wildlavender

Nguồn Gốc Tết Trung Thu, Của Người Hoa Hay Việt?

9 bài viết trong chủ đề này

Nguồn gốc Tết Trung Thu, của người Hoa hay Việt?

Trung thu mà không bàn về chuyện ý nghĩa và phong tục tết Trung thu thì ăn cái bánh Trung thu nó cũng mất ngon. Trong bài viết này Minh Triết xin giới thiệu đến anh chị em một bài viết về vấn đề nguồn gốc và một số phong tục của Tết Trung Thu. Đây cũng là một cách nhìn khác mới mẻ.

Hiện nay có rất nhiều trang mạng dẫn link lẫn nhau, sau chép lẫn nhau một bài viết của một tác giả nào đó cho rằng tết Trung Thu của người Việt xuất phát từ Trung Hoa điều này không hẳn sai nhưng cũng chưa hẳn chính xác bởi vì cái tết Trung thu của người Việt hoàn toàn khác tết Trung thu của người Hoa. Chỉ có điều theo thời gian người Việt đã du nhập những phong tục văn hóa của người Hoa nên có những nét tương đồng đến nỗi ngày này mọi người đều nghĩ cả hai là một.

Theo truyền thuyết Trung Hoa, thì tết Trung thu xuất phát thời nhà Đường. Vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.

Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.

Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ.

Muốn hiểu rõ hơn về nguồn cơn trước tiên chúng ta tìm hiểu về từ Tết, Tết là biến âm của từ ‘Tiết’ trong ‘Tiết khí’ mà ra. Ban đầu là dùng để chỉ những lễ đặc biệt của người dân Việt xưa, những dịp này nương theo mùa vụ, còn mùa vụ lại nương theo thời tiết mà thành. Lớn nhất trong năm là Tết Nguyên đán (Xuân) tháng Giêng, hay dân gian còn gọi là Tết cả. Rồi đến Tết Trung thu (Thu) rằm tháng Tám, Tết Đoan ngọ (Hạ) mồng năm tháng Năm, Tết Hàn thực mồng ba tháng Ba….

Người Việt nay ăn Tết Nguyên Đán là cái tết lớn nhất nhưng người Việt cổ ăn Tết lớn nhất vào mùa Thu. Bằng chứng là trên mặt trống đồng in khắc hình ảnh lễ hội, hẳn phải là lớn nhất hoặc/và tiêu biểu nhất nên mới được người xưa chọn khắc lên mặt trống, có thấy hình bông lau, là thứ chỉ nở vào mùa thu. Ở một số nơi tại Đồng bằng Bắc Bộ còn giữ tục ăn Tết Cơm Mới mồng mười tháng Mười, và cả Tết Trùng cửu mồng chín tháng Chín.

Trong văn hóa lúa nước của người Việt, Trăng có một ý nghĩa rất to lớn nó gắn liền gắn liền với mùa màng và mọi hoạt động của người Việt cổ. Mùa thu lại là lúc tiết trời mát mẻ, khí hậu dễ chịu nhất so với những khắc nghiệt quanh năm. Ngày rằm tháng Tám là khi trăng sáng nhất và đẹp nhất mà việc nông lại đang lúc nhàn. Lẽ nào một tộc người ưa Lễ hội và thường trực ngắm trăng không chỉ để lo công việc làm ăn mà còn là thưởng ngoạn lại có thể bỏ qua thời khắc này mà không tổ chức một cái gì đó, phải đợi cho đến khi người láng giềng phương Bắc, không mấy khi thân thiện, mách nước dùm?

Hơn nữa trong văn hóa người Việt hình tượng trăng trái ngược hoàn toàn với văn hóa phương Bắc. Giáo sư là Kim Định (trong Nam) và Trần Quốc Vượng (ngoài Bắc) cùng dựa vào văn hóa dân gian mà cho rằng mặt trăng trong văn hóa Việt mang ‘giống đực’ còn trong văn hóa Trung Hoa là ‘giống cái’. Người Việt nói: ‘Ông trăng mà lấy bà trời’, hay bài đồng giao: ‘Ông giẳng, ông giăng (trăng). Xuống chơi với cháu. Có bầu có bạn…’ Về mặt truyền thuyết câu chuyện Chú Cuội ngồi gốc cây đa thuần Việt hoàn toàn khác với câu chuyện ông Tơ bà Nguyệt, Hậu Nghệ Hằng Nga và chú Cuội Ngô Cương.

Tất cả những điều trên chỉ để nói rằng Tết Trung thu của người Việt đã có từ xưa, có chăng là sau khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, khi tự nguyện, lúc cưỡng bức, suốt một thời gian dài trong lịch sử mà người Việt có du nhập một số tập tục cùng những thành tố văn hóa của người Hoa vừa để làm phong phú thêm nhưng cũng có khi là thay thế hẳn những tập tục khác của mình. Thế cho nên đến bây giờ, nhìn dưới con mắt của người phương Tây chẳng hạn, thì Tết Trung thu của người Việt cũng chẳng khác gì với của người Hoa, có khi còn không phong phú bằng.

Minh Triết (tổng hợp)

nguồn nguoi ao lam

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

“Tết Trung Thu rước đèn đi chơi

Em rước đèn đi khắp phố phường

Lòng vui sướng với đèn trong tay

Em múa ca trong ánh trăng rằm

Đèn ông sao với đèn cá chép

Đèn thiên nga với đèn bướm bướm

Em rước đèn này đến cung trăng

Đèn xanh lơ với đèn tím tím

Đèn xanh lam với đèn trắng trắng

Trong ánh đèn rực rỡ muôn màu …”

(Rước đèn tháng tám - Đức Quỳnh, Văn Thành)

Ở Việt Nam, trong một năm có 4 cái tết chính, mỗi tết lại ứng với một mùa, một tiết và mang một ý nghĩa nhất định. Tết trung thu là một trong 4 tết quan trọng nhất trong năm theo nông lịch cổ; đó là: Tết đầu xuân (Tết nguyên đán), tết giữa thu (Tết trung thu), đệm giữa là tết vào hè (Tết đoan ngọ) và tết đầu đông (Tết cơm mới 10-10)

Theo phong tuc người Việt, Tết Trung Thu được tổ chức vào giữa mùa thu, tức là hôm rằm tháng tám hằng năm – tính theo lịch ta. Tháng tám âm lịch theo truyền thuyết là đêm thu đẹp nhất trong năm vì trăng thật to tròn, sáng và đẹp. Trong dịp này người ta làm cỗ cúng gia tiên và bày bánh trái ra sân cúng mặt trăng. Nhân dịp tết này, người lớn thì uống rượu, thưởng trăng, và hát trống quân; trẻ em thì rước đèn, đi xem múa lân, ca hát các bài hát Trung Thu, và vui hưởng bánh kẹo cùng các thứ trái cây do cha mẹ bày ở ngoài sân trong đêm Trung Thu dưới hình thức một mâm cỗ. Ở một số nơi tổ chức múa lân, múa sư tử để các em vui chơi thoả thích.

Posted Image

Phá cỗ trung thu

Đây còn được coi là ngày tết của trẻ em, gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Tết Trung Thu cũng là ngày tết truyền thống của một số quốc gia ở Châu Á như Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản.

Ngoài ra, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.

Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em rất phong phú, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy và đèn ông sao.

1. Nguồn gốc Tết Trung thu

Theo truyền thuyết, Tết Trung Thu có từ vài ba ngàn năm nay. Người Trung Hoa thời cổ đại sống bằng nghề chăn nuôi và trồng trọt. Suốt mùa hè trời nắng ấm, người dân chăn nuôi và săn bắn dễ dàng, đầu tháng 8 lại thu hoạch nông sản phẩm, đến rằm tháng 8 bầu trời xanh biếc, trăng rằm trong sáng, cả nhà vui vẻ đoàn tụ, tượng trưng cho " trời và đất hợp nhất", nên mới có Tết Trung Thu. Thời đó, Tết Trung Thu đơn thuần là ngày lễ cúng thần nông, chỉ có cơm rượu, không có các loại bánh như ngày nay.

Người Trung Hoa cổ đại cho rằng Tết Trung Thu bắt nguồn từ thời Xuân Thu. Tuy vậy, trước đời Đường văn tự chưa phát triển, sử sách viết về Tết Trung Thu không nhiều lắm. Từ đời Đường trở đi, nhiều nhà thơ hoặc văn nhân viết những bài thơ hay tác phẩm về Tết Trung Thu, người đời sau mới biết được truyền thuyết và tập tục của nó. Từ đó Tết Trung Thu trở thành ngày lễ cố định hàng năm. Chuyện xưa kể rằng vua Đường Minh Hoàng (713-741 Tây Lịch) dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch. Trong đêm Trung Thu, trăng rất tròn và trong sáng. Trời thật đẹp và không khí mát mẻ. Nhà vua đang thưởng thức cảnh đẹp thì gặp đạo sĩ La Công Viễn còn được gọi là Diệp Pháp Thiện. Đạo sĩ có phép tiên đưa nhà vua lên cung trăng. Ở đấy, cảnh trí lại càng đẹp hơn. Nhà vua hân hoan thưởng thức cảnh tiên và du dương với âm thanh ánh sáng huyền diệu cùng các nàng tiên tha thướt trong những xiêm y đủ màu xinh tươi múa hát. Trong giờ phút tuyệt vời ấy nhà vua quên cả trời gần sáng. Đạo sĩ phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn bàng hoàng luyến tiếc.

Về tới hoàng cung, nhà vua còn vấn vương cảnh tiên nên đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và cứ đến đêm rằm tháng tám lại ra lệnh cho dân gian tổ chức rước đèn và bày tiệc ăn mừng trong khi nhà vua cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ múa hát để kỷ niệm lần du nguyệt điện kỳ diệu của mình. Kể từ đó, việc tổ chức rước đèn và bày tiệc trong ngày rằm tháng tám đã trở thành phong tục của dân gian.

Cũng có người cho rằng tục treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám âm lịch là do ở điển tích ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng. Vì ngày rằm tháng tám là ngày sinh nhật của vua Đường Minh Hoàng nên triều đình nhà Đường đã ra lệnh cho dân chúng khắp nơi trong nước treo đèn và bày tiệc ăn mừng. Từ đó, việc treo đèn bày cỗ trong ngày rằm tháng tám trở thành tục lệ.

Lại có chuyện kể rằng một vị tướng tên là Lưu Tú ở đời nhà Tây Hán, từ năm 206 trước Tây lịch tới năm 23 Tây lịch, trong lúc quân tình khốn quẫn đã cầu Thượng Đế giúp cho quân lính có đồ ăn để chờ quân tiếp viện. Sau khi cầu Thượng Đế, quân lính tìm được khoai môn và bưởi để ăn. Nhờ đó sau này Lưu Tú mới bình định được toàn quốc và lên làm vua tức là vua Quang Võ nhà Hậu Hán. Ngày mà Lưu Tú cầu được linh ứng là ngày rằm tháng tám. Từ đó nhà vua truyền lệnh cứ đến rằm tháng tám là làm lễ tạ trời đất và thưởng trăng bằng khoai môn và bưởi. Ngày lễ trọng thể vui tươi này được gọi là Tết Trung Thu.

Người Đại Hàn gọi Tết Trung Thu là ngày hội Chosuk. Trong dịp vui mừng của ngày hội này, người dân Đại Hàn thường bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với Thượng Đế cho họ được mùa, nên đã nghỉ ngơi vui chơi trong 3 ngày. Trước đây giao thông chưa thuận tiện, vào ngày hội Chosuk, những người buôn bán làm ăn ở thành phố thường về quê nhà thăm bà con họ hàng thân thích, những người sống ở quê nhà thì tổ chức hội hè như người Việt chúng ta đón mừng ngày Tết Âm Lịch. Trước ngày hội Chosuk một tháng, các công ty thương mại lớn ở Đại Hàn thường giảm giá hàng cho khách mua về làm lễ vật tặng nhau. Trong ngày hội Chosuk, người Đại Hàn ăn loại bánh làm bằng bột nếp và đậu xanh trộn với đường, họ gọi là "songpyon". Dịp này thanh thiếu nhi Đại Hàn thích nhẩy bài "Kang Kang Su Vol Lae"

Rằm tháng 8 người Nhật Bản tổ chức ngày hội Hounen Odori (Hounen có nghĩa là hạnh phúc và giầu có, Odori có nghĩa là nhẩy múa). Dịp này họ thường ra sau vườn hoặc ngồi trước cửa ngắm trăng và ăn mừng ngày hội Hounen Odori bằng loại bánh hình cái gối làm bằng gạo (rice dumplins) người Nhật gọi là "Tsukimi dango".

Đối với người Việt Nam thời cổ đại, Tết Trung Thu được diễn tả trong "Việt Nam Phong tục" của tác giả Phan Kế Bính với tục: Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Ðầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu các sắc, sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng, trong đó thì lễ vật hàng đầu là bánh mặt trăng, ngày nay gọi là bánh Trung Thu. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp...

Theo các nhà khảo cổ học, Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, từng được khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, là một trong những Trống Đồng Đông Sơn có kích thước to lớn, hình dáng cổ kính, tập trung hoa văn phong phú nhất. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa mà “Tang thương ngẫu lục” đã miêu tả.

Theo "Tang Thương Ngẫu Lục", tác phẩm chữ Hán của 2 nhà văn Việt Nam Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án viết khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, thời vua Lê chúa Trịnh, Tết Trung Thu được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ chúa. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa thu là mùa của thành hôn.

Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả người Pháp P.Giran cũng từng viết trong “Magie et Religions Annamites, Paris: Challamet, 1912" về Tết Trung Thu: Từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng.

Theo phong tục Việt Nam, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bầy cỗ cho các con để đón trăng rằm. Các vị mua và làm đủ các loại đèn lồng thắp bằng nến treo trong nhà hoặc cho các con mang đi rước đèn cùng bè bạn. Cỗ mừng Tết Trung Thu gồm: bánh Trung Thu, các loại bánh kẹo khác, trái cây... nhiều hay ít tùy hoàn cảnh của mỗi gia đình.

Trong văn học nghệ thuật có nhiều tác phẩm thơ ca, hội họa, âm nhạc miêu tả Tết Trung Thu, trong đó có bài thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:

Có bầu có bạn can chi tủi

Cùng gió cùng mây thế mới vui

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám

Tựa nhau trông xuống thế gian cười

2. Phong tục tín ngưỡng trong Tết Trung Thu Việt

Là một nước nông nghiệp nên Tết Trung Thu ở Việt Nam chứa đựng nét tín ngưỡng riêng, đó chính là tín ngưỡng trong lễ thức nông nghiệp, bao gồm cả phần lễ và phần hội. Tinh thần của Lễ thức đó, trước hết thể hiện ở ý thức của người nông dân đối với mùa vụ. Tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi” (bia chùa Đọi,1121), người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi. Dưới ánh trăng thu, các lão nông uống trà, nhắm rượu, ngắm trăng, thưởng nguyệt, chiêm nghiệm dự đoán tiên tri. Bởi vậy mà thành ngữ dân gian ta vẫn có câu “Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng rằm tháng Tám”.

Posted Image

Bánh Trung Thu

Người Việt hiện nay còn giữ được ít nhất hai lễ trong rằm tháng Tám. Đó là lễ cúng trăng (trời đất) và Lễ cúng gia tiên trên bàn thờ Tổ. Cả hai lễ đều có những lễ vật tương tự như nhau: Hoa, các loại quả, bánh nướng, bánh dẻo, rượu. Riêng lễ cúng gia tiên có thêm đĩa xôi. Ngoài những sản phẩm nông nghiệp là hoa quả, rượu, xôi, có hai loại bánh mà người Việt dành riêng cho lễ cúng Rằm tháng Tám là bánh dẻo và bánh nướng, một loại tròn, một loại vuông, phản ánh nhận thức thô sơ của người Việt cổ: Trời tròn, đất vuông. Khi phá cỗ người ta tin rằng các loại lễ vật đều mang một ý nghĩa thiêng liêng, ăn uống để tiếp thêm sức mạnh của trời đất, làm cho ta có đủ sức chống lại mọi thiên tai, thiên dịch. Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác. Thật là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ và để người đời tỏ lòng săn sóc lẫn nhau.

Người Việt xưa không mấy khi dùng đèn lồng, trừ Rằm tháng Tám, người ta đua nhau làm đèn lồng, mua đèn ông sao, đèn con thỏ, đèn con cóc (thiềm thử), đèn cá chép,…Đó là những vật phẩm biểu trưng nhiều hàm ý. Đèn con thỏ biểu hiện cho mặt trăng (ngọc thỏ). Đèn con cóc (thiềm thử) biểu thị sự cầu mong mưa thuận gió hòa của cư dân trồng lúa nước theo điển tích “con cóc là cậu ông trời”. Đèn cá chép là bắt nguồn từ tích cá chép vượt vũ môn, cá chép hóa rồng, với ý nguyện cầu mong cho nhân hòa, vật thịnh, con cháu học hành giỏi giang, tấn tới.

3. Rộn ràng - Tết Trung Thu

Múa sư tử - múa lân:

Posted Image

Một hoạt động không thể thiếu được trong phần hội của rằm tháng Tám đó là múa sư tử (thực ra là múa lân vì sư tử không có sừng). Người Việt dùng múa sư tử trong nhiều lễ hội với những ý nghĩa biểu trưng khác nhau. Trong cơ cấu của đội múa gồm có 3 nhân vật: Sư tử, tráng sĩ, ông địa. Sư tử là biểu trưng của Trời (Thiên), còn Tráng sĩ là Nhân, ông Địa là Đất. 3 nhân vật không đối kháng mà luôn tạo ra sự phối hợp hài hòa, Thiên - Địa - Nhân hòa hợp là ước vọng sâu xa của cư dân lúa nước Việt Nam. Với những người cho là múa lân thì lại có sự giải thích khác. Họ cho rằng Lân là con vật cực hiền (nhân thú). Con Lân chỉ xuất hiện khi thánh nhân ra đời hoặc thời thịnh trị. Cho nên, múa Lân trong ngày tết Trung thu là cầu mong cho vua sáng, tôi hiền, đất nước thái bình, hưng thịnh. Nó chẳng những thể hiện ở ý thức mà cả trong hành động.

Lân còn gọi là Kỳ Lân. Kỳ là tên con đực, Lân là tên con cái. Lân là con vật đứng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng), là con vật thần thoại, thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân là con vật hiền lành, chỉ có người tốt mới nhìn thấy nó được.

Vào lúc xẩm tối Rằm tháng tám, tiếng trống múa sư tử (múa lân) náo động các phố phường, làng xóm.

Mỗi đám rước sư tử có khoảng mươi - mười lăm người, quần áo chẽn, khăn võ sinh, chân đi hài sảo. Một màu đen tuyền. Thắt bao lưng xanh đỏ, bỏ múi lòe xòe. Ba anh đảm nhận việc đội đầu, cầm đuôi sư tử và đánh côn. Tung côn là người giỏi nhất đám, chỉ huy chung. Một đầu côn gắn quả mây, to hơn trái cam. Quả mây đan mắt cáo, bên trong là một quả cầu gọt bằng gỗ xốp nhẹ cỡ bằng quả chanh. Mấy người này ít nhiều phải nắm được vũ thuật. Hai người khiêng trống cái, một người cầm chũm chọe. Những người còn lại đi song hàng hai bên giữ trật tự, bảo vệ an toàn cho đoàn.

Sau khi tuần hành qua các đường chính, vào lúc trăng sắp lên giữa đỉnh đầu, các phường sư tử chia nhau rẽ vào các phố buôn bán giàu có, tìm đến nơi nhà cao cửa rộng. Chọn được gia chủ có của nổi của chìm, đám rước dừng lại trước cửa để biểu diễn.

Bắt đầu là điệu chào của sư tử, tiến thoái đúng lễ nghi kính cẩn. Chiếc côn được nâng cả bằng hai tay lễ phép. Tiếng trống, tiếng chũm chọe thôi thúc mạnh mẽ hơn. Đám rước sư tử trổ hết ngón nghề của mình.

Trước tấm ''thịnh tình'' của sư tử, gia chủ đành mở rộng cửa nghênh tiếp. Vợ chồng, con cái, thân thuộc bắc ghế thưởng ngoạn.

Cuối cùng là phần lĩnh tiền thưởng, chấm dứt trò múa chúc tụng đêm rằm. Tiền thưởng nhiều khi khá lớn, nhưng gia chủ không phát tận tay. Họ dùng một vuông vải đỏ hoặc một tờ giấy hồng điều gói tiền lại rồi treo lên xà nhà. Phường sư tử phải công kênh nhau hai ba người mới lấy nổi.

Múa sư tử đòi hỏi nhiều sức lực, biết sử dụng vũ thuật khéo léo. Thêm vào đó là đức tính kiên trì, dũng cảm, nhanh nhẹn, tháo vát. Phải chăng, ở một góc độ nào đó, múa sư tử đã thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc ta lúc hội hè, khi tết nhất.

Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền.

Đã có bài hát về Múa sư tử như sau:

“Thùng thình thùng thình trống rộn ràng ngoài đình

Có con sư tử vui múa quanh vòng quanh

Trung thu liên hoan trăng sáng ngập đường làng

Dưới ánh trăng vàng em cất tiếng hát vang”

Rước đèn:

Posted Image

Ở một vài địa phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết Trung thu. Đèn kéo quân hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm. Bốn mặt đều phết giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện nay. Phía trên và phía dưới có đường viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn, hơi lửa bốc lên, tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân còn gọi là đèn chạy quân vì hình đoàn quân cứ liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến vòng kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa. Đèn có bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt nào cũng được.

Hát trống Quân:

Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận tức là hát theo vần, theo ý hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Ngày xưa trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát.

“Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu

Cán đây rất dài, cán cao qua đầu

Em cầm đèn sao em hát vang vang

Đèn sao tươi màu của đêm rằm liên hoan...”

(Chiếc đèn ông sao: Phạm Tuyên)

Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Sau này, điệu hát trống quân đã được Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) áp dụng khi ngài đem quân ra Bắc đại phá quân nhà Thanh vào năm 1788. Trong lúc quân sĩ rất nhớ nhà, ngài cho một số binh lính giả làm gái để trai gái đôi bên hát đối đáp với nhau trong khi người ta đánh trống theo nhịp ba để phụ họa. Do đó, quân lính vui mà bớt nhớ nhà. Điệu hát trống quân được thịnh hành từ thời Nguyễn Huệ trở đi. Người Trung Hoa không có phong tục này.

Trò chơi dân gian:

Posted Image

Trò chơi dân gian cho trẻ em ở nước ta có những đặc điểm nổi bật: dễ chơi, em nào cũng tham gia được chơi ở địa điểm nào cũng được, lại có cả hát kèm theo, giàu tính trí tuệ và không tốn tiền.

Trò chơi dân gian cho trẻ em có thể chia ra làm nhiều loại. Có loại lợi dụng sức gió như chơi chong chóng, chơi trò đánh gậy, thả diều... Chỉ cần hai mảnh lá dứa bện chéo vào nhau, cắm một cái gai nối với một khúc cành tre bằng cái đũa, có lỗ, là trẻ em đã có cái chong chóng quay tít. Cầm chong chóng chạy ngược gió thì thích biết bao. Còn thằng đánh gậy ư? Chỉ là cành dâu, tiễn khúc, có cả chân tay, đầu mình, hai tay nối với cái "gậy". Cái gậy lại buộc với hình tròn bằng lòng bàn tay. Tất cả nối liền nhau, treo lên trước gió. Gió thổi vào hình tròn làm cái gậy quay tít. Thằng đánh gậy trở nên sinh động như võ sĩ đang múa. Thả diều thì khỏi phải nói. Chiều hè lộng gió, cánh diều bay bổng trời cao. Tiếng sáo ngân trong trẻo. Lũ trẻ nằm trên bờ đê cỏ xanh, ngẩng mặt lên dõi nhìn, sung sướng.

Những trò chơi dùng lửa hoặc ánh sáng như rước đèn ông sao, đèn lồng, đèn hình cá... vào đêm Trung thu hẳn không gì lộng lẫy và huyền ảo hơn. Đặc biệt nhất là đèn kéo quân (còn gọi là đèn cù). Khi ngọn nến được đốt lên, chong chóng quay, đèn cũng quay. Thế là các con vật tự nhiên chạy. Có lẽ từ cái trò chơi này, bài dân ca "Đèn cù" đã ra đời. Ông cha ta đã biết tận dụng luật đối lưu của không khí để tạo nên trò chơi thông minh và sinh động.

Posted Image

Những trò chơi dùng nước cũng không ít. Trẻ em có thể gấp con thuyền giấy, hoặc một cái lá khô hay cái bẹ hoa chuối đã có thể thành thuyền được gió đưa đi bong bong trên mặt nước. Thời sau này, các em cho dính một tí xà phòng bánh vào đuôi mảnh giấy rồi thả ngay trong thau nước. Xà phòng tan, tạo ra lực đẩy mảnh giấy lao đi, dễ làm mà cũng không kém phần thích thú. Trò chơi dân gian Việt Nam góp phần rèn luyện trí tuệ cho trẻ em. Các em có thể ngồi quanh bàn cờ hàng giờ và tính toán nước đi sao cho thắng. Chỉ với hình vẽ bằng than, gạch non hay phấn trên sân và một ít sỏi hoặc đá dằm, các em đã có thể "chơi ô ăn quan" được rồi. Người chơi muốn thắng phải tính rải quân như thế nào để cuối cùng thu được nhiều quân của đối phương về mình.

Phần lớn các trò chơi cho trẻ đều có tác dụng rèn năng lực khéo tay, nhanh mắt. Từ hòn đất sét dẻo và mềm, các em có thể nặn ra đủ thứ quả hoặc con vật cực kỳ sinh động. Trẻ con theo mẹ đi chợ, đố cháu nào bỏ qua được mẹt tò he của bác thợ nặn bằng bột trắng, vàng, xanh, đỏ... những Thánh Gióng cưỡi ngựa, Quan Công, chú Tễu... hồn nhiên và hấp dẫn. Riêng các bé gái rất mê đánh chuyền. Chỉ với 10 que chuyền và một quả chuyền bằng quả ổi xanh, quả cà, quả bưởi con bị rụng hoặc véo hòn đất dẻo vo tròn lại là xong. Các em vào trò: tay tung quả lên, lại phải nhặt que chuyền rồi bắt quả cho đúng, miệng phải nói từng câu cho hợp, cho nhịp nhàng với từng động tác. Vì thế mắt phải tinh, tay phải nhanh, khéo và chính xác. Từ nhặt một que mỗi lần đến hai que, ba que... và cuối cùng là 10 que. Các que ấy được rải ra nên rất khó vơ, làm sao trong một giây phải vơ gọn, vơ hết, không rơi que nào và lại bắt gọn quả chuyền cũng bằng bàn tay ấy. Thế mới khó. Làm được mới giỏi.

Trò chơi dân gian còn mang tính thể thao, rèn luyện sức mạnh và sự dẻo dai cho trẻ. Chỉ với cái mo cau rụng, đứa ngồi, đứa kéo chạy vòng quanh sân đã trở thành chiếc xe bong bong. Rồi nhảy dây, đá cầu, đu, nhào lộn,... đều cần đến cơ bắp vừa mạnh vừa chính xác. Cái trò "trồng nụ trồng hoa" chẳng cần dụng cụ gì mà hấp dẫn hết chỗ nói. Đây chính là môn thể thao nhảy cao không cần xà. Mới đầu nhảy qua một hai bàn chân dựng đứng thì dễ, đến khi cả bốn bàn chân và bốn nắm tay của cả hai trẻ chồng lên cao thì có lẽ đã đến sáu bảy mươi phân, nhảy qua không chạm quả là không phải đùa.

Tính tập thể kết hợp với ca hát cũng là nét độc đáo của trò chơi dân gian cho trẻ em. Điệu múa kỳ lân đêm Rằm tháng Tám, trò chơi "thả đỉa ba ba", vừa chơi vừa hát những câu đồng dao bao nhiêu trẻ tham dự cũng được.

Do cuộc sống lao động gắn liền với thiên nhiên hoang sơ nên trẻ em sớm biết chơi với các con vật. Ngoài chim muông, trẻ em còn biết đưa chuồn chuồn, châu chấu, cào cào vào trò chơi.

Đón trăng:

Posted Image

Tự bao đời nay, trung thu gắn liền với trăng, bởi vậy cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên khi tết trung thu bắt nguồn từ Tết trông trăng. Theo thần thoại, trước hết trăng là một vị nữ thần cô độc, thuộc về nữ giới, có rất nhiều quyền lực không kém gì thần mặt trời. Có lẽ vì thế mà chúng ta có hai loại lịch: Âm lịch và Dương lịch. Tuy vậy, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo lại có những quan niệm khác nhau về vị thần bí ẩn này. Từ thời thượng cổ đã có trên năm mươi quan niệm và tên khác nhau để gọi thần Trăng. Thậm chí thần Trăng đã có trước các tôn giáo hoàn cầu như đạo Hồi, Bà La Môn qua các danh xưng Arma của người Hittite, thần Sin và Amn của người Ả Rập, thần Chadra của người Hindu, đó là nam thần. Ở Trung Hoa, người ta gọi trăng là nữ thánh qua các tên Hằng Nga, người Indonesia gọi Silewe, các dân tộc hải đảo Polynésien thì gọi trăng là nữ thần Nazarata. Trăng đã được tôn xưng tột đỉnh như tại Hy Lạp, đó là thần Hécate ba đầu, cai quản ba cõi trời, đất và biển cả, có đầy phép thần thông biến hóa, chỉ mang lại điềm lành cho nhân thế mà thôi.

Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, lễ hội Tết Trung Thu ở Việt Nam cũng có nhiều thay đổi theo thời gian. Song dù thay đổi thế nào thì cái “thần” của nó vẫn còn giữ được, đó là tính chủ thể, sự vui chơi hồn nhiên của trẻ và sự quan tâm của mọi người đối với các em.

Tết Trung thu, một lễ thức nông nghiệp ở nước ta, một cái tết của trẻ mà ở đó các em được phát huy hết các đức tính tốt đẹp của mình, được vui chơi thỏa thích, được hòa mình vào trong thiên nhiên kỳ thú và được đắm mình trong vòng tay yêu thương nhân ái của mọi người. Đó là một lễ hội truyền thống đã ăn sâu vào trong tiềm thức người Việt, một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ và bảo tồn.

Có lẽ bất cứ một người Việt Nam nào cũng đều có tuổi thơ và đều có những giờ khắc tưng bừng đón Tết Trung Thu, dù đơn giản chỉ có hồng với cốm thôi cũng không thể nào quên cái vui thủa ấy. Vui vì được rước đèn, được tự tay nhặt từng hạt bưởi để xâu thành một chuỗi phơi khô làm đèn thắp đêm Rằm tháng tám, để rồi khi thành người lớn có gia đình và rồi lại sắm tết cho con cái, nhìn chúng múa hát đón trăng trong lòng ai không khỏi bồi hồi nhớ về một mùa trăng năm nào, bên tai lại vọng về bài hát cũ”

Posted Image

“Ông giẳng ông giăng,

xuống chơi với tôi,

có bầu có bạn,

có ván cơm xôi,

có nồi cơm nếp,

có tệp bánh chưng,

có lưng hũ rượu,

có chiếu bám dù,

thằng cu xí xoài,

bắt trai bỏ giỏ,

cái đỏ ẵm em,

đi xem đánh cá,

có rá vo gạo,

có gáo múc nước,

có lược chải đầu,

có trâu cày ruộng,

có muống thả ao,

ông sao trên trời....”

St internet

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tết Trung thu không phải có nguồn gốc từ thời nhà Đường ở Trung quốc.

Tết và lễ không phải tự nhiên mà sinh ra. Tết Trung thu (Rằm tháng Tám) cũng vậy, được sinh ra từ đời sống văn hóa của một dân tộc. Văn minh của dân tộc Việt là văn minh lúa nước. Giữa mùa thu (giữa tháng 8 âm lịch) khí trời mát mẻ, dễ chịu lại vừa mới thu hoạch xong vụ mùa. Lúc này những cư dân nông nghiệp mới tụ họp nhau lại để trước hết là "chơi trăng" sau đó là để làm một lễ để nghỉ ngơi, vui chơi sau một vụ mùa vất vả. Sự gắn bó mật thiết giữa văn minh nông nghiệp lúa nước và mặt trăng cũng có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca. Ví dụ như:

Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng rằm tháng Tám.

Tỏ trăng Mười Bốn được tằm, đục trăng hôm Rằm thì được lúa chiêm.

Từ nền tảng kinh tế và đời sống nông nghiệp đó hình thành nên một lễ (hội) Rằm tháng Tám (hay Trung thu).

Ngược lại người Trung Hoa với nền cơ sở văn hóa là văn minh du mục và trồng khô (lúa mì, cao lương, ngô...) lịch gieo trồng và thu hoạch không phụ thuộc vào trăng và theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông giống như của người Việt. Hơn nữa tiết trời vào thời điểm này tại Trung quốc bắt đầu lạnh. Những điều kiện này không góp phần hình thành nên một lễ hội chơi theo trăng.

Thứ hai sách cổ của Trung quốc thì

"Tết Trung thu bắt đầu từ đời nhà Đường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh. Nguyên vào năm đó, đêm rằm tháng Tám trời thật đẹp, trăng tròn sáng tỏ, gió mát hây hây, say cảnh đẹp của trời đất, nhà vua ngự chơi ngoài thành mãi đến trời khuya. Lúc đó, một ông già râu tóc bạc phơ trắng như tuyết chống gậy đến bên nhà vua. Trông người và theo cử chỉ, nhà vua đoán ngay là một vị thượng tiên giáng thế. Ông già kính cẩn chào nhà vua rồi hỏi: - Bệ hạ có muốn lên cung trăng không? Nhà vua liền trả lời là có. Vị tiên liền đưa chiếc gậy lên trời, hoá phép ra một chiếc cầu vòng, một đầu giáp cung trăng, một đầu ăn xuống đất. Tiên ông đưa nhà vua trèo lên cầu vòng, chẳng bao lâu đã đến cung trăng. Phong cảnh nơi đây thật đẹp, một vẻ đẹp khác xa nơi trần thế. Có những tiên nữ nhan sắc với xiêm y cực kỳ lộng lẫy, xinh như mộng, đẹp như những bài thơ hay, nhảy múa theo những vũ điệu vô cùng quyến rũ, đủ muôn hồng nghìn tía. Nhà vua đang say sưa với những cảnh đẹp thì tiên ông đưa nhà vua trở lại cung điện. Về đến trần thế, nhà vua còn luyến tiếc cảnh trên cung Quảng và những giờ phút đầy thơ mộng nên để kỷ niệm ngày du Nguyệt điện, nhà vua đã đặt ra Tết Trung thu. Trong ngày Tết này, người ta uống rượu thưởng trăng nên còn gọi là Tết Trông trăng."

Như vậy ngay bản thân người Trung quốc cũng không lý giải được nguồn gốc Tết Trung thu một cách rõ ràng mà mượn một câu chuyện phi thực tế để giải thích cho nguồn gốc Tết Trung thu. Hoặc một cách lý giải khác:

"Tết trung thu bắt nguồn từ Lễ Tạ Trời Đất của vua Hán Quang Vũ, sau khi diệt được phản thần là Vương Mãng, bình định được đất nước, khôi phục nhà Hán vào năm 25 sau Tây Lịch. Trong tiệc Vua cho dùng hai món Bưởi và Khoai Môn là hai thức ăn đã giúp cho quân của Lưu Tú khỏi bị chết đói, khi bị quân Vương Mãng vây hãm trong thành nhiều ngày. Từ đó người Trung Hoa dùng hai vật trên làm món lễ cúng trăng"

Cách giải thích nguồn gốc Tết trung thu này thiếu tính logic và không thật sự thuyết phục.

Thứ ba, theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (chứng tỏ sự sự ra đời và gắn bó của Tết Trung thu với người Việt đã có ít nhất 2500 năm). Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê – Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa mà “Tang thương ngẫu lục” đã miêu tả.

Ngay cả sách của người Trung quốc “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Đây chính là lễ (hội) Rằm tháng Tám của dân tộc Việt. Nó cũng cho chúng ta thấy rằng mùa thu tháng Tám còn là mùa giao duyên và kết hôn.

Như vậy kết hợp cái nhìn tổng hợp của khảo cổ học, cơ sở văn hóa, ca dao dân ca và chính ghi chép của người Trung quốc đã cho thấy rằng Rằm Tháng Tám (Tết Trung thu) là một sinh hoạt văn hóa của người Việt dựa trên nền văn minh lúa nước.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Với mong muốn kể chuyện sự tích Trung Thu cho 2 hoàng tử ở nhà, TT tìm thấy bài này. Mong anh chị em xem và cho ý kiến.

trân trọng

Thế Trung

Việt học Nguyễn Sơn Hà

CHỊ HẰNG VÀ THẰNG CUỘI

Nhân đọc bài của tiên sinh Nguyễn Việt Nho về “Giải Mã Huyền Thoại Việt” đăng trên “anviettoancau.net” tháng này (09/2010), tác giả đã viết : Có thể nói không sai là : trong khắp cùng các nền văn hóa của nhân loại không thể tìm đâu ra thể loại huyền thoại tương tự ; tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả. Nên để gọi là chút quà mọn làm bánh trung thu hầu chia sẻ với độc giả của An-Việt để thưởng thức tinh hoa Minh Triết Việt nhân dịp tết Trung Thu, tôi xin mạo muội giải mã hai huyền thoại bất hủ này của dân tộc Việt từ ngàn xưa, mà tôi chọn làm tựa đề cho bài viết này.

Huyền thoại chị Hằng…

Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.

Posted Image

Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.

Posted Image

Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.

Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.

Posted Image

Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.

Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian. (nguồn:internet)

Ở thời đại toàn cầu hóa với văn minh khoa học kỹ thuật ‘nano’ hiện đại, câu chuyện này nếu chỉ hiểu với nghĩa đen thì quả thật là chuyện hoang tưởng của mấy bà già ăn trầu kể để dụ con nít. Vì ngày nay có mấy ai mà còn đi tin nỏ thần, rồi còn bảo bn rụng tới chín ông mt trời ; thì đúng là xạo sự, là huyễn thoại !!! Vậy thì tại sao từ ngàn năm xưa và qua bao thế hệ, bao nhiêu sách vở cứ đã ghi lại, biết bao bậc cha mẹ, thầy cô đã kể và dạy lại cho con nít chuyện này ? Như vậy có phải là người lớn cũng chỉ như con vẹt (con két) lập lại những điều tào lao vô nghĩa rồi còn đi đầu độc con nít ?

Đã đặt câu hỏi tức là đã có trả lời, nên tôi mời bạn thử tìm đi tìm với tôi câu trả lời cho vấn đề này. Vì như tác giả Nguyễn Việt Nho đã nói : "Đọc huyền thoại Việt là ghi nhận trực thị những gì chính huyền thoại chưng ra từ các huyền tự, huyền sốhuyền đồ."; cho nên trong huyền thoại trên bạn với tôi hãy ghi nhận trực thị những huyền tự sau đây :

Hậu Nghệ : Hậu như "Hậu đế" có nghĩa là ông Trời ; còn Nghệ vốn là chữ Ngải, nên dùng thông với chữ Ngải có nghĩa là cai trị ; hay còn dùng để xưng tụng người tài đức. Nên khi ai làm việc gì một cách tài giỏi, tiếng Việt mình nói là "đạo nghệ", tức theo nguyên thủy có nghĩa là con người (Nhân) là một Tài (linh lực) như Trời và Đất, do đó mới có tiếng "nhân tài".

Côn Lôn : là tên núi ; còn là tên nước bộ tộc Tây Nhung đời cổ (Côn Di) ; nhưng bọn vô lại cũng bị gọi là "côn", do đó mới có tiếng "du côn".

Hằng Nga : chữ Hằng ở đây còn là tên quẻ trong Kinh Dịch, gồm quẻ Chấn ở trên, quẻ Tốn ở dưới, tượng trưng cho sự lâu dài, tức là Đạo Thường Hằng. Còn Nga có nghĩa là cao lớn hay xinh đẹp ; nên Hằng Nga ẩn nghĩa Đạo Trời cao cả tốt đẹp.

Bồng Mông : Bồng nghĩa là um tùm sum suê ; Mông có nghĩa hỗn loạn, che trùm ; ở đây ám chỉ dân du mục phương Bắc (Mông Cổ) là quân nghịch với quân tử ở phương Nam (Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi) tức là Viêm tộc, Việt tộc.

Vương Mẫu : nghĩa là mẹ vua tức Mẹ Vũ Trụ (vạn vật chi mẫu), đó là Nguyên Lý Mẹ còn gọi là Lưỡng Nhất Tính, là cặp song trùng lưỡng hợp của hai sinh lực tương quan giao hội, và biến dịch không ngừng nên bất dịch gọi là Càn-Khôn, Trời-Đất, Âm-Dương, hay Nội-Ngoại, Không-Có, v.v…

Thuốc trường sinh bất tử : đó là Minh Triết Việt với nền tảng nhân sinh quan là "âm dương chi tú khí " với hai luồng Tâm-Sinh chính là hoạt lực siêu linh làm nên Tiết Điệu căn cơ của con người gọi là Tính Bản Nhiên, uyên nguyên tinh ròng không có một chút chi thuộc thụ động pha tạp vào. “Nhân chi sơ Tính bổn Thiện”, đó là Bản Tính vô biên trọn hảo vô cùng, như Kinh Dịch đã ghi : “Đại tại Kiền hồ ! Cương kiện, trung, chính, thuần, túy, tinh dã”.

Bây giờ bạn thử tìm và ghi nhận xem có huyền số hay không. Thưa trong huyền thoại này có hai huyền số :

1/ chín (ông mt trời) : số 9 là tuỳ phụ (vòng thành: do số 5-4 mà thành) cũng gặp rất nhiều trong huyền sử (Cửu Lạc, Cửu Trù, Cửu Đỉnh, Cửu Thiên Huyền Nữ v.v…) (Kim- Định/Sứ Điệp Trống Đồng)

2/ Ba ngày sau : số 3 là Thái Cực với Lưỡng Nghi thành ra Tam Tài với Thiên, Địa, Nhân. Huyền số 3 cũng còn là ý nghĩa Hùng Vương tức nghĩa Nhân Chủ, vì hmột khi hiểu được và sống triết lý Tam Tài, con người biết tự lực, tự cường, tức phải mạnh, phải tài đức để tự tài, tự tác,... để tự nối Trời và Đất lại thành Tâm của mình, để cho mình cũng là "thiên địa vũ trụ vạn vật Nhất Thế", tức là đạt Nhân chủ vậy. Vì nếu Trời là chủ, Đất là chủ thì Người cũng là chủ, hay nói cách khác nếu Trời là vua, Đất là vua thì Người cũng là vua. Vậy nên hễ khử trừ số 3 (triệt tam) như triết phương Tây thì không có Nhân chủ mà trái lại bị vật làm chủ, vì không đủ sức nối hai thái cực âm dương lại với nhau ; nên mới bị rơi vào duy tâm, duy vật hay duy nào đó thì cũng một chiều như nhau nên chỉ dẫn tới ứ trệ và bế tắc !

Nên sau khi đã hiểu được nghĩa những huyền tự và huyền số trong huyền thoại Hằng Nga thì không những câu chuyện Hằng Nga có đầy thú vị mà lại còn độc nhất vô nhị, vì nó đã chuyên chở vào lòng ta cả cái Đạo Thường Hằng chính là cái Đạo làm Người. Cho nên muốn thành Nhân, thành Tiên thì phải uống thuốc trường sinh bất tử, tức là phải đạt Minh Triết vậy. Còn nếu không sẽ như chú Cuội thì chỉ có biết bám víu vào báu vật là cây đa có sức chữa bá bệnh, nhưng đã bị trốc gốc và lơ lửng giữa trời (trên cung trăng), vì đã quên không biết mình (vong thân) chính là Đạo với Trời Đất, nên không còn là Nhân chủ vậy !

(Sau đây là một vài trích đoạn từ những tác phẩm của triết gia Kim-Định cắt nghĩa những huyền tự trong huyền thoại Hằng Nga)

“Và cái mỉm cười đó đã tỏ ra hiệu nghiệm bởi đã thắng không phải bằng tiêu diệt dị đoan, ai mà tiêu diệt được dị đoan? Nhưng bằng bắt dị đoan phải nằm dưới quyền minh triết, bằng đẩy óc Hà Vu về tận nơi phát xuất của nó là ngọn núi Côn Lôn, ở phía Thiểm Tây, Cam Túc. Các ngài đã kịp thời đưa tinh thần Giang tả chi ngạn hay là Động Đình hồ lên án ngữ làn sóng Hà Vu không cho tràn vào đất Lạc Việt." (Kim- Định / Việt Lý Tố Nguyên)

"Theo đó ngay từ thời trống đồng đã thấy có những truyện biểu lộ cuộc di tản thờ vầng nhật sang thờ trời, thí dụ truyện Hậu Nghệ bắn chín mặt trời còn để lại có một. Truyện đó biểu thị sự bỏ giai đoạn quá tôn thờ vào mặt nhật có hại cho con người như nơi người Phenicie và Astec. Hơn thế nữa đã vượt cả giai đoạn ma thuật hấp thụ sinh lực của mặt nhật để tiến đến giai đoạn thờ trời hay là bio-céleste. Tiếng Việt kêu vầng nhật bằng tên mặt trời là hàm ý đó. Mặt trời không còn là bá chủ nữa mà chỉ là thay mặt cho trời kiểu đại diện, nói gọn là mặt trời.

Suy đoán này y cứ trên sự kiện là văn hóa Đông Phương không cắt đứt với dĩ vãng, dầu có bước lên đợt trên cũng còn duy trì tinh hoa của giai đoạn trước. Theo đó khi đã vào giai đoạn thờ trời vầng nhật vẫn còn được duy trì như vị đại diện cho trời. Còn mặt trăng tuy mất chức ông nhưng được giữ chức trọng đại biểu thị luật lệ thường hằng của minh triết, nên được kêu là cô Hằng, Hằng Nga. Từ ông Trăng mà ra cô Hằng tuy có xuống chức nhưng cũng có lên kiểu cách mạng Việt ta thường đùa: “Được làm vua thua làm đại sứ”.(Kim- Định /Sứ Mạng Trống Đồng)

Tương tự huyền thoại Hằng Nga bạn có thể đọc lại trên internet nguyên văn huyền thoại thằng Cuội, hay lượt ý tóm tt câu chuyện sau đây với ý nghĩa triết lý :

“Xưa kia Cuội là người làm củi, một hôm nhờ thoát nạn bị hổ ăn mà Cuội tìm ra được cây đa có sức chữa được bách bệnh, nên Cuội đánh đưa về trồng ở bên nhà, mỗi khi đi vắng thì dặn vợ: “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Đông, cây dông lên trời”. Lần nào cũng dặn đi dặn lại vợ phát cáu “Ừ! Đã khỏe dặn bà thì bà cứ đái xem sao” quả nhiên cây liền lừng lững bay lên trời. Cuội vừa về kịp vội lấy rìu móc cây lại nhưng cây vẫn cứ bay cho tới cung trăng và Cuội phải ở lại trên đó.” (Văn học I.67)

"Cây đa chỉ nền minh triết nông nghiệp của tiên tổ đã bị khinh chê thì nó trở nên lờ lờ lơ lửng không còn khả năng chữa bách bệnh như xưa nữa. Người Việt đã hai lần đái vào cây như vậy. Lần đầu là khi nhận Hán Nho, lần sau là khi rước các thuyết ngọai lai dày xéo mảnh vườn văn hóa nước nhà. Và vì thế nền văn hóa này trở nên lơ lửng không có đủ khả năng đoàn tụ dân tộc thành một khối nữa." (Kim Định/ Cơ Cấu Việt Nho)

Ngoài ra huyền thoại thằng Cuội đã đi sâu vào lòng dân tộc vì nó cũng ẩn chứa một cách tế vi những ý tưởng của nền tảng Minh Triết Việt, nên phần sau đây tôi mời bạn ráng tiếp tục để thử đi tìm lại với tôi qua bài đồng dao sau đây, mà có lẽ bạn cũng như tôi đã thuộc nằm lòng từ thời thơ ấu.

Bóng trăng trắng ngà

Có cây đa to

Có thằng Cuội già

Ôm một mối mơ...

Nhưng trước khi nói chuyện về thằng Cuội, tôi xin được nhắc lại với bạn ý nghĩa Tết. Nói cách thông thường như mọi người hiểu Tết là Lễ, Tết là tiếng đọc trại từ chữ Tiết, "hay nói cách khác là Lễ hòa hợp Trời Đất nên cần Tiết nhịp như Đất cùng Trời, nhất là Trời. Tiết Trời thì như sáng với tối, Xuân với Hạ, tiết Đất thì như Đông với Nam, sông với núi "(Kim-Định). Tiết nhịp hòa đó là Trời 3 Đất 2, như câu: "tham thiên lưỡng địa", và từ đó lúc xưa cũng có điệu vũ gọi là :"lưỡng lưỡng tam tam".

Thiết tưởng cũng cần nên nhắc lại với bạn, cái nhân sinh và vũ trụ quan của tổ tiên Việt tộc: con Người với Trời Đất là một, còn gọi là Tam Tài trong Nhất Thể. Đó là chân lý và cũng là nền tảng của Đạo. Đạo đã được áp dụng vào Đời sống hằng ngày bằng lời nói (tiếng Việt), qua hành động, bằng lễ nghi với biết bao phong tục tập quán và luân thường đạo lý, đều quy về trung Tâm con người, mà ý nghĩa của nó phát sinh từ nguồn suối của Đạo, là Trời Đất, là Âm Dương, như câu: "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" (H.T). Đó là Đạo Trời và cũng là Đạo Việt.

Cái cứu cánh hay sứ mệnh của con người ở đời này, là sống Đạo làm Người, tức là phải trở về với chính mình, tức là Thành Người, Thành Nhân. Mà muốn được Thành Nhân là phải biết vị trí của mình trong Trời Đất, để mới biết sống Hòa với tiết nhịp của Đất Trời. Cho nên tổ tiên mình mới nói "thuận tính mệnh chí lý" nghĩa là phải sống "thuận thiên" thì mới trường tồn. Mà sống thuận thiên là sống với nhịp một đêm một ngày, một ra một vào, một qua một lại,... như ông bà mình nói :"có qua có lại mới toại lòng nhau", hay "một đêm là nghĩa, một ngày là duyên". Đó là cái nhịp hai chiều, tương đồng tương giao, tương sinh tương khắc, tương ứng tương cầu, tương đối tương quan, với song trùng lưỡng hợp, đểsinh sinh hóa hóa, trong lưỡng nghi nhất tính còn gọi là Nguyên lý Mẹ.

Vì vậy mà Tiết Xuân Thu là hai thời điểm của con người cảm thấy mình quy về (hòa) đúng nhất với tiết nhịp của Trời Đất qua vũ trụ vạn vật. Nên từ ý nghĩa đó mới có Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu. Dĩ nhiên nếu nói theo nền tảng văn hóa nông nghiệp của Việt tộc, thời tiết là yếu tố quan trọng nhất cho việc gieo gặt trồng tỉa, thì mùa Xuân là lúc phải gieo trồng và mùa Thu là lúc phải gặt hái. Trong tinh thần đó Tết Nguyên Đán cũng là lễ cầu xin cho một (mùa) năm mới được mưa thuận gió hòa, và Tết Trung Thu cũng là lễ tạ ơn cho hoa lợi mùa màng đã thâu nhập được.

Như mọi người Việt mình đều biết, cứ mỗi lần lễ lạc (lễ của dân Lạc Việt) là có lễ nghi (kiểu cách, nghi= trang sức với lông vũ), là có phần "tế tự" (hay tư tế, nghĩa là tự hiệp thông để"giao" với Trời thì mới hoan lạc : “giao lạc hồ thiên”), là ý nghĩa linh liêng để cho con người quy Tâm vào Đại Ngã, để sống cái Thiên mệnh nơi mình. Đó là sống với Nhân tính, tức là Tính Bản Nhiên của con người. Kế tiếp phần tế tự với hương đèn mâm quả, luôn luôn có phần "đại ẩm" (ăn uống nhậu nhẹt) là để "giao" với Đất, “giao thực hồ địa”. Vì vậy theo phong tục truyền thống văn hóa nông nghiệp của Việt tộc, dân tộc mình có những cái Tết theo Việt lịch tức Âm lịch còn tồn tại như sau :

Tết Nguyên Đán: ngày đầu năm (1/1).

Tết Thượng nguyên: ngày rằm tháng Giêng (15/1).

Tết Thanh minh: 60 ngày sau ngày Lập Xuân, tức là 60 ngày sau ngày mồng một tháng Chạp.

Tết Đoan Ngọ: ngày mồng 5 tháng Năm (5/5).

Tết Trung nguyên: ngày rằm tháng Bảy (15/7).

Tết Trung Thu: ngày rằm tháng Tám (15/8).

Tết Hạ nguyên: ngày rằm tháng Mười (15/10).

Ngày nay 3 cái tết lớn thường được dân gian làm lễ lạc với hoa quả bánh trái, đó là Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ và Tết Trung Thu.

Nói đến Tết Trung Thu là mọi người từ bé (nếu đã hiểu biết) tới lớn đều nhớ tới thằng Cuội, mà qua khuôn khổ bài này tôi chỉ muốn đề cập ý nghĩa triết lý của nó. Đây là một bài đồngdao (bài ca của trẻ em), mà nội dung và ý nghĩa tương tự như bài đồng dao thằng Bờm. Tuy là bạn có lẽ đã thuộc nằm lòng cái bài đồng dao này, nhưng tôi xin dẫn ra đây để cho bạn dễ thấy:

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời

Cha còn cắt cỏ trên trời

Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên

Ông thời cầm bút cầm nghiên

Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa!

Đừng chỉ hiểu Cuội hay Bờm là những tên cúng cơm ở nhà quê ngày xưa, mà theo truyền thống, người dân quê ngày nay vẫn còn đặt những tên tương tự với nghĩa rất tầm thường đến độ có thể xấu xa, thí dụ như thằng Cu, con Hẻm hay thằng Xoài, con Ổi, thằng Đậu, con Bưởi, v.v... Vì theo hiểu biết nông cạn của người dân quê thường thất học, hay nếu có được nghe nói, cũng khó mà hiểu được cái định nghĩa con người, theo nhân sinh và vũ trụ quan của tổ tiên: "nhân giả kỳ thiên địa chi đức"; nên tưởng rằng con người là "của" Trời và "thuộc về" Trời, vì vậy mà sợ Trời kêu về bất cứ lúc nào, như người mình thường nói:"Trời kêu ai nấy dạ", hay còn hát: "khi Chúa thương gọi tôi về..." (nếu Chúa không gọi về thì chắc là Chúa ghét, hay chưa thương?). Cho nên nếu kêu tên thật (đẹp) của con mà mình đặt cho nó, nếu ông Trời nghe được Ổng thương nó và kêu nó về thì mình mất nó rồi, biết lấy ai đâu mà nhờ (?). Thôi thì kêu nó với cái tên cúng cơm vậy, nếu ông Trời có nghe Ổng sẽ tưởng là nó xấu và không thèm gọi nó về làm gì, thì mình sẽ còn nó để nuôi, khi lớn lên còn nhờ được vào việc nhà hay cày cấy ruộng đồng.

Nhưng phải hiểu sâu hơn với nghĩa mà người Việt mình tới nay vẫn nói là "hứa cuội", "nói cuội": đó là nghĩa "không" giữ lời hứa hay nói mà "không" có, và mình thường hiểu là nói xạo, nói dóc, nói láo và như vậy mà nghĩa "cuội" mới dính liền với nghĩa là "xấu". Nếu mình hiểu như vậy là hiểu theo người ta để cho giống người ta, mà quên rằng không có một ai giống ai trên đời này, cho dù là sinh đôi hay là có muốn được giải phẩu để giống đi nữa. Đó chính là chỗ mình không biết mình, nên không thể biết người, thì dĩ nhiên là làm sao biết được thằng "Cuội" hay thằng "Bờm" với nghĩa của nó?

Cũng nên biết rằng cơ cấu của thể thơ lục bát, bắt nguồn từ nền tảng của Đạo và được áp dụng vào Đời qua ca dao; mà thể thơ “lục” (3x2=6 chữ ) “bát” (4x2=8 chữ) là có từ số 3 là số Trời, là huyền số, (không phải như số 3 trong toán học với giá trị tuyệt đối) mà là số ẩn chứa nghĩa Tam Tài : "Thiên-Địa-Nhân" là Trời-Đất-Người. Nhưng Trời không là nghĩa ở trên cao tận mây xanh, và Đất không chỉ là nghĩa đất đai ruộng đồng ở dưới thấp trải rộng ra dưới chân trước mắt ; còn Người là những kẻ giống mình như ông đi qua bà đi lại... mà là nghĩa "linh tượng". Cũng như số 4 là số Đất mà cũng là huyền số qua "tứ tượng" với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và biểu tượng bằng : Long, Lân, Quy, Phụng.

Nên số 3 và 4 là Trời-Đất hay Âm-Dương, là Hai đối cực của Một thể vật hay thái sự, khi vận hành đúng tiết nhịp với nhau (tương giao) thành Hòa. Đó cũng là ý nghĩa con người chỉ thành Nhân khi Hòa đúng nhịp với tiết Trời và Đất, còn gọi là Chí-Trung-Hòa, nghĩa là Hòa tới chí cùng chí cực. (“Chí trung hòa, thiên địa vị yên vạn vật dục yên”)

Vì vậy đừng hiểu ca dao chỉ là những câu ca nói lên nhân tình thế thái, hay là những bài đồng dao cho con nít nghêu ngao để tập học thuộc lòng, mà còn là và nhất là ẩn ý nghĩa của Đạo làm người, được tiềm ẩn cách khéo léo, để cho ai muốn sống Đạo thì phải tâm tư, phải quy tâm, phải sống với nội tâm, mới có thể thấu hiểu Đạo. Vì Đạo là cái gì tế vi không thể thấy bằng "nhục ảnh" nghĩa là hình ảnh chỉ thấy bằng giác quan. Nên tổ tiên mới nói :"Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi" (T.D.), tức là "không gì hiện rõ bằng cái ẩn tàng, không gì tỏ rõ bằng cái tế vi".

Vì vậy mà:

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

ở đây phải hiểu "cuội" với nghĩa là "Không" (Có), là Vô Thường, là Chân Như. Đó là nền tảng chân lý của Đạo như "ngồi gốc cây đa", có nghĩa là “Tri chỉ, nhi hậu hữu Định”. Vìngồi tức là đã “định vị” nghĩa là đã đặt đít mình trên cái gì vững chắc, và cây đa là cây cổ thụ có gốc to, rễ sâu, bóng mát. Mà cái gì cao cả to lớn làm cho mình mát mẻ, sung sướng, hạnh phúc ở đời này nếu không phải là Càn Khôn, là Đạo? Cho nên muốn Có Đạo, thì phải là thằng Cuội, nghĩa là phải làm cho tâm mình, lòng mình Trống Không thì mình mới Có tất cả Trời Đất Vũ Trụ. (Vũ trụ chi Tâm)

Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời

Bò trâu là tài sản, động sản của nhà nông, thuộc vật chất. Nên "bỏ trâu" là không để ý đến, không bám víu vào (vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã) để mới có thể hướng dương, nghĩa là quy về Trời mà cũng là quy về Cha, tức là quy tâm. Nên một khi đã định vị , định hướng, định thần với Trời (thuận thiên) thì tâm mới có thể tĩnh được. “Định, nhi hậu năng tĩnh”, và đó là nghĩa của "gọi cha ời ời".

Cha còn cắt cỏ trên trời

Cỏ nào mọc trên trời mà lại nói cắt cỏ trên trời ? Nhưng nói vậy là có ý ám chỉ ý nghĩa Trời hành : "thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức" trong quẻ Kiền (Càn), tức là Trời làm không ngừng, không nghỉ, vì là "còn cắt cỏ" và đó là ý nghĩa của Dịch. Nên "quân tử (con người) phải noi theo mà tự cường", nghĩa là để mà làm như Trời, tức là làm không biết mệt (cường), làm không vì cưỡng hành hay lợi hành, cũng không kể công, như "Ta đâu trâu đấy ai mà quản công". Vì vậy tâm phải tĩnh, thì tinh thần mới có thể an : “Tĩnh, nhi hậu năng an”, và đó mới là an hành để An vi.

Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên

Nếu Cha là Trời thì Mẹ là Đất (hay ngược lại, vì không thể hiểu Trời Đất với nghĩa hình ảnh cố định của lý trí). Nên h

Trời làm thì Đất cũng thuận theo, đó là nghĩa nguyên thủy của câu : "Kiền giả kiện dã, Khôn giả thuận dã" (Hệ Từ). Ở Trời làm tượng (tại thiên thành tượng)thì ở Đất cũng thuận (theo) để Hòa Thành hình (tại địa thành hình), với tất cả vạn vật vàquan viên. Nên nếu con người muốn sống thuận thiên, thì phải là chủ nhân ông để cỡi ngựa đi mời ; nghĩa là An rồi thì mới biết suy xét mọi sự, lý : “An, nhi hậu năng lự” , để mới biết sắp đặt vị trí trước sau của sự vật , tức là tham dự một cách hữu hiệu vào công trình sáng tạo của Trời Đất, như câu: "thiên nhân tương dữ". Đó là ý nghĩa của : "Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên" vậy.

Ông thời cầm bút cầm nghiên

Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa!

Còn "Ông" ở đây phải hiểu như nghĩa "phú Ông" trong bài đồng dao thằng Bờm, là con người với nghĩa "Có", có tất cả, tức là "có Thể" và "có Dụng", nghĩa là phải biết sống hòa với hai trạng thái mâu thuẩn của mọi sự vật hiện hữu. Nên một khi con người biết tham dự vào với Trời Đất, tức là biết Hành động cho "thuận thiên" để sinh sống, tức là biết tài tác với tài đức cho tài nghệ (dung hòa), như bên ngoài vẻ vời với bút nghiên mà bên trong là phải quy tâm như là cầm tiền để đi tìm lại Đạo, tìm lại Nhân Tính như là lá đa của cây đa đã bị trốc gốc bay mất (vong thân), để mới "Có Thể Thành Nhân". Đó chính là ẩn nghĩa của câu "cầm tiền đi chuộc lá đa" !

Tóm lại, ý nghĩa Đạo làm Người được tiềm ẩn trong bài đồng dao thằng Cuội mà có lẽ bạn chưa hề nghĩ thấu, nên mới gán cho nó cái nghĩa "xấu". Vì vậy, tôi mới nói ca dao không chỉ là gia tài văn hóa độc nhất vô nhị của tổ tiên, mà còn cả là một kho tàng vô tận, vì nó ẩn chứa cái Minh Triết, là cái Đạo Trời mà cũng là Đạo Việt. Nên bạn đừng "có tưởng" để mà coi thường khi hiểu cách tầm thường rồi khinh thường ca dao. Vì nếu bạn chê thằng "Cuội", thì làm sao bạn biết " Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời" để mà biết đâu là Tâm và Tính là gì, thì làm sao bạn có thể đạt cứu cánh của con người là thành Nhân hay thành Tiên được ?

Viết xong, ngày 12 tháng 9 năm 2010

(tức mồng 5 tháng 8 năm Canh Dần)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mới vừa em chương trình gameshow "Vợ tôi là số 1"... trên TV....đài Vĩnh Long...

Có một châu hỏi trong chương trình:"Tết Trung thu của Việt nam bắt nguồn từ nước nào?"...

Đáp án: A. Trung Quốc - B.Nhật - C. Hàn Quốc - D. Lào...

Đáp án chính xác:"A. Trung Quốc"...

Buồn như con...chuồn chuồn...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mới vừa em chương trình gameshow "Vợ tôi là số 1"... trên TV....đài Vĩnh Long...

Có một châu hỏi trong chương trình:"Tết Trung thu của Việt nam bắt nguồn từ nước nào?"...

Đáp án: A. Trung Quốc - B.Nhật - C. Hàn Quốc - D. Lào...

Đáp án chính xác:"A. Trung Quốc"...

Buồn như con...chuồn chuồn...

Bởi vì những thằng tư duy ở trần đóng khố làm giám khảo. Nội cách đặt câu hỏi - để cố tình hướng dẫn người giải nghĩ đến Tết Trung Thu của Trung Quốc, đã thấy ý đồ của những tay tổ chức đặt ra câu hỏi này. Nó đểu như kẻ nào đó, cũng giáo sư giáo xiếc cho rằng Hai Bà Trưng là Vương chứ không phải là vua. Với cách hiểu dốt nát và tư duy loại "ở trần đóng khố" này thì suy ra trên cái thế giới khốn khổ này - Còn khốn khổ dài dài , sang năm biết liền - chẳng có quốc gia nào có người đứng đầu cả. Anh Quốc thì có Nữ Hoàng chứ đâu phải là vua? Hoa Kỳ có Tổng thống chứ đâu phải vua?....vv....Thế giới này loạn cả nên mới đẻ ra những loại tư duy ở trần đóng khố nhưng được tôn vinh.

Tết Trung Thu là của người Việt Nam có từ rất lâu ở miền nam sông Dương Tử. Chỉ nhưng tư duy ở trần đóng khố, thoát thai từ liên minh bộ lạc mới không hiểu điều này.

_ Nếu Tết Trung Thu ở Trung Quốc bắt đầu từ đời Đường với thằng vua hám gái và ăn nhậu là Đường Minh Hoàng của thì đây là bằng chứng sắc sảo cho thấy trước đời Đường Trung Quốc không có Tết Trung thu.

- Nếu Tết Trung Thgu của Trung Quốc từ thời Lưu Quang Vũ ăn bưởi và khoai môn thì khoai môn và bưởi ở đâu. Trung Quốc có bưởi không?

Chỉ có nam Dương tử và Bắc Việt Nam có loại cây này.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bởi vì những thằng tư duy ở trần đóng khố làm giám khảo. Nội cách đặt câu hỏi - để cố tình hướng dẫn người giải nghĩ đến Tết Trung Thu của Trung Quốc, đã thấy ý đồ của những tay tổ chức đặt ra câu hỏi này. Nó đểu như kẻ nào đó, cũng giáo sư giáo xiếc cho rằng Hai Bà Trưng là Vương chứ không phải là vua. Với cách hiểu dốt nát và tư duy loại "ở trần đóng khố" này thì suy ra trên cái thế giới khốn khổ này - Còn khốn khổ dài dài , sang năm biết liền - chẳng có quốc gia nào có người đứng đầu cả. Anh Quốc thì có Nữ Hoàng chứ đâu phải là vua? Hoa Kỳ có Tổng thống chứ đâu phải vua?....vv....Thế giới này loạn cả nên mới đẻ ra những loại tư duy ở trần đóng khố nhưng được tôn vinh.

Tết Trung Thu là của người Việt Nam có từ rất lâu ở miền nam sông Dương Tử. Chỉ nhưng tư duy ở trần đóng khố, thoát thai từ liên minh bộ lạc mới không hiểu điều này.

_ Nếu Tết Trung Thu ở Trung Quốc bắt đầu từ đời Đường với thằng vua hám gái và ăn nhậu là Đường Minh Hoàng của thì đây là bằng chứng sắc sảo cho thấy trước đời Đường Trung Quốc không có Tết Trung thu.

- Nếu Tết Trung Thgu của Trung Quốc từ thời Lưu Quang Vũ ăn bưởi và khoai môn thì khoai môn và bưởi ở đâu. Trung Quốc có bưởi không?

Chỉ có nam Dương tử và Bắc Việt Nam có loại cây này.

Con chào sư phụ & Xin chào các quý vị

Quả thật là quá chán ! Hầu như bây giờ cứ nói đến những phong tục cổ truyền là người ta lại nghĩ nó được bắt nguồn từ TQ ; Không biết các nhà sử học như : Lê văn Lan ,Dương Trung Qốc đâu mà không thấy họ lên tiếng nhỉ ?

Ít nhất thì mấy cái ban của VTV3 hay các cơ quan ngôn luậm khi viết bài cũng phải nên thắc mắc và so sánh chứ ? Nếu còn nghi ngại thì phải hỏi những chuyên gia chuyên sâu .

Không biết đài truyền hình Đà Nẵng nhà anh Vosonganh có mắc cái bệnh này không ? Thiết nghĩ ở cùng ngành truyền thông với nhau có lẽ anh cũng nên làm một bài viết ngắn gửi quý đài truyền hình Vĩnh Long cho họ rút kinh nghiệm .

Share this post


Link to post
Share on other sites

KHÁNH TƯỜNG: Tổ nghề thêu và lọng có thần hiệu là Dực Bảo Trung Hưng do triều đình nhà Nguyễn phong tặng. Ngoài húy nhật là ngày 4 tháng 6 Âm lịch, các thợ thêu còn cúng tổ vào sinh nhật là ngày 12 tháng Giêng (Âm lịch).

Vị tổ sư nghề lọng là Tiến sĩ Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) Trần Quốc Khái (1606-1661) người xã Quất Động, huyện Thượng Phúc nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông đậu Hoàng giáp khoa Đinh Sửu (1637) đời vua Lê Thần Tông, làm quan đến chức Tả Thị Lang bộ Công tước Thọ Phúc Hầu.

Nhân đi sứ sang nhà Minh, ông lưu tâm học hỏi kỹ xảo thêu rồng, phượng, hoa và nghề làm lọng. Về nước ông truyền nghề thêu, lọng trong dân gian nên được thợ thêu, thợ lọng ở Thăng Long tôn làm tổ sư. Ông mất năm 1661 và được triều đình Lê Trịnh gia thăng Công bộ Thượng thư tước Quận Công.

Khi Huế trở thành kinh đô, nghề thêu và làm lọng được trọng dụng để phục vụ triều đình. Có nguồn gốc từ đất Thăng Long kinh kỳ nên thợ thêu, thợ lọng ở Huế cũng thờ cúng Trần Quốc Khái làm tổ sư. Trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam ghi tên ông là Trần Khái.

Câu trả lời này trên diễn đàn lịch sử VTV là đúng. Nhà sử học LVL còn giải thích rằng, một buổi hội của nhà Minh, Ông Trần Quốc Khải khi lên lầu, vua Minh sai gia nhân dỡ thang ra nên ông không thể xuống được, vì vậy ông ngồi lỳ ở trên, thấy cái lọng, tháo ra, sau đó dùng nó như cái dù nhảy xuống lầu, không bị thương, đồng thời ông đã học được nghề thêu lọng về truyền lại cho ta.

THẬT LÀ CỦ CHUỐI.

Share this post


Link to post
Share on other sites

KHÁNH TƯỜNG: Tổ nghề thêu và lọng có thần hiệu là Dực Bảo Trung Hưng do triều đình nhà Nguyễn phong tặng. Ngoài húy nhật là ngày 4 tháng 6 Âm lịch, các thợ thêu còn cúng tổ vào sinh nhật là ngày 12 tháng Giêng (Âm lịch).

Vị tổ sư nghề lọng là Tiến sĩ Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) Trần Quốc Khái (1606-1661) người xã Quất Động, huyện Thượng Phúc nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông đậu Hoàng giáp khoa Đinh Sửu (1637) đời vua Lê Thần Tông, làm quan đến chức Tả Thị Lang bộ Công tước Thọ Phúc Hầu.

Nhân đi sứ sang nhà Minh, ông lưu tâm học hỏi kỹ xảo thêu rồng, phượng, hoa và nghề làm lọng. Về nước ông truyền nghề thêu, lọng trong dân gian nên được thợ thêu, thợ lọng ở Thăng Long tôn làm tổ sư. Ông mất năm 1661 và được triều đình Lê Trịnh gia thăng Công bộ Thượng thư tước Quận Công.

Khi Huế trở thành kinh đô, nghề thêu và làm lọng được trọng dụng để phục vụ triều đình. Có nguồn gốc từ đất Thăng Long kinh kỳ nên thợ thêu, thợ lọng ở Huế cũng thờ cúng Trần Quốc Khái làm tổ sư. Trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam ghi tên ông là Trần Khái.

Câu trả lời này trên diễn đàn lịch sử VTV là đúng. Nhà sử học LVL còn giải thích rằng, một buổi hội của nhà Minh, Ông Trần Quốc Khải khi lên lầu, vua Minh sai gia nhân dỡ thang ra nên ông không thể xuống được, vì vậy ông ngồi lỳ ở trên, thấy cái lọng, tháo ra, sau đó dùng nó như cái dù nhảy xuống lầu, không bị thương, đồng thời ông đã học được nghề thêu lọng về truyền lại cho ta.

THẬT LÀ CỦ CHUỐI.

Người xưa nói: "Nho thì cũng có Nho quân tử, nho tiểu nhân. Nho quân tử thì kiến thức bao quát, bỏ cái nhỏ theo cái lớn, ý chí bao trùm Càn Khôn. Trên giúp vua an bình đất nước, dưới bao dung kẻ hèn làm yên thiên hạ. Còn nho tiểu nhân thì tầm chương, trích cú. Trên cúi luốn, dưới hách dịch. Dương dương tự đắc, khinh khi lúc đắc thời , hèn hạ khi thật thế".

Sách nói thế nào thì nói lại y như vậy chẳng khác gì con robo.

Vào thời nhà Minh người Việt mới biết thêu thùa thì trước thời Minh, vua quan Việt chắc mặc áo vá cả.

Share this post


Link to post
Share on other sites