Posted 28 Tháng 7, 2011 Sắc và Không Nghiên cứu nền văn minh cổ đại Lạc Việt, ta dùng từ “người Việt” là để nói chung đại tộc Việt. Thông thường, ta nói “người Việt” hàm ý là người Việt Nam bất kể sắc tộc bản địa nào sống trên đất nước Việt Nam (vì thực tế trong gen chỉ ra rằng thời cổ đại đều thuộc đại tộc Việt cả mà thôi, vì vậy trong ngôn ngữ Việt Nam có từ “đồng bào”). Nhưng về ngôn ngữ thì ngôn ngữ chung dùng cho giao tiếp cộng đồng cả nước Việt Nam, ta gọi là ngôn ngữ Việt Nam, mà đó là tiếng Kinh. Người Kinh là sắc tộc đa số ở Việt Nam. Bởi vậy “ngôn ngữ Việt Nam” hay “tiếng Kinh”, ta dùng từ thông dụng gọi là “tiếng việt”. Dùng từ “tiếng Việt” chứ không gọi lộn là “Việt 粤 ngữ 語”, vì từ “Việt 粵 ngữ 語” thì trong Hán ngữ hiện đại dùng để chỉ tiếng Quảng Đông, chữ Việt 粵 này viết bằng chữ “Việt 粵 ở”. Người dân Quảng Đông cũng gọi “tiếng Quảng Đông là “Việt粵 ngữ 語”, món ăn Quảng Đông thì gọi là “cơm Việt 粵”, nó khác với “cơm Triều Châu” hay “cơm Trung Quốc”. Vậy trong lịch sử thì danh từ “người Kinh” có trước hay danh từ “người Việt” có trước? Tôi cho rằng danh từ “người Kinh” là có trước. Trong tiếng Việt thì bất cứ cái gì có tồn tại đều gọi là Kẻ: vật, người đều là Kẻ hết vì chúng đều là có xuất hiện, tồn tại và kết thúc. Theo QT Lướt thì “Có Đẻ”=Kẻ, nó là cái có xuất hiện thành một cuộc đời. Nhưng cái Kẻ chỉ bản thân thì lại là “Kẻ Mình”=(lướt)= “Kinh”, đó là cách người Kinh tự xưng. Dân tộc nào trên thế giới cũng lấy danh từ tự xưng để chỉ tộc người của mình. Như đã giải thích theo QT: Kẻ=Thẻ=Thể=Thịt=Thân=Thần=Mẫn=Minh=Mình (theo nghĩa mà dịch tương ứng sang Hán ngữ thì có phiên âm: Zi, Pian, Ti, Rou, Shen, Min, Ming, Min. Chúng không thể tạo được QT để có thể nối với nhau bằng dấu =, thể hiện là cùng một nôi khái niệm), lại liên tục từ vô tri như Thẻ hay Thể đến có Thịt rồi có Thần (thần kinh) để có Minh tức là có hồn để thành Mình. Vậy danh từ “người Kinh” là một danh từ đáng tự hào vì nó nghĩa đen là kẻ có hồn tức có tư duy, là người, khác với loài vật. (Vậy mà người ta cứ khăng khăng là trong nôi khái niệm trên, những chữ có viết bằng chữ nho như: Thể 體, Thân 身, Thần 神, Mẫn 敏, Minh 冥 ấy là “từ Hán-Việt”. Chữ Mình không có viết bằng chữ nho, ở trên do tôi phiên âm là Min mà thôi. Khi đã thành danh từ “Kinh” thì gọi phân biệt với các Kẻ khác (tức các sắc tộc khác) là Kẻ Kinh (mà người Tày, người Thái gọi Kẻ Kinh là Cần Keo). Người Kinh lấy vỏ cây Lanh làm sợi dệt ra vải, vỏ ấy phải là vỏ Già=vỏ Dày gọi là Vỏ Cái. “Vỏ Cái”=(lướt)=Vải, có Vải mới có Váy, có Váy mới có Vận=Quấn, cái “Mình Quấn”=(lướt)= “Mấn” ( đó là “Cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không”), cái “Mình Quấn” ấy chữ nho viết là chữ Quần 裙, người Hán phát âm là “xuýn” để chỉ cái Váy. Còn đàn ông thì vận cái “Không cho Lộ”=(lướt)= “Khố”, chữ nho viết là chữ Khố 裤, người Hán dùng chữ ấy, phát âm là “khu”, lại để chỉ cái quần hai ống, vì họ là dân du mục, ngồi lưng ngựa, không mặc váy. Đàn bà người Kinh mặc Váy và Yếm. Sau đến thời kim loại đồ đồng mới làm ra kim để may thì Yếm=Y 衣 =Aó袄 =Bào 袍, yếm thành ra có ống tay để xỏ, nên “Xỏ Yếm”=(lướt)= “Xiêm”, mới có từ đôi là Xiêm Y, Áo Bào. Y phục ngày càng phong phú, nhưng tất cả các thứ đó đều từ cái Yếm của đàn bà người Kinh mà ra cả (Hán ngữ hiện đại không dùng từ Áo 袄, cho rằng đó là “tiếng Hán cổ”, mà dùng từ “thượng y 上 衣” để chỉ cái áo). Cây lấy vỏ làm sợi gọi là cây Kinh 荆 hay cây Sở 楚 (Sợi=Sở), chữ nho viết cây Kinh 荆ấy là chữ Kinh荆 , cũng để chỉ người Kinh 荆 < chữ hoàn toàn là “hội ý” gồm bộ thảo 艹 là cây cỏ+ bộ đao 刂 là dùng dao+ bộ khai 开 là bóc vỏ, chẳng có âm “inh” nào, vẫn đọc là “kinh”, vậy âm gốc của nó phải là “Cây Lanh”=(lướt)= “Canh”= “Kinh”, dùng để chỉ người Kinh thì từ đôi Canh Kinh=Cần Keo mà người Tày và người Thái vẫn gọi >, danh từ người Kinh còn gọi là người Kinh荆 Sở楚 hay người Kinh荆 Man蠻, nước Kinh荊 Sở楚 hay gọi tắt là nước Sở 楚. Về sau không biết từ bao giờ chữ Kinh 荊 chỉ người Kinh 荊 được thay bằng chữ Kinh 京, chỉ là mượn chữ để phiên âm vì trùng âm “kinh” mà thôi. Thời còn là người Kinh ấy, cả vạn năm sau mới thành gọi là người Việt, công cụ để người Kinh tạo ký tự, sau thời dùng thắt nút thừng, là công cụ Cứng để Kẻ nên mới có ký tự là kẻ vạch như biểu tượng bát quái đã thấy, Kẻ=Que=Thẻ=Quẻ=Quái, mà mỗi tên trong bát quái đều là tên phát âm bằng tiếng Kinh, đúng nghĩa mà nó biểu trưng < Ví dụ quẻ Ly là Lửa, người Hán về sau mượn chữ có âm na ná để “giả tá” là chữ Ly 离nghĩa là Lìa, Rời, chỉ được phần âm, còn phần nghĩa của chữ thì chẳng logic tí nào cả. Những chữ trong 12 con giáp cũng vậy, nó là tiếng Kinh, ví dụ Ngọ là chỉ con ngựa, người Hán mượn chữ Ngọ午 là giờ Ngọ tức giờ giữa trưa là lúc của cái giờ “Ngày Rõ”=(lướt)=Ngọ của tiếng Kinh để phiên âm từ Ngựa, chỉ được phần âm còn nghĩa thì chẳng logic gì với con ngựa của tiếng Kinh cả. Ngay cả chữ nho Ngự 御 cũng liên quan đến con ngựa của tiếng Kinh, đó là cái động tác người chủ điều khiển con “Ngựa Dữ”=(lướt)=Ngự 御, mà Hứa Thận hai ngàn năm trước trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự là “từ điển đầu tiên trong lịch sử của Trung Hoa” đã giải thích Ngự 御 là “Sử mã dã !” tức “Sửa (khiến) ngựa ạ !”. Chẳng qua người Hán về sau đã nâng chữ đó lên tính hàn lâm như trong từ “chế ngự”, “phòng ngự” mà được gọi là “từ Hán-việt”(!), phải gọi chính xác nó là từ Việt-Hán, tức nó là tố gốc Việt, phát âm như Việt (thì mới đúng như Hứa Thận dạy phát âm), được Hán ngữ sử dụng, phát âm lơ lớ là “uy” vì người Hán không phát âm được vần “ng” như người Quảng Đông nói Việt 粤 ngữ 語 vẫn phát âm được vần “ng”, ví dụ từ “ngộ” > Thời còn dùng công cụ Cứng để Kẻ ký tự, người Kinh đã tạo các hoa văn trên gốm toàn bằng các kẻ thẳng gọi là Kẻ Chỉ < “Kẻ Chỉ”=(lướt)=Kỷ >, để làm cho Hình Ra <Hình Ra=(lướt)=Hà >, đó là hoa văn mà khảo cổ học gọi là hoa văn Kỷ 幾 Hà 何 có trên đồ gốm của các di tích khảo cổ dày đặc trên đất Hoa Nam mà các nhà khoa học Trung Quốc nhận định là di tích của người Bách Việt ( chữ Kỷ Hà chỉ là chữ mượn “giả tá” để phiên âm, vì nghĩa chữ không logic với tiếng Kinh, chữ Kỷ 幾 nghĩa là “mấy?” làm sao logic được với nghĩa “Kẻ Chỉ”, chữ Hà 何 nghĩa là “thế nào?” làm sao logic được với nghĩa “Hình Ra”) , hoa văn Kỷ Hà còn tồn tại phong phú trên thổ cẩm thêu của người Mường và các sắc tộc bản địa khác ở Việt Nam. Các động từ thể hiện việc tạo tác hoa văn trên mặt gốm của tiếng Kinh là: Kẻ=Khẻ=Khứa=Khoét=Khót (nạo bên trong)=Khắc, mà chữ nho chỉ có một chữ Khắc刻. Khi phân tích cặp từ đối Đi/Ở nguyên thủy là Ù/U ta đã thấy tính đối Dương/Âm của nó, và diễn giải bằng số học nhị phân thì U=0. Nhưng chỉ cần thêm dấu Huyền cho U thì thành Ù là đối nghịch ngay. Vậy mà chữ Huyền trong tiếng Việt có nghĩa là màu Đen (“Răng đen nhưng nhức hạt huyền”,bởi vì Lửa=Lả=Tá=Tỏ=Đỏ=Đun=Hun=Hóng=Hoẻn=Huyền, nó đã từ trong Đỏ của Lửa là Dương mà sinh ra Huyền là Âm qua một quá trình dài Cháy Đẫy= Chãy để thành bồ hóng). Màu Đen theo Ngũ Hành là màu của Nước, vậy Huyền là Âm, theo số học nhị phân thì Huyền=0. Thêm vào tức là phép tính cộng, ta có: U+Huyền=0+0=1 (đúng như số học nhị phân) mà 1 lại là Ù=Dương. Cũng vậy, trong sự hình thành một người Kinh: Kẻ=Thẻ=Thể 體 =Thịt=Thân 身 =Thần 神 =Mẫn 敏 =Minh 冥 = Mình có từ đôi “Kẻ Mình”=(lướt)= “Kinh”. Nôi khái niệm dẫn từ vô tri đến có Thịt rồi có Thần rồi có Minh là hồn (cũng có từ đôi là “thần hồn” chữ không thể đảo ngược nói là “hồn thần”, như qui tắc của từ dính). Chữ Minh 冥này là cái hồn khi chưa ra cuộc đời, đang còn trong Ổ tức trong bụng mẹ, nó là hồn Âm. Chỉ cần thêm dấu Huyền thì nó thành Mình, là một hồn ở ngoài Dương, gọi là ra đời. Theo số học nhị phân Minh=0, cộng thêm Huyền=0, ta có Minh+Huyền=0+0=1, đó là Mình=1=Dương. Đưa thêm cái Huyền vào Minh冥 (là cái hồn khi chưa ra cuộcđời) thì thành Mình (là cái hồn ở ngoài đời), mà Huyền là màu đen, tức cái mà ngày nay ta gọi là “chất xám”. Vậy cái danh từ Kẻ Mình=Kinh, là người Kinh, nó đáng tự hào biết bao. Chữ Mình là nói cái hồn của người Kinh. Khi đã thành người Việt, thì gọi là Kẻ Việt. “Kẻ Việt”=(lướt)= “Kiệt”( nghĩa là xuất chúng, có từ ghép “kiệt xuất”), người Việt còn đặt chữ “Hồn Việt”=(lướt)= “Hiệt” (chữ này “hội ý” bằng chữ Hắc 黑là chất xám, với chữ Cát là tốt 吉, chẳng có biểu âm nào cả nhưng lại đọc là Hiệt, nghĩa là tài năng, tiếng thì là Hồn Việt=Hiệt), từ đôi Hiệt Kiệt là nói con người tài năng xuất chúng. Vậy mà tất cả chỉ từ một từ nghĩa là “đi” tức trạng thái hoạt động, năng động ( Ù=Vù=Việt=Kiệt=Hiệt ). Khi màu đen của bồ Hóng đã lên đến Hoẻn rồi thành Huyền là đã đen lắm rồi nhưng chưa tối đa. Đến “Huyền Đặc”=(lướt)= “Hắc” là tối đa, quá độ đó ắt thái âm sẽ biến thành dương, lúc đó nó bị đổi Tơi, Hắc biến thành Bặc, vẫn cùng Nòi vì cùng Rỡi, đó là màu Bạc (Hán ngữ dùng hai chữ nho này, phát âm Hắc黑 là “hây”, Bạc=Bạch白 là “bái”, trật với nguyên lý Âm Dương và với QT do trong phát âm). < Chỉ một việc tưởng chừng rất nhỏ là đặt tên cho cái dấu nhỏ, gạch hơi xiên trên con chữ latin thuộc cái Rỡi của Lời, gọi là dấu Huyền, đã thấy công lao của người xưa đặt ra chữ Nòng Nọc (khoa đẩu) ký âm, làm nền tảng cho việc latin hóa ký tự thành chữ Quốc Ngữ như ta dùng ngày nay, thật là ơn hết biết luôn . Bởi vậy người Việt Nam có câu “Ơn cha như núi Thái Son, Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra”.(Tôi sẽ giải thích câu này sau, bởi có người nói câu “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” là có xuất xứ từ bênTàu) > Từ đối nguyên thủy, nguyên tắc theo QT, chúng phải là hai từ cùng Tơi hoặc cùng Vời. Về sau do không nắm qui tắc, dùng lẫn lộn đi, nhiều từ có viết bằng chữ nho thì lại được dùng bên Tàu, lại bị coi là “từ Hán-Việt”. Ví dụ: Sự bắt đầu/Sự kết thúc, hai khái niệm nghịch này nguyên thủy nó được diễn tả bằng các cặp từ đối là: Chớm/Chung=Từ/Tận= Có/Kết= Hé/Hết= Mở/Mất= Khai/Khép= Đầu/Đuôi = Bắt/Bế=Cớm/Cùng. Các từ đôi tương ứng sẽ cũng tạo ra các cặp đối là Bắt Đầu/ Bế Đuôi=Cầu Cớm/ Cuối Cùng= Chớm Có/Chung Kết=Có Đầu/Kết đuôi=Từ Đầu/Tận Đuôi. Từ Việt không phải là nó cứ Sắc Sắc Không Không, cũng là Có cũng là Không, chẳng chính xác gì, như người ta nói. Thực ra từ Việt nó vô cùng chính xác, như số đếm hệ nhị phân vậy, 1 ra 1, 0 ra 0 đàng hoàng. Cặp từ đối SẮC/KHÔNG trong Phật giáo là có sau, không phải là từ đối nguyên thủy. Từ đối nguyên thủy của nó là cặp CHỘ/CHĂNG. Chộ nghĩa là thấy, là có, là 1, suốt dải đất miền Trung “trọ trẹ” người Việt vẫn dùng “Chộ” nghĩa là Thấy. Vì CHỘ=Lộ=Ló=Thó=Thấy=Thọ=Có=Cắc=Chắc=SẮC, có nghĩa là bản thân mình thấy, người khác không thấy (“Mày thó cái gì đấy?” nghĩa là “mày thấy cái gì đấy mà người khác không thấy”, Thó=Ngó, từ “Thó” sau được mở rộng nghĩa ra, là “ăn trộm” tức lấy chỉ mình mình biết, người khác không biết). Cắc là con số 1 (“chẳng có cắc bạc nào” nghĩa là không có một đồng bạc nào). Chắc là con số đếm 1 của hệ thập phân của người Việt, từ Chắc đến Chục là từ 1 đến 10, “Chắc” tiếng Tày nghĩa là Biết, tiếng Việt có từ đôi Biết Chắc là Biết+Chắc=0+1=1=nhiều, ý là biết nhiều hơn. Chăng nghĩa là không có gì cả, trống trơn, trong suốt. Vì CHĂNG=Trắng=Trong=Vong=Vắng=Vô=Mô=Mù=Mông=Trống=KHÔNG. Ngày nay ta dùng cặp từ đối Đen/Trắng là một cặp sai lầm, vì Đen cũng thuộc Âm, Trắng đồng nôi với Chăng cũng thuộc Âm, nguyên nhân là do dùng sai nghĩa từ “Trắng”, lấy làm màu, chính màu ta cần diễn đạt đó là màu Bạc (“Bạc như vôi”, đúng bản chất màu của nó. Dùng màu đặc trưng để đặt tên kim loại có Vàng, Bạc). Trắng nghĩa là không có gì , trống trơn, trong suốt (“mất trắng”, “trắng tay”. Tạo hóa cho vụ “Nổ Trắng”=(lướt)= “Năng”. Cái Năng ấy đã nở ra Nắng/Nước đều là thứ hoàn toàn trong suốt, hoàn toàn Trắng. Bản chất Lửa là Nắng, trong suốt không nhìn thấy được, sở dĩ thấy lửa màu đỏ hay vàng hay màu xanh là do các tạp chất cháy tạo ra mà thôi. Người Việt đã lấy hai cái trong suốt mà lớn lao nhất trong tạo hóa là Nắng và Nước để ví von với Ơn Cha và Nghĩa Mẹ. Tôi sửa lại cho đúng nguyên thủy của câu Việt ấy là: Ơn Cha như núi Thái Son. Nghĩa Mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Câu này hoàn toàn chuẩn ý đối: Ơn Cha/Nghĩa Mẹ, Núi/Nước, Thái Son/Trong Nguồn. Ơn Nghĩa là cặp từ đôi, Ơn=Nghĩa, tách thành vế đối. Núi=Nước, tách ra thành vế đối. Thái Son nghĩa là Nắng, từ đôi Thái Son, Thái=Son, vì Son là màu đỏ màu ngũ hành của nắng, nắng và lửa là một (lấy cái kính lúp hội tụ rọi thì có lửa ngay), như QT đã dẫn Lửa=Lả=Tá=Thá=Thái=Chái (phát âm Nam Bộ)=Chá (phát âm Quảng Ngãi)=Cháy (phát âm Bắc Bộ)= Chói (phát âm Triều Châu). Nắng là Sáng, là trong suốt, chữ nho viết Thái 彩 và Thái Hà 彩霞 nghĩa là ánh nắng mặt trời (câu “sáng danh Chúa ở côi Lời”). Trong Nguồn nghĩa là Nước, từ Trong Nguồn là một từ đôi, Trong=Nguồn, Trong là Trong suốt, như từ đôi Trong Trắng , Nguồn là cái năng lượng đầu tiên, kể cả cái đầu tiên của vũ trụ là cũng trong suốt, nước đầu nguồn cũng trong suốt. Ơn Cha nghĩa Mẹ lớn lao và trong suốt, trong sáng, như Nắng và Nước. Công lao thì có thể trả được bằng vật chất hoặc tinh thần, chứ ơn nghĩa thì không gì có thể trả được, chỉ có là phải nhớ thôi, mà muốn nhớ được thì cái tâm mình phải trong suốt. Đó là tất cả ý tứ của câu Việt. Người Tàu không hiểu triết lý đó. Họ dịch câu Việt thành: Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Chữ Trong này hiểu là từ bên trong, Nguồn hiểu là to lớn. Công chỉ đi với Lao thành công lao là một từ đôi, nói về sức lực cha mẹ bỏ ra cả đời cho con thì là Công Cha, Lao Mẹ. Khi nói công ơn thi đó là một từ ghép công và ơn, hai khái niệm khác nhau.Vế đối ở câu này không chuẩn. Do nghĩ sai như vậy nên Thái Son được phiên âm thành Thái Sơn 太 山 tức núi Thái, là trái núi quá to, viết chữ là Thái Sơn 太 山 , nghĩa là núi to thái quá (để ví với cái công). To và đẹp làm sao được bằng Nắng và Nước. Cái ơn nghĩa phải là trong suốt, làm ơn cũng trong suốt, nhớ ơn cũng trong suốt. Cái đơn giản mà cao cả ấy người Việt chỉ viết bằng một chữ nho là chữ Trạch 澤. Từ Trạch trong từ điển giải thích nghĩa là ơn huệ, như từ đôi “ân trạch”. Nhưng biểu ý của chữ thì nó là từ Việt: “Trong sạch”=(lướt)=Trạch 澤, như bản chất của nước, ơn huệ là cái trong sạch, vô tư. Ở chùa Ông Bổn của đồng bào Hoa gốc Phúc Kiến tại 264 Hải Thượng Lãn Ông phường 14 quận 5 , chính điện có bức hoành phi đề 4 chữ Trạch 澤 Cập 及 Lân 鄰 Phong 封 nghĩa là ơn huệ (của tổ tiên) đem đến với vùng láng giềng gần, hoặc đem cái lòng trong sạch mà đến với láng giềng gần. (Chữ Lân là “Láng giềng gần”= “Lân”. Chữ Phong là Vùng. Nguyên chữ Phong 封 là chữ kiểu “hội ý” gồm hai bộ thổ 土 là nhiều đất, bộ thốn 寸 là tấc tức có đo đạc, không có biểu âm gì mà lại đọc là Phong, vì gốc nó là từ Việt: “Phát cho nhiều đất trong một Vòng”=(lướt)= “Phong”, một vòng thì có lớn có nhỏ nhưng chắc chắn là có đo vì có bộ thốn 寸. Các tên địa danh ở Lĩnh Nam đều có gốc Lạc Việt là “Phong 封” nghĩa là Vùng lớn. Nếu theo nghĩa này như của tiếng Choang, thì phủ Khai Phong ở Trung Nguyên vốn nguyên thủy nó phải là phủ “Phong Khơi”, tức “Vùng lớn Mới” , vì so lịch sử thì nó vẫn là mới hơn Phong Châu ở Việt Nam hay Phiên Ngung ở Quảng Đông. Khai Mới=(lướt)=Khơi , đi biển khi ra Khơi thì càng ra càng Mới. Ví dụ ở phía bắc Hợp Phố thuộc Quảng Tây có Phong Xuyên 封 川, Phong Khê 封 溪 ( Phong Xuyên nghĩa là “Vùng lớn của Sông”, Phong Khê nghĩa là “Vùng lớn của Khe”, còn giải nghĩa theo cấu trúc Hán ngữ và biểu ý chữ là “Sông bịt Kín” và “Khe bịt Kín” thì vô lý), Phong Sơn 封 山, Phong Khai 封 開; ở đông Khai Bình cũng có Phong Khai 封 開; ở tây nam huyện Nhữ Nam có Phong Môn Sở 封 門 所; ở bắc Tân Hội có Phong Lạc 封 樂; ở đông bắc huyện Phong Khai có Phong Hưng 封 興,v.v. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites