wildlavender

Nhìn Vu Lan Bằng Đôi Mắt Tình Yêu

5 bài viết trong chủ đề này

Nhìn Vu Lan bằng đôi mắt tình yêu

Thuở nhỏ cứ mỗi lần đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn “Bông Hồng Cài Áo” của Thầy Nhất Hạnh. Rảo bước lang thang trên những con đường heo hút nhiều lá vàng cũng bắt đầu rụng đầy ngõ, từng chiếc lá như một âm hưởng tiết trời vào mùa thu hiếu hạnh và vầng trăng luôn bừng sáng khắp mọi nơi có mẹ.

Posted Image

Vào một đêm, tôi vẫn còn nhớ cái ngày Vu Lan năm Bính Tý, hai người em rủ tôi ra sau nhà hái một vài bông hoa và mấy trái chanh, hương chanh thơm phức, lan tỏa khắp khu vườn. Tôi cố gắng hỏi cho ra lẽ, các em hái mấy này để làm gì, chúng thật bí mật chẳng chịu nói cái điều mà nó sắp thực hiện. Bầu trời đã xuất hiện những ngôi sao lấp lánh như muốn báo hiệu niềm mơ ước gì đó sẽ xảy ra!Sân nhà bỗng sập tối! Thế là hai đứa thắp đèn dầu lên, chừ tới đây tôi mới hiểu ra ý của hai đứa muốn gì và mẹ cũng bất ngờ nghe tiếng gọi mẹ.Từ trong liều bếp mẹ với hơi ra giòn tan là mẹ đang nấu nồi khoai mót cho các con đây! Tôi chợt hỏi lại, khoai mót là gì vậy mẹ? Mẹ cũng phải cười, đáp lại - khoai mẹ đi lượm nhặt lại đó con ơi! chắc có thể là mẹ cũng nghĩ tối nay trăng sáng nên mới luột khoai nóng cho tụi anh em tôi, nhưng chúng tôi thì thầm nghĩ đây là phần thưởng mẹ muốn khích lệ trước lúc vào năm học mới. Vừa chia nhau mỗi đứa mỗi phần, sau đó khoai ai nấy bỏ gọn vào túi. Thằng nhỏ cũng biết ý, giả vờ thật thà thương mẹ, nó cũng bày đặt lựa cho Mẹ củ to nhất trong rổ (nghĩ cái cảnh khốn khổ, nhà nghèo mà tủi thân buồn bã).

Sau năm đó ba tôi đã trở thành người quá khứ. Chỉ còn duy nhất là có mẹ bên đời với mái nhà tranh xiêu vẹo trong những đêm khuya vắng. Chúng tôi cố cầm lại nước mắt để ngồi xích thật gần mẹ, nắm lấy bàn tay khô khan thấm mùi sương trời và liếc mắt nhìn nét mặt vất vã đơn độc của mẹ. Một bà Mẹ quê bấy lâu đã mang theo nỗi bôn ba nhọc nhằn khắp chặng đời. Ăn khoai xong, bắt đầu các anh em chúng tôi thay phiên nhau đọc bài thơ của Thầy viết:

“ Năm xưa tôi còn nhỏ

Mẹ tôi đã qua đời

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận trẻ mồ côi

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi

Để dòng nước mắt chảy

Là bớt khổ đi rồi

Hoàng hôn phủ trên mộ

Chuông Chùa nhẹ rơi rơi

Tôi thấy tôi mất mẹ

Như mất cả bầu trời”

Các bạn biết không? Mẹ tôi thì vẫn ngồi lặng lẽ câm nín nhưng từng giọt nước mắt lắng đọng của Mẹ đã tuôn dài xuống đôi gò má gầy yếu. Bởi lẽ chúng tôi đọc những lời lẽ ấy ra đây không chỉ sợ mất thêm một người yêu quí nữa, mà vì quá thương mẹ của mình quá. Bởi ba chúng tôi vĩnh biệt ra đi từ lúc tôi lên năm tuổi (cái hôm ấy bầu trời hiền hòa, đất tự dưng rung chuyển như có tiếng sét đánh vô tri) kể từ đó thân phận trẻ mồ côi đã đỗ ụp xuống trên những búp măn non mới lớn. Sau phút kinh hoàng ấy! Mẹ chỉ biết cặm cụi và có những hôm chúng tôi cứ thức trắng bên mẹ. Hằng ngày bà thường thui thủi một mình gồng gánh mọi việc đồng áng chợ đò, khi tuổi vẫn chưa đủ bốn mươi. Căn nhà mục nát đầy gió và nằm heo hút cuối làng ấy giờ trở nên quạnh quẽ hơn nhiều, chắc thiếu đi bóng dáng của cha mình. (Những đêm thắp đèn đánh thức con học bài,với những đêm đông ba luôn cận kề sưởi ấm cho bảy gót chân còn non mềm vào lòng).Tôi biết đó là nỗi niềm bất hạnh lớn đã xảy ra trong đời nhưng cũng đành cam chịu theo dòng thời gian ảo hóa và định luật vô thường đến rồi đi“vô khứ vô lai” mà bất kể ai đang sống trên cõi đời dương thế này điều phải chấp nhận sự sống qua vô lượng kiếp phù sinh.

Thế là mẹ tôi vẫn trầm ngâm lắng nghe tiếng đánh vần “cà lăm” từng con chữ, sau đó mới hết một bài thơ. “Thầy” thì mất mẹ khi tuổi thầy còn rất trẻ giống y hệt bảy đứa chúng tôi vậy thôi. Có lẽ đọc vần thơ ấy xong, tôi mới thấu hiểu được sự cô đơn của thầy lúc thầy mất mẹ. Và thầy đã cho tôi cảm nhận được nỗi buồn tri kỷ sinh thành khi đời mất bớt đi người Cha thân yêu. (Trong màng sương chiều giăng giăng đầy ắp con đường hôm ấy cả nhà phải chạnh lòng ngậm ngùi xót đau). Từ đó Mẹ tôi mang gióng chạy ngược lên non, quay lưng thức khuya dậy sớm, mong sao con mình đủ bữa, có cái chữ đến trường. Bây giờ lớn lên nhớ lại cái ngày tháng rát da của một gia đình miền biển xa xôi, tôi không thể nào quên nỗi hình ảnh Mẹ hiền, một bà Mẹ chân quê “buôn chín bán lân’” giã gạo nuôi con từng ngày, không lời than vãn thở dài cũng chưa bao giờ để con mình đói rách phải thiệt thòi thua chúng bạn. Mặc dù đến tận hôm nay các con đã lớn khôn, đang có mặt khắp mọi, nẻo đường mưu sinh chông gai và dần lớn lên trong sự thương yêu đùm bọc của mọi người, nhưng đôi mắt hiền hậu của Mẹ lúc nào cũng mỏi mòn vì luôn dõi theo hành trang trên bước đường tha phương của mỗi đứa con yêu… Có lần mẹ ngồi im lặng, nghẹn ngào trong giọt nước mắt khô, nhắc thằng ở Cần Thơ, đứa giờ Sài Gòn, tận Mỹ, Ca Na Da… còn lại hai thằng có biết chúng chịu sống chung với tui hôm sớm nữa không? (Nói như vậy không phải Mẹ tự hào bầy con của bà sải bước đi xa thế đâu)

Ân tình! Thầy Minh Niệm viết: “Trong bản chất của tình thương chân thật phải có chất liệu của sự nâng đỡ, của hy sinh, của hiến tặng”. Có lẽ vì thế mà mối liên hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái không bao giờ có thể rứt ra được.

Và có một người kể rằng “…Có hôm, tôi không làm xong bổn phận, đến bữa cơm ông phạt tôi ăn cơm lạt. Nghĩa là chỉ ăn cơm không thôi, không có đồ ăn và phải quay mặt vào tường bưng tô cơm mà ăn để sám hối về sự lười biếng của mình. Tôi vừa thút thít vừa cố nuốt muỗng cơm đầu tiên nhạt thếch. Đến muỗng thứ hai, thì, ô cái gì thế này? Dưới mặt tô cơm trắng là cả một “kho tàng”. Nào thịt kho, nào tôm rim, nào đậu hũ, được chôn giấu và “ngụy trang” cẩn thận. Tôi ngưng khóc, lấm lét vừa ăn vừa thủ tiêu tang vật. Chắc các bạn biết kẻ nào là thủ phạm của hành vi mờ ám, thông đồng với tội phạm này rồi. Quả là mẹ tôi yêu tôi, một tình mẫu tử mù quáng”.

Nam Đan còn thốt lên: …Giá mà mẹ tôi còn tại thế thì tôi đã có một người sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho cái sự đàng hoàng của tôi, tiếc thay! Nhìn lại đời mình, những khi mà tôi đàng hoàng thì chỉ có mình mẹ tôi chứng kiến mà thôi, nay bà đã qua đời thì lấy ai làm chứng bây giờ?

“Xin có mặt cho người

Bằng tất cả trong tôi

Phút giây này tỉnh thức

Với ân tình chưa vơi”

Như Đức Phật có dạy Có bốn chữ Hiếu trong kinh: tiểu hiếu, đại hiếu, chân hiếu, cận –viễn hiếu. “ Hạnh Hiếu tức Hạnh Phật ” Gốc rễ của cách làm người là ta phải biết bổn phận hiếu thảo với cha mẹ. Bởi vì cha mẹ chính là trời đất, cha mẹ là Sư trưởng, cha mẹ cũng là chư Phật. Nếu như quý vị không có cha mẹ thì quý vị sẽ không có được thân thể này, mà không có thân thể này thì quý vị sẽ không bao giờ thành Phật. Cho nên quý vị muốn thành Phật thì trước tiên phải hiếu thảo với cha mẹ.

"Dù xây chín đợt phù đồ

Không bằng hiếu thuận mẹ cha một ngày.”

"Một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, như vậy suốt 100 năm, cũng không đủ để đền đáp công ơn sinh thành và dưỡng dục của mẹ cha" (Tăng Chi I, 75).

Hoặc "Này các Tỳ kheo, cái này là nhiều hơn, tức là sữa mẹ các người đã uống, trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, chứ không phải là nước trong bốn biển" (Tương Ưng II, 208).

Hiếu thảo với cha mẹ có công đức lớn như vậy, lại phù hợp với đạo lý thế gian cũng như với đạo lý nhà Phật. Ở đời chớ đừng:

"Mẹ nuôi con, như trời như bể, con nuôi mẹ, con kể từng ngày.”

Được lớn lên trong vòng tay ấm áp của mẹ và mẹ tôi từng trải qua cuộc sống không có chỗ dựa. Thế mà Mẹ đã gánh vác che chở cho đàn con nương tựa tới tận bây chừ! Phận làm con khi nghĩ về tình Mẹ thiêng liêng, lấy gì đền trả cho hết công đức sâu nặng như biển rộng rì rào với sóng muôn năm:

"Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời

Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con.”

Có một lần, tôi nắm tay một người sư em đi thiền hành, dọc theo con suối nhỏ, nước trong veo, hoa rừng ở đây thơm nức nở. Dòng nước cứ muốn lặn lội cuốn mình về đại dương, hai bên lối đi là một màu xanh thăm thẳm của trà non Bảo Lộc. Đôi chân, có lúc dừng lại để tự thưởng thức món quà Mẹ cho. Thật hạnh phúc biết bao, từng bước, như từng nấc thang đi trên cõi đời mênh mông. Sự tạo hóa... mầu nhiệm chỉ có hơi thở chánh niệm mới nhận ra lòng biết ơn vi diệu ấy thôi; huynh đệ chúng tôi khép mắt để cảm nhận nguồn năng lượng thương yêu từ con tim chảy dài xuống gót chân, có lúc Mẹ muốn chúng tôi đứng thật vững chãi, có lúc mẹ dìu bước bên cạnh những khi giông tố khó khăn, nhưng mẹ chỉ muốn đôi chân tự bước vào đời. Tôi hiểu được Mẹ, tôi còn thấy cả khuôn mặt mẹ hiện về thật rõ mỗi lần mẹ nở nụ cười thắm thiết.

Một hôm trên con phố nhỏ, lát đát hàng ngàn cánh hoa phượng vàng, tôi chợt nhận ra rằng mẹ là tình yêu, thứ tình yêu ngọt ngào nhất trong đời , chỉ đến một lần bên ta và lòng mẹ mở ra trước mắt tôi,

Chiều nay tóc mẹ phủ bóng tuyết

Nụ cười mẹ còn trong gương nguyệt

Cánh hoa thuỷ triều dâng đâu đó

Mẹ mãi dòng Hậu Giang trôi êm.

Dường như bức thư tình gửi về cho Mẹ mỗi năm trong mùa báo hiếu Vu Lan là một lần được minh chứng sự tri ân và sẽ chia vào trái tim biết nói, hai tiếng Mẹ ơi! Một lần nữa, thiết nghĩ có lúc mẹ phải giã từ chia tay em tôi, các anh tôi, chị gái của tôi nên mỗi khi tiếng kinh chiều vang lên là lúc tôi nhận lại tình yêu thương của mẹ biểu hiện như một khung trời hiện hữu “mẹ vẫn còn đó, nắng chiều như hơi thở”. Lời tỉnh thức gọi tôi về giữa trang kinh niệm Phật chính là thời gian chúng ta trân quí sự có mặt của Mẹ. Ý thức nhận ra lẽ thường nhiên của cuộc đời là vô thường, sinh diệt là tiếp nối thì tôi mới hiểu Đức Phật trong lòng tôi. Mỗi ngày giúp tôi tiếp xúc chừng ấy chất liệu thôi là đến một lúc nguồn từ bi sống dậy giữa muôn loài gần gũi bên nhau. Trong phút khoảng lặng buổi sáng, trong lúc ngồi thưởng thức chén trà độc ẩm, múc nước tưới rau, ngắm trăng lên hay bữa cơm chiều dưa muối đạm bạc. Đó là những khi dòng suy thức hiện tại đi ngang qua thì càng cho ta cảm nhận về chân dung Mẹ, với ý niệm là mình đang có may mắn lớn “và diễm phúc cho ta hơn thế nữa, Có pháp môn, tăng chúng giữa bụi hồng”

Đã bao kiếp mẹ làm dòng sông lặng

Để chiều về phủ kín ánh tà dương

Từng hạt nắng mẹ chắt chiu gói lại

Để đêm về sưởi ấm mái đầu xanh.

Những ngày Vu Lan sau này, có Thiền sư Tuệ Nguyên dạy về tình yêu khi còn có mẹ trong bài thơ “Tình hoa trắng” lòng tôi càng khắn khít, hiểu hơn về cuộc đời của người mẹ ở cái tuổi thời gian lam lũ, ôm ấp nhiều đắng cay bởi vì con. Qua nhiều cái nhìn, hóa thân của mẹ vào đại dương, trăng ngàn hay một bông hoa ven đồi, giọt sương lam, bờ cát mịn và đôi khi mẹ biếng thành trang kinh giữa nghìn trùng vì sao:

“Áo tôi vàng em cài tình hoa trắng,

Đoá hoa xưa ngày mẹ xới đất trồng.

Giữa những ngày mưa chang và nắng quái,

Giữa biển cồn đời mẹ hóa thành bông”.

Với mẹ, tôi không bao giờ nghi ngờ điều gì cả, dù điều mẹ dạy có khác với lời cô giáo dặn, công thức hóa học để chế tạo ra vũ khí mang đi lấn chiếm đất liền. Bởi vì công thức đó ta sẽ nhanh chóng tìm ra ở mọi cột mốc thời gian nhưng công thức tình thương của mẹ chỉ dành riêng cho ta lúc ta đau ốm, lắng nghe lời vỗ về dạy bảo và tận mắt nhìn mẹ mỉm cười. Đó chính là thứ tài sản quí báu mà bạn không thể nào tìm lại được.

“Dù bạn có đội lưng lên non, mang mình xuống biển” dám chắc rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra dù có phép màu hiện hữu… vô vàn kiếp sau.

… “như cuộc đời - không thể thiếu trong con

Nếu có đi một vòng quả đất tròn

người mong con mỏi mòn

chắc không ai ngoài mẹ

Cái vòng tay mở ra từ tấm bé

cứ rộng dần theo con trẻ lớn lên”

Thầy còn khuyên chúng ta: “Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món qùa lớn nhất mà cuộc đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết rồi mới nói: "trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào nhìn kỹ được mặt mẹ!". Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya dậy sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may, giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời lên xuống ra vào lợi danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ mẹ. Để khi mẹ mất mình có cảm nghĩ: "Thật như là mình chưa bao giờ có ý thức rằng mình có mẹ!"… Thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống nước. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ phải đây không phải là luân lý, là bổn phận. Phải đây là lý đương nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. con cần mẹ, mẹ cần con. Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ là con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa thầy giáo hỏi rằng: "Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?" Tôi trả lời: "Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi". Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải "làm thế nào" gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi " làm thế nào " nữa!

Posted Image

Vu lan về cũng là dịp chúng ta biết sử dụng đôi mắt nhìn mẹ thật rõ ràng, một cách cung kính tràn đầy niềm biết ơn sâu sắc, quỳ xuống dưới chân mẹ, để nói lời thỏ thẻ “con cám ơn mẹ” đã sinh ra con và đó là lúc tình yêu đạo lý lên ngôi. Tôi muốn chia sẻ thêm với các bạn rằng, điều đó chính là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa tâm linh cho tình mẹ con luôn gần bên nhau và bạn nên tận hưởng nữa hạnh phúc còn lại giữa cuộc đời càng thêm ý nghĩa. Lấy nguồn cảm hứng, Võ Tá Hân chấp bút mấy dòng thương yêu:

“Mẹ cho ta một tình yêu thương, mẹ cho ta một mùi thanh hương, con tim mẹ truyền đạt tất cả, mẹ dạy rằng yêu thương quê hương.

Tình của mẹ vời vợi trời cao, tâm của mẹ như vầng trăng sao, đôi mắt mẹ mặt trời ánh sáng, bàn tay mẹ cứu vớt thương đau.

Mẹ là Phật đại nguyện hóa thân, mẹ là hoa, hoa đẹp tuyệt trần, mẹ là nước nước nguồn vô tận, cuộc đời mẹ chỉ biết hiến dâng

Con chắp tay chiêm ngưỡng ơn người, con nhiếp tâm khấn chúc vạn lời, mẹ là Phật là Phật hằng hữu, cho cuộc đời con mãi thắm tươi”.

Khúc ca ấy, ngợi ca lòng mẹ và Ông đã mời mẹ lên một tầm nhìn mới trong chiều sâu của đất trời. Đó là Phật hóa thân, là dòng suối mát róc rách tuôn chảy ở mọi ngóc nghách tâm hồn như mẹ tôi sẽ sống mãi với trái tim thời gian .

Kinh Tâm - Thích Pháp Bảo

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Biken đọc bài viết của cô Wild thấy xúc động quá, cứ nghẹn ở cổ họng,...Thật hạnh phúc khi những ai còn mẹ để làm được điều đó..Điều đơn giản như cô Wild nói đó là không làm gì hết, chỉ thương me, thương mẹ thôi là đủ rồi, nhưng cũng chẳng đơn giản tí nào..

Biken đọc được bài thơ này khi đang dạo quanh, lang thang trên nhiều diễn đàn nên cũng không nhớ từ diễn đàn nào nữa và Biken có chia sẻ trong thơ ca văn chương cho các bác, anh chị và các bạn..Tiện đây, biken xin trích lại bài thơ này, vì thấy hay và xúc động nhiều qua..Biken Xin chia sẻ với cô Wild và mọi người trong mùa lễ VuLan, những người còn mẹ còn cha để chăm sóc, để yêu thương, để được đôi lần trở về với tuổi thơ nhõng nhẽo, xin đừng làm Mẹ khóc vì sự buồn đau, vì tủi thân có đôi lần ta vô tình lớn tiếng, vô tình gạt ngang sự lo lắng, vô tình vì những hành động nông nổi..Xin cài hoa hồng trắng lên những người đã khuất Mẹ, xin chia sẻ nỗi đau đó ...

Bài thơ viết trên tường dưỡng lão

(sưu tầm)

Con ơi ! Bây giờ mẹ đi chân không vững,

Nhấc không nổi bước

Mẹ xin con nắm tay mẹ dìu mẹ, chậm thôi…

Như năm đó Mẹ dìu con đi những bước đầu ...

Con ơi ! Khi con còn thơ dại,

Mẹ dạy con cầm thìa, dùng đũa ăn cơm

Mẹ dạy con buộc dây giày, chải tóc, lau nước mũi

Những kỷ niệm về những năm tháng mẹ con mình sống bên nhau

Làm mẹ nhớ thương da diết

Vì thế, khi mẹ chóng quên, mẹ chậm lời

Con hãy cho mẹ chút thời gian, xin con chờ mẹ chút

Cho mẹ suy nghĩ thêm

Cho dù cuối cùng ngay cả định nói gì

Mẹ cũng quên…

Con ơi ! Con quên là mẹ con ta đã tập luyện hàng trăm lần

Con mới thuộc khúc đồng dao đầu đời ?

Con nhớ không mỗi ngày mẹ đáp

Những câu ngây ngô, hàng trăm câu con hỏi từ đâu

Nên nếu mẹ lỡ kể lể nhiều lần những câu chuyện móm răng

Ngâm nga những khúc ru con thời con bé

Xin con tha thứ cho mẹ

Xin con cho mẹ chìm trong những hồi ức ấy nhé !

Xin con đáp lời mẹ kể những chuyện vụn vặt trong nhà !

Con ơi ! Giờ mẹ thường quên cài nút áo, xỏ dây giày,

Ăn cơm vãi đầy vạt áo

Chải đầu tay bần bật run

Đừng giục giã mẹ

Xin con nhẫn nại chút và dịu dàng thêm

Mẹ chỉ cần có con ở bên

Mẹ đủ ấm.

Con ơi ! Bây giờ mẹ đi chân không vững, nhấc không nổi bước

Mẹ xin con nắm tay mẹ

Dìu mẹ, chậm thôi

Như năm đó....

Mẹ dìu con đi những bước đầu đời

" ST"

Hạnh Phúc Thật Gần

sưu tầm....

Này em !

Có phải khi mình mất đi hạnh phúc

Thì mới hay... hạnh phúc có trong đời.

Có phải khi mình mất đi người mẹ

Mới thật lòng gọi hai tiếng : '' Mẹ ơi ! ''

Có những mai nụ hồng ngoài hiên nở

Chân em qua , không buồn ngắm một lần ,

Chợt chiều hôm gió về làm hoa vỡ

Nhìn phai tàn , rồi cúi xuống bâng khuâng ..

Có một người trải qua lần hoạn nạn

Mãi về sau khép lại '' cửa tâm hồn ''.

Từ khi mắt thôi nhìn đời sáng lạn

Ngọc châu và đôi mắt, quý nào hơn?

Ai cũng sống bằng con tim , nhịp thở

Mà quên đi hơi thở vốn nhiệm mầu

Cơn đau đến, muộn màng lòng chợt hiểu

Trút hơi tàn... đời sống sẽ còn đâu !

Có phải khi bên đời xa vắng mẹ

Mình mới hay , Mẹ .. tất cả trong đời.

Có phải khi cha tạ từ dương thế

Cuộc chia lìa mới thấm nổi đơn côi ?

Em tôi hỡi ! Hãy về hôn lấy mẹ

Ôm lấy cha , thảo hiếu với huyên đường .

Là đôi mắt, là hoa , hơi thở nhẹ

Hãy ân cần gìn giữ lấy mà thương ...

Chớ để khi mình mất đi hạnh phúc

Biết , vòng tay yêu dấu đã xa rồi ,

Em có biết tôi mơ hoài bé dại

Được Mẹ bồng .. ru giấc ngủ à ơi ?

.

Share this post


Link to post
Share on other sites

HT.Thích Thanh Từ

Trong đạo Phật, ngày Vu lan là ngày nói lên tinh thần phục thiện, hối cải của Tăng Ni, vừa gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật, vừa là ngày tha thứ mọi lỗi lầm của chúng sinh. Vì nó mang những ý nghĩa quan trọng như vậy, nên mỗi năm đến ngày rằm tháng Bảy, Phật tử chúng ta đều tụ hội về các chùa để cúng dường cầu nguyện và nghe, hiểu tinh thần đạo hiếu. Bây giờ chúng tôi sẽ giảng từng mục để quý vị thấy rõ tinh thần phục thiện ấy như thế nào.

Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình. Những lỗi lầm đó hoặc là các ngài thấy, các ngài nghe cho đến chưa thấy, chưa nghe mà chỉ nghi thôi cũng cứ chỉ. Nếu mình thấy đó là lỗi thật thì mình thành tâm sám hối chớ không dám cãi, không dám bỏ qua. Bởi vậy nên ngày này chư Phật rất vui vì thấy chúng đệ tử có tâm hồn phục thiện, biết cải hối những lỗi lầm. Do đó cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ. Đó là ý nghĩa thứ nhứt.

Ý nghĩa thứ hai, ngày này là ngày gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật. Bởi vì theo tinh thần kinh Vu Lan, ngày rằm tháng Bảy chính là ngày Tôn giả Mục Kiền Liên tìm thấy mẹ đang sanh trong kiếp ngạ quỷ khổ đau, mà tự bản thân Ngài cứu không được. Ngài mới nhờ Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ. Nhân đó Phật dạy muốn cứu mẹ thoát khỏi tai ách, phải nên cúng dường chư Tăng, Ni. Nhờ lực gia trì của Tăng, Ni phụ giúp cho mẹ Ngài chuyển đổi tâm ác, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Với lòng thành kính của người con thảo, Ngài đã thực hiện đúng những lời Phật dạy và mẹ Ngài cũng thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Chính nhờ lòng thành đó mà đến rằm tháng Bảy là ngày Tự tứ của chúng Tăng, Phật dạy chúng ta nên cúng dường chư Tăng, nhờ chư Tăng phụ lực mà thân mẫu trong nhiều đời được siêu thăng. Nên ngày này còn gọi là ngày Báo hiếu.

Trong mùa này, mỗi Phật tử chúng ta nhớ lại công ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng cực khổ, cho nên chúng ta nhờ sức chú nguyện của chư Tăng, Ni, nếu cha mẹ có sa vào đường khổ thì nhờ phúc đức này được thoát khỏi. Còn nếu cha mẹ không đi trong đường khổ thì nhờ phúc đức này mà được tăng trưởng thiện căn. Nếu cha mẹ hiện tiền cũng nhờ đó mà tăng trưởng tuổi thọ và phát tâm Bồ đề. Đó là ý nghĩa báo hiếu của người con Phật.

Bởi vậy ngày Vu lan còn có tên là ngày xá tội vong nhân. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm, ngày mà mọi người đều ăn năn, xin cải đổi sám hối, mong các vị lớn tha thứ cho. Nhờ ý nghĩa tha thứ những lỗi lầm đó nên cũng chính ngày này chư Tăng, Ni thành tâm cầu nguyện cho các vong nhân được khỏi những kiếp khổ đau.

Tôi đã kể sơ qua về ý nghĩa của ngày lễ Vu lan rồi. Bây giờ đi sâu hơn về hạnh hiếu của người con Phật. Nhiều khi quý Phật tử thắc mắc, Phật dạy làm con phải hiếu thảo với cha mẹ nhưng quý thầy, quý cô lại bỏ cha bỏ mẹ đi tu, như vậy là bất hiếu rồi, làm sao dạy Phật tử có hiếu được? Không phải vậy. Mới nhìn chúng ta thấy như là bất hiếu nhưng trái lại là chí hiếu. Tại sao? Vì đi tu không có nghĩa là tìm nơi an nhàn để thụ hưởng yên ổn cho riêng mình, mà vì thương cha thương mẹ, thương chúng sinh; muốn tu làm sao tự bản thân mình giải được những phiền não khổ đau, rồi sau đó giúp cha mẹ và hướng dẫn mọi người hướng về con đường đạo đức, bỏ đi những điều tội lỗi. Đó là đền đáp công ơn cha mẹ.

Theo thế gian, hiếu thảo với cha mẹ là lo đủ mọi thứ, nào là cơm ăn, áo mặc, giường chõng, thuốc men… nhưng có người nào lo mà cha mẹ khỏi chết không? Dù nuôi kỹ cách mấy rồi chết cũng phải chết. Theo tinh thần đạo Phật, chúng ta không chỉ có mặt ở một đời này mà còn có mặt ở vô số kiếp về trước và sau nữa, nên mất thân này sẽ mang thân khác. Do đó nếu ngay thân này không biết làm lành thì e rằng đời sau sẽ đọa những đường khổ. Bởi vậy người tu phải làm sao thức tỉnh cha mẹ hướng về con đường lành, để cho cha mẹ có mất đi thì sẽ được hạnh phúc, an vui trong những đời sau.

Tôi thí dụ như cha mẹ năm sáu mươi tuổi, có con mười mấy tuổi phát tâm đi tu, ban đầu cha mẹ buồn trách nhưng sau đó lại tự xấu hổ. Vì nghĩ rằng con mình còn nhỏ nhưng không ham ăn, không ham danh lợi còn mình già rồi mà vẫn chưa thức tỉnh. Nghĩ vậy, tự nhiên mình cũng bắt chước, lần lần bớt ham ăn, lại tập ăn chay, bớt ham danh lợi, nhờ vậy mình tu từ từ. Rõ ràng, lúc đầu thì thấy con như dở nhưng càng về sau lại thấy càng hay. Cho nên phần nhiều những gia đình có con đi tu thì dần dần cha mẹ và gia quyến cũng bắt chước tu theo. Đó là tinh thần hiếu đễ của người xuất gia.

Người ở thế gian cứ nghĩ nuôi cha mẹ được ấm no, đầy đủ là có hiếu nhưng quên rằng tuổi thọ cha mẹ có giới hạn, tới mức độ nào rồi cũng phải đi. Cho nên làm sao vừa lo cho hiện tại được ấm no mà nghĩ tới tương lai, sau khi cha mẹ bỏ thân này được thân sau cũng phải sáng sủa, tốt đẹp hơn nhiều. Đó mới gọi là người biết lo chân chính, lâu dài. Như vậy tinh thần của người tu không phải là bỏ cha mẹ mà là thương cha mẹ. Vì muốn hướng cha mẹ về đường lành, hướng thân quyến phát tâm Bồ đề nên mới đi tu.

Với truyền thống người Việt Nam ta, hiếu thảo là một điều rất thiêng liêng, rất cao cả. Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết. Thuở xưa cha ông chúng ta cũng từng răn dạy những điều đó. Tôi dẫn một ít đoạn trong ca dao, tục ngữ để quý vị thấy hiếu thảo là một điều hết sức quan trọng:

Nuôi con chẳng quản chi thân

Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn

Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn

Lên non xắn đá xây lăng phụng thờ.

Qua bốn câu này, quý vị thấy người bình dân Việt Nam đối với công ơn cha mẹ rất là thắm thiết. “Nuôi con chẳng quản chi thân”, khi cha mẹ nuôi con thì không nghĩ gì tới mình hết, miễn con khỏe mạnh là cha mẹ vui. Con bệnh hoặc bị phiền não hay tật nguyền gì đó thì cha mẹ buồn khổ. Cha mẹ muốn hy sinh thân mình cho con được khỏe mạnh. Dù cực khổ, khó khăn đến mấy cũng vẫn không nề, không chán. Câu sau “Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”, thật thấm làm sao! Những năm trước bốn mươi lăm, ở Việt Nam mình kinh tế rất là chật vật, quý vị nào có ở miền quê mới thấy cảnh cha mẹ nghèo ở nhà lá rách, giường chiếu chỉ có một đôi thôi. Con nhỏ chừng một, hai tuổi ban đêm có bệnh hay đái dầm. Khi đái dầm thì ướt, ướt mà không có chiếu thay nên mẹ nằm bên ướt, để con chỗ khô ráo cho nó ngủ ngon. Cái tình của người mẹ quê như vậy, người không nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ làm sao cho con ngủ ngon giấc, con được khỏe mạnh, con chóng lớn lên. Người mẹ xưa đã sống trong cảnh cơ cực đó nên mới nói lên được câu này “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”. Người mẹ lúc nào cũng trải thân mình cho con cái, quên cả mọi khổ sở, mọi đau đớn, miễn làm sao cho con ăn ngon ngủ được, đó là yên lòng mẹ.

Cha mẹ đối với con đã không kể thân, không nghĩ tới phần của mình thì làm con cái phải làm sao? Chúng ta là con, muốn đền được ơn đó thì phải nhớ câu “biết lấy chi đền nghĩa khó khăn, lên non xắn đá xây lăng phụng thờ”. Khi cha mẹ chết rồi mình mới lớn khôn, nhớ ơn cha mẹ không biết làm sao cho nên cạy đá, xây lăng thờ cha phụng mẹ, đó là nói theo người thế gian. Còn nói theo tinh thần đạo Phật thì nếu cha mẹ chết rồi, chúng ta ráng làm điều lành, điều phước để hồi hướng cho cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sinh tiền, chúng ta lo lắng cho cha mẹ được ấm no, được hạnh phúc, biết quy hướng về Tam bảo, đó là bổn phận của người con hiếu.

Lại một bài nữa:

Công cha nghĩa mẹ cao vời

Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta

Nên người, ta phải xót xa

Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.

Nghĩa là công ơn cha mẹ rất cao vời, không có gì sánh được. Cha mẹ có khi nào nghĩ rằng tôi nuôi nó chừng ba năm, bảy năm rồi bỏ nó muốn ra sao thì ra đâu. Từ thuở còn bé, nằm nôi cho tới khi lớn khôn, có đôi bạn, có con, vẫn cứ lo. Hết con tới cháu, cho tới đầu bạc phơ, rồi tới ngày tắt thở mới thôi. Như vậy để thấy thâm tình cha mẹ đối với con không biết bao nhiêu mà kể. Như vậy bổn phận làm con ta phải làm sao? “Nên người, ta phải xót xa”, khi lớn khôn rồi nghĩ đến công ơn cha mẹ như trời cao, biển rộng. Ân nghĩa đó nặng nề sâu thẳm chớ không phải là thường. Cho nên người Phật tử khi nghĩ tới công ơn cao siêu vời vợi của cha mẹ, chúng ta phải hết lòng hết dạ đền đáp. Nếu không đền đáp được nhiều ít ra cũng năm, mười phần chớ không thể nào chúng ta bỏ mặc cha mẹ ra sao thì ra, đó là không biết đạo nghĩa. Trong đạo Phật thường nhắc nhở, trong năm tội ngũ nghịch thì tội bất hiếu với cha mẹ là đầu.

Tôi dẫn một câu chuyện hiếu thảo hơi lạ để quý Phật tử thấy rõ ý nghĩa công ơn cha mẹ như đã nêu. Ngày xưa có anh chàng nọ vừa dở, vừa không gặp thời, làm ăn đâu thất bại đó. Gia đình một vợ năm bảy con, nuôi không xuể, thiếu hụt đủ thứ. Cạnh bên có người láng giềng rất hào hiệp, mỗi khi anh túng quẫn anh qua nhà ấy vay mượn, mượn rồi không có tiền trả. Thời gian sau túng quẫn nữa anh lại qua nữa, nhưng rồi cũng không có tiền trả. Tuy nhiên người hảo tâm kia vẫn cứ cho mượn hoài, đến khi anh nhà nghèo già và chết. Khi ấy anh bị lôi xuống Diêm vương, ngục tốt tra khảo sổ sách thì thấy anh nợ người láng giềng quá nhiều, Diêm vương liền ra lệnh: “Bây giờ chú mầy phải sanh trở lại làm trâu kéo cày để đền trả nợ trước”. Anh chàng đó nói:

- Không được, cho làm trâu không đủ trả, xin cho tôi làm cha nó mới đủ trả.

Diêm vương ngạc nhiên quá:

- Tại sao đã thiếu nợ người ta mà còn đòi làm cha người ta nữa?

Anh chàng liền giải thích:

- Nếu làm trâu thì sống bảy tám tuổi, cao lắm mười hai tuổi là chết. Mười hai năm kéo cày trả nợ không đủ. Chỉ có làm cha là tôi lo cho đến hết đời, nuôi nấng họ đến hết đời. Hết đời tôi rồi, còn dư bao nhiêu tiền của để lại cho họ luôn. Nếu tôi còn sống dai thì nó có cháu, có chắt tôi cũng nuôi tất. Như vậy mới khả dĩ trả hết bởi nợ to quá.

Như vậy quý vị thấy làm cha còn nặng hơn làm trâu nữa. Vì làm trâu chỉ giới hạn bảy tám năm hay chín mười năm thôi, còn làm cha là suốt một đời, trả hoài cho đến đời cháu nữa. Và có ai chửi mắng gì mình cũng nhận chịu luôn. Nhận hết mọi việc như vậy mới đủ trả. Câu chuyện có tính cách khôi hài, nhưng qua đó chúng ta thấy công ơn của cha mẹ không thể kể hết, phải không? Cho nên người ta bảo kiếp làm cha mẹ đối với con còn hơn kiếp trâu ngựa nữa chớ không phải là vừa. Vậy mà nhiều khi con không nhớ, không biết, còn phụ rẫy, bạc bẽo lại với cha mẹ nữa. Thật là tội lỗi biết bao!

Đã không biết ơn cha mẹ thì ơn xã hội chắc càng không biết. Nếu người không biết ơn nghĩa gì hết thì con người đó gọi là con người gì? Con người vô ơn bạc nghĩa! Đã là người vô ơn bạc nghĩa thì còn dùng được chỗ nào? Bởi vậy muốn thành một người tốt đối với xã hội, trước hết chúng ta phải là người con hiếu thảo với cha mẹ. Do biết thương cha mẹ nên mình không đánh lộn, cãi lộn, hút thuốc, uống rượu, làm những việc hư thân khiến cha mẹ buồn. Nhờ thế mà mình thành một người tốt trong xã hội. Thế nên hiếu thảo là bước đầu để xây dựng gia đình tốt đẹp, xã hội văn minh, quốc gia cường thịnh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lễ Vu Lan với ý nghĩa nhân văn

Vu Lan là một lễ lớn của Phật Giáo. , năm nay Mùa Vu Lan ở nước ta lần đầu tiên được khởi đầu bằng Lễ hội Ăn chay tại nhà Thiếu nhi TP HCM do Đoàn Thiện Nguyện thuộc Học viện PGVN tp HCM tổ chức và tại tp Mỹ Tho Tiền Giang do Bồ Đề Quán đảm nhiệm.

Posted Image

Được biết trong Lễ hội Ẩm thực chay - Mùa báo hiếu 2009 ở tp HCM diễn ra trong 3 ngày từ ngày 20 đến 23 / 8 gồm nhiều chuyên đề thuyết trình và thảo luận:

- “Ăn chay vì một thế giới hòa bình” (Tiến sĩ Thích Nhật Từ);

- “Ăn chay có lợi cho sức khỏe” (Nguyễn Thị Kim Hưng, Giám đốc Trung tâm Dinh Dưỡng TP),

- “Ăn chay bảo vệ môi trường” (Tiến sĩ Nguyễn Thọ Nhân, Viện năng lượng nguyên tử quốc gia), cùng nhiều chương trình, tiết mục văn nghệ phục vụ.

Nhà sư Tâm Diệu viết: “Hiện nay trái đất đang nóng lên, có phải là Mẹ trái đất đang oằn mình rên xiết. Có ai đó đã hơn một lần nghĩ về cuộc sống chung quanh chúng ta và sự hiện diện của trái đất chúng ta???” Quả vậy, Trái Đất đang hàng ngày hàng giờ bị tàn phá ghê gớm bởi các dự án khai thác đào bới mỏ quặng, chặt phá rừng xanh. Các chương trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang hủy hoại thiên nhiên, phá hủy môi trường.

Hy vọng Văn hóa ẩm thực chay đang được nâng cao bằng hàng trăm món chay rất ngon miệng và bổ dưỡng luôn nhắc nhở mọi người về việc tri ân cha mẹ cũng như Trái Đất – ngôi nhà chung của chúng ta.

Vu Lan được phiên âm từ tiếng Sanskrit ULLAMBANA, có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn”, được tổ chức vào ngày rằm tháng bảy âm lịch hàng năm theo truyền thống Phật giáo.

Lễ Vu Lan được truyền từ Ấn Độ vào Trung Hoa. Lần đầu được tổ chức vào đêm rằm tháng bảy năm 768 ở Trường An - trung tâm kinh đô đời nhà Đường. Lễ này được phổ biến sang các nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, và vào Việt Nam khoảng năm 1302. Sau đó lễ Vu Lan được thịnh hành vào thời nhà Trần qua việc tổ chức các trai đàn chấn tế, nghĩa là bố thí thức ăn cho loài quỷ đói.

Lễ Vu Lan đã được tạo dựng từ truyền thuyết về Mục Kiền Liên, một trong mười đại đệ tử của Đức Phật, người có nhiều khả năng biến hóa thần thông. Một hôm Mục Kiền Liên triển khai huệ nhãn thì thấy mẹ mình là bà Thanh Đế đang bị đày ở địa ngục vì trong tiền kiếp đã gây nhiều nghiệp ác. Mục Kiền Liên vì muốn báo hiếu mẹ nên đã dùng thần thông xuống địa ngục để cứu mẹ. Nhưng không đạt được mục đích dù ngài là bậc A La Hán, Ngài bèn nhờ đến Đức Phật giúp đỡ. Đức Phật mới nói với ngài rằng chỉ có thể phối hợp tất cả nỗ lực của tất cả chư tăng mới có thể cứu thoát được mẹ. Ðức Phật dạy cho Mục Kiền Liên tổ chức cúng dường các tăng ni sau ngày an cư kiết hạ vào ngày rằm tháng bảy để cùng làm lễ cứu giúp cho mẹ ngài.

Kết hợp với truyền thống văn hóa dân gian là tập tục thờ cúng tổ tiên nên trong lễ Vu Lan người ta cúng đồ ăn như cháo, bánh, hoa quả, quần áo và cả các vật dụng khác làm bằng giấy. Ca dao Việt Nam cũng có câu:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con

Vì thế lễ Vu Lan cũng là dịp để cho con cháu thực hiện đạo hiếu đối với cha mẹ không chỉ những người đã khuất, ông bà tổ tiên, mà còn có trách nhiệm với các bậc cha mẹ đang còn sống:

Trẻ cậy cha, già cậy con

Vu Lan đã trở thành ngày lễ “Báo hiếu”. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng Phật giáo trong việc coi trọng “Tứ Ân” (ơn cha mẹ, ơn tổ quốc, ơn chúng sinh và ơn Tam Bảo). Đây cũng chính là nét giao thoa của Phật giáo với nền văn hóa Việt.

Không những thế, về sau trong ngày Vu Lan người ta còn hướng tới việc tri ân các chiến sỹ đã hy sinh trong trận mạc, bảo vệ quê hương Tổ quốc, và còn chia sẻ với những vong hồn chết bất đắc kỳ tử hoặc không có người thân cúng viếng. Vu Lan lại được người Việt phát triển thành ngày lễ cúng cô hồn với tên gọi là ngày “xá tội vong nhân”.

Trong khi hành lễ để cứu mẹ Mục Kiền Liên, có nơi đã thực hiện nghi thức “phá ngục”, do đó mà một số chúng sinh cũng được thoát khỏi khổ nạn, đây coi như họ được xá tội cùng với bà Thanh Đế.

Về mặt hình thức thì Vu Lan là lễ cúng cô hồn nhưng nội dung thì Vu Lan là một dịp thuyết pháp cho chúng sinh Quy y Tam Bảo. Tam Bảo là Phật Pháp Tăng mà mọi đệ tử nương nhờ (y theo) vào đó để tu tập nhằm quay về Tâm Phật của bản thân mình mà soi sáng để hướng tới cứu cánh là đạt Giác ngộ và Giải thoát khỏi Khổ. Vì theo giáo lý thì mọi khổ nạn đều do Vô minh, vì tham sân si mà tạo nghiệp và vì vậy mà chúng sinh phải lăn lộn trong vòng luân hồi Sinh Tử với quy luật Nhân quả do Vô minh tạo ra. Khi nhận biết được nguyên nhân là Vô minh thì loại bỏ nó và mọi hậu quả sẽ không còn – thoát vòng luân hồi, thoát khỏi Khổ, trở về với Niết bàn. “Mọi chúng sinh đều là Phật” và “Phật tại Tâm”. Mỗi khi Tâm tĩnh lặng, ta phát huy được nội lục của Tâm thì đạt Tuệ (sự sáng suốt) và nhận biết được sự Vô minh của mình để loại bỏ Nghiệp mà thoát ra khỏi vòng sinh tử.

Qua Vu Lan Đức Phật muốn dạy cho chúng ta những bài học về điều cơ bản của Phật Pháp để thoát Khổ:

1. Không thể dùng thần thông mà giải thoát được kể cả cho bản thân và cho bất kỳ ai, qua việc Mục Kiền Liên không thể cứu được mẹ mình mặc dù có khai triển thần thông cao đến đâu.

2. Không có một đấng siêu nhân nào có thể cứu được mình ngoài bản thân mình. Muốn thoát khổ thì chỉ có bản thân mình tự cứu mình nhờ sự trợ giúp của Tam Bảo bằng cách soi xét lại mọi nghiệp chướng do mình gây ra, sám hối và loại bỏ vô minh.

Ý nghĩa của Vu Lan mà Đức Phật muốn dạy là sau kỳ kiết hạ mọi chư tăng đều đã thu thập được nhiều tâm lực. Tâm lực ở đây có thể hiểu như một dạng năng lượng tinh thần (ý thức) được tập trung cao độ nhờ thiền định trong ba tháng kiết hạ. Nhờ lực lượng này mà có thể giúp bà Thanh Đế thay đổi tâm sai trái độc ác trước đây, đế chuyển hóa thành tâm thiện, tự thoát khổ.

Ở Việt Nam lễ Vu Lan thường được tổ chức tại các chùa và ở cả những nơi công cộng như chợ búa, bến xe… Trong khi hành lễ các vị sư thường tụng kinh Vu Lan Bồn và một số văn tế khác. Đặc biệt ở Việt Nam thường được dùng nhiều nhất là bài Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du.

Văn tế thập loại chúng sinh là một trong những kiệt tác thơ nôm thấm đậm giáo lý nhà Phật. Văn tế thập loại chúng sinh được bắt đầu bằng cảnh trời thu ảm đạm ảo não như ở cõi âm. Thời gian ở đây là sau mùa kiết hạ như trong Kinh Vu Lan:

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc lá ngô rụng vàng...

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát

Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ bi

Giải oan cứu khổ độ về Tây phương.

Thập loại chúng sinh mà Nguyễn Du đề cập ở đây bao gồm tất cả những thành phần có trong xã hội như: các bậc anh hùng liệt nữ, quan chức đến các sỹ tử, lính tráng, thương gia và cả gái giang hồ, kẻ ăn xin, tù nhân, những kẻ mệnh yểu, chết bất đắc kỳ tử… Tất cả những ai đã trải qua cuộc đời oan nghiệt do dục vọng, vô minh hoặc do cảnh đời oan trái mà phải mê lầm trong cõi nhân thế:

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh

Chí những lăm cất gánh non sông

Nói chi những buổi tranh hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau! …

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,

Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngọn bút son thác sống ở tay …

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn

Ruột rà không kẻ chí thân

Dẫu làm nên để dành phần cho ai?

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Sống thời tiền chảy bạc ròng

Thác không đem được một đồng nào đi. ..

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa

Nhờ có sự từ bi phổ độ của Phật Pháp Tăng mà tất cả thập loại chúng sinh đều có khả năng được cứu khổ:

Mười loài là những loài nào?

Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh

Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi….

Giáo lý Phật thường có vô lượng nghĩa để đáp ứng với vô lượng tâm của chúng sinh nhằm mục đích “độ tùy duyên”. Vu Lan là một trong những phương tiện thiện xảo của Đức Phật để dạy cho chúng sinh phép cúng dường chư Tăng và tạo cho các phật tử có duyên lành gieo trồng nhân thiện, trợ giúp chư Tăng tu tập chính quả nhằm cứu độ mọi chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi sinh lão bệnh tử. Đồng thời đây cũng là dịp giáo dục Đạo Hiếu giúp cho các thế hệ con cháu biết nhớ tới công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, ông bà tổ tiên, cũng như biết tri ân các bậc tiền nhân đã hy sinh dựng xây Đất nước ngàn đời, mà thế hệ trẻ ngày nay cần phải có trách nhiệm gìn giữ non sông và bảo vệ chủ quyền Đất nước trọn vẹn. Và nhân ngày Vu Lan chúng ta có thể bày tỏ thái độ của mình trong việc giữ gìn thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống trên Trái Đất: "Be Veg, Go Green, save our Planet" (Ăn chay, hành trình xanh, cứu hộ Hành tinh của chúng ta)

Quang Lâm -Mùa Vu Lan 2009 (Nhà Văn hóa Thăng Long)

nguồn: báo giacngo

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vu Lan, nhớ về bài thơ “Mất mẹ”…

Mỗi lần đọc bài thơ này của Xuân Tâm tôi lại thấy bùi ngùi. Những năm sau này, đọc lại bài thơ tôi vẫn còn cái cảm giác chông chênh của một đứa trẻ không bao giờ lớn nổi trong thơ ông.

Posted ImageMẹ.

Mất mẹ

Năm xưa tôi còn bé

Mẹ tôi đã qua đời

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận trẻ mồ côi

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi

Mặc dòng nước mắt chảy

Là bớt khổ đi rồi

Độ nhỏ tôi không tin

Người thân yêu sẽ mất

Hôm ấy tôi sững sờ

Và nghi ngờ trời đất

Từ nay tôi hết thấy

Trên trán Mẹ hôn con

Những khi tôi phải đòn

Đau lòng mẹ la lại

Kìa nhà ai bên cạnh

Mẹ con vỗ về nhau

Tìm mẹ tôi không thấy

Khi buồn biết trốn đâu

Hoàng hôn phủ trên mộ

Chuông chùa nhẹ rơi rơi

Tôi biết tôi mất mẹ

Là mất cả bầu trời

Xuân Tâm

Vẫn đôi mắt ngơ ngác u buồn ấy, hun hút tìm bóng mẹ cuối trời xa khi bóng chiều dần tắt. Nó chứa đựng cả nỗi đau khổ, sự hoang mang đến lạnh người của một niềm vô vọng để tìm kiếm mẹ:

Năm xưa tôi còn bé

Mẹ tôi đã qua đời

Lần đầu tiên tôi hiểu

Thân phận trẻ mồ côi

Câu thơ mở đầu bài thơ đơn giản như là một lời nói tự nhiên vỡ òa như tiếng khóc. Mất mẹ, hai tiếng đó như hàng ngàn mũi kim châm trong trái tim con trẻ. Một sự thật bắt buộc phải hiểu, một thân phận bắt buộc phải mang sao quá đỗi nặng nề đối với một đứa trẻ không thể thiếu bóng mẹ.

Câu thơ tiếp theo như diễn dải nỗi đau buồn của đứa trẻ mất mẹ.

Quanh tôi ai cũng khóc

Im lặng tôi sầu thôi

Mặc dòng nước mắt chảy

Là bớt khổ đi rồi

Độ nhỏ tôi không tin

Người thân yêu sẽ mất

Hôm ấy tôi sững sờ

Và nghi ngờ trời đất

Mất mẹ đem đến một cảm giác hoang mang cực độ. Ta thấy đứa trẻ trong bài thơ như đứng trước một vực thẩm hun hút sâu không có bàn tay nào dẫn dắt. Nước mắt có thể làm vơi đi mọi nỗi đau, nhưng cái cảm giác không còn mẹ thì không thể nào xoa dịu nổi, bởi lẽ:

Tìm mẹ tôi không thấy

Khi buồn biết trốn đâu

Một sự lí giải hồn nhiên nhưng mang đầy ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc. Ngẫm ra ở trên đời, chỗ dựa yên bình nhất vẫn là tấm lòng của mẹ. Mẹ là thế, không cao xa, không cách biệt mà gần gũi vô cùng. Với con trẻ, mẹ đơn giản chỉ là một chỗ trốn khi buồn, khi giận dỗi, khi đớn đau. ấy vậy mà cuối cùng:

Tôi biết tôi mất mẹ

Là mất cả bầu trời.

Cái hình ảnh cuối cùng của mẹ mà người con hiểu ra là thế. Mẹ là bầu trời. Mất mẹ con như không còn ánh sáng, không còn đước nhìn thấy những tươi vui náo nức của cuộc đời trước mắt.

Posted Image

Mộc mạc, giản dị và khiêm nhường, những lời thơ của Xuân Tâm trong bài thơ "Mất mẹ" là tiếng lòng của người con yêu quý mẹ. Hình ảnh xuyên suốt cả bài thơ là đứa trẻ con ngơ ngác buồn buồn không tìm thấy cả lối về trên con đường chiều hun hút gió.

Trải qua bao nhiêu thăng trầm của thời gian, Xuân Tâm - "người thơ" cuối cùng của Thi nhân Việt Nam, dẫu ở cái tuổi "xưa nay hiếm"rồi vẫn suốt đời chỉ là đứa trẻ con trong mắt mẹ.

St

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay