Lãn Miên

Phân Tích Ngôn Từ Việt Bằng Qt

1 bài viết trong chủ đề này

Phân tích ngôn từ Việt bằng QT

Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên (gọi tắt là QT):

1.Qui tắc Vo ( qui tắc 1): Đưa từ đa âm tiết (của ngôn ngữ chắp dính) vào trong cái Vò của Việt gọi là Vò Việt là một cái “Nôi khái niệm” để vo tròn như vo gạo trong cái rá, từ đa âm tiết sẽ bị rụng những phụ tố đầu đuôi để chỉ còn mỗi cái “Lõi” thành một “ Lời” là một Từ đơn âm tiết.

2.Qui tắc Nở ( qui tắc 2) : Một từ đơn âm tiết là một cái “Tế” ở trong “Nôi khái niệm” là cái bầu, cái “Tế” ấy sẽ tự sinh sản theo kiểu tách đôi như cách sinh sản của tế bào thành “Tiếng” là một “Từ” hai âm tiết dính nhau không thể đảo ngược thứ tự khi phát âm, gọi là “từ dính” , mang khái niệm lấp-lửng. Rồi từ “dính” đó mới tách rời hẳn thành hai từ đơn âm tiết nữa, một từ mang tính Âm và từ kia mang tính Dương.

3.Qui tắc Nút hoặc gọi là qui tắc Đổi Tơi ( qui tắc 3) : Là phối tố đầu, theo kiểu “Biến phụ âm đầu mà bất biến âm vận đuôi”. Tôi gọi là qui tắc “Nút” vì có mỗi một cái chai rượu thì trước sau gì nó cũng gọi là chai, chỉ có cái Nút ở đầu nó thì cứ việc thay đổi bao nhiêu kiểu nút khác nhau mà chẳng được. Tố đầu=Phụ âmđầu=Tiếp đầu ngữ=Tơi. Qui tắc này cũng gọi là qui tắc Đổi Tơi.

4.Qui tắc Rút hoặc gọi là qui tắc Đổi Rỡi( qui tắc 4): Là phối tố đuôi, theo kiểu “ Biến âm vận đuôi mà bất biến “cái Có phụ âm đầu” hoặc “cái Vắng phụ âm đầu”. Tôi gọi nó là qui tắc “Rút” vì có mỗi một cái máy xe thì thương hiệu ( cái “Có phụ âm đầu”) và số ( cái “Vắng phụ âm đầu”, vì số có khi đã cà để làm cà vẹt rồi, có khi chưa cà) của nó là cái đầu, đã đăng ký rồi nên phải bất biến, còn cái ruột nó thì cứ việc rút mà đổi đồ lô, đồ nhái gì mà chẳng được ( đồ Lô=đồ Lõi= đồ Lọi=đồ Nọi= đồ Nội, Tây nó mượn của Ta nó phải gọi là Local chứ Từ Việt là bao la từ thời cổ đại). Người Việt vẫn nói Lục Lọi nghĩa là lục từ trong ra. Tố đuối=Âm vận đuôi=Tiếp vĩ ngữ=Rỡi. Qui tắc này cũng gọi là qui tắc Đổi Rỡi.

5.Qui tắc Lướt ( qui tắc 5): Là lướt một cụm từ gồm hai hay nhiều từ hoặc thậm chí cả một câu dài thành một từ hoặc một cụm từ đồng nghĩa.

6.Qui tắc Tháp ( qui tắc 6): Là ghép hai từ đồng nghĩa dị âm lại với nhau thành một từ đồng nghĩa có hai âm tiết theo qui luật từ đơn âm nào đã dùng trước trong tiếng Việt thì đứng trước trong từ ghép, từ ghép ấy nhấn mạnh ý hơn tức “nhiều”, “nhiều loại cùng loài ấy”. Tôi dùng chữ “Tháp” của nông dân ghép cây, rất chính xác, tức đặt tiếp theo cái cũ mà sẽ cho hiệu quả cao hơn .Qui tắc này cũng gọi là qui tắc Từ Đôi.

7.Qui tắc Lặp (qui tắc 7): Là lặp lại một từ thành từ có hai âm tiết ( đương nhiên đồng âm) cùng ý nghĩa nhưng nhấn mạnh hơn.

Phân tích TỪ ĐÔI theo QT:

Đặc điểm đặc sắc nhất của tiếng Việt là “đơn âm thành nghĩa” (theo khẳng định của các học giả Trung Quốc, khi nghiên cứu ngôn ngữ Bách Việt cổ đại trên lãnh thổ Trung Quốc ngày nay) tức là nói ra một “tiếng” là đã thành một nghĩa hoàn chỉnh, đó chính là một “từ” (theo khẳng định của giáo sư ngôn ngữ học Việt Nam Cao Xuân Hạo). Một tiếng (phát ra là đơn âm tiết) mà có ngay một nghĩa hoàn chỉnh, đó chính là một “nhất nguyên”. Do tư duy Việt là tư duy phồn thực Âm Dương nên một “tiếng” phát ra có nghĩa ấy họ coi nó như là một cái “trứng”, mà biết Nói khi nó Nở rồi Nảy ra khỏi cái Nôi sinh ra nó (“Trứng”= “T,rưng” = “Tửng Từng Tưng”= “Tiếng”, như tiếng đàn, nên Cổ Hán Thư từ ngàn năm trước công nguyên đã có nhận xét rằng: người Bách Việt nói như chim hót). Cái Nôi để cho Nở ra tiếng Việt ấy chính là cái Mồm của người Việt, nhưng người Việt phân biệt rõ cái Mồm để ăn khác với cái mồm để nói thành tiếng là cái Miệng , “Mồm để nói thành Tiếng”= (lướt)= “Miệng” (về sinh học, chúng rõ ràng là hai cơ quan chức năng khác nhau có phân biệt rõ ràng; các ngôn ngữ khác kể cả Hán ngữ chỉ có dùng chung một từ “mồm” cho cả chức năng ăn cả chức năng nói). Giáo viên dạy tiểu học ngày nay không biết qui luật tạo ngôn từ của tiếng Việt nên câu “hãy luôn vệ sinh răng mồm” thì lại nói với học sinh “hãy luôn vệ sinh răng miệng”; câu “hãy mở miệng phát âm cho to” thì lại nói với các em “hãy mở mồm phát âm cho to”, không như thời xưa tôi học lớp đệ ngũ (lớp đầu tiên của cấp một bây giờ) được dạy phân biệt rõ ràng, dù thời đó Việt Nam chưa có thạc sĩ hay tiến sĩ ngôn ngữ học nào cả.

Một từ của tiếng Việt là một đơn âm tiết, nó có thể là một trong hai cách sau:

1-Một tiếng được kết cấu bằng phụ âm đầu với phần âm vận tiếp theo

Phần phụ âm đầu, ngôn ngữ học còn gọi là “tiếp đầu ngữ”, Lãn Miên gọi nó là cái Tơi tức cái vỏ của Tiếng, như cái áo tơi (tiếng Tây gọi là condom, còn ám chỉ cái “bao cao su”). Do tôi vận dụng Qui tắc Lướt vốn có của tiếng Việt, Tay Lời=(lướt)=Tơi, hoặc Tạo Lời=(lướt)=Tơi) cũng đúng logic vậy. Từ “Tay” trong tiếng Việt còn có nghĩa là một cá thể, một kẻ, theo QT thì Kẻ=Que=Cọc=Cây=Quái=Quẻ=Thẻ=Thủ=Thể=Tê=Tay. Vì người Việt cổ đại quan niệm mọi sản phẩm là do Tay làm ra, nên mới có câu thành ngữ “Giàu đôi con mắt, Có đôi bàn tay”, sự Giàu Có (lại một từ đôi Giàu Có ) là do tiếp nhận tri thức rồi bắt tay làm ra, ngày nay dù “thời đại kinh tế tri thức” thì vẫn phải gõ bàn phím vậy. Theo QT thì Tay=Tê=Tạo, nếu Tay và Tê, tương ứng như người Việt Nam và người Nhật Bản, cùng thuộc đại tộc Việt, vẫn phát âm để chỉ cái tay con người, thì từ Tạo cũng là của đại tộc Việt vậy, chứ làm gì phải là “từ Hán-Việt”, chữ nho “Tạo” ấy người Hán dùng và phát âm là “zao”.

Phần âm vận tiếp sau của Từ ( Từ tức một “Tiếng”, vốn là do cái “Tế” bào Trứng nở mà ra), Lãn Miên gọi nó là cái Rỡi. Rỡi là cái ruột của lời, “Ruột của Lời”=(lướt)= “Rỡi”, cũng tương tự như là cái Lõi của một vật, nên Rỡi đã mang dấu ngã của Lõi.

(Tiếng Việt khi diễn tả chu trình Lên và Lặn của mặt trời trong một ngày thì vốn có Blời=Trời=Lòi=Lộ=Lói=Rọi=Chói=Chang Chang= Nắng= Sáng =Láng= Lượng=Dương, nên có các từ đôi Nắng Sáng=Nắng Lượng=Năng Lượng; và Lụi=Rụi=Túi=Tối=Tịch=Tăm=Đắm=Đêm=Đậm=Âm, nên có từ đôi Đêm Tối, Túi Tăm). Một “Tiếng” phát âm ra của người Việt, vốn có nghĩa hoàn chỉnh ngay, thì nó là một Lời.

Giải thích ngay nguyên cớ vì sao tôi chọn gọi nó là Tơi: Cái áo tơi là cái áo lợp bằng lá gồi của người nông dân Việt Nam dùng khi đi làm ngoài đồng che cho người khỏi lúc mưa và khỏi cả lúc nắng rát, nên gọi là áo Tắm Phơi (người mẹ quở con khi thấy con đội mưa “ sao mày đi tắm mưa vậy con, cảm lạnh thì khốn”, hay khi thấy con đội nắng “sao mày đi phơi nắng vậy con, cảm nóng thì khốn”). “Tắm Phơi”=(lướt)=Tơi, nên gọi lướt là cái áo Tơi. Từ “tơi” mà tôi dùng cho ngôn ngữ này gốc do từ “tay”, mà “tay” là từ Việt nguyên thủy, còn có nghĩa là một cá thể, ta vẫn nói “tay này ngó bộ hiền lành”, từ “tay” của Việt đã biến chuyển: Tay (từ Việt)=Tê (từ Nhật)=Thể (từ Việt) =Thủ (từ Việt), rồi mới dẫn đến từ “cá thể” mà được coi là “từ Hán-Việt”. Cùng logic như vậy cái “Tay của Lời”=(lướt)=Tơi. Tay của Lời vì nó là cái đưa cho Lời ra. Cây lúa là cái xưa nhất gắn bó với người Việt cổ. Gặt bông lúa xong, phần còn lại của cây lúa gọi là Rạ hoặc Toóc. Cả hai từ này đều do Qui Tắc Lướt mà ra: Ruột Lá=(lướt)=Rạ, Ruột là cái bộ phận đã từng sinh ra lá của cây lúa; Ruột là cội nguồn của sự sinh ra, như câu thành ngữ “Rứt Ruột đẻ ra”. Đây là logic tư duy của cư dân nông nghiệp trồng trọt đầu tiên của nhân loại là tộc Việt, Ruột đã theo QT mà có Ru-ột=Hột (hay gọi như bác sĩ Nguyễn Xuân Quang là “giải phẫu chữ”). Lá của cây nào mà chẳng do Hột của nó sinh ra, nhìn cái hột nảy mầm thì thấy rõ ngay. Một cái cây nguyên thủy chưa bị chắp ghép để lai tạo gì thì cơ thể nó là cùng Nòi từ Ruột đến Lá, nên có từ đôi là Ruột Lá, Ruột và Lá là cùng Nòi khác Sắc, Ruột Lá theo qui tắc Nối ( mà bác sĩ Nguyễn Xuân Quang nêu) đã biến thành từ Ruột Rà (cũng như cụm từ Máu U tức “Máu của Mẹ” thì Máu U đã theo qui tắc Nối mà thành từ đôi là Máu Mủ, nên có cụm từ như một thành ngữ là “Máu Mủ Ruột Rà” để nói lên sự thuần chủng gen của đại tộc Việt). “Tay Gốc”=(lướt)= “Toóc”, hoặc là “Tơi từ Gốc”=(lướt)= “Toóc” cũng vậy, (từ Toóc này nghe có vẻ cổ và được cho là “quê mùa”, thực ra vẫn đang dùng phổ biến trong người Kinh ở vùng trung du Nghệ An, chẳng qua là một số viện sĩ ngôn ngữ học Việt Nam quyết gạt bỏ từ địa phương để tự tạo “từ Hán-Việt” dùng cho nó “sang”, như họ nghĩ, nên từ Toóc không được đưa vào Từ điển tiếng Việt mà thôi), Tay Gốc chính là tiền thân của Thể Gốc. Phần Rạ đã bị gặt đi để tuốt lấy hột lúa thì gọi là Rạ Cơm vì nó còn được dùng để làm cơm cho trâu bò ăn, “cơm” là cái phần ăn được, như cơm gạo, cơm dừa, cơm ổi, cơm na, bữa ăn cũng gọi là bữa cơm. Từ Rạ Cơm đã theo Qui tắc Lướt mà Rạ Cơm= (lướt)=Rơm.

Bởi vậy trong phân tích ngôn từ, phụ âm đầu của tiếng (hay còn gọi theo kiểu “Hán-Việt” là “tiếp đầu ngữ” ) thì tôi gọi nó là Tơi vì nó thực sự là cái áo tơi của “tiếng” (“tiếng” gọi kiểu “Hán-Việt” là “âm tiết”) và nó cũng chính là cái tay của lời vì nó giúp đưa lời ra, Tay Lời=(lướt)=Tơi, mặt khác Tạo Lời=(lướt)=Tơi. Nếu trường hợp không có Tơi tức trường hợp “vắng Tơi”, chỉ có mỗi cái Rỡi tức cái Ruột của Lời thì nó cũng đã tạo được Lời vì nó là một nguyên âm hay một âm vận (có tiếng phát ra), điều này chẳng khác gì không có áo quần thì nó vẫn là nó, như câu “Khác nhau tấm áo, manh quần. Cổi ra bóc trần ai cũng như ai”.

Ví dụ từ Hôi và từ Tanh thì H- và T- đều là cái Tơi, âm vận -ôi và –anh đều là cái Rỡi. Hôi Tanh là một từ đôi, vì Hôi và Tanh là cùng Chất tức cùng Nòi nhưng khác Sắc nhau, chung lại Hôi Tanh mang nghĩa Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn). Chính bởi mỗi tiếng ở qui tắc này đều có đầu là Tơi , là cái vỏ, nên người Việt mới biết nuôi loài chim dễ dạy nó bắt chước tiếng người và gọi nó là chim Tiếng, nhưng lại biết kỹ thuật bóc cái Tơi của Lưỡi nó khi nó còn nhỏ để cho lưỡi nó mềm dễ tập nói hơn, nên con chim Tiếng bị bóc mất Tơi rồi , tức mất “T” rồi thì thành ra gọi là con chim Yểng, sau thành tên gọi muôn thủa cho loài chim đó luôn.

2- Một tiếng được kết cấu bằng một nguyên âm đơn lẻ hoặc một âm vận.

Trường hợp này tôi gọi chúng chung là “tiếng vắng Tơi”. Ví dụ từ U và từ Em đều có mẫu số chung là “vắng Tơi” tức “vắng Phụ âm đầu”. Tại sao không dùng “không có”? Bởi vì “không có” là một khái niệm, tạo thành bằng hai từ Không và Có, đó đã là một câu phủ định hẳn hoi chứ không phải là một từ, “từ” của tiếng Việt chỉ là có một “tiếng” mà thôi. Ở đâu ra cái từ “vắng” ấy , mà khái niệm nó chuyển tải nghĩa là “không có mặt tại hiện trường” là cả một câu rõ dài. Nó chính là từ Qui tắc tạo ngôn từ Việt mà ra. Khái niệm Âm của người Việt tương ứng con số zero=0, mà 0=Mô=Vô=Nỏ=Chớ=Chăng=Chẳng, là những tiếng đơn âm tiết khác nhau nhưng có chung một nghĩa là “không”. Như vậy về “nghĩa” thì những “trứng” này là cùng một Nòi, chẳng hạn cùng là trứng gà hay cùng là trứng vịt; nhưng về âm phát ra tức về “sắc” ( như là sắc thể DNA) thì chúng khác nhau. Bởi vậy nếu hai từ trong số đó ghép cùng với nhau thì chúng như hai trứng cùng Nòi khác Sắc, như là trứng Đực và trứng Cái (Dương và Âm) hút lại với nhau trong một cái Nôi, như thành một cái trứng có hai lòng đỏ trong cùng một Nôi (khác với Tiếng đơn chỉ như một cái Trứng có một lòng đỏ) nên gọi là một Đôi (Đôi đã là hàm ý Âm Dương tương thuận rồi, như đôi đũa, đôi vợ chồng, nên chỉ gọi nó bằng một tiếng “Đôi” là đủ hiểu, như tư duy “đơn âm thành nghĩa” của ngôn ngữ Bách Việt). Đó là các từ Đôi vẫn được dùng thường xuyên trong ngôn ngữ dân gian Việt như: Mô Nỏ, Mô Chớ, Mô Chăng, Chăng Chớ, Vô Chẳng, vẫn cùng nghĩa với các Trứng đơn kia vì chúng đều cùng Nòi, nhưng vì chúng như trứng sinh đôi hai lòng đỏ nên Nghĩa của chúng mang khái niệm Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn) là chỉ dùng Trứng đơn một lòng đỏ.

Từ “Vô Chẳng”=(lướt)=Vắng, đã do qui tắc Lướt mà thành một “tiếng”.

Nhiều dân tộc gọi ngôn ngữ là Lưỡi, như tiếng Anh thì Lưỡi Mẹ (mather tong là Tiếng Mẹ Đẻ), tiếng Nga thì là Lưỡi Nga (i-a-dức Nga). Tiếng Việt thì ngôn ngữ cũng từ Lưỡi mà ra nhưng chẳng dùng thô thiển như vậy, Lưỡi cũng như Mồm, chia hai chức năng là chức năng bản năng và chức năng tư duy rõ rệt. Chức năng bản năng thì Lưỡi=Liếm=Nếm; chức năng tư duy thì Lưỡi=Lời=Nói (trong Hán ngữ chẳng thấy có cái Qui tắc tạo từ logic như vậy, chưa kể các ngôn ngữ khác). Ghép hai tiếng cùng Nòi khác Sắc là Lời với Nói thành Lời Nói (tức từ Đôi, “Âm Dương tương thuận”) thì Lời Nói có nghĩa là Ngôn Ngữ bởi nó hàm ý Nhiều, như Nở ra từ cái trứng có hai lòng đỏ. Về Nghĩa thì Lời=La=Lối=Ngợi=Ngôn (nó đã do từ Việt có trước rồi mới sinh ra “từ Hán-Việt”). Về Sắc thì Lời=Láy=Lái=Lóng=Líu-Lo=Lanh-Lảnh=Lảnh-Lót=Lẳng-Lơ=Lả-Lơi=Lắt-Léo=Lươn-Lẹo v.v. sinh ra theo Qui tắc Nở (là một trong các Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên) thành vô số từ dính diễn tả muôn sắc thái khác nhau của Lời. Về Nghĩa thì Nói=Gọi=Gạ=Na=Nga=Ngâm-Nga=Ngữ (nó cũng đã do từ Việt có trước rồi mới sinh ra “từ Hán-Việt”). Về Sắc thì Nói=Nạt=Nựng=Nịnh-Nọt=Nũng-Nịu v.v. cũng nở ra muôn sắc thái khác nhau của Nói.

Từ đôi là từ ghép bằng hai tiếng cùng Nòi khác Sắc. Hai tiếng cùng Nòi có thể đều là của Việt, có thể một của Việt, một mượn của tộc khác miễn là nó cùng Nòi (tức đồng nghĩa) để khái niệm thành ý Nhiều (hơn). Ví dụ cùng Nòi “gà” thì Gà (từ Việt) ghép với Qué ( từ Hoa, Qué=Kê, hay Cáy là từ tiếng Tày) thành từ đôi Gà Qué có nghĩa là nhiều loại gà; cùng Nòi “tre” thì Tre ( từ Việt) ghép với Pheo (từ Mường) thành từ đôi Tre Pheo có nghĩa là nhiều loại tre; cùng Nòi chó thì Chó (từ Việt) ghép với Má (từ Tày) thành từ đôi Chó Má có nghĩa là nhiều loại chó.

Từ Kẻ Sĩ không phải là một từ đôi mà chỉ là một từ ghép chỉ người có học. Kẻ Sĩ người Hán đã dịch theo kết cấu ngữ pháp Hán thành từ Sĩ Tử, có thể chấp nhận Sĩ Tử là một “từ Hán-Việt” vì nó viết theo kết cấu Hán là phụ trước chính sau ngược với kết cấu Việt là chính trước phụ sau, nhưng Sĩ và Tử đều là những tố gốc Việt. Chứng minh: Bắt đầu là từ Đẻ trong “Đẻ Đất Đẻ Nước”, Đẻ=Kẻ=Cò (thằng trai, tiếng Thanh Hóa)=Kô ( tiếng Nhật, Kô-đô-mô nghĩa là con trai)=Con (nghĩa là con trai)=Cái (nghĩa là con gái)= Cu (tiếng Vân Kiều)=Tu (tiếng Tày)=Tử ( có viết bằng chữ nho)=Tí (tiếng Việt)=Đĩ=Kỹ (kỹ nữ)=Sĩ (học giả). Trong tất cả 13 từ cùng Nòi chỉ người, của đại tộc Việt kê trên, chỉ có vài chữ được viết bằng chữ nho, người Hán mượn dùng những chữ đó. Cũng trong những từ cùng Nòi kê trên có các từ đôi như Cu Tí (chỉ bọn nhóc con), Con Cái (chỉ cả trai cả gái).

Phân tích TỪ ĐỐI theo QT:

Về hình thức thì từ đôi viết bằng hai “tiếng”, ví dụ từ Hôi Tanh; từ dính viết bằng hai “tiếng” nối nhau bằng một gạch ngang, ví dụ từ Lả-Lơi; thì từ đối nên viết bằng hai “tiếng” giữa có một gạch xẹt, ví dụ từ Đỏ/Đen (cũng như là Dương/Âm hay Một/ Mô tức 1/0). Bản thân Đôi/Đối cũng đã là một Từ Đối, vì Đôi mang khái niệm “Âm Dương tương thuận”, Đối mang khái niệm “Âm Dương tương nghịch”, hai nghĩa này nghịch nhau. Trong tiếng Việt, chỉ cần đổi một cái dấu thanh điệu khác đi là thành ngay một tiếng nghịch nghĩa với tiếng đầu, ví dụ đứa trẻ lên hai vừa biết nói đã biết biểu đạt phủ định “ Ứ!” là khái niệm “ không” và khẳng định “ Ừ!” là khái niệm “có”. Từ đối Ứ/Ừ là từ đối tạo thành bởi hai tiếng cùng “vắng Tơi”, còn nếu viết Ứ ừ ! thì đó không phải là một từ mà là một câu có nghĩa là “không đồng ý”. Chỉ cần đổi khác cái dấu thanh điệu là có ngay một khái niệm nghịch nghĩa với khái niệm đầu. Ví dụ Đôi/Đội cũng là một từ đối, vì Đội mang khái niệm “ nhiều cá thể”, nghịch với Đôi mang khái niệm “chỉ có hai cá thể”; Đối/Đổi cũng là một từ đối, vì Đổi mang khái niệm “khác đi không nhất thiết 180 độ”, nghịch với Đối mang khái niệm “khác đi phải nhất thiết 180 độ”. Ví dụ khác: từ đối Bó/Bỏ chính là Giữ/Thả, từ đối Bò/Bọ chính là To/Nhỏ (con Bò/con Bọ là so sánh con rất to và con rất nhỏ), Bỏ/Bõ chính là Uổng công/ Đã công, Bo/Bọ chính là Hào phóng/Keo kiệt (trong Pháp ngữ cũng có từ phát âm là “bo” đồng nghĩa với từ Bo của tiếng Việt ). Bản thân mỗi từ đối mang khái niệm là “cân nhắc toàn diện trong nghĩa vực của nó”, ví dụ nói “xem thử xinh/xấu thế nào” có nghĩa là cân nhắc lĩnh vực sắc đẹp xem thế nào.

Nguyên thủy thì các từ đối trong tiếng Việt phải là cặp tiếng có mẫu số chung là “cùng chung Tơi” hoặc “cùng vắng Tơi”. Cùng chung Tơi như cặp Sáng/ Sém ( Sáng và Sém cùng chung Tơi “S”), Xích/Xám (Xích và Xám cùng chung Tơi “X”), Đỏ/Đen (Đỏ và Đen cùng chung Tơi “Đ”, Tỏ/ Tối ( Tỏ và Tối cùng chung Tơi “T”), do nghĩa chúng tương tự nhau và người dùng không nắm qui tắc nên dần dần xếp lộn cặp như Sáng/Tối, Đỏ/Tối ( đỏ lửa / tối đèn).

Theo Qui tắc tạo ngôn từ Việt của Lãn Miên thì

Khái niệm lớn:Tỏ=Đỏ=Rõ=Rạng=Sáng=Láng=Lượng=Xương=Xích đã cho thấy là từ thuần Việt có trước, “từ Hán-Việt” có sau, là do cái “từ tố” của Việt, trong các chữ Việt ấy chỉ có vài chữ Việt có viết bằng chữ nho là Lượng, Xương, Xích và Hán có thể mượn của Việt để dùng, và được gọi là “từ Hán-Việt”.

Khái niệm nghịch với Tỏ là Tối: Tối=Túi=Tịch thì chỉ có mỗi Tịch của Việt là được viết bằng chữ nho, và Hán mượn dùng chữ đó để gọi Tịch là ban đêm, họ phát âm là Xi, do nó chính là âm Xì của Việt. Âm Xì này được sinh ra như thế nào? Người Việt có câu thành ngữ “Xám như màu Chì”, đã theo Qui tắc Lướt mà tạo ra “Xám như màu Chì”=(lướt)=Xì. Xì sẽ cùng nghĩa với Đen, nên mới có từ đôi là Đen Xì mang nghĩa Nhiều (hơn) tức Nhấn (mạnh hơn) cái khái niệm Đen (hai “trứng” rõ ràng là nhiều hơn một “trứng”, nếu thêm láy nữa là Đen Xì Xì thì lại càng mạnh ý hơn vì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”). Người Hán đã mượn âm “Xì” này và họ phát âm là “Xi” để đọc chữ Tịch, nghĩa là ban đêm. Mà từ Việt: Đêm=Đen=Hoẻn=Hắc=Hóng (bồ hóng thì màu đen)=Bóng (bóng của vật thì màu đen, Bóng Đêm hay Bóng Đen đều là những từ đôi để mang khái niệm ban đêm), trong những chữ cùng Nòi khác Sắc ấy chỉ có một chữ Hắc của Việt là được viết bằng chữ nho, người Hán mượn chữ ấy và phát âm chữ ấy là “hây”.

Cặp từ đối Âm/Dương, người Việt phát âm thì đúng như động tác cặp môi Mím/Mở (hay Ngậm/Toang), còn người Hán phát âm Âm/Dương là Yin/Yang, hai âm này cặp môi phát âm đều mở hết cỡ, vậy Yin/Yang chỉ là phiêm âm bắt chước mà thôi, không thể hiện được Đóng/ Mở như công tắc điện là môi trên môi dưới phải tiếp xúc chặt khi phát âm “Đóng” và nhả ra không tiếp xúc nữa khi phát âm “Mở”. Công tắc điện Mở/Đóng người Hán gọi là Khai/Quan, hai âm này khi cặp môi phát âm đều mở toang hết cỡ, làm sao phân biệt được là Đóng hay Mở, Ngậm hay Há miệng. Động tác Đóng/Mở của công tắc điện được điều khiển trong kỹ thuật số bằng con số 0/1 của hệ số đếm nhị phân: 0=Âm=Không có điện=Chẳng được gì, 1=Dương=Có điện=Được nhiều. Cặp số Không/Một cũng đúng động tác Ngậm môi và Mở môi của cái miệng Việt. Nguyên thủy thì nó là Mô/Một. Người ta quan niệm Âm là khái niệm khép kín (hướng nội), Dương là khái niệm mở mang (hướng ngoại) thì Mô và Một của tiếng Việt cũng phản ảnh đúng như vậy:

Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết, tức chẳng được kiến thức gì, vì “bế quan tỏa cảng”.

Một=Hốt=Nhốt=Nhặt=Nhận=Nhiều, tức tiếp thụ được nhiều kiến thức, vì “cải cách mở cửa” (Không “hốt” bạc thì cũng “hốt” được nhiều kiến thức, từ “hot” lại là “nóng” của tiếng Anh).

Nguyên thủy từ đối phải là cùng gốc như Âm Dương vốn cùng một gốc mà ra, nên hai tiếng trong từ đối phải có cùng mẫu số chung là “cùng Tơi” hoặc “cùng vắng Tơi”.

Ví dụ nguyên thủy của cặp từ đối Mưa/Nắng phải là Nước/Nắng.

Cặp từ đối Nước/Nắng phản ánh đúng nơi sinh ra thuyết Âm Dương Ngũ Hành là bán đảo Đông Dương có bên núi bên biển, chỉ rõ Âm tính động, Dương tính tĩnh, chỉ rõ phương hướng của Hà Đồ. Những điều này thể hiện rõ ngay trong qui tắc tạo ngôn từ Việt:

NƯỚC=Nổi=Sôi=Dội=Dậy=Đẩy=Đảo=Động=ĐÔNG=Đấm=ÂM=Sấm=Sóng=Chỏng=Chống=CHẤN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Nước Nổi=Nước Nôi, Sôi Động, Dậy Sóng, Chấn Động, Đẩy Chống (thuyền). Tất cả chúng đều biểu thị tính động của Âm.

NẮNG= Lắng=Lặng=Ắng=Im=Ương=DƯƠNG=Tượng=Tịnh=Tĩnh=TÂY=TỐN. Trong các từ cùng Nòi này có các từ đôi như: Tĩnh Lặng, Im Ắng, Lắng Lặng, Lẳng Lặng. Tất cả chúng đều biểu thị tính tịnh của Dương.

Người ta cũng quan niệm rằng cặp từ đối Âm/Dương cũng tương tự cặp từ đối Nữ/Nam hay tương tự cặp từ đối Ít/Nhiều (đúng như câu “Nam thực như hổ, Nữ thực như miêu, hay đúng như ở châu Á số đàn bà đang ít hơn số đàn ông). Điều này cũng thể hiện rõ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt:

Âm=Ít=Ỏi, có từ đôi Ít Ỏi. Âm tương đương con số 0 = Ít

Dương=Dồi=Dào=Diều=Nhiều, có từ đôi Dồi Dào. Dương tương đương con số 1 = Nhiều.

Trong số học nhị phân nó xử lý như sau:

0+0=1 (tức Thái Âm thì thành Dương)

0+1=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều)

1+0=1 (tức cân bằng Âm Dương thì thành nhiều)

1+1=0 (tức Thái Dương thì thành Âm)

(Đây là xử lý của mạch NAND trong kỹ thuật số, nó cũng đúng như sự tạo từ của tiếng Việt. Ví dụ từ đôi Gà Qué, cùng Nòi khác Sắc, tức Gà=1 Qué=0, 1+0=1 như Gà+Qué= =Gà Qué=Nhiều gà).

Âm là Nhu, Dương là Cương. Từ trong qui tắc tạo ngôn từ Việt cũng đã thấy được

1+1=0 (0 tức chẳng được gì, cũng như mất cả chì lẫn chài). Bản thân Biển Đông là Âm, tính của Âm đã là Động tức=1. Bây giờ bọn cường bạo lại đến quấy Động nữa tức đưa 1 vào để thành Động+Động như 1+1, tất 1+1=0, vậy thì bọn cường bạo sẽ chẳng được gì, mà sẽ được cái 0=Mô=Mất=Mông=Không=Hổng=Hết=Chết.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites