phoenix

LÊN ĐỒNG - HƯ HAY THỰC

42 bài viết trong chủ đề này

Phải nói là ngày nay việc lên đồng quá phổ biến. Công khai và sôi nổi ở mọi nơi. Cái gì tồn tại cũng có lý do.

Có lần Phoenix vô tình ngồi nói chuyện cùng chiếu với mấy bà, mấy cô thì tất tật đều là dân đồng cả. Nghe họ trình bày, chia sẻ với nhau các vấn đề của họ thì cũng ái ngại. Dường như "hầu giá" là một phương thức để họ thực hiện những sứ mệnh của mình.

Trong khi còn chưa có câu quyết định cuối cùng, nếu ai quan tâm thì tạm ngâm cứu các thông tin vậy. ACE nào có những câu chuyện liên quan hoặc thực tế đã tham gia thì mời cùng chia sẻ để mở rộng nhận thức.

Xin giới thiệu bài viết của Lưu Thủy (Vietimes):

Lên đồng:

Mê tín hay nhu cầu "thành danh" với "thần thánh"?

Thứ hai, 3/3/2008, 07:00 GMT+7

Ngày cuối tuần, tôi chưa có kế hoạch gì cho mình thì nhận được điện thoại của một người bạn: “Cậu có đi xem hầu đồng không?”. Tôi từ chối bởi tôi không phải là người quan tâm nhiều đến những chuyện liên quan đến tín ngưỡng. Chưa kịp giải thích lý do, anh bạn tôi nhanh nhảu: “Cậu đi đi, hấp dẫn lắm đấy. Cậu mà đi sẽ có khối đề tài để viết bài”. Bị lôi cuốn bởi lời chào mời, tôi gật đầu đồng ý, coi như đó là một hoạt động cho ngày cuối tuần. Lên đồng, vốn là sự thăng hoa của các điệu múa dân gian, giờ đây đã nhuốm nhiều mầu sắc mê tín, dị đoan. Nhiều kẻ đã và đang trục lợi trên sự mê tín này của một số người dân chất phác... Bạn có thể tự cảm nhận được sự hài hước và sự trục lợi không cần tinh vi lắm của những kẻ lạm dụng nghi thức "Lên đồng". Thậm chí, một số người chấp nhận sự "mê tín" đó để được "nhẩy múa", được "thành danh" với thiên hạ rằng mình đã từng "nhập đồng".....

Theo tín ngưỡng dân gian, "Hầu đồng", ngoài sự thăng hoa của các điệu múa, thì nó còn là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh tứ phủ vào thân xác ông đồng bà cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh. Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như rượu, thuốc lá, trầu nước... Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cương (khai quang) cho thanh sạch.

Hầu đồng là nghi thức có trong tục thờ Mẫu chỉ có ở Việt Nam. Tôi đã đọc cuốn “Mẫu thượng ngàn” của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Với tôi, nếu xét ở góc độ văn học thì đây không phải là cuốn tiểu thuyết xuất sắc. Nhưng nếu xét trên góc độ của một người ham tìm hiểu về văn hóa Việt Nam (trong đó có tục hầu đồng và hát văn) thì đây sẽ là một cuốn sách rất thú vị. Tôi cũng đã đọc nhiều cuốn sách viết về hầu đồng nhưng chưa bao giờ được tận mắt chứng kiến. Tôi luôn băn khoăn không hiểu điều gì có thể khiến cho con người ta có được những giây phút thăng hoa như thế. Đúng như lịch hẹn với anh bạn, chúng tôi khởi hành.

Trên đường đến ngôi chùa ở làng Yên Hòa, anh thao thao kể về chuyện lên đồng như để tăng thêm sự thuyết phục đối với tôi: “Cậu biết không, “cô” Cường này phải bỏ ra 60 triệu đồng để hầu giá này đấy. Khổ, căn cơ nó thế, nó mà không hầu thì thánh vật chết. Đi làm ăn ở bên Đức cả năm, về chuyến này lại phải bỏ ra cả đống tiền để hầu. Mà cũng lạ, vợ con nó không biết đâu nhé”.

Tôi chưa hết choáng váng vì số tiền mà “cô” Cường phải bỏ ra thì anh bạn tôi tiếp: “Lúc đầu mình cũng không tin, nhưng ở gần nhà mình có một cô làm ở Tòa án nhân dân, tránh mãi đấy mà không tránh được. Lúc đi làm thì ngại đồng nghiệp lời ra tiếng vào, bây giờ về nghỉ hưu rồi, năm nào cũng phải hai lần hầu thánh”.

Đang mải huyên thuyên thì xe của chúng tôi đã đến cổng chùa. Đồng hồ của tôi chỉ 2 giờ chiều. Chùa mới được xây lại nên khá khang trang và rộng rãi. Sư thầy đón chúng tối với vẻ niềm nở bởi anh bạn tôi là phật tử “ruột” của chùa. Nom sư thầy phương phi, môi đỏ chót, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Thầy thong thả bảo: “Hôm nay thằng Cường nó không hầu đâu. Bên kia “cô” Sơn đang hầu. Giá này phải đến 6 giờ chiều mới xong. Sau đấy là giá của “cô” Hà - ở nhà hát…”.

Từ gian thờ mẫu của chùa, tiếng nhạc và tiếng hát văn văng vẳng vọng ra. Không kịp để cậu bạn giải thích lý do “cô” Cường không thể hầu được, tôi xin phép sư thầy rồi kéo cậu bạn sang gian Mẫu. Phía bên trong, đã đông chật người ngồi vây quanh tấm phản. Ở chính giữa ngay dưới chân diện thờ là tấm phản nơi “cô” Sơn đang lên đồng. Trong đám khói nhang nghi ngút, cô “Sơn” “mặt hoa da phấn” (theo đúng nghĩa của từ này) đang nhảy múa trong tiếng hát văn và tiếng nhạc phát ra từ ban nhạc ngồi ngay bên trái của giá, thỉnh thoảng cô lại liếc một cái rõ dài về phía các con nhang đệ tử đang ngồi phía dưới.

Posted Image

Các con nhang liên tục miệng “Lạy cô, lạy cô, cô xinh quá, cô múa hay quá”. Ngay lập tức, “cô” trao lại hai chùm nến đang hừng hực cháy trên tay cho hai người hai bên và nhận từ họ một xấp tiền mệnh giá 2.000 đồng mới cứng và xòe ra. Lúc này, các con nhang ở dưới tay vỗ theo điệu nhạc, miệng liên tục “cô xinh quá, cô đẹp quá”. Lời khen lập tức có hiệu lực, xấp tiền trên tay cô được tung ra khắp nơi như mưa, các con nhang thôi không “miệng khen tay vỗ” nữa mà hú hét, tranh nhau “lộc” của “cô” vừa ban xuống. Hết một giá, “cô” ngồi xuống trước ban thờ, một chiếc khăn đỏ được trùm lên đầu “cô”, ngay sau đó “cô” về trời, chiếc khăn được gỡ ra và hai người hai bên lại thay cho cô một bộ đồ khác để vào giá mới.

Mùi nhang đặc quánh khiến cho tôi khó thở, tôi bỏ ra phía ngoài. Lúc này, những người đứng xem vẫn tiếp tục vỗ tay khi “cô” vào giá mới. Tôi hỏi chuyện một bà lão đã ngoài 70 đang đứng phía ngoài ngóng vào bên trong vì không còn chỗ, bà vừa vỗ tay, vừa nhún nhảy, vừa đáp: “36 giá cậu ạ, mỗi giá “cô” sẽ thay một bộ xiêm y mới”. Tôi liếc nhìn đống quần áo còn khá dày và tất cả còn đang mới, và phải khẳng định nhìn “thật” hơn rất nhiều so với quần áo của các diễn viên tuồng hay cải lương mà tôi đã thấy trên sân khấu.

Đoán chừng phần của “cô” Sơn sẽ còn lâu nên tôi sang gian chính của chùa uống nước cùng sư thầy. Thông qua sư thầy, tôi được biết “cô” Sơn là sư bác đang tu tại chùa. “Cô” sinh năm 1983, “hầu thánh” đã được gần 10 năm. Chi phí của mỗi cuộc là do các con nhang đệ tử chu cấp hết bởi trong số họ, nhiều người có căn nhưng đang công tác nên phải nhờ cậy “cô” hầu giúp. Còn cô “Hà” hầu ngay sau cô Sơn là diễn viên của một nhà hát ở Hà Nội. “Cô” đã tốt nghiệp Trường Sân khấu điện ảnh, nhưng “căn quả” nặng quá nên năm nào cũng hầu ở chùa này. Cô sinh năm 1978 nhưng đã có thâm niên hầu thánh tới 10 năm.

Đang ngồi trong chùa thì có một chiếc Dylan đổ xịch trước sân chùa. Người ngồi trước là một thanh niên vạm vỡ mặc chiếc áo pull cộc tay màu đen, dù trời khá lạnh. Người đàn ông phía sau ôm chặt cứng người phía trước. Xe vừa tắt máy, người thanh niên phía sau, tay xách một túi màu đỏ lớn, miệng dẻo quẹo: “Con chào thầy, thằng Sơn nó hầu lâu chưa hả thầy?”. Mấy bà nhìn thấy anh ta thì chạy tới đon đả: “Chuẩn bị đến đâu rồi, lâu lắm mới được xem “cô” hầu thánh đấy”. Anh ta nguýt một cái rõ dài rồi tiếp: “Lát các bà các cô ở đây đấy nhé, lộc đã chuẩn bị hết rồi đây”. Anh ta chìa cái túi đỏ to tướng về phía những người đàn bà kia. Lúc này sư thầy lên tiếng: “Hà mới đến hả con, vào uống nước rồi đi trang điểm không lại muộn mất. Bên kia chắc cũng gần xong rồi”.

Ngay sau đó, tiếng nhạc dừng hẳn. Những con nhang đệ tử túa ra từ phía gian thờ Mẫu. Một số người lấy xe ra về, một số người khác xuống bếp nhà chùa ăn bún để tiếp tục ca 2. Lúc này, cô “Sơn” đã đi vào phòng tẩy trang sau hơn 4 giờ nhảy múa liên tục. Tôi tò mò muốn tận mục khuôn mặt thật sau lớp son phấn của “cô”.

Cửa phòng mở ra, tôi sững người vì không ngờ một người đàn ông lại có thể đẹp đến như thế. Trước mặt tôi là một khuôn mặt nhỏ, làn da trắng mà bất kì cô gái nào cũng phải mơ ước, đôi môi đỏ mọng và điều đặc biệt trên khuôn mặt ấy là đôi mắt đen ướt và sâu thăm thẳm. Tôi luôn bị cuốn hút bởi những cô gái có đôi mắt đẹp và ướt bởi vì nó rất sâu, rất xa và nó buộc người ta phải khám phá. Trước mặt tôi đây, vẻ đẹp mong manh đang hiện hữu khiến tôi như chết lặng. Và khoảnh khắc ấy đến thật nhanh, cũng qua thật nhanh. Tôi giật mình và chắp tay, miệng lẩm bẩm một câu nói phát ra từ trong vô thức: “Sư bác hầu hay quá”. Anh cúi đầu cảm ơn và nhanh chóng đi về phía gian bếp của nhà chùa để tiếp tục công việc.

Phía gian Mẫu, không gian lại tiếp tục nóng lên khi hầu hết các con nhang đệ tử đã lại tề tịu quanh tấm phản gỗ trước điện thờ Mẫu. Lần này, tôi thấy phía bên dưới có khá nhiều gương mặt quen thuộc: Một nam ca sĩ, một nam diễn viên trẻ, một nhà thiết kế (bạn tôi cho biết, anh là nhà thiết kế trang phục chính cho một show ca nhạc lớn trên truyền hình). Tất cả đều là khách mời của “cô” Hà. Cuộc hầu của “cô” Hà cũng diễn ra theo trình tự giống như cuộc trước. Có điều lần này, tôi chú ý nhiều hơn tới những lời hát văn đầy ý nghĩa.

Tôi không nhớ rõ nhưng những câu như “cầu cho mưa thuận gió hòa” hay “cầu cho non nước thanh bình” hoặc “cầu cho quốc thái dân an” được lặp lại rất nhiều lần. Bà lão đứng phía ngoài của cuộc trước, giờ đã có được một chỗ ngồi ở phía trong ngay kề sát tôi thì lầm bẩm: “Cô” nhảy đẹp quá, chưa thấy “cô” nào nhảy đẹp như cô này. Thỉnh thoảng bà lại hét lên: “Lạy cô, lạy cô, cô xinh quá, cô đẹp quá, cô nhảy hay quá”. Người phụ nữ đứng cạnh giá hầu, cứ sau mỗi giá lại cầm xấp tiền và lần lượt đi phát cho tất cả những người đứng xem.

Sau mỗi lần chầu, khi thì một mâm bia có ngọn, khi thì mâm trái cây, lúc lại là mì tôm được người phụ nữ ấy bê ra chia lộc cho từng con nhang. Hình như trong lúc thánh nhập, “cô” vẫn nhận ra người quen của mình. Những nhân vật khách mời quen mặt lần lượt được cô chỉ mặt, vẫy lên tấm phản và ban lộc. Tôi chợt nảy ra một ý nghĩ “phạm húy”: Nếu là thánh, lẽ ra ngài nên công bằng hơn bởi người phụ nữ ngồi gần tôi đã khản cổ họng, bà ngồi xem với một niềm tin tuyệt đối, nhưng cả buổi chẳng thấy ngài đoái hoài đến.

Posted Image

Hai giá đồng đã hết. Nhạc đã tắt nhưng sau tôi vẫn thấy ngẩn ngơ tiếc một điều gì đó. Tôi biết rằng, tục hầu đồng đã có từ ngày xưa nhưng người ta không có nhiều tiền để làm những cuộc hầu hoành tráng như bây giờ. Cả hai buổi tôi xem, nhiều tiền đã được vung ra, nhiều bia, hoa quả, bánh kẹo, thuốc lá và nhiều đồ đắt tiền khác được phát cho các con nhang đệ tử (kể cả những người xem như tôi). Có lẽ, khi người ta giàu có lên, “phú quý sinh lễ nghĩa”, nhu cầu tâm linh của con người ta cũng nhiều lên chăng? Và tôi cũng băn khoăn không biết rằng, những bản chầu văn mà họ hát có còn là thứ chầu văn cổ nữa không khí đôi lúc, lỗ tai tôi vẫn bùng nhùng bởi khi những “nghệ nhân” ấy hát sai chính tả từ “n” sang “l” và không chỉ một lần.

60 triệu để được hầu một giá đồng. Một cái giá quá đắt khiến tôi không khỏi giật mình. Ở quê tôi, người ta có cố gắng nỗ lực cả năm cũng không kiếm nổi 1/3 số tiền ấy, vậy họ sẽ làm gì khi nặng “căn quả” như người ta vẫn nói? Thực sự tôi không hiểu được lý do. Tôi thì có cách nghĩ riêng của mình: Hình như những người ấy (những người hầu đồng) là những người có tâm hồn quá mức nhạy cảm. Ngày thường, họ không được là mình, không thể là chính mình, nhất là những người trí thức có địa vị trong xã hội. Những bức xúc ấy được tích tụ, dồn nén và họ không có cách gì xả ra được. Nhưng có một khoảnh khắc, để họ có thể là chính mình, đó là khoảnh khắc họ được thăng hoa dưới tiếng đàn đáy, dưới điệu hát văn say lòng. Lúc ấy, họ vứt hết đi giai tầng, địa vị, vứt hết đi giới tính, vứt đi những ẩn ức để được lên tiên, để có được cảm giác tất cả thiên hạ quỳ dưới chân mình và đợi chờ ban lộc. Nếu thế, trong cuộc đời này, ai mà chẳng ít nhiều có căn?

Mẹ tôi vẫn hay thường bảo: “Mày đừng có mà báng bổ thần thánh”. Tôi giật mình nghĩ về lời mẹ khi ý nghĩ về hầu đồng vừa kết thúc. Bà lão lúc nãy không được “lộc” của cô lúc này vẫn đứng trước mặt “cô” Hà và khen: “Lúc nãy thánh nhập vào “cô” nhảy hay quá, “cô” đẹp quá “cô” ạ !” . “Cô” nguýt bà lão một cái rõ dài: “Thánh chỉ nhập có một lúc thôi, còn lại là thăng hoa, thăng hoa”. Rồi cô lên xe, lại ôm chặt cứng người đàn ông vạm vỡ mặc áo pull đen. Chỉ còn bà lão đứng ngẩn ngơ trong làn khói xe đang tan dần cùng tiếng cười ha hả của “cô” giữa sân chùa.

Lưu Thủy (Vietimes)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nghi lễ lên đồng

Chủ nhật, 2/3/2008, 07:00 GMT+7

Từ bao đời nay, trong các làng thôn, ngõ phố, trong các đền đài nghi lễ lên đồng vẫn là một nghi lễ tín ngưỡng được nhiều người thành tâm thực hiện. Nhiều nơi, dù điện đài không trang hoàng lộng lẫy, dù không có được các cung văn đàn ngọt hát hay, đồ dâng cúng cũng rất sơ sài, nhưng với sự thành tâm, một cuộc lên đồng vẫn được thực hiện, và những người dân lam lũ vẫn trong một thoáng chốc đã được hưởng cảm xúc tiên giới một cách đủ đầy. Lên đồng thực chất là sự thăng hoa của các điệu múa dân gian nhưng hiện nay nó đã bị nhuốm quá nhiều "chất" mê tín...

Theo quan niệm dân gian, vũ trụ gồm tứ phủ: Thiên phủ (miền trời), Địa phủ (miền đất), Nhạc phủ (miền rừng núi), Thuỷ phủ (miền sông nước). Mỗi một miền này có một nữ thần, thay quyền tạo hóa cai quản nhân gian. Các vị nữ thần đó là Mẫu Cửu Thiên cai quản miền trời, Địa Mẫu cai quản miền đất, Mẫu Thượng Ngàn cai quản miền rừng núi, và Mẫu Thoải cai quản miền sông nước.

Posted Image

Từ bao đời nhân dân đã sống trong sự chở che của các Mẫu. Tôn vinh các Mẫu, người dân thờ phụng Mẫu ở khắp nơi, bất kể là thành thị hay nông thôn, đồng bằng hay miền núi. Thờ Mẫu trở thành một nét văn hóa giàu giá trị nhân văn và độc đáo trong văn hóa Việt. Và điệu hát chầu văn cùng nghi lễ lên đồng là một sự thể hiện niềm tôn kính đó đối với các Mẫu.

Lên đồng là hình thức ca múa nhạc tín ngưỡng dân gian của Việt Nam có mục đích tôn vinh thần thánh và tạo cảm xúc, theo niềm tin tín ngưỡng, giúp con người giao tiếp với thần linh. Hiện chưa có các tài liệu khẳng định thời điểm ra đời của lên đồng - hầu bóng. Tài liệu khảo cổ duy nhất hiện biết và đáng tin cậy, với niên đại được xác định là thế kỷ XVIII, là bức chạm gỗ một cảnh lên đồng ở đình Cô Mễ, tỉnh Bắc Ninh. Tuy vậy, các nhà khoa học đều khá thống nhất cho rằng lên đồng - hầu bóng ra đời vào khoảng thế kỷ XVI, gắn với sự hiển thế / giáng sinh của Liễu Hạnh - vị nữ thần duy nhất trong Tứ Bất Tử của thần điện Việt. Dân gian còn hòa đồng Liễu Hạnh vào với Cửu Thiên Thánh Mẫu. Câu chuyện bà Liễu Hạnh giáng sinh và hoạ thơ với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan ở Lạng Sơn và Hồ Tây cho thấy sự manh nha của việc giáng bút rất phổ biến ở thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Hát chầu văn lên đồng là hát lên các bài văn bài thơ có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Tuỳ thuộc tính cách của vị thần mà nội dung lời thơ, tiết tấu giai điệu âm nhạc, điệu múa được trình diễn. Trong sự phấn khích của niềm tin và sự cộng cảm, cùng các chất men kích thích của trầu, rượu, thuốc lá, trong ánh sáng lung linh của đèn nến và mùi hương trầm thơm ngát của không gian huyền ảo, cuộc gặp gỡ của con người và các Thánh mẫu được bắt đầu. Các Mẫu giáng về, nghe lời ca tụng của các đệ tử, nghe thơ, nhạc, và nghe cả những lời thỉnh nguyện của họ. Thánh Mẫu hoan hỉ ban tài phát lộc cho “bách gia trăm họ”, và mọi người đón nhận lộc thánh với niềm hân hoan vô bờ. Tất cả mọi người đều hướng về Thánh Mẫu và thầm mong được phù hộ. Một buổi hát chầu văn có thể được coi là cuộc hội nhập của thi ca âm nhạc, vũ đạo và hội hoạ mang đậm phong cách dân gian thuần Việt.

Về thi ca: Các bài thơ để hát trong lên đồng bên cạnh các thể thơ tiếp thu từ văn học cổ Trung Hoa như phú, thơ luật, là những bài sử dụng lối thơ dân gian rất quen thuộc như: lục bát, song thất lục bát, hát nói. Các bài thơ này có lời văn chau chuốt, đẹp đẽ, ca ngợi vẻ đẹp nơi tiên giới, uy linh của các vị thần tự thân đã rất ý vị và giàu nhạc tính. Các bài thơ này, khi được hát lên, theo các làn điệu khác nhau (khoảng vài trăm làn điệu), thì mang lại một xúc cảm gấp bội.

Về âm nhạc: Nhạc khí chủ đạo của hát văn là đàn nguyệt, và bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống… Hình thành trên các lối ngâm truyền thống, có tiết tấu và cao độ rõ ràng phụ thuộc vào lời thơ, hát văn không những hình thành nên những liên khúc có khả năng thể hiện những nội dung lớn của huyền thoại một cách sinh động mà nó còn tiếp thu thâu nhập những nét đẹp của dân ca các miền để làm phong phú sự thể hiện của mình.

Posted Image

Về vũ đạo: Múa trong lên đồng còn gọi là múa thiêng, thể hiện niềm kính trọng đối với các thánh mẫu và các vị thần linh. Múa thiêng lên đồng xây dựng các hình tượng thần linh và một tiên giới giữa cõi trần. Trong lên đồng, múa thiêng mang đầy đủ các hình thức thể hiện của ngôn ngữ múa như: múa tính cách (thể hiện rất rõ tính cách khá riêng biệt của từng vị thần linh), múa trang trí (chú trọng đến ngôn ngữ tạo hình, vươn lên đến cái đẹp), múa mô phỏng (cưỡi ngựa, ngã ngựa, chèo thuyền, quảy hàng), …

Về hội hoạ: Nếu như ta đến một hội làng, ta sẽ thật phấn chấn khi gặp một không gian rực rỡ sắc màu của cờ phướn, trang phục, xe kiệu… thì ta sẽ còn ngạc nhiên hơn khi đến xem một buổi lên đồng. Lên đồng có bao nhiêu giá (thường lên mươi, mười lăm giá; nhưng nếu lên đầy đủ có thể lên tới hàng trăm giá), thì có bấy nhiêu trang phục và đi kèm với các trang phục này là các khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng nữa. Rồi đèn, nến, rồi lễ vật, và các trang trí nhiều khi tỏ rõ sự phô trương. Có lẽ vì thế mà các hội làng và các buổi lên đồng thường gây nhiều cảm hứng cho các họa sĩ.

“Hơn bất kỳ một quyển sách khô cứng, một bức tranh hay một bức tượng nào, lên đồng là một bảo tàng sống động. Người Việt đã triển lãm nền văn hóa Việt Nam cho người Việt và người nước ngoài. Những người tham gia hầu đồng chính là những người quản lý nhà bảo tàng, những người bảo vệ cho văn hóa Việt Nam. Việc làm của họ đảm bảo cho các thế hệ tương lai vẫn sẽ tiếp tục có cơ hội được chiêm ngưỡng những khía cạnh khác nhau của văn hóa Việt Nam, mà chúng đang dần bị nhạt nhòa đi trong đời sống xã hội hàng ngày, chỉ còn hiện diện trong điện thần của đạo Mẫu”.

Chúng tôi xin mượn lời của GS.TS. Frank Proschan của Smithsonian institution Washington DC của Mỹ để kết thúc bài viết này.

TS. Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) - Nguồn: Vietimes

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lễ hội lên đồng

Nguồn: tuoitre.com.vn

TT - Sân khấu sáng rực ánh đèn, hệ thống âm thanh hiện đại với đôi loa thùng công suất lớn đặt hai bên..., chưa bao giờ người dân bên đền Kiếp Bạc (xã Hưng Đạo, Chí Linh, Hải Dương) lại được thưởng thức một “bữa tiệc” hầu bóng hoành tráng như vậy...

Đó là lần đầu tiên những ông đồng, bà cốt trình diễn những màn nhập hồn đầy màu sắc tâm linh trên… sân khấu lấp lánh ánh đèn, chứ không phải là điện thờ nghi ngút khói hương.

Theo lịch sắp xếp của ban tổ chức, đoàn “cậu” Tâm (ông đồng người Kim Thành, Hải Dương) đảm nhiệm màn lên đồng đầu tiên của liên hoan hầu thánh. “Cậu” Tâm vận chiếc áo phông đỏ chót, quần bò bạc màu, lăng xăng chạy đi chạy lại chỉ đạo các “đệ tử” bài trí ban thờ… Bên hông sân khấu, con nhang, đệ tử của “cậu” tất bật sắp sửa lễ vật, bày biện mâm quả... Giữa sân đền, ngay trước nhà tiền lễ, sân khấu nơi những ông đồng bà cốt sắp trình diễn nổi bật lên với ánh đèn sáng rực, long đình (ban thờ) nghi ngút khói hương, bập bùng ánh nến. Hai bên treo bốn bức tranh cách điệu hình bốn vị quan võ nom uy nghi lộng lẫy. Tôi lại gần các con nhang, đệ tử của “cậu” Tâm bắt chuyện. Chị T., một “đệ tử ruột” cùng quê với “cậu” Tâm, hồ hởi khoe: “Đêm nay tôi phụ đồng cho “cậu”. “Cậu” mở điện ở nhà đông đệ tử lắm, nhưng đến tham gia hội diễn này chỉ thân cận của “cậu” mới được đi cùng thôi, bây giờ có mặt tại đây cũng phải gần 100 người…”.

Đêm 7-10 (tức 16-8 âm lịch), Liên hoan diễn xướng dân gian hầu thánh đã diễn ra với sự tham gia của các đoàn “hầu bóng” danh tiếng đến từ nhiều địa phương như Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định… Liên hoan hầu thánh kéo dài tới hết đêm 11-10 (20-8 âm lịch, ngày giỗ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn) với sự tham dự của hàng vạn khán giả…

Gần tới giờ khai mạc, bà con kéo về nườm nượp. Ngoài những cụ già, mệnh phụ phu nhân, còn có rất nhiều bạn trẻ cỡ U-20. Tất cả ngồi chen chúc trên tấm thảm đỏ trải rộng trước long đình. Ban tổ chức giục oang oang trong loa thúc nhân viên đền huy động tất cả chiếu của nhà đền trải chỗ cho bà con ngồi xem.

Đúng 20g, sau bài phát biểu khai mạc của giám đốc Sở VH-TT tỉnh Hải Dương Đặng Việt Cường, “cậu” Tâm bước ra chiếu đồng trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt. “Cậu” mặc bộ quần áo lụa trắng, tóc vuốt keo bọt, mặt tô son điểm phấn, mai tóc để dài như con gái. “Cậu” cúi đầu chào khán giả thành thục như một ca sĩ. “Cậu” từ từ ngồi xuống chiếu đồng trước cặp mắt hồi hộp dõi theo của hàng ngàn khán giả và con nhang, đệ tử. Theo chân “cậu”, bốn phụ đồng (hai nam, hai nữ) nhanh chóng chuẩn bị trang phục, lễ lạt… Cánh cung văn nổi nhạc, tiếng đàn khoan thai, trống phách dồn dập, giọng hát văn vụt bổng bao trùm lên không gian sân đền.

Những giá đồng vùn vụt trôi qua, khi thì “cậu” hóa thân thành một vị tướng trấn giữ miền biên ải tiến lui múa đại long đao vun vút, khi thì là một mệnh quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái miền cao đang tung tăng nhảy múa giữa bạt ngàn núi rừng. Giọng hát văn lúc dìu dặt, lúc vui nhộn tưng bừng, tâm trạng buồn vui của khán giả cũng biến đổi theo từng giá đồng. Có lúc cả đám đông say mê vỗ tay hòa cùng nhịp trống phách, có lúc vẻ mặt ai cũng buồn não nề theo tiếng đàn, giọng hát ai oán kể về nỗi niềm oan khuất của người anh hùng. Mỗi lẫn “cậu” Tâm trình diễn đến cao trào, hai đệ tử thân cận của cậu ngồi sẵn bên cánh gà chiếu đồng lại nổ pháo giấy trong tiếng vỗ tay cổ vũ nồng nhiệt của khán giả.

3 giờ sáng, màn diễn thứ tư của đêm hội “lên đồng” do ông đồng Vũ Khắc Long, Hải Phòng thể hiện. Trong khi cánh khán giả U-20 có vẻ thấm mệt, một số rời chiếu đồng ra về, thì nhiều cụ già cỡ 70-80 tuổi vẫn trắng đêm cùng “hầu bóng”. Bà cụ Yên, hơn 80 tuổi, nhà ngay sau đền Kiếp Bạc, cho biết: “Tôi cùng mấy cụ trong làng rủ nhau đến xem. Cánh cung văn hát hay thật. Chưa bao giờ tôi được xem một giá hầu như thế này”.

- Lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng) là nghi lễ phổ biến nhất của đạo Mẫu. Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng để nghe lời cầu khấn của người đi lễ.

Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian VN thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của VN, được thờ tại các đền, phủ. Ở miền Bắc VN, các chùa cũng có bàn thờ Mẫu (tiền Phật, hậu Mẫu). Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết mà quan tâm đến cuộc sống hiện tại, và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.

Đạo Mẫu có hai dịp lễ hội quan trọng: “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, kỷ niệm ngày mất của Đức Thánh Trần (cha) và Liễu Hạnh công chúa (mẹ).

- Ông Nguyễn Khắc Minh, trưởng Ban quản lý khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc: “Thực chất “hầu bóng” là một sinh hoạt văn hóa tâm linh thuộc về dân gian có từ lâu đời, có ý nghĩa tôn vinh các nhân vật lịch sử cùng với công trạng của họ dưới hình thức nhập hồn và hát văn.

Về nghệ thuật diễn xướng dân gian, đây là một tổng hợp nhiều diễn xướng khác. Có toàn bộ dàn nhạc dân tộc; có hát chèo, hát văn; có kịch múa, nhảy, hóa trang, lễ nghi. Một người diễn những 36 giá đồng, hóa thân vào 36 nhân vật với những tâm trạng diễn xuất khác nhau. Đây là hội của dân, chúng tôi chỉ đứng ra chủ trì để người dân tự làm”.

TRỌNG PHÚ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: http://www.vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2004/12/3B9D9A7F/

Dân gay lên đồng

Posted Image

Một giá đồng.

Trước kia, Song chỉ là tay "gay" đứng đường đón khách ở hồ Thiền Quang. Hai năm sau, Song "tậu" được xe Dylan đời mới, còn bạn tình thì thay như thay áo. Một khách quen của Song thì thầm: "Nhờ lộc các Thánh đấy! Tay này có tiếng là rất bạo trong đám đồng cô".

Hiện tại, cái tên Song "Gái" cúng cơm của anh ta đã chết. Thay vào đó là một cái tên hoàn toàn mới: "cô" Phúc. Ở Hà Nội, hiện tại có đến 70% những người đứng giá hầu đồng là dân gay, cũng cạnh tranh khốc liệt như bất kỳ nghề nào.

"Cô" Phúc ngả ngớn với mấy cậu trai trẻ. Trên tay trái của bọn họ đều đeo một cái khuyên nhỏ nhắn, dấu hiệu tìm bạn tình. Dân "gay" ở đây nhẵn mặt nhau. Nam được "cô" Phúc mời ngồi "cùng làm vài ly".

Một anh bạn hỏi: "Chị dạo này làm ăn thế nào? Tháng này chị lên đồng được mấy đám hả?". Nhổ toẹt miếng bã trầu trong miệng ra, nhấp ngụm rượu mạnh, "cô" Phúc thong thả đáp: "Dạo này không có khách mấy nên tháng vừa rồi chạy được hơn chục vụ, chỉ kiếm được mấy nghìn đô tiêu vặt".

Một lúc sau, Phúc than vãn, "cô" Ánh, "cô" Bình vừa trúng quả đi mở phủ ở Hà Tây, Ninh Bình, kiếm hàng trăm triệu. Phúc nói: "Ối dào! "Con" ấy giọng thì chua loét, đức độ không có, nghiện ngập, thế mà mấy thằng bóng cứ mê tít, cúng cho nó hàng trăm triệu".

Hôm sau, theo lời giới thiệu của người quen, Nam đến gặp "cô" Lộc ở Giảng Võ, Hà Nội. Vừa gặp Nam, "cô" cất giọng eo éo: "Giời ơi! Em là có căn cơ đấy nhá. Ra hầu đồng, lộc đè chết người".

Thì ra, "cô" Lộc đang xem Nam là "khách". Muốn hầu một giá đồng phải tìm được những "nhà tài trợ". Đó là nhân vật sẽ chi từ A đến Z cho cuộc lên đồng đó.

Thấy Nam ngẩn ngơ chẳng hiểu gì, "cô" cầm tay Nam vuốt vuốt vai, thẽ thọt: "Đầy người "mất sạch sành sanh mà chẳng được manh áo đỏ" đấy! Theo "cô" thì mặt hoa da phấn, ăn sung mặc sướng. Nếu không theo, sẽ gặp vận hạn cả đời đó".

Những lời của các "cô" sao mà ngọt ngào chí lý đến vậy. Nam ngồi nghe mà mê mẩm cả tâm thần. Thế mới biết không ít người hiểu biết, từng trải, có học hẳn hoi mà vẫn bị các "cô" vần vào bẫy. Khi con mồi đã say đòn cũng là lúc các "cô" luộc gà.

Thủ tục trước nhất là sắm áo, khăn, đai, hài. Những bộ quần áo xanh xanh, đỏ đỏ dành cho giới lên đồng chỉ có bán ở một chợ duy nhất, phố Hàng Nón. Các "cô" và những tay chủ này đã nhấm nháy với nhau từ trước. Một bộ áo xống gồm áo, khăn, quần đai giá thật chỉ 1-2 triệu đồng. Thế nhưng khi các "cô" dắt đi mua, giá của nó lên tới 8-10 triệu đồng. Riêng đai có những cái rất đắt, lên tới 5 triệu đồng.

Số tiền chênh lệch đó "cô" xơi đến 2/3, khách tỏ ý chê đắt hoặc tiếc của, "cô" tru tréo: "Gớm cái nhà này. Đừng tiếc tiền. Bỏ ra 1 thánh thưởng cho 10, tha hồ mà hưởng. Hôm trước, "cô" dẫn cái Hồng ở Thuỵ Khuê lên đây, nó sắm bộ áo xống những 15 triệu đồng cơ".

Khoản sắm lễ cúng cũng là một nguồn thu bất tận cho các "cô". Những người hay đi hầu chủ yếu là dân buôn bán lớn, nhà giàu, vợ con các đại gia... ngại ra Hàng Mã mua đồ lễ nên khoán trắng cho các "cô". Vấn đồng lớn chỉ khoảng 2-3 triệu đồng, "cô" tố lên 7-8 triệu đồng, ung dung nhét túi 5-6 triệu đồng mà chẳng mất tý công sức nào.

Một kiểu làm tiền khác của các "cô" là khi chuẩn bị đi hầu ở một nơi nào đó, các "cô" gọi điện cho các con nhang: "Này! vài ngày nữa là "cô" đi hầu ông Hoàng Bẩy đấy! Có đi cùng để "cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an" không?".

Nếu đệ tử đó bận không đi được thì: "Thôi gửi cô chút ít lễ gọi là nhờ cô cầu cho vài câu để con ở nhà được mát lòng, hởi dạ". "Một ít" của họ có khi là dăm bảy trăm nghìn đồng, có khi là vài triệu bạc. Tất cả đều "chui" gọn vào túi các "cô".

Dân mê đồng bóng còn nhớ chuyện "cô" Giang ở Phủ Giầy, Nam Định. Cứ gặp con nhang nào, "cô" cũng chỉ tay vào đôi hoa tai bằng bạc nói: "Cô thắt lưng buộc bụng, nhịn ăn, nhịn uống hòng sắm đôi hoa tai hơn 3 triệu đồng này để thờ Mẫu đấy! Bây giờ nợ nần còn chưa trả xong, khổ quá!". Thế là ai cũng móc túi ra, người thì dăm bảy chục nghìn đồng, người vài trăm nghìn đồng an ủi đưa "cô".

Mãi sau này, một bà nghe chuyện bực mình quá mới nói: "Thôi xin "cô". Cái vòng đó là của ông Hàm ở Hàng Bạc tháng trước đi kính Mẫu. Thế mà "cô" đưa ra dùng nó để moi tiền thiên hạ còn ra thể thống nào nữa?"

Một bà giàu có ở Hàng Bông mê mẩn nghe lời các "cô" giấu chồng con hiến hẳn một mảnh đất bên Gia Lâm để "lập phủ". Biết chuyện, mấy cậu con kéo đến đập phá ầm ĩ.

Chị Thanh Bình, buôn bán nhỏ ở chợ Đồng Xuân là một con nhang tích cực suốt 10 năm nay, chán nản nói: "Nghe dụ ngon, dụ ngọt đi cầu được giàu sang phú quý, lên xe xuống ngựa, người hầu kẻ hạ. Thế mà tôi nghèo vẫn hoàn nghèo, mất bao nhiêu tiền của, giờ mới tỉnh ngộ".

Thế nhưng, "hậu vận" của nhiều "cô" cũng chẳng sáng sủa gì. Kẻ kiếm tiền về cống nạp cho mấy tay trai tơ ăn chơi hết, kẻ thì nghiện ngập, cờ bạc. Không ít người bị gia đình, xã hội ruồng bỏ.

(Theo Tiếp Thị và Gia Đình)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: http://www.vnexpress.net

Lên đồng nhìn từ góc độ khoa học

Cho đến nay, chưa có nhà khoa học nào thực sự khẳng định “có” hay “không” sự tồn tại của một thế lực siêu nhiên trong việc xuất nhập hồn. Nhưng có lẽ điều đó xuất phát một phần từ lòng tin, sự tự ám thị, nhu cầu chữa bệnh và cả tâm lý phấn chấn, bí hiểm do chính các buổi lên đồng tạo ra.

Một hội thảo quốc tế về Tín ngưỡng thờ Mẫu và lễ hội Phủ Giầy vừa diễn ra trong hai ngày tại Câu lạc bộ Báo chí Hà Nội. Chủ đề chính được bàn luận là các hình thức xuất nhập hồn trên thế giới và việc gọi tên là Shaman còn gây nhiều tranh cãi.

Trước khi ngồi vào bàn thảo luận, các nhà khoa học quốc tế đã sang Phủ Giầy, trung tâm thờ Mẫu của người Việt, “mục sở thị” các lễ hầu đồng. Trong số khoảng 40 tham luận, hơn 1/3 bàn về lịch sử, tín ngưỡng thờ Mẫu, còn lại là những nghiên cứu bước đầu về nghi lễ hầu đồng của người Việt, nghi lễ Then của người Tày, Mỡi của người Mường… Và rất nhiều hình thức Shaman (xuất nhập hồn) trên thế giới.

Chân dung những thầy pháp, người lên đồng được miêu tả khá kỹ. Những người này hầu hết đã trải qua những biến cố bất thường về tinh thần, đa số đã đi đến khủng hoảng, bế tắc.

Nhân tố ám thị

Khảo sát trên 10 người hầu đồng tại khu vực Phủ Giầy Nam Định, bác sĩ Trần Mạnh Cường đưa ra kết luận: Lên đồng lễ hội Nam Định là một trạng thái biến đổi ý thức do nhân tố ám thị và tự ám thị gây ra. Nhân tố mạnh nhất là lòng tin truyền thống của người hầu đồng cũng như gia đình và những người xung quanh vào sự tồn tại của thần linh và khả năng tiếp xúc giữa người trần với thần linh qua thân thể của người hầu đồng. Rồi nhạc cụ gõ, màu sắc kích thích (đỏ và vàng), nhạc, hương khói, hát chầu văn, chất kích thích (rượu, thuốc lá, trầu cau…), sự say mê và nhiệt tình của con nhang đệ tử… cũng là những yếu tố thúc đẩy trạng thái biến đổi ý thức của người hầu đồng.

Nhu cầu chữa bệnh

Nhạc lên đồng - chầu văn, có người ví là rock Việt Nam với hai đặc trưng là sự lặp đi lặp lại của trật tự các nghi lễ và tính chất mạnh mẽ, náo nhiệt của tiết tấu nhảy, phù hợp với nhiều kiểu vận động và trạng thái tình cảm khác nhau, lúc thì khiến tâm hồn người ta bay bổng, lúc đau đớn buồn thương, lúc lại hừng hực khí thế, lúc phấn chấn say mê… Nhìn từ phương diện y học, lên đồng không phải là một trạng thái tâm lý đặc biệt… và rõ ràng trong xã hội có tồn tại một nhu cầu chữa bệnh bằng hình thức lên đồng (tham luận của Tiến sĩ Nguyễn Kim Hiền, Viện Nghiên cứu Tôn giáo).

Các đại biểu tham dự hội thảo cũng được giới thiệu nhiều hình thức có tính nhập, xuất hồn như: Hiện tượng giáng bút ở Việt Nam; Hiện tượng diễn xướng sử thi; Phi Một - phương pháp chữa bệnh của người Thái; Shaman giáo của người H’Mông ở Lào Cai, Shaman của người Malaysia; Hôn nhân huyền bí và việc tích luỹ sức mạnh Shaman giữa các dân tộc Bana (miêu tả và nghiên cứu giấc mộng về quan hệ nam nữ với thần thánh của người được chọn là Shaman)…

Tưởng tượng chứ không ghi nhớ

Trường hợp các nghệ nhân Mường, Bana, Mnông, Êđê, Raglai… ngồi và nằm kể sử thi cũng như một trạng thái nhập thần. Bà Pinăng Mutơt, năm nay 95 tuổi, người Raglai ở Khánh Sơn, Khánh Hoà khi kể sử thi trạng thái tâm thần không bình thường như lúc chuyện trò, bà thấy hiện ra trước mặt các nhân vật như Uđai-Ujà, phong cảnh núi non sông suối. Có nghệ nhân kể sử thi một lèo suốt 42 tiếng và vì thế việc kể thuộc lòng một khối lượng rất lớn sử thi không phải là khó hiểu nếu chúng ta cho rằng nghệ nhân đang thuật lại những gì hiện lên trong đầu chứ không phải huy động trí nhớ (tham luận của PGS. TSKH Phan Đăng Nhật).

Về hiện tượng giáng bút, GS Vũ Ngọc Khánh đề nghị giới khoa học phải nhìn nhận nghiêm túc hơn để theo dõi. Cùng với giáng bút, sinh hoạt đạo giáo như cầu cơ và những trò chơi dân gian: phụ đồng chổi, đồng chén, đồng ếch… đều là những hình thức mang tính chất gần gũi với tục lên đồng.

Cho đến nay việc nghiên cứu cơ chế trị liệu của lên đồng nói riêng và các hình thức trị liệu dân gian khác về phương diện tín ngưỡng - tâm linh còn ít được chú ý đến ở Việt Nam.

(Theo Tiền Phong, 12/4)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lên Đồng


Tác giả: Phan Lạc Tiếp - Truyện Ngắn

1. Lên Đồng

Chú Châu tôi là con út của ông trẻ tôi. Ông trẻ và các chú lớn đi làm ăn xa, tận trên mạn ngược, đâu như Hà Giang, Bắc Mục. Những địa danh xa tít, đầy lam sơn trướng khí, mịt mù huyền hoặc. Lâu lâu gia đình ông trẻ tôi mới về. Lúc nhỏ chú Châu có theo gia đình lên trên đó. Sau chú bị báng, bụng cứ to ra, da bủng và vàng ệch. Người ta bảo là chú ngã nước. Có người lại bảo tại chú nghịch ngợm sao đó bị ma nó ốp, bị người Thổ họ thư. Vì thế chú về lại làng uống thuốc. Khi khỏi bệnh chú không lên mạn ngược nữa, sợ ma nó nhớ, nó bắt. Tuy theo vai vế chú gọi thầy tôi là anh, nhưng chú chỉ nhỉnh hơn anh hai tôi đâu có một hay hai tuổi gì đó, nên chú xưng với thầy tôi là "em" và gọi thầy tôi là "bác". Chú nhập bọn với các anh lớn của tôi và các con của cô tôi. Tất cả năm, sáu người ở tuổi mười lăm, mười sáu, cười đùa rinh rích, nhưng mỗi khi thầy tôi lại gần, cả bọn lại im như không, như là ngoan lắm vậy. Nhưng cả bọn không dấu được tài ăn của họ. Họ ăn nhanh và ăn nhiều quá. Nhà có giỗ chạp gì, mâm của họ, thức ăn không bày ra đĩa, mà xúc vào bát lớn. Mới bày ra, loáng cái đã nhẵn bóng. Các bàn trên, các cụ vừa ăn vừa nhâm nhi câu chuyện, thức ăn còn lại "thôi đưa xuống cho bọn trẻ", ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết veo. Thầy tôi bảo "Quái. Tụi này ăn nó không nhai chắc.". Đấy là vừa ăn vừa nói. Họ nói với nhau bằng những tiếng lóng, chả ai hiểu họ nói gì, chỉ thấy chốc chốc lại phá lên cười. Tôi đoán là có nhiều điều "láo lếu" lắm đây. Mà thật. Một điều láo lếu mà tôi biết, biết mà phải giữ kín, nín thinh trong bao nhiêu năm. Đến khi có thể nói ra được thì tôi đã ở xa quê quá đỗi. Các người trong cuộc kẻ mất người còn mà vai chính là chú Châu. Câu chuyện thế này...


Giỗ chị Hân đã xong. Lễ hoá vàng cũng đã xong. Tro cũng đã được hốt đổ xuống ao, nhưng bác gái tôi vẫn bồi hồi nhớ chị Hân. Chị chết oan uổng, đau đớn. Bác gái tôi cho gọi ông thầy cúng đến để phụ đồng chị Hân lên. Bác tôi mong rằng sống khôn thác thiêng, bác muốn hỏi cho ra lẽ về cái chết của chị. Trời đã tối. Mảnh sân hoá vàng còn nóng hôi hôi hổi. Bác gái tôi cho bày một bàn thờ riêng ở gian bên, có hình chị Hân trên bàn thờ. Hình chị Hân tô mầu cu-lơ, chị mặc áo nhung, đeo kiềng vàng, vấn tóc trần. Quanh ảnh chị có hoa tươi, trà, một đĩa xôi đậu, một con gà luộc. Mỏ gà cắp một đoá hoa hồng, ngắt ở ngoài vườn. Hai cây nến trắng lung linh, bát hương nghi ngút khói. Đặc biệt có một mâm bồng cam Bố-Hạ. Thứ cam to, mỏng vỏ, ngọt mát mà ngày xưa chị Hân rất thích ăn. Ông cung văn và cô đồng đón đâu từ xa đến, được bác tôi đãi ăn rất hậu. Bác tôi còn hứa "nếu hồn về trót lọt, trả lời xuông sẻ, tôi sẽ còn thướng thêm".


Cơm nước xong, trước bàn thờ, ông cung văn ngậm cái tăm trên miệng, nhẹ nhàng ngồi vào góc chiếu lên giây đàn: phừng phừng. Phừng phứng phưng... Những ngón tay dài khẳng khiu nắn buông trên các phím, phô cái khuỷu tay áo the đã rách. Mọi người đã tề tựu. Bác gái tôi đã có mặt. Cô đồng được mời vào. Cô đồng trạc độ trên dưới 40, là vợ của ông cung văn, nổi tiếng là người có căn, hồn dễ nhập. Cô được mời ngồi vào giữa chiếu. Đèn măng-xông thắp sáng. Cô e dè ngồi lê dần vào vị trí trước bàn thờ. Ông cung văn phủ lên đầu cô một cái khăn đỏ rộng chùm đầu, che kín cả vai và lưng. Trên đầu cô, một bát nhang được nhẹ nhàng đặt lên. Cô đồng từ từ dơ hai bàn tay lên, run run, úp vào mặt. Cung văn bắt đầu hát: "Ơ cô. Cô đẹp cô xinh... Ấy a hồn rằng hồn thác ban ngày. Thương cha nhớ mẹ (chứ) hồn dày thác đêm".


Bác gái tôi bắt đầu tấm tức khóc. Không lễ, vì cha mẹ không phải lễ con, nhưng bác tôi nói nho nhỏ: "Sống khôn thác thiêng, con có điều gì oan khuất thì xin nhập vào đồng, nói cho mẹ biết". Ông cung văn vẫn cao giọng vừa đàn, vừa hát. Mắt ông không dời nhìn vào cô đồng. Vì theo kinh nghiệm thông thường, hát chưa xong một khúc, đồng đã đảo. Nhưng khúc hát đã chuyển mà đồng vẫn cứ lặng yên, chỉ thấy hơi run run như lo, như sợ. Hết khúc hát khen, ông cung văn chuyển sang khúc tán. Giọng ông lúc cao vút như gió gió cuốn trên ngàn, lúc lại chùng chùng xuống như thác đổ đầu gềnh. Cô đồng vẫn ngồi im như cũ. Bỗng cô đồng buông tay, đỡ bát nhang trên đầu xuống, để ở trước mặt. Tháo khăn phủ đầu xuống. Ông cung văn cũng bỡ ngỡ, bỏ dở tiếng đàn, tiếng hát. Cô đồng mặt mày nhợt nhạt, cúu đầu, chấp tay lễ hai lễ, rồi lễ phép thưa: "Xin cụ bỏ lỗi cho. Nhà cháu không hợp căn, hồn không nhập được". Mọi người ngơ ngác. Ông cung văn cũng hạ cây đàn xuống, để dài trên chiếu. Chiêu một ngụm nước lớn, lấy tay gãi nách, rồi thưa: "Hồn cô cao lắm, nhà cháu không hợp căn cơ, không đậu được hồn về. Ở đây có ai ngồi được xin mời vào ngồi hộ cho". Trên bàn thờ, nhang đã cháy hết một nửa. Hai ngọn nết vẫn lung linh, leo lét. Bỗng có ai tắt bớt ngọn đèn măng-xông. Bàn thờ bỗng trở nên u linh, huyền hoặc. Hình chị Hân trên bàn thờ lúc sáng lúc mờ theo ánh nến. Ông cung văn lại nhắc: "Ai có căn xin ngồi hộ. Ông cung văn chiêu một nhụm chè mạn đặc, nhưng nét mặt ông lo lắng thấy rõ. Như thế là tiếng tăm của cô đồng mất, việc làm của vợ chồng ông sẽ xa sút chăng. Đợi một lúc, ông cung văn lại hỏi: "Ở đây ai có căn cơ hầu đồng được thì xin ngồi hộ đi". Ngoảnh đi ngoảnh lại không thấy ai. Sau một tuần trà nước nữa, cuộc hầu-đồng tưởng đã bỏ ngang, thì cửa phòng bỗng mở. Một luồng gió tạt vào, lạnh toát. Chú Châu tôi xuất hiện, khẽ nói: "Nếu không có ai thì để tôi ngồi thử xen sao". Có ai đáp "phải đấy". Cô đồng lê ra cạnh chiếu, nhường chỗ cho chú Châu tôi ngồi vào giữa chiếu. Đầu chú phủ khăn đỏ, và không quên để bát hương lên đầu. Hai tay chú bưng mặt. Tiếng đàn lại nổi. Tiếng hát của ông cung-văn lại cất. Lúc đầu đầu đồng quay nhè nhẹ, rồi theo nhịp đàn, theo tiếng hát, đầu đồng quay rộng vòng hơn, ngả ra phía trước, ngả ra phía sau. Tiếng đàn hát mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn. Mọi người trố mắt dõi theo vòng đảo chao chát của đồng. Bỗng tiếng đàn như chùng, tiếng hát nhẹ như ru, như dỗ: "Chẳng mấy khi xa loan giá ngự về đ.. ồ..n.. g.".


Bây giờ đồng đảo mạnh, mềm như không có xương, rạp xuống phía trước, ngả ra phía sau, vậy mà bát hương trên đầu đồng không đổ. Mọi người ngồi xung quang im phăng phắc, nét mặt ai nấy đăm chiêu, sợ hãi. Bác gái tôi thì xuýt xoa. Đồng đảo một vòng rất sâu rồi từ từ ngưng lại. Tiếng đàn thưa thớt theo lời như khấn, như dỗ dành: "Đêm có khuya, ngày có rạng. Xin đồng ngả tay đồng xuống để ăn trầu uống nước...". Đồng chìa bàn tay run run ra phía trước. Mọi người nín thở. Hai tay đồng đón bát hương trên đầu xuống, trịnh trọng để ngay trước mặt, rồi nhẹ nhàng vén mảnh vải đỏ ra. Mọi người nín thở. Chú Châu bây giờ khác hẳn. Mặt mày đỏ ửng, hai mắt khép hờ, rồi từ từ mở ra, thất thần như đang còn chìm vào một cõi huyền hoặc nào xa.


Đồng đảo mắt một vòng rồi bỗng oà khóc. Khóc như mưa, chan hoà, nức nở. Bác gái tôi thì có vẻ sợ mà nước mắt cũng đầm đìa. Tiếng đàn lại nổi, và giọng ông cung văn như dục, như mời: "Xin hồn hãy bớt lo toan, đừng khóc nữa. Hồn có điều gì oan khuất thì có mẹ hồn đây, hồn có thể giãi bày vài lời cho thoả..."


Hồn vẫn khóc, khóc lớn hơn. Bác gái tôi trong nước mắt nghẹn ngào: "Con ơi, con chết oan chết uổng, khổ sở thân con. Mà con có biết hôm nay là ngày gì của con không..." Hồn khẽ gật đầu, nói: "Biết. Ngày giỗ đầu của con." Thế là bác gái tôi oà khóc và hỏi: "Mẹ có thửa mã cho con đủ cả. Nhà Tây, xe cao-su, hài thêu, quần áo, người hầu, không thiếu một thứ gì. Con có nhận được không." Hồn lại khóc và khẽ đáp: "Con chỉ nghe được tiếng trống cúng xa xa thôi. Vì lũ quỷ nó cướp mất cả, con chả được gì." Thế là bác gái tôi lại khóc nấc lên não nuột: "Khốn khổ con tôi. Thế con đã ăn uống gì chưa." Hồn lắc đầu và ra chiều buồn bã quá. Hồn nhìn lên bàn thờ mình, trong lúc tiếng đàn của ông cung văn lại nổi lên rộn rã, reo vui: "Hồn đói, hồn khát, thương quá hồn ơi..." Thế là bác gái tôi bảo đem con gà luộc trên bàn thờ xuống, xé cái đùi gà ra chặt vội vã bày trước mặt hồn. Hồn ăn một miếng thịt gà rồi lại khóc. Bác gái tôi lại hỏi: "Thế con làm gì ở dưới âm ty". Hồn đáp: "Con nghèo khổ quá, phải đi buôn rau buôn chè". Đó là nghề ít vốn mà những người cùng quẫn của làng tôi mới làm. Nghe thế bác gái tôi lại khóc và nói: "Khốn khổ quá con tôi...". Ông cung văn vẫn hát, hồn khen "hát hay" và bảo "hồn cần tiền để thưởng cho ông cung văn." Bác gái tôi liền móc túi lấy mấy đồng bạc đưa cho hồn. Hồn cầm tiền bỏ cả vào túi, chỉ lấy ra có mấy xu thưởng cho ông cung văn. Ông cung văn đón lấy tiền thưởng và cao giọng hát tiếp, ý chừng sẽ còn nhận được thêm tiền thưởng:


Âm dương cách trở đôi đàng


Khuất oan hồn cứ thực lòng kể ra


Này anh, này mẹ, này cha


Này là chú bác toàn là người thân.


Tiếng đàn càng trở nên quấn quýt, rộn rã như thục dục, như tươi vui:


Á à a hồn ơi, hồn chớ ngại ngần...


Có ai đó lấy từ trên bàn thờ xuống một quả cam Bố-Hạ đỏ au, vỏ mỏng như giấy, bóc ra đưa cho hồn. Hồn nhận và cho vào miệng một lần 4 múi. Quả cam vừa hết, mọi người hy vọng hồn sẽ thổ lộ thêm về cái chết oan khuất của hồn thì hồn bỗng lăn ra và... thăng. Ông cung văn hốt hoảng ngưng đàn hát. Bác gái tôi thì xững sờ, hai tay quơ quơ như muốn bám víu, muốn giữ hồn ở lại. Chú Châu tôi lồm cồm ngồi dậy, mắt nháo nhác như vừa tỉnh một cơn mê. Chú vái vội vàng mấy vái trước bàn thờ rồi nhanh chân lui ra. Mọi người còn ngơ ngác. Bác gái tôi mếu máo: "Thế là nó đi. Mẹ con âm dương cách trở, mới gọi được hồn lên, chưa hỏi đươc ngọn ngành nó đã thăng....".


Trong cái không khí bàng hoàng đó, chú Châu đã nhanh chân lẻn ra ngoài. Anh cả tôi chạy theo. Tôi cũng chạy theo xem sao. Trời đêm tối như mực. Đom đóm đâu đó kéo về bay nháo nhác đầy sân. Chú Châu vỗ vào túi áo, nói nhỏ với anh cả tôi: "Đi. Đi ăn phở". Chú cho tôi đi theo và nhắc khẽ, lời nói sắc, gọn như chỉ lọt qua kẽ răng: "Câm. Phải câm nghe không". Vâng, lúc ấy vì sợ chú, vì bỗng dưng được đi ăn phở, tôi đã "câm", không dám hở cho ai hay.


Hình ảnh chú Châu bao giờ cũng vẫn thế, như lời thầy tôi nói: "bao giờ cho đứng đắn đây". Rồi cái tuổi "láo lếu" ấy cũng qua đi, chú Châu lấy vợ. Vì cụ Trẻ Ba đi làm ăn xa, không có mặt ở nhà, nên thầy tôi phải "quyền huynh thế phụ", thay mặt cụ Trẻ Ba, đại diện nhà trai lo liệu. Hôm đi "đánh tiếng" chú sang nhà tôi khi thầy tôi vừa ăn cơm xong, chú nói: "Bác mặc cái áo dài vào đi lại nhà gái cho em...". Thầy tôi bảo: "Để anh uống ngụm nước cái đã". Chú dục: "Thế nào nhà gái cũng mời mình uống nước mà".


Đám cưới chú Châu như tất cả các đám cưới khác trong làng, tôi chỉ nhớ được mấy điều. Khi nhà trai mang lễ vật đến nhà gái, có cụ Từ Vang mặc áo thụng xanh cầm hương đi đầu. Sau là mấy người trai trẻ bưng các mâm cau, trầu và những chai rượu Văn Điển. Kế đến là chú rể, phù rể và họ hàng nhà trai. Khi đám đón dâu rẽ vào xóm Ngõ Mắm, cái ngõ có lát gạch nhưng hẹp dí. Tụi trẻ con trong xóm đã căng mấy giây mùng tơi để cản đường đám đón dâu. Mùng tơi là một thứ dây leo mềm, rất dễ đứt, tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng, phải nương nhau mà gìn giữ. Cũng vì thế sợi giây căng ra cản đường mà không ai dám động vào, sợ đứt thì không nên, không tốt. Cũng chẳng ai dám bước qua. Trẻ con biết thế, cứ căng ra để mè nheo, đòi tiền chăng-giây. Kỳ kèo, nhì nhằng một lúc cho có lệ, tụi trẻ cũng mở giây để nhà trai tiếp tục đi.


Đến cổng nhà gái, thì cổng đã đóng chặt. Tụi trẻ con nhà gái giữ cổng lại đòi tiền mở-cổng. Lại nhì nhằng mà cả mãi, cổng mới được mở ra. Đám đón dâu ùn lại trễ đến nửa giờ. Khi cánh cổng nhà gái vừa được mở ra, một bánh pháo Điện Quang buộc ở cành na, trước sân bắt đầu nổ vang đì đùng. Khói pháo mù mịt. Cụ cầm hương xêng sang bước tới. Chú rể và họ nhà trai quần áo chững chạc bước vào lòng sân gạch còn đầy xác pháo hồng và mù mịt khói thơm. Khi hai họ đã tề tựu, lễ vật đã được bày trước bàn thờ gia tiên, có một bà cô nào đó bên nhà gái đỏng đảnh ngỏ lời:


"Thay mặt cho nhà gái, chúng tôi muốn được biết đồ dẫn cưới gồm những gì đây..." Áo dài, áo cánh, váy lụa, sà-tích bạc và một gói tiền được bày ra. Bà đại diện nhà gái lại nói: "Nói trên có các cụ bỏ lỗi cho, chứ cháu gái tôi đáng giá có ngần ấy thôi sao?" Tuy biết đây chỉ là lời đối đáp theo thủ tục cho có lệ, nhưng cũng làm cho mọi người khựng lại. Chú Châu tôi đứng ở hàng sau, nóng mặt nói lớn: "Không nhận lễ thì con gái để đó mà làm mắm à..." Mọi người bỗng cười ồ. Nhà gái vội nhận lễ vật và đem vào buồng cho cô dâu thay áo mới.


Cô dâu bước ra, áo dài tứ thân bên ngoài, áo cánh nâu non bên trong, yếm trắng tinh, thắt lưng hoa lý, giây xà-tịch bạc buông dài bên gối, đủng đỉnh, thẹn thùng. Nhờ có mấy người đẩy, cô dâu mới bước tới ra chào hai họ. Lúc ấy thì bà đại diện nhà gái lại tươi cười lên tiếng trước: "Dạ, trên có các cụ hai họ, dưới là tất cả gia đình hai bên. Cháu gái tôi được về làm dâu họ Phan là một điều sung sướng. Nhưng cháu nó có nhớn mà chả có khôn. Thôi thì khôn thì các cụ dạy ít, dại thì các cụ dạy nhiều...". Tiếp sau đó là các bà dì, bà cô, họ hàng sà vào, tíu tít: "Dì thì nghèo. Dì chả có gì nhiều cho cháu, gọi là có, dì cho cháu cái thoi... Cô tuy có tiếng mà chả có miếng, cô có tấm vải cô cho cháu đem về làm dấn làm vốn..." Sau mục họ hàng cho quà, cỗ bàn được bày ra. Ngoài những bát canh, bát om, đĩa thịt mỡ thái quân cờ như thường lệ ở làng, cỗ cưới bao giờ cũng có một gói nem. Nem là bì thịt lợn trộn với thính, được gói bằng lá chuối xanh vuông vức, buộc bằng hai cái lạt màu đỏ, để ở cạnh mâm như một thứ trang trí rất đẹp, rất vui mắt. Những tay xính rượu, trước khi đi dự đám cưới đã thủ sẵn một nhúm lá ổi non để nhắm với món mem này.


***


Sau bao nhiêu năm xa cách, trước phút vợ chồng tôi lên đường ra phi trường từ Mỹ để về thăm Việt Nam, anh Hai tôi từ Úc gọi qua, anh dặn thêm: "...như thế là chu tất. Có điều em nhớ thăm chú Châu cho anh. Nhớ biếu chú một món quà cho anh..." Tôi vâng lời mà lưỡng lự. Anh tôi hiểu ra và tiếp: "Sở dĩ anh nhắc em điều ấy là vì anh em mình chịu chú một cái ơn..." Câu chuyện thế này. Lúc ấy là cuối năn 1954, hiệp định Geneve đã ký. Ai muốn đi Nam thì đi, ai ở lại cũng được. Anh Hai tôi lúc ấy là Trung Uý, thường gọi là Quan Hai. Sau mấy tuần nằm nhà thương vì bị trúng đạn ở chân trong một trận đụng độ khá ác liệt đâu như ở Thái Bình, Phủ Lý gì đó, nhờ có khả năng ngoại ngữ, anh Hai tôi được chỉ định ở lại Hà Nội, phụ trách việc liên lạc với Hải Quân Hoa Kỳ trong việc đưa đồng bào vào Nam. Trung Uý trẻ, được phát một cái xe jeep mui trần mới tinh, sau giờ làm việc, buổi chiều lái loanh quanh Hà Nội. Anh Cả tôi và hai cô em gái từ quê ra bảo: "Chú ở lại đi. Đi Nam làm gì. Hai năm nữa tuyển cử mà. Ở lại không sao đâu, họ bảo thế." Anh Hai tôi chỉ cười, nhưng lòng cũng hoang mang. Cho đến những ngày cuối phải giao Hà Nội cho Việt Minh, chú Châu tôi từ quê ra tìm gặp anh Hai tôi và hỏi: "Quan Hai, có xe ô tô riêng oai nhỉ. Thế vào Nam họ có cho lon Quan Hai nữa không ?". Anh Hai tôi cười và nói: " Vẫn thế và có thể còn từ từ lên cao hơn nữa chứ...". Nghe thế, chú Châu nói nhỏ bảo anh tôi: "Chú nói thật. Chạy đi. Ở lại không được đâu. Đi đi. Tin họ thế nào được..." Nhờ lời nhắn nhủ đó, anh em tôi đã có mặt ở trong Nam suốt 21 năm. Chúng tôi, như đa số đồng bào từ Bắc vào Nam, nhờ chịu khó, hầu như ai cũng có cuộc sống no đủ. Riêng anh em tôi, chúng tôi, ngoài nỗi nhớ quê nhà, nhớ Hà Nội, chúng tôi đã có cơ hội đi học lại, học thêm và thăng tiến. Ở Miền Nam, dù chúng tôi không thuộc đảng phái nào, cũng đã được xã hội đối đãi đầy thương mến. Chúng tôi có bằng hữu, có những chân tình giữa đồng đội, xóm giềng. Nhiều lần khi còn ở Việt Nam, anh em tôi thường nói với nhau: "Miền Nam hiền hoà, đơn giản. Miền Nam đã rộng lòng bao bọc chúng ta". Chúng tôi cũng đã hết lòng làm một công dân lương thiện. Chúng tôi cũng đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Tôi nghĩ rằng đại đa số người Bắc vào Nam năm 1954 đều có ý nghĩ như tôi. Nhưng xa hơn một chút, nếu không có chú Châu lặn lội từ quê ra Hà Nội nhắc "đi đi..." thì chưa chắc chúng tôi đã quyết liệt đi như thế. Bao nhiêu năm xa cách. Bao nhiêu chia lìa, tan tóc, giờ cuộc chiến đã tàn. Những gian lao cơ cực của người tỵ nạn lúc đầu với tôi đã tạm qua. Chúng tôi đã có cuộc sống ổn định. Các con, dù rất chật vật, chúng tôi cũng đã nuôi dạy, học hành coi như xong. Tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm, không còn tuỳ thuộc vào cha mẹ nữa. Tôi tạ ơn Miền Nam, và cũng xin tạ ơn miền đất mới xa lạ này. Tất nhiên tôi không thể quên lời nhắc nhở của chú Châu. 40 năm xa cách, khoảng thời gian quá dài. Tôi nhắm mắt lại để cố hình dung ra chú Châu. Chắc chú đã già, râu tóc đã bạc, nhưng chú có còn cười đùa, nghịch ngợm như xưa? Chịu. Hình ảnh chú Châu với tôi chỉ là một thanh niên ngoài 30 tuổi, đùa nghịch, nghịch tinh và như thầy tôi nói "biết đến bao giờ mới đứng đắn đây". Ở Hà Nội mấy ngày rồi chúng tôi về quê. Sau những gặp gỡ, lễ lạc chính, tôi bảo chú em "cho anh thăm chú Châu..." Chú em tôi như một thoáng ngỡ ngàng: "A, cụ Châu. Vâng thì mình hãy thư thả". Sợ quên, nhất là lời dặn của anh Hai tôi, tôi nhắc: "Cứ cho anh thăm cụ Châu trước, sợ rồi bề bộn công việc...". Chúng tôi đi theo con đường chính giữa làng. Xưa tôi thấy nó thêng thang đỏ au gạch chỉ, nay sao nó bé quá, hai bên nhà cửa chen chúc mọc đầy, khác hẳn quanh cảnh ngày cũ. Nhưng khi đi qua bờ ao Hậu thì tôi nhớ ra rồi. Con đường này, ngày đám cưới chú Châu, hai họ đã đi qua đây. Cụ cầm hương mặc áo thụng xanh đi đầu. Khói hương bay lượt thượt. Chú rể áo the, khăn lượt vừa đi vừa cười. Cô dâu nón thúng quai thao, bao xanh hoa lý, xà-tích bạc óng ả, thẹn thùng đi giữa các cô phù dâu. Cạnh ao là dinh cơ của bác Tham tôi. Một dinh cơ cất theo lối mới nhưng vẫn là "thượng gia hạ trì", nhà trên ao dưới, tường hoa phủ kín hoa tường vi vàng ối. Nay dinh cơ ấy vẫn còn mà sao bề bộn, cũ kỹ quá. Dọc theo chiều dài bên kia ao là nhà thờ Quan Bác. Những năm cụ Thiếu về quê ăn Tết, nhà Quan Bác sửa soạn nhà thờ từ trong năm. Dù, lọng óng ả. Bát bửu, y môn, câu đối được lau lại, treo lên thật rực rỡ, uy nghi. Giờ là một căn nhà tối đen, thấp tè ẩn hiện qua mấy khóm tre um tùm mọc ở mé ao. Tôi vừa đi vừa nhớ lại. Những vết tích cũ đều đã phai nhoà, tàn tạ, khiến lòng tôi buồn bã bâng khuâng. Đang miên man suy tưởng thì chú em tôi nói: "Dạ xin bác vào đây..." Tôi theo chú em rẽ vào một con ngõ nhỏ, tường gạch ong đen, hai bên cống rãnh dật dờ, mùi hôi phảng phất. Chúng tôi dừng lại trước một căn nhà nhỏ. Một bà cụ mặc áo cánh nâu bạch thếch, đầu vấn tóc trần nhìn ra. Chú em tôi lên tiếng trịnh trọng, to tát: "Thưa cụ, bác cháu từ Mỹ về lại thăm hai cụ".


Tôi cúi đầu chàu "thím". Bà cụ ngỡ ngàng một chút, dơ hai tay lên trời và kêu lên: "Ấy cháu...". Tôi nắm lấy đôi tay bà cụ. Đôi cánh tay gầy bọc trong hai ống tay áo bạc màu, đã rách. Rồi bà thảng thốt nói lớn vào phía trong: "Ông ơi ! cháu nó từ bên Mỹ về...". Tôi cúi đầu bước vào nhà. Căn phòng ánh sáng mập mờ. Một cụ già từ trong góc chiếu đưa đôi tay quờ quạng ra phía trước: "A ờ, cháu về thật à..." Đôi mắt cụ kém, tay run run và cái đầu lúc lắc không yên. Tôi nắm bàn tay "chú", cố tưởng tượng ra hình ảnh ngày xưa, một ông chú trẻ luôn đùa nghịch mà đành chịu. Trước mặt tôi là một cụ già mà sức khoẻ cũng như tinh thần đã lụn, đã tàn. Trước chỗ ngồi là những ly nước chè đóng váng cáu đen. Cái điếu bát đầy tàn thuốc... Tôi ngồi xà xuống bên cạnh chú. Chú vòng tay qua ôm lưng tôi. Một chút hơi ấm pha mùi thuốc lào cay nồng. Thật là hết, hết hẳn hình ảnh chú Châu ngày cũ. Tôi nhắc lại chuyện cũ, nhắc lại lời anh Hai tôi nói cám ơn chú, chú chỉ "ờ ờ...". Đôi lúc chú lại nắm lấy cổ tay tôi và nói: "Cháu, cháu thật à...". Tôi nhẹ nhàng bỏ một phong thư vào túi áo chú. Chú cười cười. Tôi nói đùa: "Để chú ăn phở". Chú lại cười, khoe hai hàm răng chỉ còn có lợi.


Trên đường về nhà trời chiều đã tối. Những căn nhà nhô ra, thụt vào lấp loáng ánh đèn. Người đi kẻ lại, nói cười, chào hỏi mà tôi không nhìn rõ mặt, chẳng nhận ra ai là ai, như bóng dáng của những người từ một thửơ nào đã mờ xa, không thật. Bước những bước chập choạng lạ lùng trên con đường cũ bao năm xa cách, tôi thấy mình như đang chìm ngợp giữa một cơn mê chập chờn qúa khứ và hiện tại mờ nhoà không phân định. Ở cuối tầm mắt, ẩn hiện sau một tàn cây đen sẫm, ngôi sao hôm xanh ngắt, lấp lánh như một ánh mắt của ai cũ e lệ, kín đáo dón dén đón mừng.




2007-12-22 04:02:50

(http://www.vantuyen.net)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một tấm ảnh lên đồng từ www.photoworld.com.vn

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lên đồng để giải chuyện tình âm dương

Với những người chậm tình duyên thì cô đồng thường phán rằng kiếp trước có hẹn hò với một người, nên phải làm đám cưới âm cho người tiền kiếp. Phải đăng đàn, làm lễ thật lớn để cắt tiền duyên giống như ly hôn với người cõi âm... Thế mới mong lấy được chồng.

Cô đồng người rung rung, tay phải đặt vào ngực, tay trái đặt lên trán, mắt nhắm nghiền, miệng lẩm bẩm. Cô đang nói chuyện với người cõi âm. Hai khách hàng ngồi bên cạnh cô chừng 26-27 tuổi, mặc váy ngắn công sở ngồi chắp tay thành kính. Ngồi phía ngoài là 4 cô gái khác, trạc tuổi ấy, gương mặt chờ đợi. Trước mặt họ, bàn thờ bày mâm ngũ quả có treo ảnh Phật Bà Quan Âm. Khói hương nghi ngút trong căn phòng tập thể chật hẹp.

Bất động một hồi vì bận nói chuyện với người cõi âm, cô thình lình quay sang khách hàng: "Phải cắt tiền duyên thôi nếu em muốn có người yêu và lấy chồng suôn sẻ". Cô đồng có khuôn mặt xinh đẹp, nổi bật với váy đen áo tím. Cô xoay chân cho đỡ mỏi rồi nhoẻn một nụ cười thấu hiểu: "Gần đây, khách hàng của chị đa số là những cô gái 25-28 tuổi, thậm chí các chàng trai 30 tuổi. Tất cả đều gặp trở ngại trong đường tình yêu, hôn nhân. Nhiều người như thế lắm, nhiều đến mức mà chị chẳng cần hỏi đến thánh thần cũng có thể nhắm mắt mà nói về các em. Không hiểu sao bọn trẻ bây giờ khó lấy chồng lấy vợ. Các em yêu muộn, lười yêu mà nhiều cô xinh đẹp giỏi giang nhưng lại cứ để cho mình già dần".

Một khách hàng tỏ ra rất thành kính. Cô đã đi 4 bà đồng, 2 nhà ngoại cảm và cả một thầy chuyên tìm mộ liệt sĩ. Ai cũng bảo cô phải cắt tiền duyên. Cô làm ở một công ty dầu khí, tháng kiếm được hơn 3 triệu chỉ đổ tiền vào trang điểm, học khiêu vũ, offline với các chatter, học đến nát bét mấy quyển giáo trình lớp tiếng Anh buổi tối. Trông cô không quá hấp dẫn nhưng cũng duyên dáng, đáng yêu. Vậy mà cô vẫn chưa có mối tình nào trọn vẹn.

Cô đồng lại đặt tay phải lên ngực, tay trái lên trán. Người cô vẫn run lên: "Phải cắt tiền duyên, cắt mối tình kiếp trước của em đi. Kiếp trước em có hẹn hò với một người. Hai người đã hẹn thề yêu nhau đến kiếp sau. Nhưng kiếp sau em đầu thai được, còn người ta thì không. Người ta cứ theo em như duyên nợ. Em muốn làm gì, yêu ai đều trượt". Mặt cô đồng lại đỏ hơn, rung rung. Về sau cô giải thích rằng: "Chị nói chuyện với người cõi âm mất nhiều sinh khí lắm". Giọng cô ngày một thánh thót.

"Trước hết, phải làm một đám cưới âm cho người tiền kiếp của em. Phải dỗ dành nịnh nọt để anh chàng của em đồng ý với đám cưới âm đấy. Anh chàng này có công năng mạnh lắm, lại có chức sắc trong cõi âm. Thế này thì em phải lên phủ Tây Hồ với chị rồi. Phải đăng đàn, làm một lễ thật lớn và cần đến sự giúp đỡ của quan giám sát. Em phải hiểu là cắt tiền duyên giống như một cuộc ly hôn với người cõi âm vậy. Còn chưa ly hôn được em còn chưa yêu được ai, chưa lấy được người nào".

Đến vị khách hàng thứ 3 mà mối quan tâm lớn nhất vẫn là chuyện tình duyên nhọc nhằn khi muộn tuổi. Lần này thì cô đồng đổi bài: "Em bị một vong nữ đi theo. Người ta theo em cách 2 năm nhân dịp em vào đền. Việc trước tiên của em là đọc kinh đủ 9 ngày. Sau 9 ngày em quay lại đây làm lễ giải hạn. Nếu việc đọc kinh 9 ngày, đủ 9 vía mà thành công thì em làm lễ nhỏ tạ ơn hết khoảng 200 nghìn đồng. Nhưng sau 9 ngày mà vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến, chưa có người bạn trai nào có ý định thực sự đến với em thì phải đăng đàn trên phủ đấy. Tốn kém hơn nhưng làm đi cho nó nhẹ lòng".

Các cô gái văn phòng đồn với nhau rằng: cô đồng này có tiếng lắm, một năm trở lại đây rất linh, đặc biệt trong vấn đề cắt tiền duyên.

Nhà cô ở phòng cuối cùng trong một khu tập thể "cổ kính" nhất Hà thành. Cầu thang vừa tối vừa ẩm thấp. Lịch làm việc của cô rất chuyên nghiệp. Ai muốn đến phải hẹn trước qua điện thoại. Cứ đợi cô ghi vào sổ, sắp xếp chán rồi mới đến lượt. Cô ngồi lên đồng, điện thoại di động để trước mặt. Chuông đổ liên hồi. Cô dùng một số City phone để giao dịch cho tiện.

Khách của cô, số lớn là do một ông thầy chấm tử vi trên phố Hàng Trống giới thiệu. Ông bảo: "Ngoài xem số tử vi phải đến cô để cắt âm khí thì mới trọn vẹn được". Cô thì bảo: "Sau khi cắt âm phải chấm tử vi mới biết được cuộc đời mình ở tầm rộng và xa". Thầy và cô bổ sung cho nhau.

Vậy mà vẫn có rất đông khách hàng trẻ tuổi đến chầu chực ngồi bên cô thành kính đến mù quáng. Họ nghĩ mình được vỗ về, ve vuốt tâm linh. Một lễ cắt tiền duyên cô lấy chừng 2 triệu đồng. Có cô cắt tiền duyên đến 3 lần rồi mà vẫn chưa có người yêu. Tên khách hàng cứ xếp dài bên cạnh quyển danh bạ. Ngày càng đông đảo hơn những cô gái văn phòng đến xếp hàng đợi cô đồng cắt duyên kiếp trước. Quyển sổ những người đã được cô xem thì dày cộp trong đó ghi chi chít tên tuổi nghề nghiệp. Trang nào cũng có ít nhất một khách hàng khai báo nghề nghiệp: sinh viên.

Trong sổ cô đồng ghi cơ man các số điện thoại liên hệ. Bên cạnh đó là danh mục lễ sắm. Một buổi đăng đàn chừng hơn một triệu. Lễ nhỏ thì bốn trăm rưỡi, năm trăm. Tiền công của cô một lần ra phủ là 200 nghìn. Mọi thứ cô đều ghi chi tiết ở sổ: Tổng số là bao nhiêu, đặt trước là thế nào. Một lễ cắt tiền duyên trên dưới 2 triệu, tuỳ vào âm vận tốt xấu của khách hàng. Khách xem xong thì lên ban đặt "lễ". "Lễ" nhỏ thì 30-50 nghìn. Khách đặt xong cô đến thắp tuần hương mới, thu "lễ" về...

Trong phòng của cô nhiều sách lắm: Lịch vạn niên thực dụng, Chúng ta thoát thai từ đâu, Khoa học nhận dạng, Cảm xạ học thực hành, Can chi thông luận... cả Phụ nữ và ăn chay hay quyển Tự học Hán văn. Cô là thánh thần chắc cũng do con đường tự học. Cô ghi chép rành rọt như một người thợ may ghi số đo khách hàng. Người giữ xe dưới tầng một khu tập thể nhà cô bảo: "Ngày trước cô làm thợ may. Khách hàng ít lắm không giống như bây giờ". Trong căn "điện" chật chội của cô còn đặt chình ình một cái máy khâu hết tác dụng.

VnExpress.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ảnh lên đồng giá ông Hoàng Bảy - Nguồn: vnphoto.net

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích từ Chương 7- Hồi ký Phạm Duy

..."Trong xã hội Việt Nam, cũng đã có từ lâu một phương cách hiệu nghiệm để giải toả ẩn ức như nhẩy đầm. Đó là sự lên đồng. Tôi không biết truyền thống đồng cô bóng cậu có mặt ở nước ta từ bao giờ nhưng vào lúc tôi còn bé, tôi thấy trong gia đình tôi có nhiều người lúc nào cũng muốn nhập vào bóng bà Mẫu Thoải, bà Chúa Thượng Ngàn, Ngũ Vị Vương Quan hay Thập Tam Hoàng Thái Tử...

Từ lúc còn bé, tôi đã được tham dự không biết bao nhiêu lần những buổi lên đồng, nghe không biết bao nhiêu lần những điệu hát chầu văn vô cùng phong phú và hấp dẫn. Về sau này tôi còn được làm quen với ông vua của làng cung văn là Tư Quất, khi tôi soạn những chương trình âm nhạc dẫn giải cho một Đài Phát Thanh ở Saigon.

Người Việt Nam, từ xưa cho tới ngay bây giờ -- 1989 -- dường như không bao giờ chống đối sự lên đồng. Trước 1975, tuy ở cả hai miền Nam Bắc đều có những cuộc ''cách mạng'' cả nhưng tại điện Hòn Chén ở Huế vẫn còn có những cuộc lên đồng tập thể với sự tham dự của hằng trăm phụ nữ giầu cũng như nghèo. Trong cộng đồng tị nạn ở Hoa Kỳ và ở Âu Châu hiện nay, vẫn còn có những nơi để phụ nữ tới lên đồng. Trong cuốn Đặc Khảo Về Dân Nhạc -- nhà xuất bản Hiện Đại, Saigon 1972 -- tôi cho rằng... phụ nữ Việt Nam nhờ ở sự lên đồng đ giải toả những ẩn ức và để thể hiện những nguyện vọng thầm kín của mình. Người đàn bà Việt Nam suốt đời bị lép vế đã nhờ ở sự lên đồng đ ''hoá thân'' thành thần thánh và ban ơn cho mọi người. Đó cũng là một hành động tốt để làm cho xã hội được quân bình và không sinh ra nhiều tội ác... Không biết các bà lên đồng rồi mê cung văn có phải là một tội ác hay không nhỉ ? Một bà bạn của mẹ tôi đã bỏ chồng đi theo một anh cung văn hát hay. Họ sống cũng có vẻ hạnh phúc lắm.

Nói tới chuyện lên đồng của thời tôi còn bé thì phải nói tới Cô Bé Tý ở Hàng Bạc, một cô me Tây rất ngộ nghĩnh mà tôi có hân hạnh được tới gần. Cô Bé Tý được coi như ngang hàng với người nổi danh trong làng me Tây là cô Tư Hồng nhưng cô Bé Tý được nhiều người yêu mến vì tính đồng bóng của cô.

Trước hết, cô Bé Tý là người rộng rãi, ai xin tiền cô cũng cho. Rồi tới cái ngông của cô là ở ngay giữa thành phố, cô cho xây một Sở Thú (Zoo) nhỏ với một dẫy chuồng nhốt khỉ, gấu và những con thú (cô làm thành quái vật) như gà ba chân và lợn hai mõm. Ai đi qua nhà cô cũng phải dừng chân lại để coi Sở Thú tí hon này. Tôi và thằng Bảo là bạn ở cạnh nhà (cháu của Chu Viên, em rể của Duy Lam, Thế Uyên) được cô rất yêu. Được cô cho vào chơi. Vào trong nhà cô là như lạc vào trong truyện vẽ bằng tranh, vào trong truyện thần tiên. Nào là những xác chim, xác hổ được nhồi bông. Nào là những con rắn sống uốn mình quanh chiếc ngai sơn son thếp vàng trên đó có cô Bé Tý ngồi bảnh choẹ và lên đồng thường xuyên giữa một đám đầy tớ toàn là những người lùn. Ai vào nhà Cô thì đều phải gọi Cô là Bà Chúa.

Đối với tôi, cô Bé Tý với thế giới gà ba chân, lợn hai mõm, những người lùn, những đồng cô bóng cậu mặc y phục lộng lẫy, múa gươm hay chèo thuyền trong khói nhang nghi ngút, với chiêng trống tưng bừng... giống như chuyện ảo tưởng có thực. Tôi luôn luôn cho rằng những người như Cô Bé Tý, người chào không biết mỏi ở phố Hàng Dầu -- và sau này nhà thơ Bùi Giáng -- là những người sung sướng nhất, vì họ được luôn luôn sống trong cảnh dị thường. Được sống đầy đủ với cô Bé Tý trong một thế giới thần tiên nên sau này tôi không còn ham mê đọc những tác phẩm giả tưởng của Andersen và cũng không còn thích coi những phim hoạt hoạ của Walt Disney nữa.

Hà Nội ngày tôi còn bé, luôn luôn có những cơn sốt dị đoan như hiện tượng bàn ma xẩy ra trong một thời gian khá lâu. Nhà nào cũng có một cái bàn nhỏ ba chân rồi người ta ngồi chung quanh cái bàn đó, hai tay đặt vào thành bàn, sau khi khấn khứa với con ma bàn, người ta hỏi chuyện nó. Hỏi chồng bà này chết bao nhiêu năm rồi ? Hỏi mẹ của bà nọ ở bên kia thế giới có vui hay không ? Vui thì chân bàn gõ hai cái, buồn thì chân bàn gõ một cái... Cái bàn ma đã trả lời vanh vách với tiếng chân bàn gõ canh cách. Vừa run rợ vừa thích thú vì thấy mình như lạc vào cõi ma, nghe được thông điệp của người chết, tôi lại càng sợ hơn khi thấy có người đào mả lấy gỗ quan tài để làm thành cái bàn ma..."

(Hết đoạn trích)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhớ một bài thơ của Tú Xương

Lên đồng

Khen ai khéo vẽ sự lên đồng

Một lúc lên ngay sáu bảy ông

Sát quỉ, ông dùng thanh kiếm .. . gỗ,

Ra oai, bà giắt cái .. . khăn hồng.

Cô giương tay ấn, tan tành núi,

Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông.

Đồng giỏi sao đồng không giúp nước ?

Hay là đồng sợ súng thần công ?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một góc nhìn từ đạo Cao Đài:

Một Phương Trời Mới

Nguyễn Tấn Hưng

Phàm sinh ra làm người, hầu như ai cũng có một góc trong tâm linh có niềm tin mơ hồ vào thần quyền. Hễ tin tưởng đến thần quyền thì tin tưởng rằng ngoài cõi hữu hình là nơi chúng ta đang sống còn có thế giới vô hình. Và tương tự như vậy, hễ tin tưởng đến thần quyền thì cũng tin tưởng rằng ngoài thân xác hữu hình chúng ta đang đi đứng, nói cười, ăn ngủ v.v... còn có cái gọi là linh hồn vô sắc tướng. Mặc dù đã nói là tin tưởng, tức là đôi lúc không thể giải thích được, nhưng khoa học cũng đã từng chứng minh rằng... có thế giới bên kia mà bằng mắt phàm ta không thể nào, không tài nào nhìn thấy!

Thật ra, cũng chẳng cần chi đến khoa học tân tiến hiện đại của thế kỷ 21, từ ngàn xưa, người ta đã chứng minh được sự hiện hữu của thế giới bên kia bằng cách tạo mối liên lạc giữa hai thế giới hữu hình và vô hình. Mối liên lạc dễ hiểu, dễ nhận hơn hết có thể nói là: sự cầu cơ và sự lên đồng.

Cầu cơ có nhiều cách. Cách dễ nhứt mà ngay từ hồi còn nhỏ chúng ta thường làm là cắt miếng ván (lựa ván hòm từ các mả lạn thì tốt hơn, theo kinh nghiệm) hình trái tim để lên trên một mảnh giấy có viết sẵn các mẫu tự ABC... và năm dấu sắc huyền nặng hỏi ngã trên một vòng cung hình bán nguyệt. Cộng thêm hai chữ "Thăng", "Giáng" phía bên dưới là xong. Kinh cầu cơ cũng có nhiều bài, hoặc như bọn nhỏ tôi ở những năm đầu thời trung học, vẫn lấy một đoạn trong "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh" của cụ Nguyễn Du làm lời cầu mời:

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc, biết đâu bây giờ

Hoặc hồn ẩn dọc bờ, dọc bụi

Hoặc hồn nương ngọn suối, chân mây

Hoặc là bụi cỏ, bóng cây

Hoặc là cầu nọ, quán nầy bơ vơ

Hoặc hồn tựa Thần từ, Phật tự

Hoặc hồn nương đầu chợ, cuối sông

Hoặc là thơ thẩn đồng không

Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre

Mấy thu chịu nhiều bề thắm thiết

Dạ héo khô, gió rét căm căm

Dãi dầu biết mấy trăm năm

Khóc than dưới đất, ăn nằm trong sương

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời, lẩn thẩn dò ra

Lôi thôi ẵm trẻ, dắt già

Có khôn thiêng hỡi, lại mà chứng minh

...

Lẽ dĩ nhiên, có thể đọc ra tiếng hay đọc thầm trong miệng cũng được miễn là niềm tin và lòng dạ của các người cầu cơ đang đặt ngón tay trỏ của mình lên hình cơ (ba, bốn hoặc nhiều càng hay vì điển càng mạnh, cơ chạy càng nhanh) có thành khẩn hay không mà Thánh, Thần (giả hay thiệt cũng khó biết) hay yêu, tinh, quỉ, ma... oan hồn uổng tử sẽ nhập vào... Cơ chạy vòng vòng rồi mũi cơ (chót trái tim) chốc chốc sẽ ngừng lại, chỉ vào từng mẫu tự một để mình ráp vần thành từng chữ mà hiểu cơ muốn nói gì...

Ðó là cầu cơ ma! Còn các cách cầu cơ khác có tính chất thiêng liêng thường được áp dụng trong các hội thánh trên khắp thế giới, nhất là các hội thánh, thánh thất Cao Ðài, chưa hề thấy ngoài dân dã. Bằng cách kê một cái bàn con nghiêng nghiêng (hai chân cao hai chân thấp), để khi các đấng thiêng liêng, Trời Phật Tiên Thánh Thần, giáng điển thì sẽ nhắc hai chân thấp lên mà gõ xuống nền... Tùy theo ước hiệu, gõ 1 tiếng là A, hai tiếng là B, v.v..., mà ráp lại thành chữ. Hoặc cao hơn một bực là sử dụng "ngọc cơ" hoặc "đại ngọc cơ" (một cái giỏ tre đan có gắn ngòi viết hình con chim loan bằng cây ở đằng đầu) để cơ viết thẳng ra từng chữ một lên mặt kiếng có rải bột gạo, bột phấn hay tưới một lớp rượu mỏng...

"Lên đồng" thì tùy theo căn cơ của "đồng tử" mà cũng chia làm hai thành phần. Một là đồng bóng của mê tín dị đoan ở các nơi cầu hồn, nhập xác trong thôn, xóm, nhà riêng mà các đồng cốt, bà bóng thường là kẻ phàm tục chẳng phải người tu hành. Ðiều này hầu hết chúng ta ai ai cũng đều, ít nhứt một vài lần, đã từng chứng kiến hay kinh nghiệm qua. Hai là "đồng tử thứ thiệt," không phải là một người con trai còn nhỏ, mà là những người đã trường chay, tuyệt dục, đạo hạnh cao... nam cũng như nữ, được các đấng thiêng liêng chọn lựa để dùng vào vai trò "thủ cơ chấp bút." Viết thẳng ra từng chữ (như trình bày bên trên) hoặc nói ra thẳng ra từng tiếng (dễ cảm nhận hơn vì không bị mất thời gian tính)! Và, trong trường hợp này, từ ngữ "lên đồng" không còn mang ý nghĩa thông thường nữa, mà phải hiểu là một "đàn cơ" với nhiều người có từng nhiệm vụ khác nhau như "Chứng đàn, Pháp đàn, Hộ đàn (tất cả mọi người tham dự), Ðồng tử, Ðộc giả, Ðiển ký...," v.v...

Ðặc biệt, qua sự "cầu cơ" hay sự sử dụng "đồng tử" theo chiều hướng "huyền diệu thiêng liêng," kể từ năm 1926, trên mặt quả địa cầu này, toàn thể nhân loại trên thế giới có thêm một đạo mới: Ðạo Cao Ðài! Qua đức Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát, tá danh của đức Huyền Khung Cao Thượng Ðế, tức Trời nhưng vẫn thường hay xưng là Thầy! Và đương nhiên, riêng đối với người Việt Nam chúng ta, hầu như ai ai cũng biết qua cơ đạo này, không nhiều thì ít. Lịch sử thành lập đạo từ buổi sơ khai đến hồi phổ độ, truyền bá trong dân gian, và rồi chia chi lập phái... rất là dông dài nếu muốn đi sâu vào chi tiết! Nhưng, đại khái, bằng những lời cơ lúc nhặt lúc khoan, lúc như ra lịnh lúc như đùa vui, các vị Thần Thánh Tiên Phật và Thầy đã dìu dắt và chiếm trọn lòng tin của mười hai đệ tử đầu tiên, toàn là những người học thức cao, có địa vị trong xã hội đương thời. Tên của mười hai vị này được lồng trong ba câu đầu (viết chữ hoa) của bốn câu thơ:

CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh

BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành

HẬU ÐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh

HƯỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh...

Ba vị sau trong câu cuối, mặc dù không có mặt trong buổi cầu cơ này, nhưng Thầy đã cho biết trước rồi họ sẽ có dịp "nhập cuộc" ở những ngày sắp tới trong một tương lai gần.

Và, qua kinh nghiệm của vị đệ tử đầu tiên CHIÊU, ngài NGÔ VĂN CHIÊU, Thầy còn dạy thờ thánh tượng Thiên Nhãn với ngụ ý như sau:

Nhãn thị chủ tâm

Lưỡng quang chủ tể

Quang thị thần

Thần thị thiên

Thiên giả ngã giả

Tạm hiểu là... mắt làm chủ cái tâm, hai luồng sáng làm chúa tể, ánh sáng là thần lực, thần lực là thiên lực, thiên lực là ta, tức Trời, tức Thầy...

Ðó là chuyện xa xưa đã 76 năm qua, ngày nay vào thời buổi 2002, nếu ai có "computer" và hay "surf the net," muốn tìm hiểu điều gì về Việt Nam, chỉ cần "search" (qua Yahoo.com hoặc Google.com chẳng hạn) chữ "Viet Nam" không dấu là có đủ mọi thứ, từ ăn chơi đàng điếm cho đến tu tâm dưỡng tánh... đều được trình bày, bàn thảo công khai bởi người Việt lẫn người ngoại quốc, mặc sức mà nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi...

Hiển nhiên, trong khi "search" chữ "Viet Nam" sẽ có "Du Lich Viet Nam"! Và trong "Du Lich Viet Nam", ngoài Huế, Sài Gòn, Hà Nội..., ngoài vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, China Beach (ở Ðà Nẵng, vùng Ngũ Hành Sơn), Nha Trang Beach, v.v... ta lại thấy địa phận tỉnh Tây Ninh với Thánh Thất Cao Ðài được vẻ kiểu, xây cất do lời chỉ dạy của Bề Trên qua cơ bút, hiện ra như một kỳ quan thế giới cho mọi người cùng chiêm ngưỡng, nhất là đối với người ngoại quốc...

Rồi trong chữ "Cao Dai" hay "CaoDai" lại có thêm "Caodai.com," "Caodai.net," "Caodai.org," v.v..., nói chung, Cao Ðài Mỹ, Cao Ðài Canada, Cao Ðài Pháp, Cao Ðài Ðức, Cao Ðài Úc Châu, v.v... lần lượt hiện ra, mỗi nơi mỗi vẻ, ôi thôi muôn hình vạn trạng! Mà, tình cờ, trong một ngày đẹp trời hôm đó, tôi có dịp lướt qua! Ðể rồi sau cùng tôi dừng lại ở "homepage" Thiên Lý Bửu Tòa * , vì nơi đây có mục... "thỉnh kinh miễn phí" xem ra rất phù hợp với tánh của tôi là thích đọc kinh, sách cầm trên tay hơn là đọc trên NET! Download và in ra cũng được nhưng... hơi phiền toái và không đẹp đẻ cho lắm!

Well, nói theo đạo Phật thì có lẽ do thập nhị duyên sanh, còn nói theo đạo Cao Ðài thì có lẽ do... thiên cơ dĩ định, vì tôi cũng cứ đinh ninh rằng Thiên Lý Bửu Tòa lại là một chi phái nào đó mà mình chưa biết, chưa từng nghe qua, ai ngờ..., lại hai chữ ai ngờ, đây là nơi Thầy và các chư Phật, Tiên, Thánh, Thần... về cơ trở lại. Ở San Jose ngay trên xứ Mỹ văn minh tột cùng này mới là điềm lạ, điềm lành cho nhơn loại, chúng sanh. Ðể Thầy mở Ðệ Nhị Thiên Khai, Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ngoài xứ Việt Nam thân yêu của chúng ta. Bên ngoài xem ra không có gì bề thế nhưng bên trong lại tiềm ẩn nhiều điều đáng nói, đáng nêu! Quả đúng là "chùa rách có Phật vàng," như chính Thầy đã ban:

Bửu-tòa CAO chẳng mấy thước đo,

Thiên-lý ÐÀI Tiên ý chẳng dò,

Chùa rách THƯỢNG Nguơn nhồi Ðức-Thánh,

Phật vàng ÐẾ Ðạo dựng nền Nho.

Thì ra cơ Trời vẫn luân chuyển, máy Tạo vẫn vần xoay... như đã "tiên tri" trong kinh sách, rằng Ðạo Cao Ðài sẽ lan truyền khắp năm châu bốn bể. Trong âm thầm, lặng lẽ nên ít người để ý tới. Trong số đó có tôi. Ngoại trừ những ai có căn cơ tiền kiếp, sớm tìm ra lẽ Ðạo (vốn không là món hàng rao bán vì Trời Phật vốn chẳng phải con buôn - Thánh Ngôn Hiệp Tuyển), chớ còn hầu hết chúng ta ngay từ lúc sinh ra cho đến lúc trưởng thành, đã bị dồn dập cuốn lôi vào dòng đời phong ba bão tố, mạnh được yếu thua. Bằng những học tập nhồi nhét kiến thức vào đầu, hầu làm hành trang để bương chải tìm kế sinh nhai. Lắm khi chẳng còn thì giờ nhìn lại những đoạn đường đã đi qua. Ðến lúc giựt mình tỉnh ngộ thì bóng xế, chiều tà. Mới chợt nghe văng vẳng bên tai tuồng như tiếng kêu thảng thốt của Phật Trời hằng bao năm qua đang từ xa vọng lại:

Hảo Nam bang, hảo Nam bang!

Tiểu quốc tảo khai hội Niết bàn...

Mà, nương vào biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại đó, người Việt chúng ta tự cảm thấy, không ít thì nhiều, hãnh diện về đạo đức, căn cơ của dân tộc mình, xứ sở mình.

Vũ trụ, vạn vật luôn luôn đổi thay và mỗi người chúng ta, do thời thế đẩy đưa, thường hay bắt gặp những hoàn cảnh mới, những hạnh ngộ mới, những vận hội mới... như những khúc quanh lịch sử của cuộc đời, để có thể tạo nên những cơ nghiệp mới. Nhưng, theo thiển ý của riêng tôi, việc bắt gặp... một phương trời mới, hướng ta về nơi nuôi dưỡng mạch sống tâm linh, mới là điều ta đáng quan tâm hơn hết...

(Bài kế: Một vài điều đáng suy nghĩ)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: http://www.cinet.gov.vn

Lần đầu tiên với... festival "lên đồng"

!06/10/2006, 15h31

"Tháng Tám giỗ Cha"... Người "Cha" đó là Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, được nhân dân tôn xưng là "Đức Thánh Trần". Tháng 8 Âm lịch hằng năm, tại Côn Sơn - Kiếp Bạc, nhân dân lại biểu thị lòng tôn kính Ngài bằng nghi lễ hát văn Hầu Thánh linh thiêng. Sau một thời gian dài gián đoạn, ngày 7-10 năm nay, lần đầu tiên Liên hoan diễn xướng dân gian Hầu Thánh sẽ được Bộ VH-TT chỉ đạo tổ chức công khai và bài bản tại đây...

1. Là một loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh thuộc về dân gian có từ lâu đời, nghi lễ "Hầu Thánh lên đồng" có ý nghĩa tôn vinh các nhân vật lịch sử cùng với công trạng của họ dưới hình thức diễn xướng có nghi lễ và hát văn.... Tuy nhiên, có một thời gian dài do hoàn cảnh đất nước chiến tranh, điều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép, cho nên nó chưa trở thành một hoạt động bình thường trong đời sống lễ hội ở Việt Nam.

Ông Nguyễn Khắc Minh, Trưởng ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc cho biết: "Năm nay là năm đầu thực hiện "Đề án Lễ hội" đã được UBND tỉnh Hải Dương phê duyệt nhằm nâng cấp lễ hội này thành lễ hội quốc gia. Do đó, việc tổ chức thử nghiệm festival Hầu Thánh nhằm khẳng định bản sắc độc đáo của Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc. Đồng thời, qua mẫu hình Hầu Thánh được tổ chức có bài bản, có hướng dẫn sẽ hạn chế những yếu tố mê tín dị đoan, những mặt tiêu cực của nghi lễ này. Phần liên hoan Hầu Thánh có sự phối hợp nghiên cứu chỉ đạo của Viện Văn hóa, Bộ VH-TT. Kịch bản và đạo diễn lễ hội do Viện Văn hóa đảm nhiệm".

Theo ông Minh, điều lo lắng nhất là Lễ hội mùa Thu và những nét mới như vậy chắc chắn sẽ thu hút nhiều người quan tâm, vì vậy, khách về hội có thể quá tải. Chính vì thế, tại Kiếp Bạc - Côn Sơn những ngày chính hội, công tác an ninh trật tự được chú ý tăng cường để bảo đảm lễ hội lành mạnh, trang nghiêm...

2. Đối với Hầu Thánh lên đồng , yếu tố chủ đạo là nghi thức nhập hồn của các vị thần linh vào ông đồng, bà đồng. Nhưng để thể hiện nghi thức ấy, cần có môi trường cho hoạt động diễn xướng. Ấy là không gian thờ cúng trang nghiêm, tại các đền, điện... Các bàn thờ phải được trang trí rực rỡ màu sắc, với những đồ thờ cúng sang trọng. Bên cạnh đó còn có âm nhạc, hát văn, múa đồng để làm nền cho lễ nghi tín ngưỡng.

Một giá đồng thực sự là một sân khấu dân gian đặc thù, một sân khấu tâm linh, một kiểu sân khấu còn ở dạng "nguyên hợp" giữa các yếu tố nghệ thuật và tín ngưỡng... âm nhạc, hát văn và múa thiêng không thể tách rời nghi lễ nhập hồn. Người trình diễn, và người xem như là nghệ sĩ và khán giả vậy. Sự hứng khởi của người xem tác động không nhỏ đến tâm lý người hầu bóng, tạo nên sự giao tiếp đồng cảm vừa tâm linh lại mang tính nghệ thuật.

Liên hoan Diễn xướng dân gian Hầu Thánh từ 15 giờ đến 23 giờ ngày 16-8 Â.L (tức ngày 7-10) với sự tham gia của các đoàn đến từ nhiều địa phương như Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định... Tiếp theo đó sẽ là Lễ Ban ấn từ 23 giờ ngày 8-10 đến 2 giờ ngày 9-10... Lễ hội sẽ kéo dài đến 12-10.

Việc nhân thần hóa và lịch sử hóa các vị Thánh Tứ phủ dược phản ánh trong các bài văn chầu kể lai lịch, sự tích liên quan đến các huyền thoại truyền thuyết về cuộc đời, sự nghiệp của các vị tiên hiền... Lòng yêu nước thông qua việc tôn vinh các vị thần đã được tín ngưỡng hóa, linh thiêng hóa. Tín ngưỡng tứ phủ thông qua đó khẳng định vị thế của mình về phía dân tộc, nhân dân, một thứ chủ nghĩa yêu nước đi vào thế giới tâm linh của con người... Nhiều vị thánh cũng là các nhân vật lịch sử: Quan lớn Tuần Tranh là danh tướng thời An Dương Vương. Ông Hoàng Bảy là quan triều đình trấn giữ vùng Lào Cai, Yên Bái. Ông Hoàng Mười là quan văn thời Lê trấn giữ vùng Nghệ An... Những vị thần tứ phủ có cả người các dân tộc vùng cao như Chầu Thác Bờ là phụ nữ Mường. Bà chúa Xứ là phụ nữ Chăm... Điều đó khẳng định định trong tín ngưỡng tứ phủ xa xưa người Việt Nam đã mang tinh thần đoàn kết, bình đẳng như một nhà, không hề có phân biệt đối xử hay kỳ thị...

Hát văn hầu bóng là sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Ở đây yếu tố tín ngưỡng và văn hóa đan quyện vào nhau làm cho người dự cùng lúc đáp ứng được nhu cầu tâm linh và nhu cầu mỹ cảm thông qua hưởng thụ những giá trị văn hóa nghệ thuật của diễn xướng dân gian... Điều đó lý giải vì sao hầu thánh vẫn là sinh hoạt không thể bị loại bỏ khỏi đời sống hiện đại.

Diễn xướng dân gian Hầu Thánh vẫn tồn tại trong dân gian và sẽ sai lầm nếu không có sự quan tâm của cơ quan chức năng. Tổ chức liên hoan Hầu Thánh ở Kiếp Bạc lần này có thể nói là một festival độc đáo để bảo tồn một di sản phi vật thể, đồng thời "gạn đục khơi trong" làm cho sinh hoạt này lành mạnh, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội...

Q.T (Theo TT&VH)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguồn: http://www.thongthienhoc.com

Đồng cốt và sự truyền cảm thụ động

Trích trong Những Phương Pháp Phát Triển Tâm Linh


MỘT ĐẶC ĐIỂM VẬT CHẤT

Người nào muốn ngồi đồng phải có khả năng xuất ra khỏi xác; thể xác y còn phải có một đặc điểm khác là sự kết hợp lỏng lẻo giữa các phần tử dĩ thái và các phần khác của nó.
Đặc điểm nói trên thường có từ lúc mới sanh, nhưng nó cũng có thể được khai mở thêm ở những nơi được gọi là “Câu lạc bộ phát triển”.
Nó không chứng tỏ rằng người có nó tiến cao hơn mọi người khác. Thường thì trường hợp trái lại xảy ra : khả năng lên đồng là dấu hiệu một linh hồn kém tiến hóa mặc dù có vài ngoại lệ.
Lý do là khả năng nầy không vượt qua phạm vi thể xác : khi thể xác có một vài đặc điểm cần thiết thì người ta có thể ngồi đồng. Nó không đòi hỏi một tánh tình thanh cao hay một cố gắng nào về sự trau luyện tinh thần. Bản chất thanh cao của con người không được lưu ý.
Nhưng người ta nghĩ sai rằng khả năng ngồi đồng là một bằng chứng của sự phát triển tâm linh. Nhiều người còn hiểu rằng : tin ở các vong linh và ở đời sống bên kia của tử là dấu hiệu của sự phát triển cao quí ấy, rằng chấp nhận những giáo lý vô vị ở các buổi nhập đồng là chứng tỏ một sức mạnh tinh thần còn say mê những hiện tượng này nọ là sự mộ đạo.


NHỮNG ĐIỆN TÍN PHI PHÀM

Xem sự lên đồng như là một tôn giáo và kính trọng lời lẽ của các vong linh do đồng cốt chuyển lại như là những giáo lý cao siêu thì không khác nào quì ở một trung tâm vô tuyến Marconi để nghe những điện tín chuyển đến từ một cõi xa xăm và tôn kính các điện tín ấy như là thông điệp của trời. Thái độ ấy không hợp lý. Trong hai trường hợp, lời lẽ vẫn phát xuất từ một người thường, có khác chăng là một đàng, nó được chuyển đến do máy móc, còn một đàng do xác đồng.
Việc một người chết dùng xác đồng giống như việc ta dùng điện thoại : sự kiện không có tánh cách tâm linh gì cả. Chúng ta có thói quen gọi người vừa bỏ xác thân là “vong linh”. Thói quen nầy gây nhiều sự hiểu lầm khiến ta tôn sùng và tin tưởng người chết quá mức. Ngay bây giờ, chúng ta cũng là những linh hồn, và sau khi từ trần, chúng ta chỉ mất thể xác thôi chứ chúng ta vẫn y như trước.
Nếu trong lúc sanh tiền, anh Ất ăn nói dài dòng, thì chết anh cũng thế. Anh có muốn nhờ miệng đồng cốt để giảng đạo đi nữa thì lời lẽ của anh cũng không có giá trị gì hơn lúc anh còn sống.
Chúng ta bao trùm cái chết và những điều ở bên kia cửa tử bằng một bức màn bí mật và tỏ một thái độ kính trọng. Việc ấy không có ích chi cả. Khi một người đồng thốt một điều gì, ta nên đón tiếp như lời một bạn quen, có thế thôi.


TRINH NỮ DÂNG HƯƠNG

Đồng cốt là một phương tiện liên lạc xưa nhất và dễ nhất giữa cõi trần và cõi vô hình. Lịch sử và các sự nghiên cứu huyền môn xác nhận đồng cốt đã có trên hai ngàn năm nay. Người có huệ nhãn khi quan sát ở quá khứ, trong những đền thờ vĩ đại của Châu Atlantide, của Ai Cập hay Hi Lạp ngày xưa thì các Trinh nữ dâng hương, vũ nữ và đồng nữ hiện ra trong những xác thân trinh khiết trước những bàn thờ tôn nghiêm và các tín đồ yên lặng và tin tưởng, để chuyển lại lời lẽ quí báu của các Đấng Thánh linh.
Nhưng hoàn cảnh hiện tại khác hẳn hoàn cảnh ngày xưa. Trước kia, các trinh nữ đó thuộc những gia đình quí phái và được nuôi dưỡng trong các đền thờ thanh khiết, linh thiêng. Họ ăn những thức ăn chọn lọc và được ngừa những ảnh hưởng và tư tưởng xấu xa. Ðược chăm nom cẩn thận như vậy, họ tránh được mọi tai hại cho họ, đồng thời nói lên được những giáo lý cao siêu do các bậc Chưởng giáo nhập vào truyền dạy.
Việc rời bỏ xác thân để một vị cao cả sử dụng nó không phải là một điều nguy hại. Sự thực thì có những nhà huyền môn và các bậc điểm đạo làm như vậy khi họ biết rõ vị nào sẽ sử dụng xác thân của họ. Trong lúc họ rời khỏi xác thân, họ ý thức được những điều xảy ra. Họ còn có dịp đứng bên vị Chưởng giáo để nghe các lời chỉ dạy.

Nguy hại của đồng cốt hiện nay

Việc sử dụng đồng cốt hiện nay gây nhiều tai hại khiến các nhà huyền môn khuyến cáo nên xa lánh. Nguyên nhân các tai hại đó là điều kiện sinh sống bẩn thỉu, nhớp nhúa của đồng cốt. Họ không được tiến hóa đến mức có thể chọn những vị cao cả cho nhập vào xác mình. Khi họ rời thể xác, họ mê và không còn hoạt động được. Tâm thức của họ vì không được luyện tập nên phất phơ như trong giấc mộng với những tư tưởng quen thuộc hằng ngày. Trong lúc đó, một vong linh nhập vào xác trống và giảng dạy trước một cử tọa kính cẩn. ôi khi những vong linh được gọi là "kẻ dìu dắt", có mặt và cố gắng che chở đồng cốt. Tuy nhiên, các vong linh ấy cũng tầm thường như chúng ta chứ không phải toàn năng hay toàn tri để có thể bảo vệ kiến hiệu.
Nếu chúng ta biết rằng ở cõi vô hình (nhứt là ở các tầng thấp mà các đồng cốt thường tiếp xúc), có một số vong linh đàn ông, đàn bà bất hảo, thì chúng ta đừng ngạc nhiên khi một vong linh du đảng, thô bỉ, trụy lạc toan chiếm xác thể người đồng, mặc dầu có sự ngăn trở của vong linh dìu dắt. Kết quả thể xác người đồng bị hành hạ và trở nên ô uế.
Dù vong linh có thanh cao hơn, sự xâm chiếm ấy cũng không tốt vì mấy ai không còn ích kỷ và dục vọng.

Những nơi ô uế

Chúng ta hãy đến dự một buổi lên đồng phải trả tiền vào cửa và nhìn xem cảnh vật chung quanh. Trong các người hiện diện, ít ai học rộng và thương người, họ đến vì tính tò mò hay để thoả mãn một dục vọng cá nhân. Họ thường ăn thịt, uống rượu, lắm khi không được sạch sẽ nên phát ra những hôi hám ô uế. Người đồng cũng không cử rượu thịt nên từ điện của họ rất dơ bẩn. Như vậy, các bậc tiên thánh làm sao có thể sử dụng được thể xác của y ? Thể xác của y như một bộ quần áo dơ, làm sao một người sạch sẽ có thể mặc vào?
Do đó, những giáo lý do đồng cốt thốt ra không có giá trị, vì các nhân vật quan trọng không đến nhập, dầu nơi đó có mặt thân nhân của họ. Kết quả là những vong linh tầm thường đến và rất hãnh diện xưng vị này, đấng nọ để truyền dạy những điều vô vị.

Những điều kiện lý tưởng

Nếu các điều kiện trên được thay đổi, nếu các người đến dự gồm các người trong sạch, vị tha và có khuynh hướng tâm linh, nếu người đồng cốt đừng ham mê thú vui vật chất, tinh lọc tư tưởng và giữ gìn thân thể sạch sẽ thì kết quả sẽ tốt đẹp hơn nhiều. "Văn Phòng Julia" do cố W.T. Stead thành lập đã cố gắng nhiều trên phương diện này.
Bao giờ các điều kiện còn bê bối như hiện nay, đồng cốt sẽ mất hết phẩm giá và trở thành nô lệ các tập quán đê tiện, bị loạn óc hoặc điên cuồng. Nếu khoa thần linh muốn có một địa vị quan trọng trong giới tôn giáo và khoa học, nó phải nhận định khuyết điểm đó và huấn luyện đồng tử từ lúc nhỏ đừng để chúng bị lợi dụng do những người dốt nát, ích kỷ, chỉ biết chạy theo những hiện tượng có vẻ lạ đối với phần đông nhưng không có một giá trị tâm linh nào.

Sự hiện hình làm suy yếu thần kinh

Sự hiện hình không nên được khuyến khích bất kỳ với một lý do nào vì nó gây tai hại cho sức khoẻ và cả cho sinh mạng của đồng cốt. Lý do là khi chất dĩ thái được rút ra khỏi thể xác để hiện hình thì luồng sinh lực nuôi dưỡng thể xác bị bớt nhiều làm cho nó kiệt sức. Các bộ phận của nó đều bị xáo trộn nhất là quả tim, bộ tiêu hóa và thần kinh hệ. Bộ này bị căng thẳng và suy yếu đến đỗi đồng cốt phải dùng những chất kích thích. Do đó, một số người trở nên nghiện rượu.

Sự ô nhiễm

Khi chất dĩ thái của thể xác được một vong linh dùng để hiện hình, chất ấy sẽ thu hút một phần từ khí của vong linh đó và thu nhận ít nhiều các rung động của y. Nếu vị ấy dâm dật, xảo trá, chất dĩ thái bị ô nhiễm, và khi nó được hoàn lại cho đồng cốt, nó vẫn giữ ảnh hưởng nguy hại đó. Vì vậy, chúng ta cần tránh sự hiện hình dưới mọi hình thức.
Các người dự những buổi họp này cũng bị rút một ít chất dĩ thái của mình để phụ với đồng cốt và vì thế họ cũng bị ô nhiễm phần nào.

Sự ám ảnh
Nếu một buổi lên đồng được quan sát bằng thần nhãn, người ta sẽ thấy vong linh đến dự rất đông đảo. Một vài vong linh nhập vào đồng cốt, còn những vị khác thì tìm cách ảnh hưởng cử tọa. Lắm khi, một vong linh xé rách được màn lưới bảo vệ như nói ở chương trước và từ đó có thể lộng hành đối với nạn nhân bằng cách ám ảnh y và gây cho y đủ thứ đau buồn.
Một khi màn bảo vệ bị xé, sự bảo vệ thiên nhiên không còn thì con người dễ bị ám ảnh bởi những vong linh xấu xa. Các vong linh này muốn trở lại cõi trần sống một đời sống vật chất để thoả mãn những thèm khát của họ nên đôi khi không còn chút lương tâm nào đối với nạn nhân. Vì vậy, một người bị xé rách màn lưới là một người rất vô phước. Trong trường hợp màn lưới không rách, một vong linh cũng có thể để ý đến một người nào và theo y về nhà để phá rầy y đủ cách. Ðiều này sẽ nguy hại nhiều hơn khi nhà có con nhỏ, vì trẻ con dễ bị ám ảnh.
Bởi thế, nhà huyền môn không phản đối việc sử dụng đồng cốt nhưng cần nêu những tai hại của sự lên đồng trong những điều kiện thê thảm hiện nay. Các buổi họp riêng ít nguy hiểm hơn vì cử tọa được chọn lọc, tuy nhiên, nguy tai vẫn còn. Lý tưởng là áp dụng các điều kiện của thời Trinh nữ dâng hương.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hậu trường sân khấu còn ... bốc sư, đồng bóng - Đi xem bói với... nghệ sĩ

Nguồn: http://cailuongvietnam.com/clvn

30.07.2004

Thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được tin nhắn của một cô đào trẻ rủ rê đi xem bói. N. dẫn tôi tới một con hẻm trên đường Nguyễn Đình Chiểu. Lối vào nhà bà thầy vừa đủ cho một chiếc xe gắn máy. Bên trong đã có 6 thân chủ ngồi chờ. N. cho biết mỗi tuần cô đến bà thầy này một lần, mỗi quẻ xem chỉ tay tốn 50.000 đồng. N. rù rì: “Bả nói đúng lắm anh ơi! Tuần rồi nghệ sĩ M. được bả cảnh báo sẽ mất của do cái nốt ruồi ở “chỗ kín” của ảnh... Ảnh hổng tin, tối dắt... trai về nhà bị nó lột mất chiếc nhẫn kim cương 6 ly”.

Sáng tạo nhờ vào bói toán (?)

Qua N. tôi biết nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên nổi tiếng cũng là khách quen của địa chỉ này. Bà thầy có đôi mắt tinh đời đã từng phán anh L. muốn đoạt giải thưởng uy tín của sân khấu cải lương phải chọn bạn diễn có tuổi Dần, mạng kim, cung tốn (!) mới hạp với anh. Dù làm đúng lời thầy nhưng L. không nhận được huy chương vàng mà mất toi 5 triệu đồng cho lễ “khai quan điểm nhãn”. Bà còn giúp diễn viên D. tạo cái “duyên hài” qua những câu dung tục, bậy bạ. Mỗi khi D. nhận vai mới phải đưa kịch bản cho bà... duyệt (!). Bà biểu bỏ câu thoại nào, sửa lời văn nào thì phải tuân theo. Hoặc diễn viên K. nhất quyết không chịu mặc áo sọc trên sân khấu, còn D. kỵ màu mắt nâu, L. ca chữ nào chạm húy gia tộc thì tránh, C. vô vọng cổ phải trên 100 chữ mới khá... Hỡi ơi! Những nguyên tắc sáng tạo nghệ thuật lại bị lệ thuộc vào thầy bói!

Lọ nước thánh 200 triệu đồng

Ở hậu trường một sân khấu kịch, thỉnh thoảng V. dẫn một thầy bói “bóng cậu” vào xem bói “tập thể”. Chỉ cần một bộ bài, người muốn xem vận may rủi xào 7 lần, chia 7 lá bên trái, 7 lá bên phải, thầy sẽ nói rõ vận may, điềm xui và chỉ cách hóa giải. Tôi bần thần khi thấy vị quản lý của sân khấu này... ra lệnh mở màn trễ 30 phút để thầy xem cho cả gánh hát. Tôi phải đóng vai người... nhắc tuồng để được cậu phán một quẻ. Cậu nhìn lá bài của tôi cười rất tươi: “ Tháng sau anh sẽ đổi đời, hết làm nghề nhắc tuồng và sẽ làm “sếp” một siêu thị lớn ”. Ấy thế mà những diễn viên tên tuổi như: X, O, Y... lại tin như sấm. O. được phán 7 lá bài bên trái của cô xui “ bạt mạng ”. Cô đang có tình duyên nhưng nếu tháng 7 này cưới thì chỉ giữ được chồng hai năm, còn cưới ngay tháng sau thì sẽ hạnh phúc cả đời (!?). Lân la vào hậu trường ở các rạp cải lương, tôi biết cậu bóng này là một ả bán vé chợ đen ở rạp Thủ Đô. Bỗng dưng ả phất lên tậu một chiếc Attila còn mới nước sơn. Ả đã dụ một anh kép nộp 200 triệu đồng để mua... lọ nước thánh chữa bệnh cho mẹ nuôi là một Việt kiều đã bỏ tiền xây biệt thự cho anh ta, nhưng tội một điều là bà bị đau khớp chân, chạy thầy, chạy thuốc mấy năm không hết. Tự dưng tôi nhớ vở kịch Số đỏ: Một tên đại bịp như Xuân tóc đỏ mang nước rong rêu cho cụ cố uống, tự dưng cụ khỏe ra và xem Xuân tóc đỏ là ân nhân cứu mạng. Thật ngao ngán...

“Em phải có người hộ tống”

Trong giới, ai mà chẳng biết nghệ sĩ T., danh hài S., đạo diễn H., ông bầu A. là những người mê tử vi bói toán. Để sở hữu những diễn viên có chút tên tuổi, nhiều ông bà bầu lôi kéo họ nhập làng thờ phụng các bà thầy xem tử vi, bói chỉ tay, bói tướng, bói chữ ký... Một bà bầu nọ lập gánh hát đã chọn hậu đài, diễn viên, chuyên viên âm thanh, ánh sáng đều phải hạp tuổi với bà; một ngôi sao kịch muốn nhận đệ tử cũng xem tuổi. Buồn cười thay nghề nghiệp của họ chẳng tiến triển tới đâu, chỉ thấy lặp lại bản sao của ngôi sao bệnh hoạn này. Một dạo anh ta nghe một ông thầy bói, là Việt kiều từ Pháp về, phán tháng 12 phải có người theo bảo vệ: “Đời em phải có người hộ tống để họ rước cái xui của em”. Thế là đêm nào cũng có 5 người bỏ hết công việc theo làm đuôi ngôi sao. Hễ gặp chuyện xui xẻo gì ngôi sao này cũng đều đổ lỗi cho họ. Anh luôn mỉa mai bạn diễn... Tính tình đồng bóng của anh đã khiến cho nhiều đồng nghiệp phát sợ. Vì anh ghét ai thì “toàn nữ ban” đó phải ghét theo, anh yêu ai thì cả sân khấu đó phải nể trọng (?). Chẳng ai dám... góp ý vì chén cơm manh áo, hơn nữa anh chỉ tin lời thầy bói mà thôi!

Nạn nhân của trò lừa bịp

Tôi biết G. là một gương mặt triển vọng, nhưng từ khi nghe lời thầy bói đi sửa mũi, mặt G. trông dữ dằn khó vào vai đào thương; cô đào M. sau khi cắt mí mắt theo lời bà thầy ở Đa Kao, tự dưng đôi mắt “híp” lại, lúc nào cũng như buồn ngủ; đào H. đi phá nốt ruồi đến nỗi phải nhập bệnh viện vì bị nhiễm trùng... Nghệ thuật bị hỏng bét từ những cuộc phiêu lưu cùng thầy bói và sửa sắc đẹp thẩm mỹ. Chưa kể đến những trường hợp “tán gia bại sản” vì tin lời thầy bói. Nghệ sĩ Q., B., diễn viên D., tác giả Y... phải cầm nhà bán xe trả nợ vì những chuyến bỏ vốn làm bầu đại nhạc hội, làm bầu sô mà thiếu suy tính.

Sân khấu ngày càng có biểu hiện xuống cấp do tâm lý của một số nghệ sĩ không... bình thường. Hóa ra thứ nghệ thuật mà họ mang tới phục vụ khán giả lại xuất phát từ những lời “phán” bệnh hoạn của những thầy bói lừa bịp.

Lên đồng tìm. .. hậu vận

Một số nghệ sĩ sân khấu cải lương và kịch nói rất mê “ lên đồng” xem chuyện... tương lai. Từ đây, đã xảy ra bao chuyện dở khóc, dở cười chỉ vì quá tin lời “đồng cô, bóng cậu”. Từ mồng 1 tháng 4 âm lịch trở đi, không hẹn mà nhiều nghệ sĩ rủ nhau đi chầu “đồng cô, bóng cậu”. Tôi tò mò đi theo một nữ nghệ sĩ cải lương. Chị xách theo một giỏ trái cây, một xấp tiền mới toanh và dặn tôi phải đặt trọn niềm tin vào những vị thánh.

Thần thánh cũng biết... đánh ghen

Tôi đèo chị bằng xe gắn máy đến khu miếu nổi, dừng lại trước một cái miếu. Biết chị là nghệ sĩ nên đám đông vây quanh chào hỏi. Duy nhất một gã đàn ông ốm như que củi ngồi nhìn chị lừ lừ. Tôi thấy chị chắp tay vái người này. Khi tiếng nhạc trỗi lên, ba hồi trống liên thanh thúc giục, mọi tín đồ trở nên nôn nóng. Người đàn ông đó là cô Năm bắt đầu đội lên đầu chiếc khăn đỏ sẫm lắc lư theo điệu nhạc. Điều lạ là cô Năm toàn nhập hồn vào các bậc mẫu nghi thiên hạ. Khi “lên đồng”, cô Năm hát loạn xạ, rồi hươ nhang quanh người. Tôi thấy kép M. và một số nghệ sĩ sụp lạy lia lịa. Thỉnh thoảng cô Năm nhìn kép M. đắm đuối. Khi phát lộc cho mọi người, tôi thấy cô Năm dúi vào tay kép M. một nắm ít nhất cỡ 10 tờ 100 USD vàng mã, còn các tín đồ khác cô chỉ cho giấy bạc 10.000, 20.000 đồng (!?). Bỗng dưng tôi thấy cô Năm tiến gần đến một nữ thân chủ, dí bó nhang đang cháy vào bàn tay cô ta. Theo phản xạ cô gái la lên, nhưng mọi người chung quanh bảo cô hãy im lặng. Cô gái sắp khóc vì bị bỏng nặng. Chị nghệ sĩ cùng đi với tôi nói nhỏ: “Chết con này rồi, nó bị cô Năm ghen vì dám cặp bồ với kép M.”. Tôi quan sát thấy kép M. lúng túng. Hóa ra... thần thánh cũng biết ghen!

“Đừng sợ, để thầy ếm cho!”

Theo Hoàng Túc, Phó Tổng Thư ký Hội Nghệ sĩ Múa TPHCM, loại hình múa bóng rỗi, múa “lên đồng” là một nét đẹp văn hóa lâu đời của dân tộc. Vào những mùa gặt lúa, những vụ bội thu sau những ngày đồng áng cực nhọc, người dân đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ thường tổ chức những buổi lễ cúng Thần Nông và tập tục múa bóng rỗi, múa “lên đồng” xuất phát từ việc nông dân cầu cho mùa màng năm sau thắng lợi. Nét đẹp độc đáo của múa “lên đồng”và múa bóng rỗi chính là điệu hát chầu văn được phối hợp nhịp nhàng, uyển chuyển và cái tài của người múa là sự ứng biến theo điệu nhạc, nâng cao sự huyền bí trong các điệu múa. Dần dà về sau, múa “lên đồng”, múa bóng rỗi bị lạm dụng và chuyển sang màu mê tín.

Trong giới nghệ sĩ có rất nhiều người thích múa “lên đồng” để gọi hồn thánh nhân xem chuyện tương lai. Có nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên kịch bị mê hoặc bởi những lời phán “có một không hai”. Ví như cậu bóng Mẫn ở xóm Cây Điệp từng phán nữ nghệ sĩ D. năm nay sẽ được Nhà nước phong tặng danh hiệu ưu tú (!). Bà bóng Xóm Liễu ở quận 8 nổi tiếng giao du với nhiều nghệ sĩ cải lương, thường tổ chức “lên đồng” ngay tại nhà các nghệ sĩ. Ai cầu gì bà cũng hứa. Theo chân nghệ sĩ G., tôi được gặp cậu Chín Mén “lên đồng”” tại một chung cư ở quận Gò Vấp. Cậu Chín chuyên ““lên đồng” phán chuyện ăn thua cho một số nghệ sĩ có máu bài bạc. Rồi ông thầy Lục ở Thủ Thiêm, thờ Thiên Linh cái - nghe đâu là cái đầu lâu của người con gái còn trinh bạc mệnh. Thầy Lục chuyên ban phép, bùa để kép L., đào M. dụ các đối tác làm ăn. Vừa qua, trong giới cải lương đồn chuyện kép C. dụ dỗ một cô gái tuổi vị thành niên lên khách sạn. Gia đình cô biết được đòi đền bù 30 triệu đồng, nhưng thầy Lục đã phán “đừng sợ, để thầy ém cho con trắng án”...

Giao du đồng bóng, đánh đổi giới tính!

Điều bất thường là một số diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ trẻ của sân khấu TPHCM cũng bắt đầu mê các “đồng cô, bóng cậu”. Tôi biết Q. là diễn viên trẻ ban đầu vào trường sân khấu trông rất... đàn ông, tự dưng giờ gặp lại Q. đổi hẳn giới tính. Hỏi ra mới biết Q. là đệ tử của một nghệ sĩ thích “lên đồng” Vợ chồng nghệ sĩ T. lo ngại chuyện con gái của anh chị đang bị biến đổi giới tính. Tự dưng thích hút thuốc, mặc quần đùi và áo thun, ăn nói huênh hoang. Tôi biết bên sân khấu kịch nói một số diễn viên trẻ cũng bị lây nhiễm căn bệnh này. Họ bất chấp thủ đoạn miễm sao được nổi tiếng, sẵn sàng đánh đổi cả giới tính để có được một chỗ đứng trên sân khấu I, X, S... Những gương mặt diễn viên trẻ như: Đ., K., T... mà tôi biết, trước đây họ rất nam tính, sau khi theo chân các nghệ sĩ đàn anh đi hầu “đồng cô, bóng cậu” giờ yểu điệu như thục nữ. Cách diễn của họ cũng trở nên ẻo lả, tính nết xéo xắc, sân si giống như một ngôi sao nhiễm bệnh nặng. Sự xuất hiện bệnh hoạn của họ trong một số vai diễn gần đầy đã khiến người xem ngao ngán. Nhiều phụ huynh bảo rằng họ không dám cho con em xem một số vở kịch, vì tác dụng giáo dục giới tính ở đó có thể gây phản ứng ngược. Trẻ con dễ bị tiêm nhiễm cách ăn nói bỗ bã, dáng điệu ẻo lả của một vài diễn viên mê đồng bóng mà... hậu quả là họ tự hủy hoại tài năng của mình.

Lệ Thủy: " Tin vào lời bói toán, đồng bóng để thay đổi quan điểm sáng tạo là một việc làm trái với đạo đức diễn viên. Tôi cho rằng khán giả yêu sân khấu sẽ tẩy chay những nghệ sĩ, diễn viên cố tình bóp méo nghệ thuật theo ý đồ xấu của những người mê tín dị đoan. Điều quan trọng là cả giới sân khấu đồng lòng xóa nạn mê tín, giáo dục thế hệ diễn viên trẻ tránh xa những tệ nạn này thì hậu trường sân khấu sẽ trong sáng. "

THANH HIỆP

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhắc đến chuyện "lên đồng" mà không nói tới Phủ Giầy thật là thiếu sót. Nếu ai đã từng đến với Hội Phủ Giầy chắc chắn sẽ có những ấn tượng khó quên với những đêm hội không ngủ tràn ngập ánh đèn và phách nhịp khúc hát văn. Thấp thoáng trong sương đêm là lập lòe ánh nến và một không gian quện chặt của tâm linh huyền hoặc.

Cho đến ngày nay, Phủ Giầy vẫn là một trung tâm lễ hội của tục "lên đồng". Không những nó lưu truyền một nét văn hóa Việt đều đặn trong bước đi của lịch sử mà mỗi ngày lại thêm sôi nổi và muôn mặt.

Nguồn: http://lacviet.wordpress.com

Hội Phủ Giầy

Phủ Giầy có tên cổ là Kẻ Giầy, từ sau khi Liễu Hạnh được sắc phong công chúa thì được gọi là Phủ. Thực ra ở phủ Giầy có một hệ thống kiến trúc liên quan tới Liễu Hạnh, đó là phủ chính, phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu.

Phủ chính là một kiến trúc khá qui mô, gồm ba lớp điện thờ, mặt đều quay về hướng nam, trước điện là giếng tròn và cột cờ, trên sân rộng phía trước có xây các nhà bia, nhà trống, nhà chiêng, kiến trúc kiểu bốn mái hai lớp. Chúa Liễu và hệ thống Tứ Phủ được thờ ở tòa điện trong cùng, Mẫu Thượng Thiên hóa thân thành Liễu Hạnh thờ ở trung tâm, bên trái là Mẫu Thoải, bên phải là Mẫu Địa, phía trước là Mẫu Thượng Ngàn (Nhạc Phủ).

Tại làng Vân Cát, cách không xa phủ Giầy có kiến trúc phủ Vân Cát. Phía trước đền có hồ bán nguyệt, nối với bờ bằng cầu đá, chạm trổ rất công phu. Phủ Vân có Ngũ Môn và bốn cung, trung tâm thờ Chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải thờ Lý Nam Đế.

Lăng Chúa Liễu nằm gần phủ Chính, được dựng bằng đá, kiến trúc công phu và rất đẹp, độc đáo, xây dựng vào những thập kỷ của nửa đầu thế kỷ này. Trung tâm lăng là ngôi mộ hình bát giác, mộ ở thế đất cao, có bốn cửa và bậc thang lên xuống. Xung quanh mộ, còn có tường vây quanh theo kiểu lan can đá, lớp nào cũng có cửa vào ở bốn phía. Bốn góc của lớp tường vây quanh và hai trụ cửa ra vào đều chạm đá hình nụ sen (60 nụ sen) lô nhô như một hồ sen đá.

Ngoài hai phủ chính và lăng kể trên, xung quanh phủ Giầy còn có nhiều đền miếu bao quanh, như đền Khâm Sai, đền Công Đồng, đền Thượng, đền Quan, đền Đức Vua, đền Giếng, đền Cây Đa, đình Ông Khổng… Tất cả quần thể kiến trúc ấy gần như tập trung trong phạm vi xã Kim Thái, xưa là xã An Thái, thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, cách thành phố Nam Định khoảng 15 km. Đó là vùng đồng bằng với những cánh đồng lúa bát ngát, có những ngọn núi đá thấp nằm rải rác, làng mạc trù phú, có dòng sông hiền hòa uốn khúc quanh co, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa rất nên thơ.

Người ta tin rằng Bà Chúa Liễu vốn là con gái của Ngọc Hoàng, vì phạm lỗi nên bị đầy xuống trần gian, thác sinh vào nhà họ Lê. Khi cất tiếng khóc chào đời, bố mẹ đặt tên là Giáng Tiên, tới năm 18 tuổi thì gả chồng. Lấy chồng mới được ba năm thì hết hạn đầy bị gọi về trời. Nhưng vì nhớ chồng con, Ngọc Hoàng lại phải cho nàng trở về hạ giới. Lần này trở lại, nàng thích vân du khắp nơi, gặp danh sĩ Phùng Khắc Khoan và họa thơ với ông ở Lạng Sơn và Hồ Tây, sau lại kết duyên với một thư sinh ở xứ Nghệ và giúp cho chồng đỗ đạt làm quan. Vừa lúc đó nàng lại có lệnh về trời. Trái lệnh vua cha, một lần nữa nàng lại giáng sinh. Lần này nàng không ở một nơi mà cùng hai thị nữ chu du thiên hạ. Thấy vùng Phố Cát là nơi phong cảnh đẹp, nàng hiển linh thành cô gái bán nước ven đường để trêu ghẹo, trừng phạt những kẻ ác, gia ân cho người hiền. Triều đình nhà Trịnh lúc đó cho là yêu quái nên đem quân, dùng pháp thuật để trừ. Hai bên đã dàn quân đánh nhau, đó là “Sùng Sơn đại chiến”.

Do lập mẹo quân triều đình có cơ thắng, nhưng vừa lúc đó đức Phật ra tay, giảng hòa, cứu Liễu Hạnh. Nàng được triều đình phong thần là Nữ Hoàng Công Chúa rồi Chế Thắng Đại Vương. Từ đó Liễu Hạnh công chúa không gây kinh sợ cho mọi người, mà luôn luôn ban phát ân đức, được nhân dân tôn thờ là Thánh Mẫu.

“Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Đó là câu nói cửa miệng của bất cứ người Việt nào dù họ sinh sống trên quê hương hay đã tha hương nơi đất khách quê người. Trong tâm thức dân gian, vui Hùng là ông Tổ, nên “Dù ai đi ngược về xuôi nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, còn Liễu Hạnh là Mẫu (Mẹ), Trần Hưng Đạo là Cha, cả dân tộc coi cộng đồng mình như một gia tộc, có tổ tiên, cha mẹ.

Tháng ba, vào cuối tiết xuân, những người nông dân đang buổi nông nhàn, rủ nhau mở mùa trảy hội. Từ muôn nơi người ta đổ về phủ Giầy, nơi có phong cảnh non nước tươi đẹp, công trình đền miếu nguy nga, nơi con người có thể cầu mong Mẫu mang lại những điều tốt lành, may mắn, tài lộc. Trong mười ngày hội phủ, người về dự tính tới hàng vạn, đứng trên non Gôi nhìn xuống, dòng người trảy hội rực rỡ áo quần, từ muôn ngả đổ về, trườn đi từ từ như con rồng uốn khúc trên thảm lúa xanh non đang thì con gái.

Xưa kia, hội phủ kéo dài trong mười ngày bắt đầu từ 30 tháng hai. Ngày đầu hội là nghi thức cúng tế, ngày cuối hội rước Thánh Mẫu, ngoài ra còn có các trò vui chơi dân dã khúc. 30 tháng hai và mồng một tháng ba là ngày dành cho dân làng tế kỵ, từ ngày mồng ba trở đi là ngày quốc tế, ngày tế của các quan chức hàng tỉnh, hàng huyện. Xưa, quan tổng đốc hàng tỉnh vào làm chủ tế, rồi đến quan tri huyện cùng với chánh, phó tổng cũng vào chủ tế hàng huyện và hàng tổng. Nghi thức tế lễ cũng giống như nhiều cuộc khác, có các tuần dâng hương, dâng hoa, dâng rượu…

Tiêu biểu nhất trong hội phủ Giầy là nghi lễ rước Thánh Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi vào ngày mồng 6 và hội kéo chữ vào ngày mồng 7. Kiệu rước bát nhang Thánh Mẫu phần lớn do các bà, các cô đảm nhận, y phục rực rỡ, xúm xít dưới kiệu vàng, võng điều, cờ quạt, tán, lọng, phướn đủ màu rực rỡ tung bay trước gió lồng lộng vào tiết cuối xuân, đầu hè. Theo đoàn rước còn có đội nhã nhạc, bát âm. Các cô gái đồng trinh của đồng quê được cử vào khiêng long đình, rước võng, khiêng kiệu, che tán, che quạt, các bà trung niên thì cầm phướn, vác cờ, dẹp đường. Đoàn rước tiến bước giữa tiếng loa thét, rừng cờ phướn tung bay trong đoàn thiện nam tín nữ đi trẩy hội.

Nghi thức rước Thánh Mẫu giữa phủ thờ và chùa không phải chỉ diễn ra ở phủ Giầy, nó phản ánh thực tế có sự giao kết giữa tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật giáo. Trong huyền thoại về Chúa Liễu, trận Sùng Sơn thể hiện sự xung đột giữa Chúa Liễu và triều đình phong kiến, sau đó phải cần tới sự cứu giúp và can thiệp của đức Phật. Tương truyền, chúa Liễu sau đó đã nhận mũ áo nhà Phật, noi theo Phật, chỉ làm việc thiện ban phát ân đức. Hiện nay, trong nhiều ngôi chùa thờ Phật Việt Nam đều có điện thờ Mẫu, theo kiểu tiền Phật hậu Mẫu. Sinh hoạt tín ngưỡng Mẫu trở thành một bộ phận của sinh hoạt nhà chùa.

Ngày 7 tháng ba là ngày hội kéo chữ, nét độc đáo nhất của hội phủ Giầy. Theo lời kể của nhân dân địa phương thì sự tích hội kéo chữ như sau:

Thời hậu Lê ở thôn Đông Khê, tổng Đồng Nội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định có một người kỹ nữ tài sắc tuyệt vời, đó là Phùng Thị Ngọc Đài. Sau khi lấy lẽ hết ông Quận Công Ngà, đến quận Công Hiển, Ngọc Đài trở về ở xã Bảo Ngũ, huyện Vụ Bản là nguyên quán của ông Quận Công Hiển. Năm 1623 vua Lê Thần Tông phong chức Thành Đông Vương cho chúa Trịnh Tráng, chúa ra lệnh mở tiệc ăn mừng, cho tuyển nhiều ả đào đẹp ở các địa phương tiến dẫn về Thăng Long để múa hát mua vui trong bữa tiệc.

Ngọc Đài tuy đã góa chồng, nhưng nhan sắc xinh đẹp, kiều diễm, nên lần đó nàng cũng xin đi ứng tuyển. Trước khi lên đường, nàng đến phủ Giầy quì trước bàn thờ Thánh Mẫu và cầu khẩn: “nếu lần này đi mà được vua yêu, chúa dùng thì không bao giờ quên Mẫu, xin hứa làm cái gì để ghi nhớ Mẫu mãi mãi về sau”. Quả nhiên, lời cầu xin của Ngọc Đài được ứng nghiệm. Trong bữa tiệc, biết bao ca kỹ dung nhan tuyệt vời, giọng hát hay mà chúa Trịnh Tráng chỉ say đắm một mình Ngọc Đài. Sau bữa tiệc, nàng được vời vào dinh, được chúa sủng ái và phong cho chức Vương Phi. Thời kỳ Ngọc Đài làm Vương Phi trong phủ chúa thì cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn nổ ra dữ dội hơn, chúa Trịnh ra lệnh bắt phu về Thăng Long xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố, phòng chúa Nguyễn tấn công.

Trong số phu bị bắt về Thăng Long, có những người quê ở Vụ Bản. Bà Vương Phi biết tin này nên tìm cách cứu giúp dân phu của quê hương bản quán mình, nên đã mật báo cho dân phu khi về tới Kinh chỉ mặc áo rách và ăn cháo cám mà thôi. Một hôm chúa và cung phi cùng đi thị sát dân phu, chúa thấy đám phu ngồi ăn cháo cám. Chúa hỏi mới biết là người Vụ Bản. Nhân lúc đó, Vương Phi tỏ ra buồn rầu, khiến chúa Trịnh vặn hỏi. Khi được biết dân phu đó chính là người cùng quê với Vương Phi, chúa Trịnh tức khắc ra lệnh miễn phu cho họ, cấp lương thực, quần áo về quê quán làm ăn, sinh sống. Hơn thế nữa, chúa còn cấp lương thực vải vóc cho toàn bộ dân làng Bảo Ngũ, làng Vương Phi đã ở trước khi vào cung. Ghi nhớ công đức đó, nay dân làng thờ Vương Phi là Thành Hoàng làng.

Sau khi nhận được gia ân của chúa Trịnh, Vương Phi muốn làm điều gì đó để lại ghi nhớ sự phù trợ của Thánh Mẫu nên dặn dân làng phủ Giầy là cứ sau ngày rước Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi, thì dân làng đem xẻng, cuốc, mai, thuổng đến trước phủ Giầy vứt ngổn ngang xuống đất, tỏ ý nhờ linh ứng của Thánh nên dân làng không phải chịu cảnh nhọc nhằn phu phen, rồi xếp người thành hai chữ “Cung tạ”.

Từ đó về sau, năm nào cũng có tục kéo chữ. Trước kia, hàng năm cứ tới ngày này mỗi tổng trong huyện Vụ Bản góp 10 phu cờ tuổi từ 20 tới 35 tới dự hội. Cả huyện có mười tổng, gộp thành 100 phu cờ. Ngoài ra còn có một số tổng khác, như Mỹ Lộc, Bình Lục, nhưng văn nhớ tục cũ, cũng góp thêm người vào cuộc hội này. Phu cờ ăn mặc đồng phục, áo cánh vàng quần trắng, đầu đội khăn đen, có phủ dải lụa vòng ra ngoài, đi chân đất. Mỗi người còn vác một cây gậy dài bốn, năm thước, trên đầu gậy buộc một cái ngù bằng lông gà các đốt gậy đều dán vòng giấy mầu xanh, đỏ có tua. Chỉ huy toàn bộ những phu cờ là Tổng cờ.

Đoàn phu cờ hẹn tập trung tại một địa điểm nào đó, rồi lần lượt theo chỉ huy của Tổng cờ đi hàng đôi tiến vào khoảng đất rộng trước Phương Du của phủ Chính. Khoảng trưa, có lệnh Tổng cờ cho phu cờ chuẩn bị đến giờ xếp chữ (ngả chữ). Giữa tiếng trống cái, trống con gõ liên hồi rộn rã, theo cờ lệnh trong tay Tổng cờ, các phu cờ tiến lùi đứng lên, ngồi xuống thành hình chữ. Khi ngồi xuống, các phu cờ vứt gậy xuống đất, như mô phỏng lại tục vứt cuốc xẻng xưa của dân phu trước đền Thánh Mẫu. Việc xếp chữ gì do những người tổ chức hội hàng năm qui định, nhưng thường là “Mẫu Nghi Thiên Hạ” (Đức mẹ của muôn dân), “Thiên hạ thái bình”, “Thạch cập sinh dân” (1938), “Vân hành vũ thi” (1939).

Nói tới hội phủ Giầy ngày giỗ Thánh Mẫu không thể không nói tới hình thức hát văn và hầu đồng. Đây là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu. Xưa, trong những dịp này, trong và ngoài đền phủ Chính, phủ Vân Cát, người ta tổ chức hát văn chầu và cùng với nó là lên đồng. Đây là hình thức diễn xướng tổng hợp giữa âm nhạc, hát, thờ cúng, nhảy múa. Ban văn chuyên tấu nhạc và hát văn chầu theo làn điệu và bài bản riêng, sao cho phù hợp, ăn khớp với người lên đồng. Hát văn có làn điệu riêng, độc đáo, nhưng trong đó cũng thu hút nhiều hình thức dân ca khác, như ca trù, trống quân, quan họ, cải lương…

Người lên đồng để cho hồn các thần linh của tín ngưỡng Tứ Phủ nhập vào thân xác mình, rồi làm các nghi lễ trước bàn thờ, ăn mặc, nhảy múa, phán truyền theo tư cách và địa vị của thần linh ấy. Đó là các vị thần thuộc hàng các Thánh Mẫu, Quan lớn, các Chầu, các ông Hoàng, các Cô, Cậu… Xưa kia, trong các ngày hội hình thức lên đồng bị lợi dụng, mang nặng tính mê tín, buôn thần, bán thánh, nên ngày nay bị chính quyền đia phương hạn chế nhiều.

Trong những ngày hội, nhân dân còn tổ chức nhiều hình thức vui chơi khác như xem hát tuồng, hát chèo, trống quân, kể cả hát xẩm, ca trù, các hình thức thi đấu mang tính thượng võ, như vật, múa võ, kéo co, đánh cờ, chọi gà… Ngoài các nghi thức tế, rước sách, kéo chữ, xem biểu diễn… hội phủ Giầy còn là ngày hội Chợ. Nơi đây trong ngày hội, người ta bày bán các sản phẩm của địa phương, người đi xem thường là tiện dịp mua sắm thêm vài thứ vật dụng trong ngày hội. Hội không chỉ là sự thể hiện đời sống tâm linh, thưởng thức sinh hoạt văn hóa mà còn thúc đẩy hoạt động kinh tế, thương mại.

Các mặt hàng bày bán thật đa dạng, phong phú, từ cái kim sợi chỉ, chiếc cần câu, lưới, vó, dậm, nơm để đánh bắt cá. Các loại giường, tủ, bàn, ghế sản phẩm của làng mộc La Xuyên kề cạnh, các loại giầy, dép, các loại đồ đan, áo tơi. Các mặt hàng sơn mài của phủ Giầy vốn có tiếng từ lâu, các loại gỗ khảm trai, các bức hoành phi, câu đối cũng được bán ngoài chợ trong ngày hội.

Nói tới đi hội không thể không thưởng thức các món ăn, nhất là các món đặc sản địa phương mà ở phủ Giầy nổi tiếng là món thịt bò tái, tương gừng, rất hợp vị với tiết trời tháng ba. Vui hội như vậy, nên người nào đã trẩy hội phủ Giầy một lần là còn muốn đến nữa:

Còn trời còn nước còn non

Mồng năm rước Mẫu ta còn đi xem

Ai về nhắn chị cùng em

Bảo nhau dắt díu đi xem hội này./.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lạc vào thế giới hầu đồng

Nguồn: www.vtc.vn/phongsu

Đó là một thế giới rộn ràng tiếng nhạc,nỉ non lời hát văn, nghi ngút khói hương và ngùn ngụt những đàn đại mã bị khoá kiếp thành tro. Thế giới của những đền, những phủ, những đồng cô, đồng cậu, với mê muội những con nhang, đệ tử trong các buổi hầu đồng, khấn bóng. Lao vào thế giới đó, ngoài những người làm ăn buôn bán, còn có cả những người được gọi là trí thức, thậm chí, có cả những người đang nắm quyền chức ở bộ nọ, ngành kia...

Con đường vào đồng

Tiến là con út trong gia đình có 6 anh em, đã từng là một trong những tay anh chị có tiếng ở ga Trần Quý Cáp, Hà Nội từ hồi chưa giải phóng về tiêu thụ hàng ăn cắp, dưới trướng có đến vài chục đứa lưu manh, sẵn sàng phục vụ.

Ai cũng nghĩ cả đời hắn sẽ gắn với kiếp lưu manh chuyên nghiệp. Nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra mà ngay cả hắn và gia đình cũng không nghĩ tới. Hắn rũ bỏ tất cả để đi theo con đường tu hành, do tình cờ một lần mua vé tàu hộ một nhà sư vào Huế.

Rồi sau đó được nhà sư giác ngộ đến mức hắn đi tầu trốn vé, từ Hà Nội vào Huế để tìm nhà sư. Trải qua 8 năm ăn chay, niệm Phật, có lẽ đời hắn cũng lại một lần nữa không ngờ khi hắn không có duyên với Phật.

Chính nhà sư nhận hắn vào chùa đã cho hắn tiền để trở lại Hà Nội. Về nhà một thời gian, rồi chỉ qua một giấc mơ, thế là ngày hôm sau hắn tìm đến đền Ghềnh, Gia Lâm. Khi lễ xong, hắn được ông đồng già ở đây đồng ý cho hắn làm chấp tác, thay hương, dầu trong đền. Cũng không hiểu tại sao 8 năm tu hành vào tận xứ Huế hắn chẳng thể nào nhớ nổi một trang kinh Phật, nhưng mới làm chấp tác tại đền Ghềnh vài ngày, hắn đã thuộc làu làu các vị thánh, ông hoàng, bà chúa.

Posted ImageClick this bar to view the full image.

Posted Image

" Nghi lễ"

Chỉ ít ngày sau, hắn được ông đồng già truyền cho cách mở phủ lập điện. Như có Thánh giáng, ông Hoàng nhập, hắn nhảy đồng lập phủ trôi chảy, khéo léo đến khó tin. Cho tới bây giờ, Tiến gù cũng đã ngót ngét 60 tuổi rồi, đã là đồng thày nổi tiếng trong giới đồng bóng khắp trong Nam ngoài Bắc, với 12 va li khăn trầu, áo ngự đã cất, con nhang, đệ tử không thiếu, ngay cả những người có quyền cao chức trọng, có địa vị trong xã hội, mà cũng phải nể lắm thì đồng Tiến mới lập điện, mở phủ cho.

Trừ khi ngồi đồng lúc thánh giáng còn ở ngoài đời, không ai có thể đoán được tuổi của của người đàn ông tự nhận là “bà” này. Quần áo đồ hiệu chính cống, nhẫn vàng đeo đầy tay, móng tay lúc nào cũng được sơn sửa một cách điệu đàng, kỹ càng, và tất nhiên, điện thoại “bà” dùng cũng phải là đời cao, gọi không tiếc tiền. Mới chỉ mỗi việc sắp lịch và đi dự những buổi hầu của các đồng trẻ thôi cũng đủ làm “bà” đồng Tiến bận rộn đêm ngày.

Tuy ít tuổi hơn thầy đồng Tiến cả một giáp, nhưng cũng nổi tiếng không kém về tài mát tay mở phủ, kêu thay, cầu đỡ với những động tác nhảy đồng dẻo không ngờ đến nỗi những người đàn bà trong giới đồng bóng cũng phải bái phục và kính nể, đó là "Hải bơm", ở Quán Thánh Hà Nội. Không giống như đồng Tiến, phải đến lúc thanh niên mới phát hiện ra mình có căn, có quả, nên mới quyết định đi theo thánh, mà theo lời mẹ của “cô” đồng "Hải bơm" thì lúc mới 6 tuổi, thằng bé Hải – con trai thứ 3 trong gia đình bà, đã bắc ghế với vỏ bao hương để ngậm cho môi đỏ. Lúc đầu, bà chỉ nghĩ đó là chuyện của trẻ con.

Nhưng càng ngày bà càng thấy con trai mình không như những bé trai cùng phố, chỉ thích chơi những trò cùng con gái như nhảy dây, bán đồ hàng, đặc biệt là Hải rất thích búp bê. Điều làm bà bàng hoàng nhất là khi bà phát hiện ra trong người thằng con trai của mình lúc 16 tuổi có một bộ đồ của phụ nữ. Vừa xấu hổ, hoang mang, vừa thương con, bà và những người anh của Hải đã khuyên răn, kể cả đánh đập Hải.

Sau một thời gian thấy không có kết quả gì, bà đành phải nuốt nước mắt chiều lòng con, để cho nó theo nghề đồng bóng. Bà tự an ủi mình rằng “nó bị như vậy cũng là gánh quả kiếp cho cả nhà rồi!”

Bây giờ, ngay tại tầng 3 của nhà bà là một gian điện thờ tam toà tứ phủ khá to đẹp và sạch sẽ do con trai bà là “cô” đồng "Hải bơm" ngày ngày đèn nhang, hương nến. Hiện tại, thu nhập của cả gia đình bà trông cả vào lộc thánh của “cô” đồng Hải. Sau một thời gian dài kỳ thị, nay những người ở khu phố từ người già đến trẻ con, đều gọi người đàn ông 42 tuổi có dáng đi nhẹ nhàng, giọng nói khó phân biệt là giọng nam hay nữ bằng cô. Nếu có ai lỡ mồm gọi bằng bác, chú, hay anh thì thế nào cũng bị “cô” đồng Hải té tát cho một trận nhớ đến già.

Thế giới hầu đồng

Nếu không tận mắt chứng kiến một buổi hầu đồng mở phủ, thì không ai có thể tưởng tượng hay tin được rằng: để có được một buổi hầu đồng hoàn hảo thì khổ chủ phải bỏ ra bao nhiêu tiền mua mã, sắm lễ, trang bị quần áo, thuê phường hát văn. Tuy đã chuẩn bị sẵn tinh thần, nhưng chúng tôi cũng không thể nghĩ được rằng một buổi hầu đồng tại đền Bồ Đề – Gia Lâm cách đây ít hôm lại quy mô và kéo dài đến như vậy. Giới hầu đồng vẫn có câu “tuỳ tiền biện lễ”, và phải chứng kiến tận mắt mới hiểu được sự vô cùng trong giới này.

Để chuẩn bị được một buổi hầu đồng thì trước đó 1 tuần, các thợ mã chuyên nghiệp của Hà Tây đã phải đến đây tập kết nguyên vật liệu để làm một đàn đại mã, có tên Long Tu Phượng Mã. Long Tu Phượng Mã bao gồm 3 ngựa: đỏ, vàng và trắng. Mỗi con đều to hơn những chú ngựa vẫn chạy trong rạp xiếc 1 voi xám với tỉ lệ 1/1 so với những chú voi thật, ngoài ra còn có một thuyền rồng dài 3,5m rộng 0,8m được trang trí cầu kỳ.

Tất cả những thứ trên được đặt ở sân đền vì chúng quá to để có thể đưa được vào bên trong hậu điện, nơi gần với các Thánh, các Ngài, ông Ba, ông Bẩy. Đền là nơi ngự trị của 4 toà sơn trang với khoảng 60 hình nhân cao từ 1,2 - 1,6m có bốn màu: đỏ, xanh, vàng, trắng, tượng trưng cho bốn hướng. Đi cùng với đàn mã có giá chính xác là 7 triệu đồng này là 13 suất lộc tố hảo thuộc loại lộc ngon, đắt tiền để trong khi nhảy, đồng cô sẽ phát lộc cho khách dự, có tới 13 bộ quần áo của các ông hoàng, bà chúa, cô bơ, ông bốn. Sau mỗi một giá đồng, đồng cô lại thay 1 lần quần áo. Nhưng những thứ như trên cũng chỉ là điều kiện cần.

Để làm nên một buổi nhảy đồng thần bí, một thành phần không thể thiếu được là đoàn hát văn với đầy đủ đàn, sáo, trống, nhị. Tham gia trong buổi hầu đồng này, toàn là những nghệ sỹ chơi nhạc cụ dân tộc xuất sắc của các đoàn nghệ thuật truyền thống có tiếng của Trung ương, và người chỉ huy hát văn cũng là một nghệ nhân mà cách đây mấy năm đã đoạt giải cao trong cuộc thi hát văn toàn quốc. Nghệ nhân này vừa làm người hát vừa là pháp sư tuyên sớ.

Dưới tiếng nhạc hối hả và giọng hát kể lể, cô đồng là một thanh niên da trắng, môi đỏ, my dài xuất hiện trong trang phục trắng toát từ chân tới đầu. Hai người hầu nhanh chóng dâng lên cô một bên tay hương, một bên tay áo, khoác lên người cô bộ quần áo đàn bà màu đỏ may khá cầu kỳ, ấn vào tay cô bó hương, trùm tấm khăn lên đầu cô.

Cô bắt đầu khấn vái. Thủ nhang, đồng đền, thủ anh, lính chị xin phép được hầu. Ngài pháp sư cũng khẩn trương tuyên sớ. Sớ có nội dung bao gồm ngày, tháng, kêu cầu cho ai, địa chỉ ở đâu, cầu về việc gì. Sau đó là một quá trình hầu với những màn khua hương, múa lửa, nhảy nhót rất điệu nghệ của cô đồng. Cô đồng dâng tiền, vỗ gối, và cứ mỗi lần nghe hát văn hay, cô lại vỗ vào chiếc gối có năm lớp thêu hình rồng, từ tay cô bay ra những tờ tiền có mệnh giá lớn.

Trong suốt khoảng 3 tiếng đồng hồ lên đồng, cô đồng đã thay 13 bộ quần áo, phát 13 mâm lễ và cũng từng ấy lần nhảy múa quay cuồng, châm đến 4 bao thuốc để hút và phát lộc. Có một điều rất lạ là toàn bộ con nhang, cô đồng ai ai cũng hút được thuốc lá bất kể là đàn ông hay đàn bà.

Chúng tôi đợi đến tàn canh hầu thì không khỏi sốt ruột. Theo nhận xét của bà đồng thầy đi cùng chúng tôi thì cô đồng này hầu khá nhanh, không bị hỗn đồng và làm một cách tuần tự, đúng sách. Buổi hầu kết thúc khi toàn bộ 13 mâm lễ với hoa quả, bia, các đồ ăn khác đươc phát cho khách. 7 triệu tiền mã đã được hoá vàng hết, trả lại vẻ rộng rãi vốn có của nhà đền. Đoàn hát văn ngoài số tiền công đã trả trước 1,5 triệu còn được thưởng gấp đôi vì hơn 30 lần vỗ gối khoái chí của cô đồng. Ước tính người hầu đồng lần này đã phải chi ra một khoản tiền không dưới 20 triệu đồng để chuốc lấy một tuần vất vả chuẩn bị và một buổi hầu đồng. Không biết mức giá này là đắt hay rẻ đối với họ nhưng sau buổi hầu đồng này, ai cũng thấy hớn hở ra mặt.

Danh sách con nhang

Nhiều người cho rằng chi phí cho một buổi lên đồng là rất tốn kém nên chỉ những người làm ăn buôn bán, kinh doanh thiếu hiểu biết mới là con nhang, đệ tử của những cô đồng, bà bóng. Suy nghĩ đó hoàn toàn sai lầm bởi lên đồng còn thu hút được cả những người giàu có, hay những người cảm thấy ăn năn về quá khứ của mình. Người ta đua nhau đi tán lộc khiến cho bản danh sách của các đồng thầy ngày một dài hơn. Chúng tôi không khỏi giật mình khi xem danh sách của một đồng thầy. Danh sách đó có cả tên của một ông tiến sỹ đang công tác trong ban phòng chống ma tuý học đường.

Ông có thói quen lập phủ linh đình. Mỗi lần mở phủ, ông bỏ ra ít nhất là 30 triệu đồng. Ông sùng đạo đến mức xây nguyên một ngôi điện tại tầng thượng nhà mình để tiện cho việc cúng bái. Ngôi điện của ông được đánh giá là bề thế và đẹp nhất trong số điện của giới đồng tại Hà Nội hiện nay. Cứ ngày rằm hay mồng 1, một số anh chị em cán bộ trong Bộ lại tới nhà ông để khấn bái và công đức. Không chỉ có lập điện tại nhà mà ông còn xây cả một ngôi đền bề thế tại xã Hoằng Ngọc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và tổ chức một buổi hầu làm nhiều người phải giật mình.

Theo thầy đồng Tiến ông tiến sỹ trên chưa phải là người đứng đầu trong danh sách những người hầu đồng phủ hiện nay. Danh hiệu đứng đầu thuộc về một quan chức của ngành hàng không tên Đ. Mỗi lần mở phủ chỉ tính khách thôi thì mỗi người cũng đã được chiếu lộc không dưới bạc triệu/người. Ngoài ra còn tiền bồi dưỡng cho thầy đồng và đoàn hát văn. Sở thích hầu đồng không chỉ ông có mà cả đại gia đình nhà ông gồm anh, em, con, cháu đều tham gia một cách tích cực. Không biết họ tham gia vì thấy có lợi cho mình hay tham gia để làm vừa ý ông.

Trong những năm gần đây, hiện tượng đồng cô, đồng bóng có chiều hướng gia tăng. Số người gia nhập vào đội quân này ngày một nhiều. Không biết bao nhiêu người đã hao tiền, tốn của, khánh kiệt tài sản vì những đàn đại mã, những mâm lộc tố hảo...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ảnh "Cậu” Tâm đang nhập vai trong một giá đồng - Hình ảnh trong bài Lễ Hội Lên Đồng đã giới thiệu

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một hình ảnh lên đồng - Nguồn: www.photo.vn

Posted Image">

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giới thiệu một số hình ảnh về "hầu đồng"

Nguồn: vietnamphoto.com.vn

Ảnh hầu đồng, đột bát hương, cắt tiền duyên cho các cô gái khó lấy chồng - Đền Ông Hoàng Mười

Posted Image

Posted Image

Lên đồng

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giới thiệu một số hình ảnh về "hầu đồng"

Nguồn: vietnamphoto.com.vn (tiếp)

Ảnh hầu đồng, đột bát hương, cắt tiền duyên cho các cô gái khó lấy chồng - Đền Ông Hoàng Mười

Posted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tổng hợp bài viết của chitto - thành viên diễn đàn http://www.langven.com - về chủ đề "hầu đồng". Thông qua những chia sẻ của chitto chúng ta có thể hình dung được một canh đồng trên thực tế khá rõ ràng.

Nguồn: http://www.langven.com

"Trước tiên, phải nói qua về Tín ngưỡng thờ Mẫu này, là cơ sở của việc lên đồng. Tín ngưỡng này còn rất thô thiển, chưa thể thành một tôn giáo được".

Những người tin vào Đồng cốt thường tự hào rằng tín ngưỡng này có từ thời các vua Hùng, và lối hát chầu văn là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có từ thời thượng cổ đó truyền lại. Mặc dù các vị thần thánh của tín ngưỡng này pha trộn rất tạp, của đủ mọi thời đại, không thống nhất mà cũng chẳng hấp dẫn gì (mà tớ sẽ kể ra dưới đây), nhưng theo họ thì “cung cách ứng xử với thần linh” đã có từ rất lâu đời.

Trước khi có ý định tìm hiểu sâu hơn về nó, tớ xin liệt kê hệ thống thần thánh chính của tín ngưỡng này. Hệ thống này có 5 bậc chính: Mẫu, Quan, Chầu, Hoàng, Cô Cậu.

I - Mẫu:

Tức Thánh Mẫu, gồm Tam tòa Thánh mẫu:

1 - Mẫu Đệ nhất Thiên tiên – công chúa Liễu Hạnh.

2 - Mẫu Đệ nhị Thượng Ngàn – công chúa Quế Hoa.

3 - Mẫu Đệ tam Thủy Cung, hay Mẫu Thoải – công chúa Thụy Nương.

II - Quan, tức Ngũ vị Tôn quan, hay Vương quan.

Năm vị Quan lớn, gồm:

1 - Quan Đệ nhất Thượng thiên.

2 - Quan Đệ nhị Giám sát.

3 - Quan Đệ tam Thủy phủ.

4 - Quan Đệ tứ Khâm sai.

5 - Quan Đệ ngũ Tuần Chanh.

III - Chầu.

Mười vị Chầu Bà, những người hầu cận của các Mẫu.

IV - Hoàng.

Tức các ông Hoàng. Có các ông Bơ, ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười là nổi nhất

V - Cô, Cậu.

Có đến mười mấy vị, nổi tiếng nhất là cô Bơ, cô Bé, cô Chín, cậu Bơ, cậu Bé,…

* Một buổi lên đồng từ đầu đến cuối gọi là một Canh đồng.

* Người chủ vị trong lễ lên đồng gọi là Thanh đồng, có thể là nam hoặc nữ.

* Khi lên đồng, họ trở thành “Giá” – tức là cái ghế cho Thánh thần ngự vào.

* Mỗi lần một vị ngự vào Thanh đồng, gọi là một giá đồng.

* Nếu như được các vị ngự vào hẳn, thì đồng có Cốt – có thần của các vị ấy ở trong. Khi ấy Đồng được gọi là Hầu.

* Nếu các vị ấy chỉ lướt qua, thì chỉ là Bóng.

Vì thế mới có Hầu Quan đệ tứ; Bóng Chầu đệ nhất, tức là Đồng được Quan đệ tứ nhập vào, hoặc Đồng chỉ có bóng của Chầu đệ nhất lướt qua thôi.

* Mỗi lễ lên đồng, Thanh đồng có bốn người phụ đồng, tạo thành một Cơ Cánh. Cơ cánh có thể có các cung văn hát chầu văn của riêng cơ cánh, hoặc cung văn của đền phủ (người ta gọi là Nhà đền). Trong Cơ cánh thì 2 phụ đồng bên trên để dâng trà rượu thuốc, hương hoa, thay trang phục, phải rất thành thạo và vất vả, 2 phụ đồng dưới nâng khăn sửa túi, sửa áo, truyền lộc của đồng ra bên ngoài, nhàn rỗi hơn.

* Khi Thanh đồng được thánh thần nhập, trở thành Giá đồng, hay Đồng cốt, thì phải ăn mặc như vị thánh thần ấy, hành vi điệu bộ ngôn ngữ cũng phải thế. Người xung quanh cũng gọi đồng như thế.

* Dù đồng là nam hay nữ thì khi lên giá Quan, cũng phải mặc đồ tướng, quấn khăn xếp, múa kiếm. Nếu có nói thì xưng là Quan, người xung quanh thì khấn “Lạy Quan”.

* Nếu lên giá Chầu, phải mặc đồ đàn bà, cài hoa đeo khuyên tai, xưng là Chầu, xung quanh khấn “Lạy Chầu, Chầu múa đẹp quá”. Đến giá ông Hoàng Bảy thì phải hút thuốc, uống rượu, xưng Ông. Đến giá Cô thì mặc đồ sặc sỡ, và là Cô…..

Tối đa thì không biết có bao nhiêu Giá. Thường nói 36 giá đồng, cũng chỉ là một con số ước lệ. Thường một canh đồng chỉ lên khoảng dưới 20 giá đồng. Tuy nhiên có những giá đồng rất lớn, thâu đêm suốt ngày, thì ngoài mấy chục giá truyền thống, còn có các giá riêng, như giá Đức thánh Trần, giá Trần Nguyên Hãn,...

Posted Image

Posted Image

Đây là nơi lên đồng trong phủ Vân Cát - phủ Ngoại của phủ Giày. Có một cái sập trước bàn thờ, trên có một cái ngai, chính giữa có một tấm gương. Tấm gương là thứ cốt yếu của lễ lên đồng, để Đồng soi vào đó, cũng như bóng thánh nhập vào. Khi không lên đồng thì tấm gương được phủ vải đỏ.

Ảnh dưới là cho các bác thấy kích thước của một chiếu đồng (lúc này người ta ngồi lễ chứ không phải lên đồng). Rất bé. Đồng chỉ nhảy múa trong phạm vi đó thôi. Bốn phụ đồng ngồi bốn góc sập. Gia chủ, người khác ngồi xung quanh.

Người có thể lên đồng là người có "căn", có "mệnh", thường là người mà thần kinh, hồn phách (vía) yếu, nên thần thánh mới có thể dễ dàng nhập vào. Khi thần thánh nhập vào, thì hồn phách Thanh đồng sẽ chuyển sang nhập vào cái gương, sau khi thần thánh "xa giá hồi cung" rồi thì hồn phách mới nhập lại thanh đồng. Vì thế cái gương chỉ bỏ vải đỏ khi lên đồng, không thì sợ người thường vía yếu, đi qua nhìn vào đó cũng bị lạc phách.

Biểu hiện để có thể lên đồng có nhiều dạng; thường là sau một lần bị điên, bị động kinh, bỗng nói là mình có thánh nhập. Hoặc một người ốm nặng liệt giường liệt chiếu, người nhà hoặc chính mình cầu khấn, bỗng nhiên khỏi bệnh, bảo rằng do thánh thần nhập vào chữa cho. Hoặc là chết hụt, chết đi sống lại, chết lâm sàng sống lại,..., nếu có căn cơ thì xin thánh thần nhập vào, rồi trở thành đồng.

Vì thế có cả đồng nam và nữ. Có đồng rất trẻ, mới mười mấy tuổi; cũng có người đến 40-50 tuổi mới thành đồng. Ngoài đời đồng vẫn sống bình thường, chỉ khi lên điện, vào phủ thì mới nhập.

Phủ Giày

Một canh đồng ở phủ Giày hạng rẻ nhất là 6 triệu đồng. Hạng cao có thể 60-70, đến cả trăm triệu đồng cũng có.

Khi lên đồng, đồng thường không nói gì, chỉ hét á á... thôi . Sau có nói thì chỉ nói nhỏ riêng với phụ đồng, người ngoài không nghe được. Khi muốn cho lộc ai thì thông qua phụ đồng, hoặc giơ tay chỉ vào người đó.

Phủ Giày có 4 cung. Gọi là Cung, thực ra là các nếp nhà ngang liền sát nhau.

Cung Đệ nhất gồm 2 nếp nhà ngang.

Trong cùng là "Cung Cấm", một khu vực luôn đóng kín cửa bức bàn. Chỉ người thủ nhang mới có chìa khóa vào. Do có quen biết nên tớ cũng được vào riêng, nhưng không dám chụp ảnh, vì thủ nhang ngồi đó dè chừng. Vào qua cửa phải xịt nước hoa vào tay. Trong đó có 3 pho tượng Mẫu. Ở giữa là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, tức Mẫu đệ nhất Thiên thiên, mặc áo đỏ. Bên trái là Mẫu Đệ nhị Thượng Ngàn, mặc áo xanh. Bên phải là Mẫu Thoải, Mẫu Đệ tam Thủy Cung, mặc áo trắng. Các pho tượng không được đẹp lắm, có thể do mới sơn phết lại. Mà trình độ sơn phết lại không thể được như tiền nhân, nên trông các Mẫu không được sinh động cho lắm.

Lúc ra được cho một cành lộc, cùng một miếng vải đỏ nhỏ bằng ba ngón tay. Theo tín ngưỡng thì đó là vải cắt từ tấm khăn phủ tượng Mẫu ra. Tất nhiên chả thể có nhiều, nên người ta lấy vải đỏ cúng vái rồi cắt sẵn ra đấy thôi.

Liền bên ngoài Cung Cấm là một gian có chiếu đồng. Cả chiếu đồng nữa mới gọi là Cung Đệ nhất. Chiếu đồng này bé nhất trong phủ, nhưng cũng là thiêng nhất, vì gần với Mẫu nhất.

Tiếp bên ngoài là Cung đệ nhị, gồm 2 nếp. Nếp trong có 4 tượng nữ quay mặt vào giữa, gọi là Tứ vị chầu Bà. (cách dùng ngôn từ trong Tín ngưỡng Mẫu rất lộn xộn, nửa Hán việt, nửa Việt). Rồi có tượng Vua Cha - tức Ngọc Hoàng Thượng đế, cha của Mẫu Liễu Hạnh. Hai bên có Nam Tào, Bắc Đẩu. Gian bên ngoài nữa có tượng 5 vị tôn quan, mặc áo đỏ, xanh, trắng, vàng, đen theo màu ngũ hành.

Bên dưới có một chiếu đồng nữa.

Bên ngoài nữa là cung đệ tam, có bàn thờ các ông Hoàng, hai bên có bàn thờ Trần Triều, gồm Hưng Đạo vương và nhị vị Vương cô (con gái Hưng Đạo vương). Cung này không có chiếu đồng.

Cung ngoài cùng gồm nếp nhà dài nhất, 7 hay 9 gian gì đó, là ban Công Đồng, tức là đại diện tất cả các thần thánh khác nữa, về tề tựu ở đấy. Cung này cũng có một chiếu đồng.

Như vậy toàn phủ Giày có 3 chiếu đồng. Nhiều lúc chiếu trong cùng và ngoài cùng đồng thời lên đồng, nhưng khác nhau về các Giá. Không rõ có lúc nào cả 3 chiếu lên đồng cùng lúc không.

Trong một canh đồng, quan trọng nhất là cung văn, chiếm đến 60% hiệu quả. Cung văn hát có hay, gõ phách, gõ nhịp có chuẩn thì đồng mới múa dẻo, người ngoài mới hào hứng. Cung văn ở phủ Giày hàng năm đều phải tổ chức thi, người nào được đủ hạng mới được hầu các canh đồng trong phủ, và cũng tùy hạng mà được trả tiền nhiều hay ít.

Cung văn thường có 3 người, một người chơi đàn nguyệt, một người chuyên trống cái, một người phách, trống con, sênh, chiêng nhỏ. Đa phần là nam, nhưng cũng có nữ. Giọng nam hát khi cần thì rất bi hùng, hoặc rất bi ai, uyển chuyển. Cung văn hát cũng phải tùy thanh đồng, đồng là nữ thì cũng nỉ non hơn, đồng là nam thì có phần hào hùng hơn, đập mạnh hơn.

Tớ đã đứng cạnh người cung văn đánh trống, vào giá Chầu là giá múa may nhiều nhất, thấy họ đập trống theo đúng nhịp đập của tim, nên có tác dụng rất mạnh. Nó cộng hưởng với nhịp mạch đập, khiến cho mình thấy cũng như muốn nhảy lên. Nói gì đồng lúc đó có nhai trầu, uống trà, rượu, hút thuốc, thậm chí có thuốc phiện, nên càng bị kích động. Đồng lại là người có thần kinh hơi yếu, nên lúc này càng tạo nên cảm giác hưng phấn. Cũng tựa như nghe rock bị kích động, nhưng kích động của nhạc chầu văn biến ảo hơn. Có khoan có nhặt, lên bổng xuống trầm, rất hay.

Trong các cung văn, Xuân Hinh thuộc loại hàng đầu. Mỗi canh chầu được trả mấy triệu đồng. Ông này cũng từng lên đồng nhiều rồi.

Khi lên đồng, thanh đồng sử dụng một tấm vải đỏ lớn trùm lên đầu, là lúc thánh nhập vào. Sau đó nếu tung tấm vải ra, thì tức là thánh đã nhập vào, và hành động lời nói lúc đó là của thánh. Sau đó đến cuối giá đồng, cung văn hát “Xe loan xa giá hồi cung” thì lại trùm vải đỏ vào, đảo người, bắt quyết. Có thể vị này xuất thì vị khác lại nhập vào. Cứ như thế mấy chục giá đồng.

Mỗi khi có vị khác nhập vào, thì lại phải thay trang phục ứng với vị ấy. Phụ đồng sẽ giúp việc bỏ trang phục cũ, mặc trang phục mới. Trang phục thường được chuẩn bị sẵn có thứ tự, mặc vào khá nhanh. Hàng chục tấm áo gấm xếp thành chồng cao đến nửa mét. Cả chục bộ khăn vành dây, khăn xếp, khăn gấm kiểu người Tày, người Thái, mấy hộp khuyên đeo tai, vòng đeo cổ, đeo tay, các loại trâm thoa, hoa cài đầu.

Thường đồng sẽ chọn trước sẽ hầu giá vị nào, cung văn biết trước để hát bài cho phù hợp với vị ấy. Các bài hát có khá nhiều, ngoài những bài truyền thống, cung văn được quyền sáng tác thêm cho hoa mỹ, hay ho. Vì thế cùng là văn về một vị, các bài hát chỉ giống nhau ở danh vị, địa phương, công đức, còn cụ thể thì rất biến ảo.

(Còn tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

(tiếp)

Dưới đây bắt đầu là một canh đồng. Tớ cắt từ cảnh quay nên hơi nhỏ, các bác thông cảm. Đoạn sau chụp thì đẹp hơn.

Bà đồng này mới thành đồng 3 năm. Giá đồng này khá lớn.

Posted Image

Đầu tiên bao giờ cũng là Hầu Tam tòa Thánh Mẫu. Nhưng các vị Mẫu là tối linh thiêng, tối cao cả, nên ở đây cũng chỉ là Hầu bóng, nghĩa là “xa giá” của các Mẫu Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam chỉ lướt qua đồng, mà không nhập cốt. Do đó đồng phải để nguyên vải đỏ trùm đầu, chỉ đảo người, tay bắt quyết. Tiếng hát của cung văn rất nỉ non, ca ngợi công đức các Mẫu. Đặc biệt là tiếng gõ mõ, tụng kinh, ca ngợi cả cảnh Phật nữa. Vì Mẫu là Thánh, Tiên, Phật.

Posted ImagePosted Image

Hai người đàn ông hai bên là phụ đồng, trong cùng cơ cánh. Xem các động tác tay của đồng lúc lên giá Mẫu

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Posted ImagePosted Image

Posted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

(tiếp)

Sau 3 giá Mẫu Tam tòa, có thể có giá Bà chúa Thác Bờ. Bà chúa Thác Bờ cũng có thể hiểu là chúa Thượng ngàn, có đền chính là đền Thác Bờ, hiện ở một hòn đảo trong hồ Thác Bà (tháng 4 này đi Yên Bái, sẽ cố ra đó xem sao, người ta nói lên đồng ở Thác Bờ còn hay hơn phủ Giày). Trong lời hát chầu văn, thì Mẫu Đệ nhị còn có ở Đền Sòng, Thanh Hóa nữa.

Tiếp đến là 5 giá Quan, gồm các vị Tôn quan, hay Ngũ vị Quan lớn. Những vị này lại lịch huyền bí, chỉ là những thần tích rời rạc mơ hồ.

Quan Đệ nhất Thượng thiên, mặc áo đỏ. (Lưu ý là đồng đã thay áo mới rồi, không phải áo hầu Mẫu nữa đâu).

Posted ImagePosted Image

Rồi đến giá Quan Đệ nhị Giám Sát. Vị này mặc áo xanh, múa kiếm

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay