngày xưa Huỳnh Thạch Công kể rằng: Có một lương tướng khi ai biếu bầu rượu lao thì ném xuống sông rồi khiến tướng sĩ đón giòng nước mà uống. Một bầu rượu lao không thể làm cho nước sông có mùi vị rượu thế mà ba quân cảm kích bởi ân huệ bèn đồng lòng quyết chết. Lại kể chuyện Ngô Khởi cầm binh, có một lính tốt bị mụt nhọt, Khởi thân hành điều trị và mút mụt nhọt, khiến cho ba quân cảm kích mà hết lòng đánh giặc. Cho nên sĩ tốt được cái vui vật trâu nấu rượu, chiến đấu hăng say, thương yêu giúp đỡ chủ tướng như con em theo cha anh, như tay chân che chở cho đầu mắt, không ai có thể chống cự lại được. Nếu bóc lột làm cho sĩ tốt phải đau khổ, bắt chúng làm việc nhọc nhằn, buông ra lời nói oán thù khó nghe, như thế là tướng súy xem sĩ tốt như cỏ rác, thì sĩ tốt sẽ xem tướng súy như cừu thù, đến tình trạng ấy chỉ mong cho hàng ngũ được đầy đủ cũng là việc rất khó, làm sao có thể trông mong quân sĩ sẽ liều chết xông đến đánh địch? Đó là nói sơ lược về phép tướng súy an ủy vỗ về quân sĩ. 125.- KIÊU CĂNG VÀ NHỤT KHÍ: Kẻ làm tướng không bao giờ thấy quân mình nhiều mà kiêu căng, không bao giờ thấy quân mình ít mà nhụt chí. Không có con vật nào mạnh như con hổ nhưng khi bắt heo chuồng mà bị dân cư đuổi thì cũng phải cong đuôi mà chạy chẳng dám quay lui, như thế đủ hiểu rằng có thể lấy việc nghĩa để sai khiến người. Tướng kiêu căng thì phải thất bại. Kẻ làm tướng không thể cậy rằng mình trí dũng mà khinh người. Tống Nghĩa sở dĩ đánh được Hạng Lương, Bạch Khởi sở dĩ giết được Triệu Quát cũng vì lẽ ấy. 126.- KHÍCH ĐỘNG SĨ TỐT: Việc khích động sĩ tốt có nhiều cách: - Hoặc lấy sự quả cảm để khích động: như Lưu Kỳ đời Tống giữ Thuận Xương; gặp khi người Kim xâm lấn phía nam, Kỳ bèn đục và đốt cháy thuyền bè, tỏ ý không chịu đi, để răn người nhà không được khuất phục trước quân địch. - Hoặc lấy lòng trung nghĩa để khích động: như Trương Tuần bày ra bức tượng của vua Đường, lạy khóc để trách sáu tướng, nhận đại nghĩa mà chém họ, nhờ đó khuyến khích chí khí của quân sĩ. - Hoặc lấy lòng chí thành để khích động: như Trương Tuần thề quyết chết làm cho tướng sĩ phải thương tâm mà giặc bị tan vỡ. Vua Đường Đức Tông nhận lỗi về mình mà trăm quan liều mình quyết chết. - Hoặc nêu điều lợi hại để khích động: như Dương Khánh giữ Thành Đô, tuyển mộ hiền sĩ, tích trữ lương thực, trợ cấp cho nhân dân, dân Thục luyện tập dao gậy để giúp quan quân làm cho rợ Man phải thua lớn. Lý Mục đời Tống trấn giữ Dực Châu, được vật gì chia đều hết cho sĩ tốt. - Hoặc lấy tiền của, vải lụa để khích động: Huỳnh Thạch Công nói rằng: Được tiền của mà đem phân phát cho mọi người thì quân sĩ sẽ liều mình quyết chết. Lý Mục đời Tống cũng làm giống như thế. 127.- MƯỜI HAI CÁCH CHẮC THẮNG: Bậc vua của loài người biết phép chắc thắng, cho nên có thể gồm kiêm việc rộng lớn để thống nhất chế độ, và thị uy giữa thiên hạ theo mười hai cách sau này: Thứ nhất là liên hình (hình pháp liên đới) nghĩa là những kẻ giữ gìn đội ngũ sẽ cùng chịu một tội như nhau. Thứ hai là địa cấm (đất cấm đi lại) nghĩa là ngăn cấm việc đi đường để lùng bắt kẻ gian từ bên ngoài đột nhập vào. Thứ ba là toàn quân (bảo toàn quân đội) có nghĩa là các thủ lãnh nương tựa vào nhau, ba và năm giống nhau để liên kết với nhau. Thứ tư là khai tái (mở cửa) nghĩa là chia đất làm giới hạn, mọi người phải giữ vững, liều chết để làm tròn chức vụ. Thứ năm là phân hạn (chia giới hạn) nghĩa là trái và phải ngăn nhau, trước và sau chờ nhau, quân đóng vòng quanh giữ chắc, để đón hoặc để ngăn. Thứ sáu là hiệu biệt (số hiệu phân biệt) nghĩa là quân đàng trước sắp đặt để tiến tới, khác với quân đàng sau, không được tranh nhau đi trước hoặc leo trèo mất thứ tự. Thứ bảy là ngũ chương (năm chương) nghĩa là sáng tỏ hàng lối, đầu đuôi không loạn. Thứ tám là toàn khúc (cong queo hết thảy) nghĩa là khúc chiết theo nhau, đều chia, thành nhiều bộ phận. Thứ chín là kim cổ (chiêng trống) nghĩa là cất nhắc kẻ có công, trọng dụng kẻ có đức. Thứ mười là trận xa (xe trận) nghĩa là cầm mâu liên tiếp nhau, che mắt người lại. Thứ mười một là tử sĩ (quân sĩ liều chết) là những kẻ tài trí trong ba quân, cỡi chiến xa, tung hoành trước sau, dùng mẹo lạ để chế ngự quân địch. Thứ mười hai là lực tốt (lính mạnh) nghĩa là coi sóc mọi chỗ không lay chuyển. Dạy quân sĩ cho thành thục mười hai phép trên, ai trái lệnh không được tha thứ. Được như thế thì: có thể làm binh yếu trở nên mạnh, làm chúa thấp hèn trở nên tôn quý, làm mệnh lệnh yếu ớt trở nên mạnh mẽ, làm dân chúng xa lìa trở nên thân yêu, làm cho khối đông nhân dân trở nên yên trị, có thể giữ gìn đất đai rộng lớn, chiến xa không bao giờ bị nguy khốn, chỉ cần dùng áo giáp bằng tơ mà không cần rèn giáp sắt, thế mà cũng làm cho thiên hạ phải phục uy của mình vậy. 128.- CHUYÊN, PHÁP, THÀNH, ĐẠO: Quân đội áp dụng pháp luật cho mình, gọi là chuyên; buộc người dưới phải sợ pháp luật thì gọi là pháp. Dùng binh không vì việc nhỏ, chiến đấu không vì lợi nhỏ, gọi là thành; hành động kín đáo, lặng lẽ gọi là đạo. 129.- CHÍ KHÍ: Tướng là chí, ba quân là khí. Khí thì dễ động mà khó chế ngự. Nếu tướng trấn giữ chế ngự được khí thì những kẻ sợ hãi sẽ yên định, sự phản trắc sẽ được dẹp yên, quân địch dầu đông tới trăm vạn cũng sẽ bị đánh đuổi. Chí ngay thẳng mà mưu thống nhứt, khí phát ra mà lòng dũng cảm tăng gấp bội, thì chắc thắng. 130.- LỜI KHUYÊN: Thấy hư thì tiến, thấy thực thì dừng. Chẳng thấy ba quân đông đảo mà khinh địch. Chẳng thấy việc nhận mệnh làm trọng mà quyết chết, chẳng thấy mình tôn quý mà khinh rẻ người, chẳng vì thiên kiến của riêng mình mà hành động trái ngược với quần chúng, chẳng nghe lời biện thuyết mà cho là đúng hẳn, quân sĩ chưa ngồi thì mình chớ nên ngồi, quân sĩ chưa ăn thì mình chớ nên ăn, khi nắng rét đều phải như nhau, được như thế thì quân sĩ sẽ liều mình quyết chết. 131.- GIỮ BÍ MẬT: Việc của một người chớ để tiết lộ cho hai người biết. Ngày mai phải đi nơi nào, ngày nay chớ tiết lộ ra. Phải kéo quân một cách kín đáo, lặng lẽ, và cẩn thận đừng cho gián điệp hay biết gì. Điều bí mật trong công việc chớ để tiết lộ ra ở lời nói. Điều bí mật trong lời nói chớ để tiết lộ ra ở dáng mặt. Điều bí mật trong dáng mặt chớ để tiết lộ ra ở tinh thần. Điều bí mật trong tinh thần, chớ để tiết lộ ra ở mộng mị. Có hành động nhưng giấu kín manh mối, có sử dụng nhưng phải kín miệng. Nhưng điều nói được cũng không hại vì nói cho biết để tỏ ra thành tín. Có điều vốn chẳng bí mật, mà làm ra vẻ bí mật. 132.- VIỆC CỦA TƯỚNG SÚY: Việc của tướng quân là yên tĩnh để được sâu kín, ngay thẳng để sửa trị, bịt tai bịt mắt của sĩ tốt để chúng không biết gì, thay đổi mưu để chúng không hiểu, thay chỗ ở đổi đường đi để không ai tính toán được điều gì. Thời kỳ dấy binh cũng giống như trèo cao mà vứt thang đi. Đem quân đi sâu vào đất chư hầu cũng giống như bắn tên, giống như xua đàn dê, xua đi thì đi, xua lại thì lại mà chẳng biết phải đi đâu. Nhóm họp ba quân đông đảo, ném chúng vào nơi nguy hiểm, đó là việc của tướng quân. Luận về việc làm thì việc xưa khác việc nay. Việc nhiều thì phép tắc cũng nhiều, thời thay đổi thì lý cũng thay đổi. Cho nên giỏi đọc binh pháp ngàn xưa, thấy có chỗ không thích hợp thì chớ chấp nhận, thấy lời nói bậy thì biết sai lầm, như thế cũng chưa đủ để biết quyết đoán, để phân biệt điều nào đúng, điều nào sai. Vật gì nổi phồng thì đi lên, nên đoạt lấy để mà thoát. Ngăn cấm mà lại thi hành, răn đe mà lại làm ra, xét thưa mà đặt dầy, do một bên mà được toàn thể, khi làm ra thì thấy kỳ diệu, bộ máy biến hóa tuần hoàn. Người ta câu nệ vì phép tắc mà ta thì bày ra phép tắc. Ai đặt phép hay thì thần linh làm sáng phép ấy. 133.- HỌC HỎI: Xét tính mệnh để rõ nguồn gốc việc binh. Tìm tòi sử xưa để thấy dấu vết của việc binh. Biết hết tượng số để thấu triệt tượng trưng của việc binh. Biết thời vụ để thông suốt qui tắc của việc binh. Khảo sát khí cụ để biết rõ các vật dụng trong nghề binh. Khi tĩnh có thể lập mưu mà không để tiết lộ ra ngoài. Khi ra ngoài ắt tìm tòi điều mong muốn của người để sửa trị thiên hạ. 134.- LỄ TƯỚNG: Tướng mùa đông không mặc áo cầu, mùa hè không phẩy quạt, gặp mưa không che lọng, đó gọi là lễ tướng, chẳng tự mình theo lễ thì không thể biết sự nóng rét của sĩ tốt. Ra khỏi nơi quan ải, gặp đường bùn lầy, tướng phải xuống bước đi bộ, đó gọi là lực tướng, nếu chẳng ráng sức thì chẳng biết sự lao khổ của sĩ tốt. Khi đóng quân, chờ quân đã sắp đặt xong, tướng mới vào quán nghỉ, chờ thức ăn quân sĩ nấu chín xong, tướng mới ăn, quân không đốt lửa thì tướng cũng không đốt lửa, đó gọi là ngăn điều muốn. Nếu tướng không ngăn điều thèm muốn thì không biết sự no đói của sĩ tốt. 135.- CHIA LOẠI ĐỂ LUYỆN TẬP: Hỏi: Phép luyện tập sĩ tốt phải như thế nào? Đáp: Trong quân nếu có những kẻ mạnh dạn, liều chết, không sợ bị thương tích thì gom họ lại thành một toán gọi là quân xông pha gươm dáo (quân cảm tử). - Nếu có những kẻ trèo cao, vượt xa, nhanh chân, chạy giỏi, thì gom họ lại thành một toán gọi là quan binh. - Nếu có hạng vương thần thất thế muốn được lập công trở lại thì gom họ thành một toán gọi là quân tử đấu (liều chết). - Nếu hạng con em của tướng chết trận muốn báo thù cho tướng ấy thì gom lại thành một toán gọi là quân tử phẫn (phẫn uất mà liều chết). - Nếu có những kẻ nghèo khó tức giận muốn được thỏa chí thì gom họ lại thành một toán gọi là quân tất tử (quyết chết). 136.- QUI CỦ: Vua Đường Thái Tôn nói: Gia Cát Lượng nói là binh có quy củ mà tướng bất tài cũng sẽ không thể thất bại, binh không có quy củ mà tướng tài giỏi cũng không thể thắng được. Trâm nghi ngờ rằng bàn luận ấy chưa được chí lý. Lý Tịnh đáp rằng: Võ Hầu nói như thế hơi quá đáng. Thần xét Tôn Tử có nói rằng: Răn dạy và tập luyện không sáng suốt, lại và tốt thay đổi không thường, bày trận ngang dọc, đó gọi là rối loạn. Từ xưa các trường hợp nhờ quân ta rối loạn mà địch được thắng lợi không thể đếm xuể. Răn dạy không sáng suốt có nghĩa là giáo huấn và kiểm soát không đúng theo phép xưa. Lại và tốt không thường có nghĩa là tướng tá và quan lại giữ chức được lâu. Quân ta loạn đem lại thắng lợi cho địch có nghĩa là quân ta tự tan vỡ, chớ không phải địch đánh thắng ta. Bởi thế cho nên Võ Hầu nói là sĩ tốt có qui củ thì dầu tướng súy là người tầm thường, binh ấy cũng không thất bại. Nếu sĩ tốt tự rối loạn, dầu là tướng tài cũng phải chịu nguy hại, như thế không còn nghi ngờ gì nữa. Vua Thái Tôn nói: Về phép giáo duyệt thì phải tín thực, không thể sao nhãng. Tịnh nói: Dạy mà đúng đạo thì quân sĩ vui lòng làm theo. Dạy mà không đúng phép thì tuy sáng thúc dục, chiều quở trách cũng không ích gì cho công việc. Hạ thần thường xuyên xét qui chế đời cổ, soạn được nhiều đồ hình nhờ đó tổ chức được đạo binh có qui chế. Vua Thái Tôn nói: Khanh hãy vì ta mà kể lại các trận pháp, nhất là các đồ hình. 137.- TRẬN LỤC HOA: Vua Thái Tôn nói: Trẫm cùng Lý Tích bàn luận về binh pháp phần nhiều cũng giống với ý kiến của khanh, chỉ có khác là Lý Tích không cứu xét đến xuất xứ. Hỏi khanh chế trận pháp lục Hoa từ thuật nào mà ra? Tịnh nói: Tôi vốn học theo phép Bát Trận của Gia Cát Lượng, trận lớn bọc trận nhỏ, các góc các cạnh đều liền nhau, khúc chiết đối diện nhau. Đời xưa bày ra như thế, hạ thần theo đó mà vẽ đồ hình, cho nên bên ngoài vẽ hình vuông, bên trong vẽ vòng tròn, do đó mà có tên trận là Lục Hoa. Vua Thái Tôn hỏi: Trong tròn, ngoài vuông, vì sao gọi như thế? Tịnh đáp: Vuông sinh ở bộ, tròn sinh ở kỳ, dùng vuông làm qui củ cho bộ, dùng tròn để nối vòng quanh, Như thế bộ số định ở đất, hàng nối ứng với trời. Khi bộ được định, vòng nối được tề chỉnh thì sự biến báo không loạn. Bát trận mà làm sáu là phép cũ của Võ Hầu. Vua Thái Tôn nói: Vẽ hình vuông để thấy bộ, điểm vòng tròn để thấy binh. Về bộ thì dạy phép dùng chân, về binh thì dạy phép dùng tay. Khi tay chân đều được tiện lợi, như thế là quá nửa rồi chăng? Tịnh nói: Ngô Khởi nói rằng: Xa mà không lìa, lui mà không tan, đó là bộ pháp. Dạy quân sĩ cũng giống như bày cờ trên bàn, nếu không vẽ đường cho cờ đi, thì làm sao đánh cờ được? Tôn Tử nói rằng: Đo đất đai để biết rộng hẹp, dài ngắn, đo rồi thì phải ước lượng để biết nhiều ít, ước lượng rồi thì phải tính số, tính số rồi thì phải cân nhắc để biết nặng nhẹ, cân nhắc rồi thì sự thắng bại có thể quyết đoán được. Binh thắng giống như lấy quả dật (20 lạng) so với quả thù (1/24 lạng). Binh bại giống như lấy quả thù so với quả dật, tất cả đều do sự đo lường vuông tròn cả. Vua Thái Tôn nói: Sâu sắc thay lời nói của Tôn Tử. Không đo lường thế đất xa hay gần, hình dạng rộng hay hẹp thì làm sao đặt ra tiết độ được? Tịnh nói: Tướng quân tầm thường có thể biết tiết độ được. Kẻ đánh giỏi có thế đánh rất nguy hiểm, thời nhịp hành động của họ thật chớp nhoáng, thế đánh giống như giương nõ, thời nhịp giống như phóng tên. Hạ thần theo thuật ấy, phàm khi lập đội đều để cách nhau mười bước, trú đội cách sư đội hai mươi bước, mỗi khoảng cách một đội, lập một chiến đội, phía trước tiến lên lấy năm bước làm tiết, nghe một tiếng giốc thì các đội đều tản ra, đứng không cách nhau quá mười bước. Đến tiếng giốc thứ tư thì những quân cầm thương đều quì xuống. Bấy giờ đanh ba tiếng trống, hô lên ba tiếng, để chế ngự sự biến hóa của quân địch từ ba mươi đến năm mươi bước. Đến khi gặp việc thì xếp đằng trước là chính, đằng sau là kỳ, để xem địch ra sao. Đến khi đanh trống lần nữa thì sắp kỳ ở đằng trước, sắp chính ở đàng sau, chờ địch đến để xem chỗ sơ hở, yếu ớt của địch. Trận Lục Hoa đại để là như thế. 138.- CỜ XÍ: Vua Thái Tôn hỏi: Về phương sắc lấy năm cờ làm chính chăng? Dùng cờ phan vẫy xông vào đánh làm kỳ chăng? Lấy phân hợp làm biến, lấy số đội cho thích nghi chăng? Tịnh nói: Hạ thần dùng theo phép xưa, phàm ba đội hợp lại thì cờ dựa vào nhau mà không tréo nhau, năm đội hợp thì hai cờ tréo nhau, mười đội hợp thì năm cờ tréo nhau. Thổi tiếng giốc, mở năm lá cờ tréo nhau thì một lại tản ra làm mười, mở hai lá cờ tréo nhau thì một lại tản ra làm năm, mở thứ cờ dựa nhau mà không tréo nhau thì một lại tản ra làm ba. Binh tản thì lấy hợp làm kỳ, binh hợp thì lấy tản làm kỳ. Dặn dò đôi ba phen rằng ba tản năm hợp rồi rở về chính. Như thế bốn sư, tám đuôi có thể tập hợp được, phép sử dụng đội ngũ mới thích nghi được. Vua Thái Tôn khen hay. 139.- PHÉP HOẠCH ĐỊA: Vua Thái Tôn hỏi: Sách Thái Công nói rằng: Đất vuông hoặc 600 bước, hoặc 60 bước, đều tiêu biểu cho 12 giờ, thuật ấy như sao? Tịnh đáp: Vạch đất vuông 2200 bước, là hình khai phương. Mỗi bộ chiếm đất vuông vức 20 bước, bề ngang 5 bước đặt một người, bề dọc 4 bước đặt một người. Tất cả 2500 người chia ra 5 phương, là không địa và bổn xứ. Cái gọi là khoảng trận là chỗ chứa trận vậy. Võ Vương đánh Trụ, dùng quân hổ bôn là 3.000 người, mỗi trận 6.000 người, cộng lại là 3 vạn quân, đó là phép hoạch địa (chia đất) của Thái Công. Vua Thái Tôn hỏi: Trận Lục Hoa của khanh chiếm bao nhiêu đất? Tịnh đáp: Đất Đại Duyệt vuông vức 1300 bước, nghĩa là Lục Trận chiếm 400 bước chia ra hai khu đông tây. Không địa 1200 bước là chỗ dạy đánh. Hạ thần thường dạy 3 vạn quân sĩ, mỗi trận 5.000 người, lấy một trận để dạy phép cất dinh trại, lấy năm trận để xếp đặt hìnhn thế vuông, tròn, cong, thẳng, nhọn. Mỗi trận có năm lần biến, tổng cộng là 25 lần biến trở lên. Vua Thái Tôn hỏi: Trận Ngũ Hành như thế nào? Tịnh đáp: Vốn theo 5 phương, sắc mà đặt ra tên ấy, còn 5 trận vuông, tròn, cong, thẳng, nhọn là do địa hình mà ra. Nếu không tập sẵn 5 thứ trận ấy, làm sao có thể gặp địch được? Thuật cầm binh là thuật dả dối, nên tạm gọi là ngũ hành. Bề ngoài thì lấy nghĩa ở thuật số là tương sinh, tương khắc, mà thực ra bề trong hình thế của binh là giống như nước, tùy theo hình dạng của đất đai mà tìm đường chảy, ý nghĩa là như thế. 140.- CÁCH TẬP LUYỆN: Người ta thường chết ở chỗ mà mình bất lực, thường thất bại ở chỗ bất tiện cho mình. Cho nên trong phép dùng binh, sự tập luyện phải đứng đầu. - Một người học đánh, dạy lại vạn người biết đánh. - Vạn người học đánh, dạy lại thành ba quân biết đánh. Lấy ta ở gần chờ đánh địch từ xa tới. Lấy ta nhàn chờ đánh địch mệt. Lấy ta no chờ đánh địch đói. Binh ta đang bày viên trận, ta buộc chúng đổi thành phương trận. Binh ta đang ngồi, ta buộc chúng đứng dạy đi. Binh ta đang đi, ta buộc chúng đứng lại. Binh ta đang đi qua trái, ta buộc chúng đi qua phải. Binh ta đang quay ra trước, ta buộc chúng quay ra sau. Binh ta đang phân tán, ta buộc chúng tụ hợp lại. Binh ta đang kết hợp, ta buộc chúng giải tán. Mỗi việc biến dịch ấy đều phải tập luyện cho quen thuộc rồi mới sử dụng binh ấy được, đó là phận sự của tướng súy. 141.- KIỂM SOÁT VIỆC TẬP LUYỆN: Binh sĩ thường ngày chìm đắm trong cảnh tiện nghi, an lạc, không được tập quen sự cần lao. Nay muốn sửa lại sự đồi trụy, luyện gân cốt, làm cho mạnh khỏe thì không gì bằng thi hành phép tắc then chốt sau này. Từ nay trở về sau phải kiểm soát xem các quan đốc phủ, đề trấn có theo lệ cử hành việc tập luyện cho đều hay không? Mỗi năm vào khoảng thu đông, phải cử hành hai ba lần để tập cho lính quen việc lao khổ và khuyến khích sĩ khí, phép ấy rất hay. 142.- THƯỞNG PHẠT TRONG KHI TẬP LUYỆN: Về giáo lệnh trong việc binh, việc chia dinh lập trận, nếu có ai không nhận được lệnh mà cứ tùy ý tới lui, thì buộc họ vào tội trái lệnh. Ai cần đi trước, hoặc đi sau, hoặc đi bên phải, hoặc đi bên trái, thì nên dạy họ phải đi như thế nào. Việc răn dạy được chu đáo, thì người thủ lãnh được thưởng. Không răn dạy cũng đồng một tội như là trái lời dạy vậy. Khi lâm trận, một ngũ (toán 5 người) phải hành động như một người.Nếu có một người không chịu liều chết tiến đánh quân địch thì người răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp. Mỗi thập (toán 10 người)phải tự giữ gìn, nếu mất một người mà chín người không liều chết tiến đánh quân địch thì người răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp. Từ thập trở lên cho tới tỳ tướng nếu có ai trái phép thì người răn dạy cũng có tội như kẻ phạm pháp. Người ngũ trưởng (cầm đầu ngũ) dạy bốn người kia, lấy ván làm trống, lấy ngói làm chiêng, lấy trúc làm cờ. Nghe đánh trống thì tới, thấy hạ cờ thì chạy, nghe đánh chiêng thì lui. Thấy vẫy cờ thì quay qua trái, vẫy cờ thì quay qua phải. Nghe chiêng trống cùng đánh thì ngồi. Ngũ trưởng luyện tập xong thì hợp với tốt trưởng, toết trưởng luyện tập xong thì hợp với bá trưởng, bá trưởng luyện tập xong thì hợp với binh úy, binh úy luyện tập xong thì hợp với đại tướng, đại thướng luyện tập xong thì bày trận ở đồng giữa, đặt bảng lớn, cứ 300 bước một bảng. Bày xong thì đi gấp rút cách bảng 100 bước, phóng gấp 100 bước. Tập đánh cho đúng tiết độ rồi bày ra thưởng phạt. 143.- CHIA THỨ HẠNG SANG HÈN: Ngày xưa muốn răn dạy dâng chúng, người ta phải chia thứ hạng sang hèn, để cho những kẻ học kinh sử chẳng tranh giành nhau, những kẻ đức nghĩa chẳng lấn lướt nhau, những kẻ tài nghề chẳng che giấu nhau, những kẻ mạnh dạn chẳng xúx phạm nhau, nhờ đó mà ý chí đồng nhất, tâm ý hòa hợp. 144.- TRIỀU ĐÌNH VÀ QUÂN NGŨ: Ngày xưa, khách của triều đình không được vào quân ngũ, khách trong quân ngũ không được vào triều đình cho nên tài đức chẳng lấn nhau. 145.- KHUA ĐỘNG: Về các cách khua động, thì có phất cờ xí, đập xe, đập ngựa, khua binh khí, vỗ đầu, dậm chân: bảy cách khua động đều phải thực hành một lần. 146.- KHUYẾT ĐIỂM: Nếu đông cũng như ít, hơn cũng như thua, binh khí chẳng sắc bén, giáp trụ chẳng bền bỉ, xe không vững chắc, ngựa không chạy hay, đông mà chẳng tự mình có nhiều, như thế là chưa được đạo. 147.- TÁM TRẬN, CHÍN QUÂN: Khí thế mạnh mẽ đều do tám trận Thiên, Địa, Phong, Vân, Long, Hổ, Điểu, Xà mà ra. Lại lập ra chín quân, để phân biệt rõ, và xây đắp khí thế của trận hình. Một là thân quân gồm những gia đinh mạnh mẽ để hộ vệ đại tướng. Một là phẫn quân gồm những người muốn báo thù, nguyện đi trước. Một là thủy quân có thể xông pha sóng nước, lật thuyền trộm chèo. Một là hỏa quân có thể phi ngựa xông pha lửa đạn, từ xa đến hãm trận địch. Một là cung nỗ quân có thể ẩn nấp chỗ hang hầm, kéo dây cung cùng buông tên một lượt, chế ngự được quân địch nhgoài trăm bước. Một là xung quân có sức mạnh lay chuyển núi non, khí thế hiện ra ở cờ xí, dùng để hãm trận người, bắt bọn giặc mạnh. Một là kỵ quân, kiêu dũng khác thường, phóng ngựa qua lại giữa hai trận, đuổi đánh quân địch ở chốn xa xôi. Một là xa quân, tài sức khéo léo nhanh nhẹn, tới thì xông pha tên đá, lui lấn át quân kỵ, khiến địch không thể đụng đến ta. Một là du quân qua lại lanh lẹ để tuần phòng, cứu ứng ba quân, mọi cử động đều liên hệ đến ba quân, có những kẻ leo trèo nhanh nhẹn, đi như rắn, nấp như chuột, leo đèo, xuống vực, vượt thành, khoét vách… Chín toán quân nói trên chạy đi chạy lại để che chở trung quân, còn dư thì chia ra tám góc. Ở các góc để chế ngự, hợp lại để cùng ra quân. Có thể co, có thể dãn, khiến cho trong một trận tất cả huyết mạch đều liên lạc với nhau, liên kết chằng chịt mà thông suốt hết thảy. 148.- HÒA HIẾU VÀ THÀNH TÍN: Kết hợp ba quân thì được đông đảo vậy. Chỉ nhờ vào sự hòa hiếu để kết hợp mà thôi. Kẻ trí xét nó, kẻ dạn dùng nó, kẻ muốn thỏa mãn nó, kẻ bất khuất nuôi sống nó. Làm bộc lộ sự căm tức, làm sống lại hận thù. Thấy mụt nhọt của người như của mình, bắt tội người mà trừ giết thì như tỏ lòng bất nhẫn. Kẻ có công lao nhỏ nhặt cũng phải ghi chép. Kẻ làm được việc thì ban cấp chẳng thường. Được tiền của thì chia đều. Đối với kẻ theo hầu giúp việc thì thương xót. Vỗ về dân chúng, tìm mời kẻ thành tín. Bắt địch chớ giết nhiều. Nếu thành tín như thế, há chỉ có ba quân tuân theo sự chỉ huy của ta thôi đâu? Tất cả thiên hạ sẽ trông ngóng ta như đón gió mát vậy. 149.- CẦM BINH: Việc binh chẳng phải là việc hay. Cái tài làm lợi cho mình cũng là cái tài chuốc hại vào mình. Kẻ mạnh ắt phải giết, kẻ dạn ắt có lòng lang sói. Kẻ trí ắt phải giả trá, kẻ mưu đồ ắt phải nhẫn nhịn. Việc binh không thể bỏ sót những kẻ mạnh, dạn, trí, mưu mà không dùng, tức là không thể bỏ sót những kẻ lang sói, ham giết, giả trá, nhẫn nhịn. Cho nên kẻ cầm binh giỏi thì dùng được tài năng, bỏ điều bất lợi, thâu thập điều bổ ích, trừ khử điều tổn hại, như thế thiên hạ không khi nào thiếu kẻ tài năng. Kẻ cựu thù cũng có thể chiêu vời, kẻ làm giặc cũng có thể vỗ về, kẻ trộm cướp cũng có thể cất nhắc. Kẻ quả cảm khinh thường pháp luật, kẻ theo hùa với quân địch, và kẻ xa lạ đều có thể dùng được cả. 150.- RÈN LUYỆN: Ý khởi mà sức yếu, đó là khí suy. Sức dư mà lòng sợ trở ngại, đó là thiếu gan mật. Lúc khí đã suy, gan mật đã mất, thì trí dũng cũng hết mà không thể dùng. Cho nên cần phải lập thế để luyện khí, coi nhẹ thắng lợi để luyện mật, bày tỏ lòng mình để luyện tình, tập tành để luyện trận. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 9, 2011 151.- KHÍCH LỆ: Khi khích lệ quân sĩ, chẳng nên nhờ cậy vào pháp luật. Danh vọng được thêm thì kẻ cương dũng phấn khởi. Đem lợi lộc mà dẫn dụ thì kẻ nhẫn nại, quả quyết sẽ phấn khởi. Dùng thế lực mà bức bách, lấy nguy nạn mà vây hãm, dùng xảo thuật mà lừa dối thì kẻ nhu nhược cũng phấn khởi. Nếu tướng biết thi ân, thị uy thì lòng quân hòa hiệp, việc mưu đồ sẽ thành tựu, ắt là sĩ tốt trong ba quân sẽ giống như rồng cọp rình mồi, khi gặp địch thì khắc chế ngay mà lại có thể lập thế giúp oai nêu cao tiết khí, nếu có thua chạy cũng không mất nhuệ khí, tuy gặp nguy nan vẫn không sờn lòng, như thế bất kỳ ai, ở lúc nào cũng được phấn chấn. 152.- PHÁP LỆNH: Ràng buộc ngựa thì lấy giàm mà đóng vào đầu, muốn ràng buộc binh sĩ thì dùng pháp lệnh. Cho nên muốn hơn thiên hạ thì không thể bỏ pháp luật. Nhưng phải thi ân trọng hậu rồi mới có thể thi hành pháp luật. Hình phạt phải thi hành rồi sau mới lập uy được. Như thế kẻ giỏi dùng binh lấy tiêu chuẩn được, thua để định công tội, biết rõ ai đánh, ai chạy để cứu giúp kẻ tổn thương. Giết một người mà mọi người khiếp uy, phạt kẻ hèn nhát, chém kẻ thất bại, mà quân sĩ càng thêm phấn khởi. Đứng nghĩ lặng lẽ như núi non, chuyển động mau lẹ như băng đổ, khiến cho quân sĩ không dám khinh lờn phép tắc, cho nên chỉ thắng lợi mà không thất bại. 153.- DÙNG TÀI: Than tiếc rằng trời khó sinh nhân tài mà có kẻ sĩ trí mưu đến nhờ vả lại không được trọng dụng, có tướng chịu đi đánh địch mà ta lại ngăn cản. 154.- LO NGHĨ ĐẾN QUÂN SĨ: Kẻ làm tướng phải hỏi thăm việc hư hại, chẳng bao giờ sai khiến mà không thông cảm, đó là cách lo nghĩ bậc nhất đến quân sĩ. Khi quân sĩ phải mang giáp trụ trải nắng dầm sương, đói khát thiếu thốn, thân thể bị thương tích mà chẳng dám than khổ, gặp cơn hiểm nạn mà chẳng dám kêu mệt, cho nên kẻ giỏi dùng binh chẳng để quân sĩ của mình bị địch vây hãm, ai theo thì dùng, ai bỏ thì giết, đó là cách lo nghĩ đến quân sĩ vậy. 155.- NHUỆ KHÍ: Nuôi uy thì quý ở sẵn có, ứng biến thì quý ở mưu cao. Hai quân đang đánh nhau, nghe hô một tiếng thì phấn khởi, đó chỉ nhờ nhuệ khí mà thôi. Quân địch đông đảo đánh tới dữ dội, còn ta ít quân mà tới ngăn chặn chúng được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Giữa đám quân địch, quân ta ra vào, lui tới, xông xáo dọc ngang được, đó cũng là nhờ nhuệ khí. Tướng kiêu dũng, mạnh mẽ, dữ tợn, đó là tướng có nhuệ khí. Như gió, như mưa, làm rung chuyển núi rừng, đó là có nhuệ khí. Tướng đánh tới dữ dội, quân nhảy tới xông xáo, đó là tướng, quân đều có nhuệ khí. Dùng nhuệ khí không đúng chỗ thì vấp ngã, không có nhuệ khí thì suy. Có cơ trí mà có thể chu toàn, phát ra mà thâu lại được thì nhuệ khí không bao giờ hết. 156.- PHÉP CHIẾN ĐẤU: Phép chiến đấu là so sánh đạo nghĩa, lập tốt ngũ, định hàng cột, chỉnh đốn đường ngang lối dọc, xét danh thực. Khi đứng mà đi tới thì cúi xuống, khi ngồi mà đi tới thì quỳ gối. Sợ thì sắp cho dày, thấy nguy hiểm thì ngồi xuống. Ở xa mà nhìn thì không sợ, ở gần đứng nhìn thì không tan rã. Dưới ngôi vua, quân hai bên trái phải bỏ giáp ngồi xuống, thong thả thề nguyền. 157.- HỔ BÔN: Trong một toán quân, ắt có hạng hổ bôn (dũng sĩ) có sức gánh nổi vạc, khỏe chân chạy hơn ngựa nhung, đều đủ sức giật cờ giết tướng. Nếu được như thế, nên chọn riêng họ ra để mà thương yêu quí mến họ, đó gọi là quân lệnh. Chia họ ra năm thứ binh, có tài năng, có sức mạnh, có sức khỏe, nhanh nhẹn, nuôi chí nuốt địch. Ban thêm phẩm tước cho họ, để họ quyết thắng, chăm nom cha mẹ vợ con của họ, thưởng để khuyến khích họ, phạt để họ sợ uy, đó là phép bày trận vững chắc, có thể giữ gìn lâu dài. Biết xét liệu việc ấy thì có thể dấy binh gấp bội. 158.- CONG THẲNG: Võ Hầu nói rằng: Biết trước được cái kế cong thẳng thì sẽ thắng, đó là phép tranh giành. 159.- HIỆU LỆNH: Sách Quân Chính nói rằng: Nói mà không nghe nhau nên mới bày ra chiêng trống. Nhìn nhau mà không thấy nên mới bày ra cờ xí. Mọi người đã chuyên nhất nên kẻ mạnh dạn không được tiến tới một mình, kẻ khiếp sợ không dám đi lui một mình, đó là phép sử dụng số đông vậy. 160.- ĐIỀU TRÔNG MONG: Năm điều trông mong: - Mong sĩ tốt được tráng kiện - Mong cung tên bắn trúng - Mong tập luyện dao, dáo được tinh thục - Mong bộ ngũ bày trận được hợp độ - Mong dùng chiên trống cờ xí cho đúng tiết Không được làm điều gì bậy bạ vô ích. Cho nên nếu không trông mong ở công việc thì có thể trông mong thắng trận được sao? 161.- PHÂN CÔNG: Theo phép giao chiến thì kẻ ngắn cầm mâu kích, kẻ dài cầm cung nỏ, kẻ mạnh cầm cờ xí, kẻ dạn cầm chiêng trống, người yếu làm việc vặt vãnh và nuôi ăn, người trí làm chủ mưu, hàng xóm nương nhau, các đội thập đội ngũ che chở nhau. 162.- CHIÊNG TRỐNG: Nghe một tiếng trống thì sắp binh chỉnh tề, nghe hai tiếng trống thì tập trận, nghe ba tiếng trống thì đi ăn, nghe bốn tiếng trống thì làm việc nghiêm chỉnh, nghe năm tiếng trống thì vào hàng, nghe trống và chiêng cùng đánh một lần rồi mới đưa cờ lên. QUÂN LỄ VÀ THƯỞNG PHẠT 163.- LỄ NGHI: Muốn trị quân thì dùng lễ và giữ đầu cán trong tay mình. Theo phép trị quân thì nhỏ hay lớn đều phải giữ lễ nghi, lòng biết đủ phải thực hành ra. Trị quân mà không nhờ vào lễ nghi thì kẻ trợ tá sẽ xúc phạm tướng suý, tướng suý sẽ xúc phạm thiên tử, do đó sinh ra các việc họa hoạn. Quyền bính tối cao không thể không ở trong tay mình. Nếu quyền bính bị rơi vào tay kẻ dưới thì trên dưới có thế lực bằng nhau, trên chẳng sai khiến được dưới, dưới chẳng trình bẩm người trên, đó là bởi quyền bính tối cao không ở trong tay mình. Đời Hậu Đường quân sĩ giết Tiết Độ Sứ rồi giành luôn chức vụ của người bị giết. (Gần đây nhà Trịnh suy yếu không kiềm chế được người dưới, quân sĩ sinh kiêu căng đem đến cảnh loạn vong, trường hợp này cũng giống như trường hợp trước)*. * Đoạn này do người đời sau thêm vào, nhắc tới loạn "kiêu binh" thời Trịnh Khải. 164.- SĨ KHÍ: Trao kiếm dấy binh, giết trâu bò để đãi quân sĩ, an ủi và khích lệ sĩ tốt thì sĩ khí sẽ tăng gấp bội. Nên trọng thưởng công lao giữ gìn biên giới. 165.- GHI CHÉP CÔNG LAO NHỎ NHẶT: Nghe giặc xâm phạm biên giới, bọn gian bèn âm mưu làm loạn. Bậc nhân thần phụng mệnh ra quân để chỉnh đốn vương quốc, bảo tồn vương nghiệp, lập công trạng lớn lao. Binh pháp nói rằng: công lao nhỏ nhặt mà không được ghi chép thì chẳng nên thưởng công lao ngoài biên giới. 166.- MIỄN LỄ NGHI CHO QUÂN SĨ: Trong quân thì ráng sức mà tiến lên, trong hàng ngũ thì thi đua lấy thành quả. Mang giáp trụ thì không lạy, ngồi binh xa thì không làm lễ. Nên việc thì chẳng để sai chệch, gặp cảnh nguy nan chẳng sờn lòng. Cho nên lễ nghi và phép tắc là bề ngoài và bề trong, văn và võ là tay phải tay trái. 167.- TIẾP ĐÓN BỀ TRÊN: Nếu bề trên đi kiệu mà đến, thì đạo tôi con là phải giết trâu bò, rót rượu mà đãi đằng trăm quan, há dám vin cớ có giặc mà thiếu lễ với bậc vua, cha hay sao? 168.- TRỄ NÃI, ĐÀO NGŨ: Lính đến trại của đại tướng trễ sau tướng và lại sĩ một ngày thì cha mẹ vợ con cũng mang tội như nhau. Lính trốn về nhà một ngày mà cha mẹ vợ con chẳng bắt nộp hay không báo cáo thì mang tội như nhau. 169.- BỎ RƠI ĐỒNG NGŨ: Ham đánh mà quên cả tướng súy và lại sĩ hay là tướng súy và lại sĩ bỏ rơi quân lính mà chạy trốn một mình thì phải đem chém hết. Lại sĩ trước bỏ lính mình mà chạy, lại sĩ sau chém được lại sĩ trước và giữ lính lại thì được trọng thưởng. 170.- LIÊN ĐỚI TRÁCH NHIỆM: Ba quân đang đánh lớn, nếu đại tướng chết mà có trên 500 quân theo lại sĩ không chịu liều chết đánh lại quân địch thì phải chém hết, các quân lính theo hầu gần đại tướng ở giữa trận cũng phải chết chém. Ngoài ra các sĩ tốt có công trạng phải bị giáng xuống một cấp, sĩ tốt không có công trạng thì phải đi lính thú ba năm. Trong một ngũ có người thất lạc hay chết mà không lấy được thây, thì mọi người trong ngũ đều mất hết công trạng, nếu tìm được thây thì xá tội hết thảy. 171.- BA THẮNG LỢI: Nay dùng pháp luật để trừng trị sự bỏ trốn, ngăn ngừa sự giảm quân số, đó là thắng lợi thứ nhất về việc binh. Thập và ngũ nối liền nhau. Khi chiến đấu, lính và lại sĩ cứu nhau, đó là thắng lợi thứ hai của việc binh. Tướng giữ uy vũ, lính giữ tiết độ, hiệu lệnh tính thực, đánh hoặc giữ đều thành công, đó là thắng lợi thứ ba của việc binh. 172.- LỆNH NGĂN CẤM QUÂN SĨ: Nghe rằng người xưa trị quân, khi trời mưa, trong quân có người lấy của dân một cái nón để che đầu thì người ấy phải bị chém đầu để rao cho mọi người biết. Huống là chặt phá cây cối, dẫm nát ruộng nương của dân, phá hủy nhà cửa của dân, gian dâm, trộm cắp, chặt đầu của binh sĩ chết (?), giết con trai của giặc, làm nhục vợ của giặc, thậm chí giết thường dân bừa bãi rồi chặt đầu bảo là đầu giặc, như thế lý trời chẳng dung, phép vua chẳng tha. Ai mang tội ấy thì sẽ bị xét xử theo quân pháp. 173.- THƯỞNG NGƯỜI NHỎ, PHẠT NGƯỜI LỚN: Tướng lấy việc giết người lớn làm uy, thưởng người nhỏ làm sáng suốt. Bởi vì giết người đang ở địa vị quý trọng, đó là hình pháp cực nghiêm vậy. Thưởng cho kẻ chăn trâu, giữ ngựa, đó là sự tưởng thưởng thông suốt tới người dưới. Do đó mà tướng suý xây dựng được uy tín cho mình. 174.- DÙNG NGƯỜI: Lính chưa thân thiết với mình mà đã phạt chúng thì chúng không phục, nếu chúng không phục thì khó dùng. Khi lính đã thân thiết với mình mà sự trừng phạt không thi hành thì cũng không dùng được. Cho nên lấy văn mà sai khiến chúng, lấy võ mà sửa trị chúng, đó là phép dùng người. Mệnh lệnh mà mình đã tự thi hành rồi đem ra dạy dân thì dân sẽ phục, mệnh lệnh mà mình tự thi hành rồi đem ban bố cho dân thì sẽ được hợp ý. MẠC HẠ 175.- CHỌN LỰA NHÂN VIÊN CHO MẠC PHỦ (BỘ TƯ LỆNH): Chọn hai người cho việc thiên văn: Xem sao, xem lịch, xét phong thổ, khí hậu, chọn ngày giờ, quan sát các việc thiên tai quái dị. Chọn hai người coi việc địa lợi: xét hình thế đất đai lợi hại, xa gần, khó dễ. Chọn hai người coi việc coi việc binh pháp: giảng luận binh pháp, luyện tập việc binh. Chọn hai người coi việc thư toàn (kế toán): ghi chép lương hướng, quân số, khí giới. Chọn hai y sĩ: để điều trị quan nhân. Chọn ba du sĩ (điệp viên hay thám tử): để làm việc gián điệp, tuần thám. Chọn bốn người coi việc thư từ (công văn): để soạn thảo các từ, trát, chương, sớ, viết các bài tấu, biểu. 176.- DÙNG PHÉP KỲ (TRÁI VỚI PHÉP CHÍNH): Cầm quân mười vạn, biết bao nhiêu là sĩ tốt phải chết vì xông pha nguy hiểm, cho nên không thể dùng phép kỳ. Đem quân đi đường ngàn dặm, gặp biết bao nhiêu là gián điệp tài nghề thần diệu nên cũng không thể dùng phép kỳ. Ta xem các nhà chuyên dùng phép kỳ, hễ mưu kế lập sẵn rồi thì thành công, còn nếu gặp đánh bất ngờ thì phải thất bại, thực có trường hợp như thế. Há chẳng phải quân cảm tử chẳng giúp tướng súy, gián điệp chẳng được tưởng thưởng công khai! Ân huệ đã cảm động được lòng người, nghĩa khí đã kết thành, thế mà thường phải lo sợ không rằng được, huống hồ là tướng súy chẳng từng trải gian lao, huống hồ là lương hướng không sẵn sàng, bấy giờ gặp lúc cần kíp, nháy mắt còn chưa kịp, dẫu có dùng phép kỳ, đâu có thể mình tự dùng được hay sao? 177.- DÙNG NHÂN TÀI: Bậc vương giả có nhiều người làm tay chân, tai mắt, bậc đại tướng có lắm kẻ làm vây cánh giúp rập. Cho nên quân đội dùng nhân tài giống như triều đình. Có hạng trí sĩ (kẻ sĩ có mưu trí) coi việc tham mưu, việc tán hoạch, việc mưu lược, dùng ngay dưới trướng để quyết định việc quân cơ. Có hạng dũng sĩ (kẻ sĩ mạnh dạn) như là kiêu tướng, kiện tướng, mãnh tướng … chuyên lo việc quyết chiến, xung đột, dẫn quân đảm đương các việc nguy hiểm trước mọi người. Có hạng thân sĩ (kẻ sĩ thân cận) như là tư tướng, ốc tướng, nha tướng, cốt để hầu gần ở hai bên mình, tuyên bố mệnh lệnh, nắm giữ cơ quyền. Có hạng thức sĩ (kẻ sĩ biết rộng) hiểu trận nghi, biết biến hóa xem cảnh trí, thăm dò mây, nước, gió, mưa, xét đất đai, thấy rõ địch tình, biết được điều sâu kín, nhỏ nhặt, quyết định việc quân tới, lui, ngừng nghỉ. Có hạng văn sĩ (kẻ sĩ văn học) thông suốt việc xưa nay, hiểu rõ dịch lý, giữ gìn nghi tiết, soạn thảo các tờ hịch sớ, từ, chương … Có hạng thuật sĩ (kẻ sĩ biết pháp thuật) thông thạo các việc thần linh, âm dương, ngày giờ tốt xấu, bói toán, pháp thuật, để làm lợi cho mình, tổn hại cho địch. Có hạng số sĩ (kẻ sĩ coi về toán số), coi sổ sách kế toán, quân số, việc bổ dụng, thăng thưởng, quân nhu … Có hạng kỹ sĩ (kẻ sĩ khéo léo) như kiếm khách, cảm tử, giỏi việc trộm cướp, giỏi việc du thuyết, gián điệp, ra vào thành lũy của địch một cách dễ dàng… Có hạng nghệ sĩ (kẻ sĩ có nghề riêng) lo về tiền của, khí cụ, đào hào rãnh, tu bổ vật hư hỏng, sáng chế các máy móc lạ lùng… Ngoài ra, mỗi người đều có biệt tài, thí dụ như cười đùa, nhảy múa, chưởi mắng, ca hát, nấu nướng, giả dạng, chạy nhanh … 178.- TRÍ VÀ LỰC: Trời sinh ra người, nếu khí tụ tại trung hư thì sinh ra trí tuệ, nếu khí tan ra bốn tay chân thì mộc mạc. Mộc mạc thì có nhiều sức. Kẻ trí thì yếu ớt. Những kẻ trí dũng kiêm toàn ở trên đời không có nhiều. Cho nên ai hơn được một trăm người thì đứng đầu một trăm người, ai hơn được một ngàn người thì đứng đầu một ngàn người. Hơn một ngàn người thì thành một quân. Ai có tài ứng biến với thời cơ, có thể đương đầu với một cuộc tấn công thì đủ sức làm trưởng quân (cầm đầu một quân). Quân có lúc bị cô đơn, sai khiến tướng quân ắt mong dùng lấy một mình, cho nên nếu giỏi dùng nhân tài thì kẻ trợ tá cũng có thể làm đại tướng. BINH CỤ 179.- CÔNG DỤNG CỦA MỖI ĐỒ VẬT: Móc, dùi dùng để làm đất Búa, rìu, dao, cưa dùng để làm cây gỗ Thợ rèn dùng để làm đồ kim chất Trâu ngựa dùng để chuyển vận Gà chó dùng để dò xét Thợ may dùng để may áo trận Thuốc men dùng để chữa bệnh Chông gai để phòng lót đường bẫy giặc Giày da để phòng chạy gấp Lương khô đề phòng thiếu thức ăn 180.- PHÉP DỤ BẮT NGỰA GIẶC: Ngày xưa đời Hậu Đường, Sử Tư Minh làm phản. Hắn có ngàn ngựa hay, mỗi ngày đem ra sông Hà Chữ mà tắm rửa, làm tuần hoàn như thế để tỏ rằng mình có nhiều ngựa. Lý Quang Bật khiến tìm trong năm quân trăm ngựa đực, đánh vào đầu chúng ở trong thành, chờ khi ngựa giặc đến sông Hà Chữ, thì cho ngựa của mình đi ra hết. Đàn ngựa hí mãi không thôi. Ngựa giặc nghe tiếng hí bèn bơi qua sông đi hết vào trong thành. 182.- HỎA TIỄN: Hỏa tiễn có thế rất mạnh, quân địch sợ nó hơn là cung nỏ. Nếu chế hay, mỗi chiếc có thể bắn xa sáu bảy trăm bước. Phải nện thuốc súng chừng ba vạn cái mới dùng được, đầu trên dùng chất mồi lửa chừng hai phần mười. Gặp trường hợp hỏa tiễn quá mạnh mà buồm chiếu quá mỏng, hỏa tiễn bắn vào thì xuyên lút qua mà đi luôn thành thử không cháy được. Nếu sợ đi xuyên qua luôn, thì cách miệng chừng hai ba tấc, ta gắn một chữ thập bằng tre để chận nó lại. Chỗ tre và sắt tiếp nhau, người ta dùng giây vấn và sơn một lớp sơn cho kín. Dưới lớp sơn có thể dùng linh hoa để ngăn ẩm thấp. Ở phuơng nam người ta dùng tới ba trăm chiếc cho vào một ống, gọi là oa phong hay hỏa lung. Dùng chín chiếc thì gọi là cửu lung đồng. Thứ nhỏ gọi là dũng tiễn. Có thể ngồi trên ngựa mà phóng hỏa tiễn. 183.- HẦM CHÔNG GAI DÙNG ĐỂ BẪY NGỰA GIẶC: Đào hố vuông sâu chừng bốn thước, rồi đặt chông gai ở dưới, mặt trên gác cây, phù cỏ và đất cho bằng phẳng như là đất hoang. Nếu giặc xông tới đánh dinh trại thì sẽ sụp vào hố chông ấy. Người và ngựa của giặc bị thương sẽ bị phục binh của ta bắt giữ. HIỆU LỆNH 184.- QUÂN LỆNH: Một khi hiệu lệnh được phát ra, ba quân đều chấn động sợ sệt. Nghe trống thì tiến, nghe chiêng thì dừng. Nghe súng bắn thì đứng dậy, nghe chuông đánh thì ăn. Nghe đánh phẫu thì ráng sức, thấy vẫy cờ thì chạy mau. Gặp mưa không núp, gặp nóng không cởi giáp. Mệt không buông vũ khí. Thấy nguy nan không trở lui. Gặp tiền của không lấy. Hãm thành không giết bừa bãi. Có công trạng không khoe khoang. Dong ruỗi thì lặng lẽ. Bị đánh cũng không rúng động. Bị chấn áp cũng không sợ hãi. Bị đánh úp không bỏ chạy, bị đánh cắt ngang mà không phân tán. Đó gọi là binh nghiêm chỉnh. 185.- VIỆC QUẤY: Thánh hiền không thấy sai quấy thì miễn lỗi, binh pháp không thấy sai quấy thì ghi công. Cho nên kẻ giỏi dùng binh thì thi hành dối trá trái ngược, dấy nghịch lấy bậy. Trời luân hành theo thời, quỷ thần mượn thời mà hành động, mộng mị cũng theo thời mà hiện ra, các vật lạ cũng theo thời mà sinh ra, câu ca dao, lời sấm cũng theo thời mà nói, mọi việc sắp đặt cũng theo thời mà chia riêng, tiếng lời cũng theo thời mà phát biểu. Khuyến khích lòng quân, ngăn trở khí thế của địch, khiến người không thể liệu lường. Luân chuyển trừ bỏ điều quấy rồi lại dùng điều quấy. Vả lại điều hư quấy, ngay thẳng nhờ cậy vào nó thì không đủ, dả dối mượn dùng nó thì thường có dư. 186.- DÙNG PHỤ NỮ: Thường nghe bậc đại tướng ngày xưa cũng từng nhờ cậy vào sự mềm yếu của phụ nữ. Khi dùng văn thì khiến cho giặc vui chơi sướng khoái, khi dùng võ thì cỡi xe chiến đấu, cứu nạn giải nguy, tùy cơ ứng biến, đều có lợi cả. 187.- DÙNG VĂN ĐỂ DẠY ĐỀU ƯỚC CẤM LỆNH: Nghề võ chuyên luận về tánh dũng, nhưng cáo, hịch … thì cần văn. Có khi một lời nói mà có thể cứu nước, làm cho quân giặc phải đầu hàng. Sĩ tốt thì ít biết văn chương, chữ nghĩa. Bởi thế cho nên, khi nhàn hạ nên buộc sĩ tốt tập hò, tập hát, truyền tai nhau các điều ước, cấm lệnh, các bài chiếu giảng giải các điều nghĩa dũng và cái đạo của quân tử, của nho sĩ, tức là chẳng làm tổn hại người bề trên. Đó là binh pháp vậy. 188.- BAN BỐ ĐIỀU LỆNH: Con người lấy tâm mà định lời, định lời để ra lệnh. Bởi thế nên phấn khích tánh hào hùng, mưu lược, nói lời cứng cỏi, mạnh mẽ, giữ lòng sắt đá, chịu trải phong sương, sau đó mới ban bố hiệu lệnh, lập quân pháp nghiêm minh. Trước ba ngày, treo lệnh tại quân môn, khiến viên quan quân chính cầm ban tuyên bố giữa sáu quân. Nếu có ai trái lệnh thì khiến quan quân chính tập họp quân nhân, rồi theo lệnh mà hành hình để cho sáu quân đều biết rõ. 189.- TRỪNG PHẠT KẺ PHẠM QUÂN LỆNH (QUÂN PHÁP): Khi bậc đại tướng quân đã nhận mệnh, cầm hết quyền chinh chiến trong tay, làm lễ khao quân xong rồi mới ban bố mệnh lệnh. Ai trái lệnh sẽ bị giết. Nghe trống mà không tiến, nghe chiêng mà không dừng, thấy đưa cờ lên mà không đứng dậy, thấy hạ cờ mà không nằm nấp, đó là quân bội nghịch, phải chém chúng. Nghe gọi tên mà không đáp, được vời mà không tới, hoặc tới mà trễ nãi, cử động sai quy luật, đó là quân ngạo mạn, phải chém chúng. Ban đêm thì kháo chuyện gian dối, thường biếng nhác không hăng hái, trù tính sai lầm, hiệu lệnh không rõ ràng, đó là quân lười biếng, phải chém chúng. Thường nói lời oán vọng, không được thưởng thì giận hờn, được chủ tướng dùng thì tỏ ra cứng đầu khó trị, đó là quân ngang dọc, phải chém chúng. Tự xưng tên họ phẩm chức mà cười nói, như là trên mình chẳng có ai, bị ngăn cấm vẫn không chừa, đó là quân kiêu căng, phải chém chúng. Giữ khí giới mà để cung nỏ đứt dây, tên thì thiếu mũi hay thiếu lông đuôi, kiếm kích thì đùi lụt, cờ xí rách nát, đó là quân lừa dối, phải chém chúng. Nói lời dối trá bày đặt việc qủy thần, mượn chuyện mông mị, phỉnh gạt lại sĩ, đó là quân yêu nghiệt, phải chém chúng. Đến nơi nào thí phá phách nhân dân, hãm hiếp phụ nữ, đó là quân gian tà, phải chém chúng. Miệng lưỡi sắc bén, hay bàn phải trái, gieo oán giữa các lại sĩ, khiến họ chẳng hòa hiệp, đó là quân dèm pha, phải chém chúng. Trộm tiền của người để làm của mình, đoạt thủ cấp của người khác để dành công lao về phần mình, đó là quân trộm cắp, phải chém chúng. Khi tướng quân tụ họp để bàn mưu, mà đến gần trướng để nhìn trộm, nghe trộm sự tình, đó là quân dọ thám, phải chúng. Khi nghe được mưu kế và hiệu lệnh của quân mình, mà bắn tiếng ra ngoài để địch quân nghe được, đó là quân bội phản, phải chém chúng. Khi được sử dụng, mà câm miệng chẳng đáp, gục đầu ủ rũ làm ra vẻ khó nhọc, đó là quân hèn yếu, phải chém chúng. Chẳng giữ hàng ngũ, tranh giành trước sau, nói năng ồn ào, chẳng theo cấm lệnh, đó là quân lộn xộn, phải chém chúng. Giả vờ bị thương hoặc mang bệnh để tránh việc khó nhọc, giả vờ cứu giúp kẻ thương vong để lẩn xa, đó là quân dối trá, phải chém chúng. Khi giữ tiền của, đến lúc ban thưởng lại tây vị những người thân thuộc khiến cho lại và tốt hờn oán nhau, đó là quân thối nát, phải chém chúng. Thấy giặc mà không xét, xét giặc mà không biết rõ, giặc động mà nói không, giặc không động mà nói có, giặc nhiều mà nói ít, giặc ít mà nói nhiều, đó là quân lầm lạc, phải chém chúng. Tại chốn đồn trại, chẳng phải lúc khao quân mà bày ra uống rượu, đó là quân phóng đãng, phải chém chúng. Khi pháp lệnh trên đã lập xong, trong lại sĩ có ai phạm phép thì cứ theo phép mà xử chém. 190.- DÙNG BINH TRÊN TÁN ĐỊA (ĐỊA PHẬN CỦA MÌNH): Quân địch vào sâu trong nước ta, mà thành quách chưa hoàn bị, cỏ lương thiếu thốn, cố thủ thì không lơi. Bên ta nên hẹn nhau quyết chiến, còn nếu sợ sệt mà thối lui thì ắt chết. Ai bắt được gì, lấy được gì thì ban thưởng. Ai làm tướng quay lui cũng đem chém, gặp địch mà thân không định, số mục thay đổi cũng chém; có sắc mặt lo buồn, nghiêng ngả nhìn nhau mà nháy mắt bỏ bê chiêng trống chẳng ứng đối, đều phải chém hết. Được một thủ cấp cũng trọng thưởng, như thế mới có thể dùng binh trên tán địa được. 191.- THƯỞNG PHẠT THEO LỄ NGHI: Nếu bậc đại tướng cũng dùng lễ nghi để thi hành việc thưởng phạt thì sĩ tốt không hờn oán mà mọi người sẽ lo sợ. Một là các điều quân lệnh phải thật nghiêm khắc khi ra quân lần đầu để cho tai mắt quân sĩ phải thấm nhuần, khiến chúng phải tránh né không dám phạm vào. 192.- XỬ CHÉM: Một là giả vờ có bệnh, có ý muốn trốn. Đi nửa đường rồi bỏ trốn, thì phải chém. Một là cướp tiền của của nhân dân và hiếp dâm phụ nữ, thì phải chém. Một là đào bới mồ mả để lấy tiền của thì phải chém. Một là tự ý vào các đền, miếu để lấy các đồ vật thì phải chém. Một là ngầm giao thiệp riêng với quân địch, làm tiết lậu quân cơ thì phải chém. Một là bỏ đội ngũ, tự ý vào nhà dân mà ngủ nghỉ thì phải chém. Một là trong đêm vô cớ la ó khiến quân sĩ lo sợ, thì phải chém. Một là trong đêm đốt lửa không cẩn thận làm cháy dinh trại, thì phải chém. Một là canh giữ, tuần phòng sơ xuất để quân địch thừa cơ lẻn vào thì phải chém. Một là tự ý giết tướng và lính đến đầu hàng, thì phải chém. Một là làm cho cha con, chồng vợ của tướng lính đến đầu hàng phải xa nhau thì phải chém. Một là hiếp bức nhau, đánh nhau đến nỗi chết người, thì phải chém, quản viên cũng bị phạt. 193.- ĐÁNH ĐÒN: Một là cướp tiền của, chọc phá phụ nữ, thì phải đánh nhiều bằng gậy. Một là chửi bới nhau, trái với quân lễ thì phạt đánh bằng gậy. Một là trên dưới tranh giành nhau làm mất thứ tự, thì phải đánh nhiều bằng gậy. Một là nhận riêng rượu và thức nhắm đến nỗi ăn nhằm thuốc độc của quân địch thì quản viên chịu trọng tội. Một là giao thiệp riêng với thầy phù thủy, thầy bói, đồng cốt, bày đặt ra việc họa phúc, gieo nghi ngờ trong quân ngũ, thì phải đánh bằng gậy. Một là say rượu, nói bậy, chẳng giữ vị thứ, chờ tỉnh rượu xong sẽ đánh bằng gậy và giảng luận cho nghe. Một là phá phách nhà cửa của nhân dân, bẻ hái hoa quả thì phải đánh bằng gậy. 194.- KHẨU HIỆU: Một là phát hiệu lệnh: Buổi chiều trong quân ngũ hãy xét chung các nhân viên. Tề hầu, Tham tán tới biên lãnh khẩu hiệu. Mỗi canh đổi một khẩu hiệu. Một khẩu hiệu có hai chữ. Hỏi chữ này phải đáp chữ kia. Thí dụ: Hỏi võ thì đáp cường, hỏi dũng thì đáp an. 195.- ÁM HIỆU: Quân đi mà không thông đồng với nhau, ắt những nhóm bị phân chia không thể kết hợp với nhau, những nhóm ở xa không thể cứu ứng, đây đó đâu có thể hiểu nhau được, đó là đường lối thất bại. Nhưng thông đồng với nhau mà không kín đáo thì ngược lại bị địch mưu toan phá hoại. Cho nên nếu không dùng chiêng, cờ, không dùng ngựa chạy mang lệnh tiễn, không đốt lửa, phun khói, thì lấy gì mà thông báo những việc kinh động cấp bách? Hai quân gặp nhau thì nên dùng ám hiệu để liên lạc với nhau, đi xa ngàn dặm thì liên lạc bằng thư trắng (không đọc được) viết bằng chữ không ra chữ, dùng lời văn không hiểu được, không viết trên giấy. Kẻ mang thư cũng không hiểu gì, dầu có tìm tòi cũng không ra gốc tích. Thần diệu thay! Thần diệu thay! Hoặc bị địch ngăn cách, hoặc bị mất liên lạc, hoặc ở quá xa không kịp gặp nhau, ắt phải dùng cơ mưu để thông tin theo cách trên. 196.- HIỆU LỆNH LÀ GỐC: (Ngày xưa) Võ Vương hỏi rằng: Nếu binh của ta bị phân ra ở nhiều nơi, muốn chúng tụ hội đúng kỳ hạn, phải làm thế nào? Thái Công đáp: Theo phép dùng binh thì ba quân đông đảo phải biết cách biến hóa phân hợp. Bậc đại tướng trước hết phải định chỗ đánh và ngày đánh rồi mới truyền hịch cho tướng sĩ biết ngày hẹn đánh thành vây ấp, phải tụ hội nơi nào, ngày đánh phải nói rõ, giờ khắc phải đúng đắn. Đại tướng lập dinh, bày trận, xây dựng viên môn, dọn đường để chờ tướng sĩ tới, xem thử ai tới trước, ai tới sau. Ai tới trước hẹn thì thưởng, ai tới sau hẹn thì chém, như thế xa gần đều chạy lại, ba quân đều tới đủ để góp sức cùng đánh. Vua hỏi: Thái Công giảng bày sách Cấm Thư, phép thắng bại ngũ âm như thế nào? Thái Công đáp: Theo phép dùng binh, hiệu lệnh là tai mắt. Kẻ dùng binh mà không rõ hiệu lệnh cũng như người mù đi đêm. Hạ thần xem phép dùng binh trong kinh đều lấy hiệu lệnh làm gốc vậy. Trần Hưng Đạo 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 4, 2014 ĐI TÌM NGUỒN GỐC VÀ NĂM XUẤT HIỆN CỦA VĂN BẢN BINH THƯ YẾU LƯỢC HIỆN CÓ Ngô Đức Thọ Văn bản Binh thư yếu lược (viết tắt: BTYL) chúng tôi nói đến trong bài này là bộ sách chữ Hán chép tai gồm 4 quyển đóng làm 2 tập, cộng 410 tờ (26x15cm, ký hiệu A.476/1-2 lưu tàng từ trước ở Thư viện Viện Viễn Đông Bác cổ, hiện nay do Viện Nghiên cứu Hán Nôm quản lý, sách này là bản chính của một dịch phẩm do Nxb. KHXH xuất bản tại Hà Nội vào các năm 1970 và 1977(1). Ở Sài Gòn cũng có bản dịch BTYL do Nhà Khai Trí xuất bản(2). Do trong sách có những chỗ nói đến tướng nhà Minh Mộc Thạch, Liễu Thăng, vua Lê, Nguyễn Huệ (Bd, tr. 232, 213, 245) v.v cho nên rõ ràng không thể coi bản BTYL hiện có là di tác của Trần Hưng Đạo được. Tuy vậy, Lời giới thiệu và Thuyết minh bản dịch của cả 2 lần xuất bản, ở mức độ dè dặt, vẫn kết luận rằng: “BTYL của Trần Quốc Tuấn đến đầu thế kỷ XIX đã được một nho sĩ am hiểu quân sự, yêu khoa học quân sự, sửa chữa và bổ sung nhiều” (tr.8), hoặc cho đó “là một bộ sách được biên soạn theo một phương pháp thời Trần (có thể đặc biệt là Hưng Đạo vương), thời Lê, thời Nguyễn tiếp tục nhau mà biên soạn” (tr.27). Vậy sự thực về văn bản BTYL ra sao? Chúng tôi nghĩ rằng vấn đề này cần được nghiên cứu để có thể nhận định tương đối chính xác giá trị văn bản, từ đó mới tránh được những suy diễn sai lầm, như từng có ý kiến dựa vào BTYL để mô tả cơ cấu Bộ tư lệnh và hệ thống quân đội đời Trần, cùng những vũ khí binh cụ của thời kỳ ấy v.v.(3).1. Hai đầu mối: “Kỷ sự tân biên” và “Kim thang thập nhị trù”Để giải đáp vấn đề nói trên, chúng tôi đã tìm đọc những sách Hán Nôm Trung Quốc cổ liên quan thuộc môn loại quân sự học. Nhưng đầu mối thực sự chỉ bắt đầu từ cuốn Kỷ sự tân biên: Sách chữ Hán do nhà tàng bản Trí Trung Đường, khắc in tại Hà Nội mùa hè năm Tự Đức Kỷ Tỵ (1869). Đầu sách có bài Tựa của Đặng Huy Trứ tước Hoàng Trung Tử, một sĩ phu yêu nước trước sau thuộc phái chủ chiến, khi ấy ông giữ chức Khâm phái Thượng biện Hà Nội tỉnh vụ. Đại ý bài Tựa nói: Mùa xuân năm Kỷ Mùi (1859) ông làm Tri huyện Thọ Xương (Hà Nội) gặp lúc Phú Lãng Sa (chỉ quân Pháp) gây sự ở Đà Nẵng, trong lòng phẫn uất muốn quét sách đi. Vì vậy ông muốn rộng tìm loại sách binh thư để phòng khi dùng đến nhưng tìm kiếm chưa được. Sau gặp Tú tài Lương Mộng Thiều người làng Phượng Lịch, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) bấy giờ đang làm Huấn đạo huyện Nông Cống, trong khi trò chuyện bàn đến môn học của binh gia, Lượng Mộng Thiều nhân đó đưa cho ông tập Kỷ sự tân biên (viết tắt: KSTB) do thân phụ đã quá cố của ông là Thận Trai tiên sinh soạn ra. Ông nhận sách đó mà đọc, hơn một tháng trời, bỏ sách xuống mà than rằng: “Tiên sinh là một trong Tứ hổ ở đất Thanh Hóa. Ông nghiên cứu thiên văn, địa lý, luật lịch, binh thư, bản đồ núi sông, không môn nào không học tới, mà soạn thuật ra chỉ một sách này. Cái chí của tiên sinh có lẽ cũng là lo trước cái lo của thiên hạ chăng?”. Đoạn sau tác giả bài Tựa cho biết: Ông trước đã biên tập sách Vũ kinh trích chú lại vừa cho khắc in sách Kim thang tá trợ, nay cho khắc ván in sách này để công bố với các bạn đồng chí, khiến cho cái học của Thận Trai tiên sinh đã không thi hành được ở đương thời thì sách của tiên sinh được truyền lại cho hậu thế. Tiếp theo là bàn Dẫn do con rể của Thận Trai là Cử nhân Đỗ Xuân Cát, tự Bá Trinh viết năm Thiệu Trị Bính ngọ (1846) cho biết: Thận Trai là tên hiệu của Lương Huy Bích tự Huyền Chương, người đời cuối Lê, thời Tây Sơn ở nhà dạy học đời Nguyễn có chiếu của Minh Mệnh triệu vào kinh nhưng cáo bệnh không đi, được ban tước Hàn lâm đãi chiếu, tước Ngô Giang Tử. Sau khi ông mất, con trai là Khanh và Huyền sợ để lâu ngày di thảo mai một, bèn đưa cho anh rể là Đỗ Xuân Cát hiệu đính. Tờ đầu sách đề: “Cổ Ái Lương Huy Bích Huyền Chương Phủ soạn định, năm Huy Khanh Mộng Thiều, tế Đỗ Xuân Cát Bá Trinh biên tập, Hậu học Đặng Huy Trứ Hoàng Trung hiệu chính. Sách gồm 5 quyển đóng làm 1 tập, cộng 202 tờ (25x15cm) ký hiệu ở Thư viện Viện Hán Nôm: A. 684. Phương pháp làm sách đại thể là dẫn đầu mỗi chương mục đều có lời dẫn giải bình luận về chủ đề bàn đến, sau đó dẫn ý kiến của các nhà quân sự học Trung Quốc thời cổ, trích trong các sách binh pháp của Tôn Vũ, Ngô Khôi Hoàng Thạch Công, Lý Vệ Công v.v. tức là những sách thuộc hệ thống Vũ kinh thất thư được ban định năm Nguyên Phong (1078 - 1086) đời Tống. Ngoài ra còn trích dẫn các sách khác như Hổ kiềm tinh của Hứa Động đời Tống, Kỷ hiệu tân thư của Thích Kế Quang đời Minh v.v.Đối chiếu KSTB với BTYT chúng tôi thấy có một khối lượng đáng kể các thoại(4) giống nhau khá có hệ thống, như ở chương Hành quân (BTYL, T.1, 159/Bd. tr.118-122) tiến phát giống với 16 điều ở mục Độ hiểm (vượt nơi hiểm yếu) trong KSTB (Q.3, tờ 10-12b); BTYL (T.1, tr.167/Bd. tr.125) chép riêng một mục Độ hiểm pháp chỉ gồm 1 thoại ở KSTB trích theo Liên châu hành doanh đảo quyên đồ. Ở chương Đồn trú, BTYL (T.1, 199/Bản diễn ca, tr.146-148) chép 12 quy định về việc đóng trại lần lượt tương ứng với các điều 5-7, 9-10, 13, 15-19 (cộng 12 điều) trong số 25 điều ở mục Thủ dinh ước thúc ở KSTB (Q.2, tờ 19-23) v.v. Các chương sau như Dạ doanh (phép đóng trại ban đêm). Ám doanh (đóng trại bí mật), Thại lương (chuyển lương) v.v cũng có nhiều thoại tương đồng giữa KSTB và BYTL.Theo ý của bài Tựa, chúng tôi tìm đọc Kim thang tá trợ. Tên sách in ngoài bìa là Kim thang thập nhị trù (viết tắt KTTNT), nhưng tên đầy đủ là Kim thang tá trợ thập nhị trù. Sách cũng do Đặng Huy Trứ giao cho nhà Trí Trung Đường khắc in năm Tự Đức Kỷ Tỵ (1869), in vào mùa xuân, sớm hơn mấy tháng so với KSTB. Toàn bộ gồm 12 quyển đóng làm 3 tập, cộng 451 tờ (26x16), ký hiệu ở Thư viện Viện Hán Nôm: AC.202/1-3. Sách của soạn giả Trung Quốc là Lý Bàn tự Tiên Hữu, có bài Dẫn của Hùng Ứng Cưu và bài Tựa của soạn giả. Tiếp theo là Tựa của Đặng Huy Trứ cho biết ông nhận được sách này do người quen là Dương Tuệ Khanh tặng nhân khi ông đi công cán ở Quảng Đông năm Mậu Thìn (1868). Ông nhận thấy so với Vũ kinh trích chú KSTB thì sách này đặc biệt giản yếu dễ hiểu, đúng là của báu của nhà tướng. Vì vậy, ông ngày đêm khảo đính để khắc ván ấn hành. Như vậy là cùng trong năm Kỷ Tị (1869), nghĩa là chưa đầy 2 năm sau khi thực dân Pháp thôn tính nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ và đang ráo riết chuẩn bị đánh ra Bắc Kỳ, Đặng Huy Trứ đã cho in 2 bộ binh thư khá có giá trị. Có lẽ đó là một trong những cách trả lời tốt nhất của một nhà nho trước nạn ngoại xâm đang đe dọa vận mệnh của đất nước.Đối chiếu KSTB với KTTNT chúng ta dễ nhận ra có sự tương đồng ở một số chương mục, điều đó có thể hiểu được vì cả 2 sách đều thoát cảo từ Đặng Huy Trứ. Mà liên quan tới văn bản BTYL thì ở KTTNT còn ở mức độ nhiều hơn, như ở các mục thuộc chươngThủy chiến: Thuyền máy thần phi, thuyền mẹ con, thuyền liên hoàn, bè gỗ, áo lội nước (phi ba giáp), ngựa nước (thủy mã) v.v… BTYL, 2-261/Bd tr. 271-281; KTTNT. Q11, tờ 12-32b) (xem thêm ở mục sau).2. BTYL VỚI KIM THANG THẬP NHỊ TRÙMở rộng việc tìm kiếm xuất xứ các thoại trong BTYL chúng tôi tìm đến nguyên thư của tác phẩm được trích dẫn… Nói chung, những thoại nào có xuất xứ ở binh thư Trung Quốc, từ Tôn Tử (của Tôn Vũ). Ngô Tử (của Ngô Khởi), Lục thao, Tư Mã pháp, Tam lược, Uất Liệu Tử, Lý Vệ công vấn đôi (của Lý Tĩnh, cũng gọi là Vệ Công binh pháp), Hồ kiềm kinh (của Hứa Động), Kinh thể bát loại toàn biên(của Trần Nhân Tích), Vũ kinh tổng yếu (của nhóm Tăng Công Lượng). Kỷ hiệu tân thư (của Thích Kê Quang) v.v.. đều tìm được xuất xứ chính xác, chủ yếu dựa theo 2 bộ tùng thư Vũ kinh tổng yếu (P.1121) ở thư viện Viện Thông tin KHXH hoặc các sách riêng biệt (đơn hành ban) hiện có ở Thư viện Quốc gia.Kết quả đối chiếu làm xuất hiện mấy điều đáng lưu ý sau đây:a. Trong BTYL có 5 thoại ghi là trích sách Bảo giám (Bd, tr 39, 54, 55, 168) trong đó 2 thoại ở tr.54 và 168 (Bd) là của Tôn tử, còn 3 thoại khác là trích theo Vũ kinh tổng yếu.Như vậy tại sao người làm sách BTYL lại không ghi xuất xứ ở sách Tôn Tử hoặc Vũ kinh (tức Vũ kinh tổng yếu) như nhiều trường hợp khác trong sách đã ghi? Xuất xứ thì tác giả có thể quên hoặc chép sót, nhưng tại sao lại ghi là Bảo giám? Qua tra cứu có thể khẳng định không có binh thư nào có tên chính hoặc tên gọi tắt là Bảo giám, cũng không thấy tên sách nào (Người dịch bản Nxb KHXH cũng đã từng ghi “Chúng tôi không tìm ra sách Bảo giám”, Bd, tr.39). Phải chăng người làm sách BTYL đã vô tình hay hữu ý đưa ra một tên sách mơ hồ? Điều đó có thể còn liên quan đến một tên sách mơ hồ khác sau đây:b. Trong BTYL có 4 thoại ghi xuất xứ ở sách Binh lược (Bd, tr.65, 88, 213, 245). Cả 4 thoại này đều liên quan đến các sự việc của Việt Nam, không có xuất xứ nhiều tầng bậc trong các binh thư Trung Quốc. Những thông tin quá khứ không cho chúng ta biết sách nào gọi là Binh lược, mà tên sách gần giống với nó là Binh thư yếu lược thì chúng ta chỉ được biết đó là tên tác phẩm của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đời Trần và tên của bản chép BTYL hiện hành mà thôi.Thoại ở tr.65 (Bd) có liên hệ một câu: “Liễu Thăng vào nước Nam ta vì chí kiêu mà đổ quân mất mạng”. Thoại ở tr.213 (Bd) nói đến quân năm Giáp Ngọ (chỉ quân Trịnh), quân năm Bính Ngọ (1786, chỉ quân Tây Sơn), và quân Bắc năm Kỷ Dậu (1789, chỉ quân Thanh) v.v. Thoại tr. 245 nói việc Nguyễn Huệ đem thủy quân đến sông Nhị Hà. Ba thoại này hiển nhiên là bằng chứng tự bác bỏ nguồn gốc tác phẩm đời Trần! Thoại tr.88 (Bd) nói về tên lửa (hỏa tiễn) ở trên đầu có dùng thuốc súng của người Hồi Hồi, lại nói xa xôi đến một thứ tên lửa ở phương Nam. Thoại này ở hầu hết các sách đã nêu trên đều không có, chỉ tìm thấy một xuất xứ duy nhất ở KTTNT (Q.11, tờ 33a). Đó là một dẫn chứng cho thấy có sự liên quan trực tiếp giữa văn bản KTTNT và BTYL.c. Tiếp tục khảo sát quan hệ giữa KTTNT và BTYL có thể thấy thêm những hiện tượng sau đây:Chương Thủy chiến trong BTYL bám sát theo mục Phụ khảo Thủy chiến trong KTTNT (Q.11, tờ 12b), sau mục Quạ già nước (Thủy lão nha, BTYL chép nhầm là Thủy nha lão!) đáng lẽ tới các mục: câu liên và một số binh cụ khác, người làm BTYL đã lược bỏ, đặt ra một mục Hỏa công, mở đầu bằng câu: “Đại phàm thủy chiến thường chuyên dùng hỏa công…”, minh họa bằng 4 câu thoại: Chu Du và Lưu Bị đánh Tào Tháo ở Xích Bích, Du Thông Hải đánh Trần Hữu Lượng ở Nam Xương, Âu Dương Ngột làm phản ở Lĩnh Nam (?), Hàn Thế Trung cầm cự với quân Kim ở Hoàng Thiên Đăng (BTYL, 2-217/Bd, tr. 277 - Bd thay Kim nhân bằng tên vua Kim, và nhầm Hoàng Thiên Đăng là tên người). 3 trong 4 thoại nói trên đều có trong KTTNT (Q.11, tờ 44-45), hợp thành một mục hoàn chỉnh nói về phép hỏa công trong thủy chiến. Có mấy thoại đó minh chứng rồi mới đi đến tiểu kết: “Dĩ thượng thủy chiến nhi chuyên dụng hỏa công giả dã”. Người làm BTYL lấy câu đó đem lên đầu làm thành tên một mục, đổi 2 chữ “Dĩ thượng…” thay bằng “Đại phàm…” và bỏ hai chữ sau (… giả dã). Thêm nữa thoại thứ 3 nói việc Âu Dương Ngột đóng quân ở Nhai khẩu cho chứa các đá vào lồng tre thả xuống sông để chặn thuyền của Chiêu Đạt, xét ra không ăn nhập gì với việc đánh hỏa công. Đúng ra đó là 1 thoại minh họa cho một mục khác “Dùng mưu cắt đường thủy” như đã thấy ở KTTNT (Q.11, tờ 49a).Lại ở mục Thủy chiến kiêm dùng lục quân (BTYL T.2, tờ 172/Bd tr.279; KTTNT Q.11, tờ 46a) cũng thấy hiện tượng cắt câu nhằm mục như trên. Ở đây, KTTNT dẫn 1 thoại: Lưu Dụ sai quân đâo thủ đi thuyền nhẹ chặn đánh đoàn thuyền lớn của Lự Tuần, một mặt sai quân kỵ và quân bộ đi ở bờ tây để hỗ trợ. Thuyền của Lự Tuần không tiến được, cùng lúc lại bị quân cung nỏ trên bờ bắn xuống…, Lự Tuần cả thua phải chạy sang Giao Châu. Thứ sử Giao Châu là Đỗ Tuệ Độ cho quân bắn tên lửa lông trĩ xuống làm cháy thuyền, giết được Lự Tuần. Do thoại ấy mới có tiểu kết “Dĩ thượng thủy chiến nhi kiêm dụng lực binh giả dã”. BTYL không có thoại ấy (bỏ sót) thì không có nội dung minh họa cho đề mục. Đã vậy lại tiếp theo bằng câu: “Thủy chiến lấy thuận gió là thế”, không ăn nhập gì với đề mục đã nêu. Câu này thực ra là một mục đồng đẳng tiếp theo: “Thủy chiến dĩ thuận phong vi thế” (KTTNT Q.11, tờ 46b), được thuyết minh bằng thoại Vương Lâm nhà Hậu Lương đi đánh quân của nhà Hậu Trần (không có trong BTYL). Còn thoại Vương Tuấn bị quân nước Ngô dùng xích sắt chặn ngang dòng sông, Tuấn biết trước sai dùng bè gỗ đẩy đi trước để phá, BTYL đã chép vào mục “… kim dùng lục quân”, thì lại cính là 1 trong 6 thoại dùng để minh họa cho mục “Dùng mưu cắt đường thủy” (KTTNT, Q.11, tờ 49a) v.v. Sai lầm móc xích như vậy còn kéo dài đến một số mục khác nữa. Đó là bằng chứng cho thấy người làm BTYL đã sử dụng tài liệu ở KTTNT mà vì sơ suất đã để lại những sai lầm.3. Đầu mút: BTYL và Vũ bị chế thắng chíTrong BTYL có nhiều thoại trích ở sách Võ bị chế thắng chí (viết tắt VBCTC) (Bd tr.1, 118, 148, 234, 283, 355). Tuy vậy, qua tìm kiếm xuất xứ chúng tôi phát hiện việc trích VBCTC đã diễn ra trên quy mô rộng lớn hơn nhiều. Có thể dẫn hàng loạt thoại mục như sau:- Hạ doanh trạch địa pháp (chọn đất đóng dinh): BTYL 2-1, Bd, tr. 144-146/ / VBCTC, T.1, Q.3, tờ 58a.- Dạ doanh (Đóng trại ban đêm) BTYL 1-259; Bd. tr.148-155/ /VBCTC, Q.6, tờ 16a.- Ám doanh (Đóng trại bí mật): BTYL 1-258, Bd. tr.155-15 // VBCTC, T.1, Q.3, tờ 72b.- Thủy chiến (phần nói về các đồ dùng trên thuyền) BTYL 2-258, Bd. tr.288-292 // VBCTC, T.4, Q.13, tờ 45b-57b.- Đánh thành (các binh cụ: thang bay - Sào xa) BTYL, 2-261, Bd. Tr.316-320 // VBCTC, T.2, Q.5, tờ 54-76.- Giữ thành (các dụng cụ: Cửa treo - giếng khơi) BTYL, 2-389, Bd. tr.365-368 // VBCTC, T.3, Q.10, tờ 19a v.v.Mặt khác cũng có bằng chứng cho thấy việc trích dẫn các binh thư cổ Trung Quốc trong BTYL không phải trực tiếp từ nguyên thư mà một phần lớn thông qua trung gian VBCTC. Ví dụ: về “quật hào doanh giáp” (phép đào hào đóng trại), theo Vũ binh tổng yếu: “... hào đào xong thì tạm bắc cầu phao, khi gấp rút thì chặt đi ngay, cứ cách 20 bước thì đặt một chiếc lâu” (…đương giới nhị thập bộ trí nhất chiến lâu)… ở ngoài lại đào một hố sập ngựa rộng 25 bước (… ngoại quật hãm mã khanh nhất trùng, khoát nhị thập ngũ bộ) (Tân san Vũ kinh tổng yếu tiền tập, Q.6, tờ 12b - 13a). Thoại này ở KSTB (Q.2, tờ 17a) cũng trích đúng là 20 bước, và hố sập ngựa rộng 25 bước. VBCTC T.1, Q.1, tờ 28 nhầm nhị thập bộ thành nhi thiên bộ (2000 bước), và hố sập ngựa rộng 2 bước. BTYL (1-233) sao chép lại ở VBCTC, rốt cuộc nhầm “nhị thập bộ” thành “nhị thiên bộ” và “nhị thập ngũ bộ” thành “nhị bộ”!Từ công việc điều tra văn bản trên đây có thể sơ bộ xác lập một lược đồ như sau(5):Theo lược đồ trên đây thì thời điểm xuất hiện văn bản BTYL không thể sớm hơn năm Tự Đức Kỷ Tị (1869) là năm in KTTNT và KSTB, và cũng không thể sớm hơn năm xuất hiện của VBCTC.Nhưng VBCTC là một bộ sách như thế nào?Đó là một bộ sách khá dày, toàn bộ gồm 27 quyển, cộng 655 tờ (28x8), đóng làm 7 tập, ký hiệm từ thư viện của VĐBC cũ: AC.597/1-7. Sách chép tay, ở tờ mặt sách đề Trùng khắc Vũ bị chế thắng chí (Hai chữ Trùng khắc gợi liên tưởng một bản sao căn cứ theo một bản sách in). Đầu sách chép 1 bài Tựa của Tri phủ (?) Quảng Đông là Dương Bái Úy tự Nông Phủ (Tiến sĩ) đề năm Quý Mão niên hiệu Đạo Quang 23 (1843). Tác giả bài Tựa nói khi ông ta đến Việt Đông (tức Quảng Đông) thấy một hàng sách đang bắt đầu khắc ván in bộ Vũ bị chế thắng chí¸ bèn cầm lấy xem, thì thấy sách này “cũng tựa như một món trong loại sách viết về võ bị” (tự diệc vũ bị chí trung chi nhất luyến). Theo lời thỉnh cầu của nhà hàng, ông bèn viết vài lời đặt lên đầu sách để chất chính cùng các bậc quân tử. Đó là một bài Tựa khiến ta ngạc nhiên nhiều hơn thú vị. Đối với một bộ sách lớn mà ở quyển đầu có ghi rõ là tác phẩm do Mao Nguyên Nghi soạn, hầu hết mọi chương mục đều có một đoạn ngôn luận mở đầu bằng mấy chữ: “Mao Tử viết…” (Thầy Mao nói…), vậy mà việc đề tựa chỉ làm hầu như ngẫu nhiên, không một lời nào nhắc đến Mao Tử. Một điều băn khoăn khác: Quảng Đông là một tỉnh, quan chức đứng đầu tỉnh ấy là chức Tuần phủ, đây lại ghi là “Tri phủ”? Người dịch bản của Nxb KHXH trong khi điểm lướt các bộ binh thư cổ của Trung Quốc có ghi Mao Nguyên Nghi soạn bị chí, 19 quyển; lại có Vũ bị chế thắng chí do học trò của Mao Nguyên Nghi soạn, 31 quyển. Người dịch bản của nhà Khai Trí (Sài Gòn) thì lại kê Võ bị chí của Mao Nguyên Nghi, 240 quyển, mà không nói gì đến VBCTC. Chưa rõ hai dịch giả căn cứ vào đâu để ghi như trên, mà cũng không thấy nói qua điều gì về Mao Nguyên Nghi? Chúng tôi vì chưa đủ tư liệu nên chưa dám tin như vậy. Trong khi nghiên cứu văn bản BTYL lục tìm các binh thư Trung Quốc thì thấy hầu hết các sách liên quan đều có bản in ở Thư viện Viện Thông tin KHXH, các bản hiệu chú xuất bản sau 1949 cũng có khá đủ ở Thư viện Quốc gia, mà riêng VBCTC (hoặc rộng ra là sách của Mao Nguyên Nghi) thì chỉ có 1 bản chép tay AC.597 như đã nói mà thôi. Hai bộ từ điển: Trung Quốc nhân danh đại từ điển (tr.716) và Trung Quốc văn học gia đại từ điển (tr.1266) đều có ghi tiểu sử và tác phẩm của Mao Nguyên Nghi, nhưng không thấy tên sách nào là Vũ bị chí hoặc VBCTC. Sơ đồ của chúng tôi vì vậy tạm thời phải dừng lại với thời điểm xuất hiện bản chép tay VBCTC còn bỏ ngỏ. Tuy vậy, chúng tôi nghĩ đến khả năng bản chép VBCTC là bản sách được chép ra để bán lại cho thư viện của VĐ - BC có nghĩa là phải có sau năm 1900 là năm bộ sưu tập sách Trung Quốc cổ được bắt đầu thực hiện ở thư viện này. Với những dữ kiện như đã trình bày, thời điểm xuất hiện BTYL tất phải lùi muộn có thể đến 1, 2 thập kỷ sau năm nói trên.Nói tóm lại, qua những cứ liệu trên đây, chúng ta nghĩ rằng có thể đi đến kết luận văn bản Binh thư yếu lược hiện có chẳng những không liên quan gì đến di tác của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, mà cũng không phải là một bộ sách được biên soạn tiếp nối qua các đời Lê - Nguyễn như có ý kiến trước đây đã khẳng định.CHÚ THÍCH(1) Binh thư yếu lược. Phụ: Hồ trướng khu cơ Nguyễn Ngọc Tỉnh và Đỗ Mộng Khương dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Văn Tân giới thiệu, Nxb. KHXH. H. in lần thứ 1: 1970, 418 tr; lần thứ 2: 1977, 525 tr. Trong bài này khi dẫn bản dịch (Bd) chúng tôi ghi số tran lần in thứ 2.(2) Binh thư yếu lược. Nguyễn Phước Hải, Mã Nguyên Lương, Lê Xuân Mai dịch. Sài Gòn Nhà sách Khai Trí, 1969, 162 tr. Bản dịch này chỉ dịch hết quyển 1, và không thấy ghi căn cứ theo bản chữ Hán nào. Nhưng đối chiếu nội dung thì có phần chắc là dịch giả đã sử dụng bản vi phim sao chụp lại bản A.476 từ Viện Viễn đông Bác cổ.(3) Xem: Quản Hùng - Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Sài Gòn, Phương Đông, Số 11, tháng 5-1972, tr.357.(4) Chúng tôi dùng chữ “thoại” để chỉ đoạn văn gồm một hoặc nhiều câu diễn đạt trọn vẹn một chủ ý của tác giả.(5) Chúng tôi loại bỏ không thể hiện trong sơ đồ phần nội dung mà người làm ra văn bản BTYL đã lấy từ tác phẩm Hổ trướng khu cơ (của Đào Duy Từ).Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 1 năm 1989.Tác giả Ngô Đức Thọ là PGS.TS, nhà nghiên cứu văn bản học Hán Nôm hàng đầu của Việt Nam, nguyên cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm Nguồn: http://nguyenxuandie...u-yeu-luoc.html Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 5, 2014 Hôm nay, xem lại topic này thấy việc xét điềm trời của Đức Hưng Đạo Đại Vương quả là thần khốc quỷ sầu. Đẩy topic lên để mọi người cùng nghiệm lý. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 5, 2014 Ngài được Thiền sư Đạo Huyền ở chùa Thắng Nghiêm - Thanh Oai - Hà Nội ngày nay nuôi dưỡng từ khi 7 tuổi có đúng không Sư phụ? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 5, 2014 Ngài được Thiền sư Đạo Huyền ở chùa Thắng Nghiêm - Thanh Oai - Hà Nội ngày nay nuôi dưỡng từ khi 7 tuổi có đúng không Sư phụ? Tôi chưa được xem tư liệu này, nên không có ý kiến. Trưcgiac có thể đưa tư liện này lên đây không? Hoặc mục "Cổ văn hóa sử". ghi rõ nguồn và chú thích rõ là : Tư liệu tham khảo. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 5, 2014 Tôi chưa được xem tư liệu này, nên không có ý kiến. Trưcgiac có thể đưa tư liện này lên đây không? Hoặc mục "Cổ văn hóa sử". ghi rõ nguồn và chú thích rõ là : Tư liệu tham khảo. ===== Dạ, đây Sư phụ ạ! 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 5, 2014 Có vài điều chưa ổn trong "sự tích" này. Để tôi đối chiếu lại với lịch sử xem đã. Nhưng chỉ mỗi việc Thiền Sư họ Lý là thấy có vẻ không chuẩn rồi. Vì khi nhà Trần tiêu diệt nhà Lý thì sau đó tất cả những người họ Lý đều bỏ xứ ra đi hoặc đổi thành họ Nguyễn, hoặc bị giết. Khi Trần Thủ Độ bắt vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh là lúc không còn triều Lý nữa. Vậy mà vẫn còn một thiền sư họ Lý nổi tiếng, lại dạy một hoàng tử thuộc hàng tôn thất thì vô lý. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 8 Tháng 5, 2014 On 9/12/2011 at 12:33, 'Thiên Đồng' said: 12. PHÉP XEM CÁC LOẠI NHẬT-THỰC: Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời. Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối tháng) và ngày sóc (đầu tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm lấn nhau, đi lạc đường tới ôm nhau, đô gọi là nhật-thực. Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu làm hại nhà Vua, ắt là mặt trăng đi ngược án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn. Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không sáng nữa đó gọi là mặt trời bệnh. Mặt trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng dưng không sáng nữa, đó gọi là mặt trời chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu gặp nạn lớn, các gian-thần đều nổi lên khuấy rối. Nếu mặt trờí đỏ như máu thì tbiên-hạ sẽ có loạn lớn. Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất thành. Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì binh-gia nghỉ việc giao chiến. Vào tháng tám mùa thu mà có nhật thực thì. có việc đao-binh xảy ra và phe khách được thắng. Vào tháng mười hai mà có nhật-thực, điều ấy chủ về việc có binh dấy loạn. Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì rợ man (phía nam) và rợ di (phía đông) nổii loạn, nên gấp lo việc binh-bị Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ thì sẽ có việc đao-binh. Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh, tân, nhâm, quí thì không nên tính tới việc binh. Từ lâu tôi đã xác định Hà Đồ chính là nguyên lý căn để của tất cả các phương pháp ứng dụng trong học thuật cổ Đông phương. Hôm nay, xem kỹ lại bài viết này thì từ lâu Đức Thánh Trần cũng đã xác định điều này. Mọi người có thể thấy ngay câu đầu tiên trong phần 12 của Binh Thư Yếu Lược. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites