yeuphunu

Văn Hóa Việt

3 bài viết trong chủ đề này

Bản sắc Việt vẫn đậm đà trên cổ vật!

Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc, dân tộc Việt không ngừng chống lại sách lược đồng hóa của bọn phong kiến phương Bắc. Năm 43, nhà Đông Hán cử Phục ba tướng quân Mã Viện sang Giao Chỉ đàn áp cuộc nổi dậy giành quyền tự chủ của Hai Bà Trưng.

Chiến thắng, Mã Viện quyết tâm tiêu diệt văn hóa bản địa. Ra lệnh tịch thu tất cả vật phẩm của người Việt đúc thành ngựa đồng đem về dâng vua Hán. Đem thợ gốm từ Trung Quốc qua xây lò sản xuất dụng cụ sinh hoạt, thờ cúng mang dấu ấn văn hóa Hán tộc tại Tam Thọ (Đông Sơn - Thanh Hóa, phát triển từ thế kỷ thứ I - thế kỷ thứ IV). Dần dần trên mặt nổi, một hình thái văn hóa, mỹ thuật “Hoa hóa” chi phối giai cấp quan lại thống trị và giới Nho sĩ bản xứ phát triển tại trung tâm Đại La.

Posted Image

Rồng Lân Khánh Xuân Thị Tả

Posted Image

Bình hoa do nghệ nhân Bùi Thị Hí chế tác

Tuy nhiên, rất may cho dân tộc Việt trong thời kỳ đen tối này đạo Phật được các tăng sĩ Ấn Độ truyền bá đến vùng đất Đông Nam Á, trong đó có Giao Châu. Với tinh thần từ bi dung hợp được với truyền thống tín ngưỡng bản xứ, Phật giáo được người Việt chấp nhận dễ dàng. Điều này hình thành dòng chảy văn hóa ngấm ngầm trong làng mạc Việt, có bản sắc riêng gây được lòng tin tưởng để chống lại sách lược “Hoa hóa” lâu dài. Dựa vào sức mạnh này mà các lãnh tụ người Việt tiếp nối nhau phất cờ khởi nghĩa để giành lại nền độc lập cho đất nước, quyền tự chủ cho dân tộc.

Đến năm 906, Khúc Thừa Dụ chống lại nhà Đường tự xưng Tiết độ sứ cầm quyền tự trị Giao Châu. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, triều thần tôn làm Đại Thắng Minh hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.

Vua Đinh và con trưởng bị ám sát, ngai vàng chuyển về tay thập đạo tướng quân Lê Hoàn một cách êm ái nhờ Hoàng hậu Dương Vân Nga.

Nhà Tiền Lê truyền được hai đời kéo dài 29 năm do sự bạo ác của Lê Long Đỉnh nên quân dân làm “cách mệnh” tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, mở ra thời đại phục hưng văn hóa Đại Việt.

I. Triều Lý (1010-1225)

Posted Image

Linh thú chùa Phật Tích

Lý Công Uẩn sáng lập, truyền nối được chín đời vua. Đây là triều đại quân chủ Phật giáo rạng rỡ nhất trong lịch sử.

Sau khi đăng quang ở Kinh Đô Hoa Lư, vua quyết định dời đô về thành Đại La, đổi tên thành Thăng Long. Nhà Lý phối hợp nhuần nhuyễn hai hệ tư tưởng lớn Phật giáo - Nho giáo với truyền thống dân tộc để xây dựng nền tảng văn hóa vững chắc, đủ sức đề kháng với văn hóa phương Bắc áp đặt trên dân tộc suốt một ngàn năm.

Những di sản vật thể còn tồn tại đến nay cho thấy dưới thời Lý, văn hóa Việt giao lưu, tiếp thu nhiều yếu tố Phật giáo Đông Nam Á, được truyền từ Ấn Độ sang. Xã hội chưa bị ràng buộc theo những kỷ cương cứng nhắc của Nho giáo nên tư tưởng phóng khoáng, bao dung dễ hòa hợp. Nhờ đó mỹ thuật phát triển, tiến bộ rất nhanh tạo được những tác phẩm điêu khắc bằng đá tiêu biểu như tượng Phật Thích Ca, tượng Kim Cương Hộ Pháp, tượng các linh thú ở chùa Phật Tích, giếng nước chùa Báo Thiên…

Tác phẩm to lớn bằng đồng như tượng Phật Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh (An Nam tứ đại khí)... Các loại hình trang trí trên nóc chùa tháp, cung điện bằng đất nung rất đa dạng như rồng, kim xí điểu, nhạc thần, lá bồ đề, hoa sen… tuyệt đẹp. Đặc biệt là các loại đồ gốm men ngọc, men xanh lục, men ngà… kiểu thức thanh nhã, khắc họa hoa văn tinh tế, được xem là dấu ấn mỹ thuật của thời Lý, đậm đà bản sắc Đại Việt.

II. Triều Trần (1225-1413)

Posted Image

Các kiểu lá đề trang trí triều Trần

Nhà Trần thay thế nhà Lý diễn ra trong nội bộ hoàng gia, không gây ra những xáo trộn xã hội. Đạo Phật vẫn là quốc giáo, được triều đình, nhân dân sùng mộ, quy ngưỡng nhờ các vị vua đầu triều như Thái Tông, Thánh Tông, và nhất là Phật Hoàng Trần Nhân Tông.

Posted Image

Đầu Kim Sí Điểu và hình rồng thời Trần

Tuy nhiên, do phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh giữ nước, tài lực không phong phú như thời Lý, nên ít xây dựng những chùa tháp quy mô. Vật liệu kiến trúc trang trí chuyển sang dùng gỗ thay thế cho đồng, đá nên dễ bị hư hỏng. Thời Trần cổ xúy tinh thần “cư trần lạc đạo”, gần gũi với quần chúng nên hình thành phong cách mỹ thuật hiện thực, mạnh mẽ theo tinh thần thượng võ. Trên đồ gốm nhờ sử dụng men màu nâu nên các đề tài trang trí phong phú gây ấn tượng mạnh mẽ.

Biểu tượng “rồng bay” ổn định suốt hơn 200 năm dưới thời Lý, bước sang triều Trần có phần thay đổi. Mặt rồng dữ, toát ra vẻ quyền uy đế vương. Trên đầu có sừng, thân mập ngắn, không uốn lượn uyển chuyển kéo dài như rồng Lý.

III. Triều Lê (1428-1527)

Posted Image

Tượng phụ nữ quý tộc triều Lê

Đầu thời Lê, vẫn còn giữ truyền thống Lý - Trần. Dần dần để củng cố quân quyền theo kỷ cương Nho giáo, triều đình cải cách mô phỏng theo những định chế của triều Minh. Như việc vua Lê Thái Tông đã theo lời tâu của thái giám Lương Đăng cải cách Lễ nhạc, nghi vệ mà không theo ý kiến của Nguyễn Trãi. Do đó, tư tưởng Phật giáo không còn giữ được vai trò quan trọng tại triều đình, lùi về sinh hoạt tín ngưỡng trong dân gian. Luật lệ không cho phép xây dựng chùa chiền mới, hạn chế tăng sĩ. Mỹ thuật Phật giáo thời kỳ này không có dấu ấn đặc biệt.

Riêng công nghệ chế tạo đồ gốm, nhờ ứng dụng màu men lam để trang trí nên phát triển rực rỡ. Đồ gốm Việt Nam được các nước trong khu vực quý chuộng, xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Mã Lai, Nam Dương…

Ngày nay nhìn ngắm các họa tiết men lam, tam thái (ba màu: lục, đỏ, lam) trên đồ gốm Chu Đậu (Hải Dương) qua những hình ảnh phong cảnh, thú vật, chim hoa, côn trùng sinh động, vui tươi gần gũi với cuộc sống nông thôn Việt Nam, khác hẳn đồ sứ Trung Quốc cùng thời. Điều đó chứng minh rằng, hội họa Việt Nam từ thế kỷ thứ XV đã phát triển, được lưu lại trên đồ gốm Chu Đậu, mang đậm bản sắc truyền thống.

IV. Triều Mạc (1527-1592)

Posted Image

Lư hương thời Mạc

Posted Image

Chân đèn thời Mạc

Sau thời đại thịnh trị Hồng Đức (Lê Thánh Tông), triều Lê nhanh chóng suy thoái vì các vua hoang dâm, vô đạo như Uy Mục, Tương Dực. Năm 1526, Mạc Đăng Dung bức tử vua Lê Chiêu Tông để bước lên ngai vàng mở ra triều Mạc. Giới Nho sĩ chống đối quyết liệt, hai họ Nguyễn - Trịnh phất cờ “phù Lê diệt Mạc”.

Để đối phó tình thế, nhà Mạc bãi bỏ những quy định hạn chế đối với Phật giáo dưới thời Lê. Ủng hộ việc xây dựng, sửa chữa chùa đền để lấy lòng quần chúng. Khuyến khích thợ thuyền, mở rộng thương nghiệp… nhờ đó mà ngành mỹ nghệ gốm sứ đạt được kết quả tốt đẹp. Nhiều nghệ nhân nổi tiếng xuất hiện, sáng tác nhiều men màu, kiểu mẫu, để lại dấu ấn mỹ thuật của triều Mạc đặc sắc trong kho tàng di sản.

V. Triều Lê - Trịnh (1533-1789)

Posted Image

Chậu rửa mặt Nội Phủ Thị Nam - thời Lê Trịnh

Sau khi diệt được họ Mạc, giành lại ngai vàng đưa vua Lê trở về Thăng Long, họ Trịnh nắm hết quyền hành cai trị ở Bắc hà. Tiếp theo không giải quyết được bằng chiến tranh, hai họ Trịnh - Nguyễn chấp nhận phân chia lãnh thổ để làm chúa hai miền đất nước.

Cuộc nội chiến Trịnh - Mạc khiến trung tâm gốm Chu Đậu (Hải Dương) bị tàn phá nặng nề, rồi suy thoái dần mất hẳn thị trường. Kể từ thế kỷ XVIII, ngành công nghệ gốm trong nước chỉ sản xuất đồ vật gia dụng cho giới bình dân. Vua chúa, quyền quý đua nhau gửi kiểu mẫu đặt làm đồ sứ ở Trung Quốc để phục vụ nhu cầu sinh hoạt.

Từ giai đoạn này bắt đầu phát sinh “ĐỒ SỨ VIỆT NAM KÝ KIỂU”, dấu ấn của sự giao lưu, hợp tác chế tạo giữa Việt Nam và Trung Quốc. Điểm đặc biệt là trên đồ sứ ký kiểu vẫn đậm đà bản sắc Việt, nghệ nhân Trung Quốc chỉ sử dụng nguyên liệu cao cấp chế tạo sản phẩm theo đúng kiểu mẫu hoa văn trang trí, thơ văn đề vịnh Hán Nôm do chính chủ đặt hàng quyết định.

Di sản văn hóa là “của tin” của tổ tiên từ ngàn xưa truyền lại cho con cháu vạn đời sau. Nếu có tấm lòng thì nhìn nó không chỉ là đồ đồng, đá, gỗ, gốm... mà trong đó ẩn dấu hình bóng, tâm tình, của người xưa. Người đời sau có thể hiểu được nếp sống, tư tưởng của ông cha ngàn kiếp trước. Nếu thành tâm còn có thể cảm thông, trao đổi tâm tình với nhau thông qua di sản.

Có nhân duyên cầm trên tay một cổ vật ta có thể “hiệp thông” với quá khứ. Nước nào, nhà nào bất hạnh, di sản văn hóa của tổ tiên bị phá hoại, khinh thường thì nước, nhà đó đang đi vào tình trạng “vong bản”. Sống với cái xác không hồn, đúng là:

“Hại thay cái họa chết lòng

Lòng kia đã chết còn mong nỗi gì”.

(Phan Bội Châu)

Theo TTO

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Gốm Việt ở Viện Bảo Tàng Anh, Luân Đôn



Nguồn: trang web của Philippe Trương



Posted Image

1.- Chén có chân

Văn hóa Phùng Nguyên, 3.000 đến 1.500 năm trước Công Nguyên;

Đất nung có trang trí hình kỷ hà;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn: tặng vật của ông A. W. Franks, OAF 3100.

Posted Image



2.- Thẩu, thế kỷ thứ X-XII;

Gốm, có chạm hình trang trí và vẽ màu nâu gỉ sét;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, OA. 1931.3-20.1

Posted Image




3.- Nai rượu, thế kỷ thứ XIII-XIV;

Gốm, trang trí hình vẽ màu nâu gỉ sét;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, OA. 2002.3-26.1

Posted Image




4.- Nai và bôi, thế kỷ thứ XIV;

Gốm phủ men ngọc;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, sở hữu thuộc Quỹ Brooke Sewell Permanent, OA. 2002.3-26.2 và 3.



Posted Image



5.- Nai (gãy vòi) và hai cái bôi, thế kỷ thứ XIII-XIV;

Gốm, áo men ngà;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, sở hữu thuộc tiến sĩ Sheila Macroe, OA. 2002. 2-1.



Posted Image



6.- Chén:

a) Chén có chân (ở hàng 1) thế kỷ XII-XIV, Gốm tráng men màu nâu gỉ sắt; Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, sở hữu thuộc Quỹ Brooke Sewell Permanent, OA. 2002.2-24.

B) Chén hình nón cụt (hàng 2 bên trái), Gốm tráng men lục, Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, OA. 1974.9-17.5.



Posted Image



7.- a) Chén (hàng 1) thế kỷ XII-XIII; gốm tráng men ngọc trắng; do tặng của bà B. Z. Seligman; Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, OA. 1973.7-26.404.

B) Chén (hàng thứ 2) thế kỷ XIII; gốm tráng men nâu bên ngoài và men màu kem ở bên trong; Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, sở hữu thuộc Quỹ Brooke Sewell Permanent, OA. 2003.7-28.4.



Posted Image

8.- Nai hình chim phụng, thế kỷ XV;

Gốm men lục;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, sở hữu thuộc Quỹ Brooke Sewell Permanent, OA. 2003.7-28.3.

Posted Image



9.- Nai hình Kỳ lân, thế kỷ XV;

Gốm tráng có vẽ hình trang trí men lam cobalt (lam Hồi);

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, sở hữu thuộc Quỹ Brooke Sewell Permanent, OA. 2003.7-28.1.

Posted Image



10.- Nai hình “lý ngư”, thế kỷ 15;

Gốm có vẽ trang trí men nâu gỉ sét;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, sở hữu thuộc Quỹ Brooke Sewell Permanent, OA. 2003.7-28.2.



Posted Image

Posted ImagePosted Image

11.- Chóe, thế kỷ XV-XVI;

Gốm trang trí men đa sắc;

Bảo Tàng Anh ở Luân Đôn, OA. 1967.4-11.1.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tóm lược ý nghĩa hình tượng các con vật trên một số kiến trúc xưa ở Việt Nam

Tóm lược ý nghĩa hình tượng các con vật trên một số kiến trúc xưa ở Việt Nam

Hình tượng Rồng:

Đối với các nước phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo nghệ thuật có lịch sử lâu đời. Trên thực tế, rồng chỉ là sản phẩm của nghệ thuật, vì nó không tồn tại trong thế giới tự nhiên mà là sự sáng tạo nghệ thuật siêu tự nhiên. Cùng với sự phát triển của lịch sử, từ lâu các nước phương Đông hình thành nên quan niệm phổ biến về con rồng, tổng hợp trong con vật linh thiêng này là trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý tưởng, nguyện vọng, sức mạnh… Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở mỗi nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và sức sống vĩnh hằng, có ảnh hưởng to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã hội ở mỗi nước.

Đối với dân tộc Việt Nam, ngoài nét chung nói trên, rồng còn có ý nghĩa riêng, đó là nó chỉ dân tộc Việt Nam có xuất xứ từ con rồng cháu tiên. Từ câu chuyện huyền thoại chàng Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, sau nở thành một trăm người con, hình ảnh con rồng đã dần dần ăn sâu vào tâm thức của người Việt. Hà Nội là thủ đô cả nước, với tên gọi đầu tiên: Thăng Long (rồng bay). Vùng Đông Bắc nước ta có Hạ Long (rồng hạ), một trong những thắng cảnh đẹp nhất nước. Đồng bằng Nam Bộ phì nhiêu được làm nên bởi dòng sông mang tên Cửu Long (chín rồng). Không những là biểu tượng cho xuất xứ nòi giống dân tộc Việt Nam, rồng còn là thần linh, chủ của nguồn nước, mang lại sức sống mãnh liệt, làm cho mùa màng tốt tươi. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, chính vì vậy mà các vua chúa đã lấy hình tượng rồng đại diện cho uy lực triều đình. Thời Lê, rồng trở thành bản mệnh của nhà vua. Hình tượng rồng được thêu lên tấm áo vua mặc.

Trong thời kỳ đất nước ta bị lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, rồng Việt Nam chịu ảnh hưởng của những con rồng các thời Tần, Hán, Đường, Tống… và được cách điệu hóa dần dần để biến thành rồng hoàn chỉnh, tượng trưng cho uy quyền độc tôn của vua chúa phong kiến và thường được trang trí ở những nơi linh thiêng. Vào thế kỷ XI, dưới triều Lý, chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu được xác lập. Con rồng thật sự của Việt Nam đã được ra đời. Cho đến nay, rồng vẫn được sử dụng trong kiến trúc tôn giáo theo một số nét: mắt quỷ, sừng nai, tai thú, trán lạc đà, miệng lang, cổ rắn, vảy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng. Và con rồng luôn là hình ảnh sâu đậm trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.

- Hình tượng con Rùa: Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao và thân hình vững chắc. Nó có thể nhịn ăn uống mà vẫn sống trong một thời gian dài. Rùa không ăn nhiều, nhịn đói tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh.

Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa. Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo. Trong một số ngôi chùa thời Lý – Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai. 82 tấm bia đã ghi tên tiến sĩ đỗ đạt được đặt trên lưng rùa, một con vật biểu hiện sự trường tồn, hiện còn lưu giữ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội là bằng chứng hùng hồn biểu hiện nền văn hiến bất diệt của dân tộc Việt Nam.

- Hình tượng chim Phượng: Phượng là linh vật được biểu hiện cho tầng trên. Phượng thường có mỏ vẹt, thân chim, cổ rắn, đuôi công, móng chim cứng đứng trên hồ sen. Với ý nghĩa đầu đội công lý, mắt là mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, lông là cây cỏ, cánh là gió, đuôi là tinh tú, chân là đất, vì thế phượng tượng trưng cho cả vũ trụ. Khi phượng ngậm lá đề hoặc ngậm cành hoa đứng trên đài sen, nó biểu hiện là con chim của đất Phật. Tức là có khả năng giảng về đạo pháp, làm nhiệm vụ giống như các nữ thần chim: nhảy múa, hát ca chào mừng Phật pháp.

Quan niệm của người Việt Nam cho rằng phượng xuất hiện báo hiệu đất nước được thái bình. Chim phượng là loài chim đẹp nhất trong 360 loài chim. Nó có thân hình quyến rũ, kết tinh được vẻ đẹp, sự mềm mại, thanh lịch, vẻ duyên dáng của tất cả các loài chim. Chim phượng còn tượng trưng cho nữ tính, cho phái đẹp của tầng lớp quý phái.

- Hình tượng con Hạc: ở Việt Nam hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.

Trong tứ linh ” Long, Lân, Qui, Phụng” , con nghê biểu tượng thuần Việt đã thay thế con Lân do vậy tứ linh thú của người Việt là ” Long, Nghê, Qui, Phụng”.

Share this post


Link to post
Share on other sites