Posted 15 Tháng 7, 2011 Tản Mạn về Gốm Cổ Hội An Cổ Vật và Nghệ Thuật Những năm gần đây, sau cuộc khai quật một chiếc tàu buôn đồ gốm được thực hiện gần Cù Lao Chàm ngoài khơi của thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam thuộc miền trung nước Việt Nam bị chìm vào khoảng giữa thế kỷ 15,ngoài một số được bảo tồn và trưng bày tại những bảo tàn viện trong nội địa, người ta bắt đầu thấy nhan nhản những cổ vật được mời mọc, rao bán từ những tiệm buôn bán đồ cổ ở các địa phương như Hà Nội, Hội An, Sài Gòn… hoặc trên những trang mạng internet với danh hiệu là đồ gốm Hội An. Kết quả của những cuộc nghiên cứu về sau cho thấy những cổ vật này không phải được làm tại Hội An mà được sản xuất tại những lò gốm khác nhau, đa số được thành hình từ những lò ở phạm vi tỉnh Hải Dương mà lúc bấy giờ là một trong những nơi sản xuất đồ gốm rất mạnh mẽ. Ở một nơi quá thuận lợi cho việc giao dịch với những xứ đàng ngoài. Hội An, một thị trấn miền duyên hải miền Trung nước Việt vào thế kỷ thứ 15 đã là một thương cảng sầm uất nhất trong thời gian này, là một nơi tiếp nhận và trao đổi những hàng hoá qua các thương thuyền từ khắp nơi trong vùng Châu Á: Trung Hoa, Nhật Bổn đến từ miền Bắc, cũng như các thương thuyền từ Âu Châu như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha dde^'n từ vùng biển miền Nam. Bối cảnh lịch sử Vào khoảng đầu thế kỷ thứ 15, nhà Minh bên Trung Quốc thời bấy giờ vì phải một mặt đối đầu với quân Mông Cổ từ phương Bắc, một mặt với nỗi đau còn ray rức về thất bại trong mộng chinh phục phương Nam trước đó bị đánh bại bỡi vua Lê Thái Tổ cộng với nội bộ lũng củng nên đã ra lệnh tuyệt đối cấm giao thương với những nước lân bang và ngoại quốc, nhất là theo hệ thống đường biển. Thị trường đồ gốm vì lý do đó mà trở nên khan hiếm và không đủ số lượng để cung cấp cho đồ dụng trong nước và để trao đổi hàng hóa giữa các nước ngoại quốc. Các lò gốm Việt Nam lúc bấy giờ đã lợi dụng cơ hội để tăng gia sản xuất hầu đáp ứng nhu cầu càng ngày càng tăng. Những cuộc đào xới của giới khảo cỗ ở miền Bắc gần đây cho thấy trong thời gian từ thế kỷ thứ 15 và 16 những lò gốm xuất hiện rãi rác trải dài từ Hải Dương cho đến Hà Nội và đó cũng là thời gian cực thịnh nhất của ngành gốm của người Việt trong lịch sữ cận đại về phương diện số lượng xuất khẩu, phẩm chất và nhất là nghệ thuật. Trong chuyến hải hành của một thương thuyền từ bến Vân Đồn (gần Hải Phòng) trực chỉ về phương Nam để giao hàng đến các nước vùng Đông Nam Á, sức nặng của những kiện hàng đã vượt qua khả Năng chịu đựng của chiếc tàu cho nên khi vừa qua vùng Cù Lao Chàm thì bị thêm ảnh hưởng sóng to gió lớn của một cơn bão. Chiếc thương thuyền với toàn bộ thuỷ thủ, thương gia và những kiện hàng bị chìm xuống lòng biển sâu mang theo sự bí ẩn của ngành đồ gốm Việt Nam trong khoảng thời gian hơn 5 thế kỷ. Điều làm cho giới khảo cổ phấn khởi về khám phá ra chiếc tàu chìm là trong lòng tàu sau hơn 500 năm dưới lòng đại dương nay lại đươc khơi ra đã trả lời phần nào những nỗi suy tư mà họ đã có từ bao lâu naỵ Trong số những cổ vật gốm được vớt lên vào năm 1997 gồm có những bình, dĩa, chén, tô, lọ mực, hoặc những chum rượu có tượng hình được gợi ý từ những dạng của thú vật (chim, két, gà, vịt..) hoặc hoa quả (bầu, bí..) với nhiều tranh ảnh dân gian và những hoa văn đầy Việt tính được bao bộc dưới lớp men qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Hình 1: Những Cổ Vật Hội An / Butterfields Auction, 2000 Cổ Vật và Nghệ Thuật Hội Họa Nhưng quan trọng nhất lại là phẩm chất của nhiều cổ vật sau khi được hoàn chỉnh với những phương tiện tối tân của công ty trúng thầu Saga (Mã Lai) liên hợp với công ty Visal của nhà nước Việt Nam cho việc khai quật đã được phục hồi đến mức gần như tuyệt hão. Căn cứ theo hợp đồng thì nhà nước cộng sản giữ lại một phần những cổ vật được đánh giá cao cấp nhất để dùng vào việc trưng bày tại các cơ quan văn hoá (tủ kính của mấy ông lớn cũng có thể được gọi là cơ quan văn hoá?) và những bảo tàng viện rải rác trong nước. Phần còn lại, công ty Saga được quyền xữ dụng vào việc thương mại rao bán trong giới tư nhân qua những cuộc đấu gía tại nhiều nơi trên thế giới. Trong số gần 150,000 cổ vật được kiểm tra, ngoài một số bị hao mòn bởi sự phô trương quá lâu dưới độ sâu của nươc mặn, có một số gần như ở trạng thái nguyên vẹn như lúc mới đươc tạo hình. Sự khám phá chiếc tàu này đã làm đảo lộn sự suy nghĩ về nghệ thuật đồ gốm trải qua nhiều thế hệ và là một nguồn hào hứng vô tận của các nhà khảo cổ chuyên môn cũng như các nhà sưu tập đồ gốm từ mọi nơi trên thế giới. Hình 2: Con chim sẽ / Hội An (giữa t.k.15) private collection Trong số những cổ vật được đem ra ánh sáng, đa số là đồ gốm loại men lam, men trắng, men nâu và một số ít là loại không men như đồ sành để làm những vật gia dụng hằng ngày như lu, tô, chén, dĩa. Nhưng điểm son của những kiện hàng này là những đồ dùng cao cấp về hình dạng, cách tráng men và hội họa mà tính đặc thù của chúng đã xác đinh rõ ràng vị trí độc lập về cách phát họa, ý tưởng và trình bày của những nghệ nhận Việt thời bấy giờ; cho thấy sự vượt thoát khỏi khuôn khổ, nề nếp mà đã từng bao nhiêu năm có nhiều quan niệm cho rằng trong thời gian này các sản phẫm của nước Việt chúng ta đều thuần túy chịu ảnh hưởng bỡi ông láng giềng to xác từ phương Bắc. Hình 2 và 3 đưa ra thí dụ điển hình về sự khác biệt rõ rệt giữa nghệ thuật của người Việt và Hán tộc về khía cạnh hội họa trên những tác phẩm được sản xuất ở một thời điểm rất gần nhau. Qua nét bút lông của một nghệ nhân Việt, con chim sẻ bay lượn trên cánh đồng cỏ (hinh 2). Những nét vẽ đượm tính dân gian đơn sơ, mộc mạc nhưng lại biểu lộ được sự bay bướm đầy năng động chấm phá của từng nét cọ. Những đường nét đó đã tạo nên một sự rung động nơi người thưởng lãm cũng giống như sự rung động khi đối diện với những đường nét từ các hoạ sĩ thời danh như Bé Ký, Nguyễn thị Hợp.. ở thời điểm sau hơn 5 thế kỹ. Trong đó người ta không thấy sự gò bó, khuôn khổ, đồng đều, cầu kỳ, khách sáo, vương giả như được phát họa trên cái lọ được sản xuất từ phương Bắc (hình 3). Đối với giới thưởng ngoạn, thưởng thức nghệ thuật đồ gốm của Tàu thì mát con mắt; nhìn nét vẽ trên gốm của người Việt thì lại thấy mát con tim. Hình 4: Những Con Nghê trên Cổ Vật / Butterfields Auction, 2000 Hình ảnh con nghê, một linh vật nhân gian thuần túy của người Việt được xữ dụng một cách quen thuộc trong nghệ thuật hội họa, điêu khắc, kiến trúc qua những triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần... ở đây được trình bày một cách trang trọng trên những dĩa gốm trắng men lam (hinh 4). Những chi tiết cho thấy sự sáng tạo của người họa sĩ với nguồn cảm hứng vô tận. Mỗi cỗ vật được vuốt ve, chăm sóc với một kiểu cách khác nhau. Người họa sĩ đã xữ dụng thiên khiếu của mình vào mỗi tác phẩm với một đam mê, hòa nhập tâm hồn của mình vào những đường nét lã lướt nhưng không quên chấm phá vài nét trào phúng cho đời thêm vui. Ở một thời mà khái niệm về năng động (motion), ấn tượng (impression), trừu tượng (abstract), không gian 3 chiều với định nghĩa về chiều sâu được thễ hiện qua bóng nổi (shades and shadows) chưa có một thế đứng rõ rệt trong nghệ thuật cỗ điển trên thế giới mà tại một nơi nào đó ở vùng đất Việt nhỏ bé, những nghệ nhân bằng một cách khiêm nhường đã biết gạt bỏ những lề lối, truyền thống mà đưa ra những mô thức mà người đời mấy trăm năm sau phải suy gẫm và thán phục. Tài liệu tham khảo: Fine Asian Works of Art; Butterfield catalog, 2000 Vietnamese Ceramics, a Separate Tradition; John Stevenson and John Guy, 1997 Đất và Lữa; nxb Kim Dong VN, 2000 Cảnh Ðức Trấn Ðào Lục; Vương Hồng Sễn, 1971 nguồn: http://www.xuquang.com 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 Con Nghê - Một Biểu Tượng Tạo Hình Thuần Việt Con nghê - đồ án trang trí đặc sắc bắt đầu có ở nước ta từ bao giờ trong các chốn uy nghiêm như lăng tẩm, cung điện, đền, khán thờ, tấm chạm, cột, đầu đao đình làng và gắn liền trên các đồ vật như: hoành phi câu đối, đỉnh hương, chân đèn, dấu, ấn, triện, nắp chóe, vật bày thờ, nóc bình vôi hay thậm chí cả trên cái chặn giấy...? phải chăng các nghệ nhân muốn tạo nên con Nghê như một biểu tượng thuần việt?. Đỉnh gốm men rạn có nắp thời Lê, tháng 4 niên hiệu Vịnh Hựu 2 (1736) Nghê đồng, thế kỷ I-III Tượng nghê gỗ chạm, triều Nguyễn thế kỷ XIX Nghê - con vật biểu trưng mang yếu tố huyền thoại, dũng mãnh, thiên biến vạn hóa, tượng trưng cho trí tuệ, là biến thể từ sư tử và chó dữ, có sức mạnh như chúa tể muôn loài. (Khi nghê hóa rồng biểu tượng cao cho quyền lực chính trực; khi nghê có mình chó thể hiện lòng trung thành; khi nghê có đuôi vút cao liên tưởng đến ngọc như ý; khi nghê đội giá sớ hay bài vị, thường toát ra vẻ cam chịu; khi nghê ngậm ngọc biểu tượng độc đáo của sự khôn ngoan (suy nghĩ, uốn lưỡi và lựa lời trước khi nói); khi nghê đứng chầu hai bên khán thờ vẻ uy nghiêm; khi nghê đeo lục lạc hay rỡn hí cầu… thể hiện sự tinh nghịch,vui tươi; khi nghê có lông hình xoắn ốc như trên đầu tượng phật mà người ta gọi là Phật ốc, Bụt ốc thể hiện sức mạnh toàn năng, phi phàm). Bằng nghệ thuật tạo dáng và kỹ thuật chạm khắc tinh tế, người nghệ nhân đã thể hiện những cảm thức sáng tạo và khiếu thẩm mỹ đặc sắc, nhất là khi nền văn hóa thuần Việt phục hồi sau hàng ngàn năm Bắc thuộc. Ngay từ thế kỷ (TK) I đến TK III, ở ta đã có tượng nghê đồng (hình 1). Đời Lý đã có tượng nghê ở hai nậm rượu. Từ TK XIII - XIV tới thời Chu Đậu (TK XVI - XVII) Nghê có trong bát hương và các bình trầm hương (Hình 2). Với nhiều loại chất liệu khác nhau, nghê được tạo từ đồng, gỗ chạm đến gốm tráng men các màu (hình 3). Ngoài ra còn có nghê đá đứng chầu hai bên cùng hai cây hương tại đền lăng của đại quan Vũ Vĩnh Tiến thời hậu Lê, xây năm 1660, tại Phù Mỹ - Đô Lương - Ân Thi (Hải Hưng). Các triều đại phong kiến Việt Nam trải qua bao biến động thăng trầm từ nhà Lý (TK XI) cho đến cuối đời Tây Sơn (TK XVIII), mà sự phát triển của kiến trúc đình, chùa, sự giàu có của giới quý tộc, trưởng giả càng đòi hỏi ngày một nhiều những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và trưng bày, gắn với thời thịnh đạt nhất của con nghê. Thời Pháp thuộc, nhiều học giả Pháp đã chú ý đến con nghê qua những hình vẽ bằng bút sắt khá thú vị (Hình 4). Hình Lân chạm đá chùa Linh Quang, Hải Phòng, 1794 Tượng sư tử, đồng, triều Nguyễn, TK XIX Nghê men nhiều màu, triều Mạc - Lê Trung Hưng, TK XVI-XII Nhiều người dễ bị nhầm lẫn giữa con nghê với con lân – một trong “Tứ linh”. Nếu không để ý kỹ cũng khó phân biệt giữa nghê - con vật được biến tấu từ sư tử và cả chó cộng thêm sự sáng tạo của nghệ nhân. So sánh lân (Hình 5) với nghê, có thể suy luận nghê là linh vật đặc biệt của văn hóa Việt Nam, còn lân thuộc văn hoá Trung Hoa. Lân giống sư tử nhiều hơn, có sừng, thân hình tròn mập, đuôi ngắn, miệng ngậm ngọc hay ngồi chống chân lên quả cầu (Hình 6). Con nghê có kỳ mà không có sừng, dáng thanh, mình thon nhỏ, trông giống như dáng chó đuôi dài.Việc phân biệt này đôi khi cũng gây ra tranh cãi. Một số bình hương, chân đèn gốm Việt Nam thời Chu Đậu, cũng có hình lân, nhìn vào thấy rõ lân chứ không phải nghê. Tuy nhiên ngay cả “Vietnamese ceramics a separate tradition” của John Guy và Jonh Stevensen cũng đôi khi mắc lỗi ghi chú nhầm con nghê vào một số hình con lân bên nhiều bình hương trầm cần minh họa. Người Việt nuôi trâu cày, nuôi chó giữ nhà và coi chúng thật gần gũi. Trong đời sống tinh thần, tổ tiên ta cần có linh vật để xua đuổi tà ma, ác quỷ và canh giữ cho gia chủ. Vì thế mà chó đá được dựng lên trước mỗi cổng làng, cổng đình, cổng nhà, ngoài đầu hồi… tại nhiều làng quê miền Bắc nước ta. Để bày trước điện thờ của các nhà giàu có, hay các đền thờ, đình, miếu… chó đá hóa linh, được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ (Hình 7), mà dần thành con nghê? Mô típ trang trí được đồng bào dân tộc Dao Tiền phía Bắc nước ta rất ưa sử dụng là hình hai con chó “Tua chồ” chụm đầu lại. Người Dao Tiền xem như bùa hộ mệnh, vật linh thiêng bảo vệ cho chủ sở hữu tránh được thú dữ, thiên tai. Vậy chó “Tua chồ” được dệt trên vải thổ cẩm ở đuôi thắt lưng người Dao Tiền, với lối tạo hình cách điệu, phải chăng chính là hình tượng con Nghê? Nghê có mặt trong nhà, từ dân dã đến trưởng giả, hay cung điện, đình, đền, chùa, lăng, miếu. Suốt nhiều thế kỷ, trên các bình hương, nậm rượu, không thể thiếu nghê ở những nơi tế tự. Sau khi thống nhất sơn hà, nhà Nguyễn - có lẽ do mặc cảm và thù ghét các dấu vết văn hóa thời Trịnh và Tây Sơn, nên đã ưa chuộng văn hóa Trung Quốc hơn. Có lẽ thế mà cùng với việc con rồng Việt uyển chuyển thời Lý, Trần, Lê được thay bằng con rồng Trung Hoa thân mập, vảy to, mặt ngắn; đồ gốm Tàu thay thế sản phẩm của những làng nghề truyền thống và dĩ nhiên con nghê ít được dùng, bị lai dần theo cách tạo hình con lân của Trung Hoa (Hình 8). Nhà sưu tập Nguyễn Thị Tú Anh ở Tp. Hồ Chí Minh hiện sở hữu bộ sưu tập nghê gỗ hơn năm mươi con, có niên đại từ thời Lê tới đầu Nguyễn. Xin chọn 3 con nghê của bà để giới thiệu và so sánh: Nghê, gỗ, thời Nguyễn, đầu thế kỷ XIX Nghê, gỗ, thời Lê, TK XIV-XVII Nghê, gỗ chạm, sơn thếp vàng của người Hoa vùng Nam Bộ, TK XVIII 1. Tượng nghê, (gỗ chạm thời Lê - Bắc Bộ), ngồi trên bệ chống hai chân trước, dáng thu mình vươn cao, tư thế ngẩng đầu, cổ vươn, mặt hướng lên phía trên, mắt lồi, mũi nở, miệng rộng ngậm, tai có hình như tai voi nhỏ, có năm vòng râu xoăn nổi, bờm tóc kết thành bốn sóng to, đăng đối hai bên, ức nở, đầu, thân và đùi có chạm nổi vảy rồng, lưng khum có hình mây lửa, đao, mác, nhìn nghiêng chân và đùi là những tua hình mác uốn cong như sóng lượn, bàn chân có móng vuốt, đuôi vắt từ trái sang phải. 2. Tượng nghê, gỗ chạm thời Nguyễn, quỳ hai chân trước trên bệ, dáng vừa như rình mồi với tư thế như chuẩn bị phóng vút đi. Lông mày xoáy trôn ốc. Mắt lồi, mở to có lòng trắng và con ngươi, miệng ngậm nhưng vẫn chìa hai nanh dữ tợn, ria mép xoắn ốc, hai râu xoáy ốc dưới cằm như sư tử, mũi nở nhưng tẹt, hai tai vểnh. Đùi nổi rõ khối bắp thịt cuồn cuộn, cơ lưng gồng lên. Mông nở to, bờm và đuôi xoè hình lửa có xoắn ốc nổi rõ như xoắn ốc trên đầu tượng phật. Hai ngọn mây lửa ở cẳng chân sau. Bốn bàn chân xòe rộng, mỗi chân đều có bốn có móng vuốt như móng sư tử. Lớp sơn son thếp vàng được tô ở bên ngoài không đơn thuần chỉ là sơn để phủ mà còn góp phần tăng hiệu quả tả thực, phù hợp với mục đích thờ cúng. Ngoài việc tiếp thu những mô típ hình lửa, đao, mác như thời Lê, trong nghệ thuật tạc gỗ kết hợp với chạm khắc, nghệ nhân thời Nguyễn còn đi sâu vờn tròn các khối tượng cũng như các chi tiết trang trí, tả thực cơ bắp đùi, mông, lưng, móng vuốt, lông mày của con nghê. 3. Tượng nghê, gỗ, chạm của Người Hoa ở Nam Bộ, chạm khắc đơn giản, sơn đen phủ tượng, sau đó phủ ra ngoài lớp thếp vàng óng ánh. Nghê ngồi trên bệ, hai chân sau thu lại, đứng thẳng hai chân trước vòng cuốn cổ đeo ba lục lạc, cổ vươn cao, ngẩng đầu có ba sừng, miệng ngậm ngọc, bờm và lông trên sống lưng dựng đứng như một hàng kỳ có nhiều tua tia lửa chạy suốt từ đỉnh đầu đến sống đuôi. Ngoài ra còn có dải chấm tròn nổi khối (đăng đối hai bên dưới mép hàng kỳ tiếp xúc với gáy nghê nổi khối trên lưng nghê). Ở nách có ba tia đao mác, giữa cẳng chân có ba u tròn và ba tia đao mác chạm nổi đăng đối hai bên. Bàn chân trước có ba ngón không chạm rõ vuốt, phía sau chân trước có ba u tròn nổi rõ. Cùng chất liệu gỗ, chạm, cùng miêu tả nghê, nhưng với 3 thời kỳ khác nhau, ta có ba con Nghê với những giá trị lịch sử, văn hóa, mỹ thuật khác nhau. Con nghê thời Lê, niên đại sớm hơn (khoảng TK XVI - XVII) với cách tạo dáng vững chãi, nửa như đứng chầu, nửa như muốn bay lên trong khoảnh khắc muốn hóa rồng. Những mảng khối âm, dương hoà quyện khá tinh tế tạo nên một dáng vẻ tự tin. Nghệ thuật tạo hình phối hợp yếu tố chạm khắc trang trí vừa đơn giản, vừa cách điệu đã tạo nên những chi tiết vừa khỏe khoắn, khúc chiết, vừa mềm mại, thanh thoát, mang tính trang trí cao. Mây hình ngọn lửa, đã trở thành như một dấu hiệu, như một chữ ký của những tác phẩm trang trí thời Lê. Những vẩy rồng trên đầu và thân tạo cho nghê thêm linh thiêng. Con nghê thời Nguyễn, niên đại muộn hơn (khoảng đầu TK XIX), kích thước nhỏ hơn, hình khối căng tròn đầy và có xu hướng tả thực ở lưng, chân, đùi. Những râu, ria, bờm, tóc và đuôi được diễn tả bằng những đường nét trang trí khá trau chuốt, tỉ mỉ thậm chí đến mức cầu kỳ. Dáng nghê nhìn từ đằng sau có phần thô và nặng nề, với cái đuôi xòe tròn, xoắn ốc, hai chân thô và ngắn có đôi tai vểnh như tai miêu… hao hao như những hình mẫu kiểu con lân của Trung Quốc. Con nghê do người Hoa ở Nam bộ làm (khoảng TK XVIII) các chi tiết chạm không rườm rà, ngược lại được diễn tả mượt mà, đơn giản, có nhiều khối hình như được chuốt tới mức nhẵn phồng, căng bóng. Đặc điểm và nét dáng con nghê này gần giống với chó có đầu hơi to trong đời sống thực. Nơi sông nước, kênh rạch, trong suốt quá trình khẩn hoang, con chó luôn gần gũi, gắn bó với con người Nam Bộ nói chung và người Hoa nói riêng. Dần theo năm tháng, được biến thể thành con nghê. Nhờ sự gắn bó lâu đời nên thẩm mỹ tạo hình của người Hoa ở Nam Bộ cũng “Việt hóa”, đơn giản, chân phương, phóng khoáng, không cầu kỳ làm điệu. Do đó, con nghê có vẻ đẹp riêng, mà không bị ảnh hưởng, sao chép những công thức tạo hình bóng bảy, cầu kỳ như tổ tiên họ ở Trung Quốc vẫn hay làm. Đ.L.H.T http://www.hcmufa.edu.vn Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 HÌNH TƯỢNG CON NGHÊ THỂ HIỆN TRÊN GỐM CỔ Hai linh vật đặc thù của văn hóa Việt Nam là chim hạc và con nghê, thế nhưng trong khoảng trăm năm gần đây, ta thường thấy rồng và lân được dùng trang trí trong các đền chùa, dinh thự lớn. Như tượng hai con lân trắng ở ngay trước sân chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn chẳng hạn. Những ngôi nhà lớn của người Việt ở hải ngoại hay ở trong nước cũng trang trí bằng tượng con lân. Chim hạc là linh vật từ thời các vua Hùng dựng nên nước Văn Lang ta, vậy con nghê xuất hiện từ bao giờ ? Phải chăng từ đời Lý, khi nền văn hóa thuần Việt được phục hồi và phát triển sau một ngàn năm Bắc Thuộc ? 3. Bình trầm hình con nghê Con nghê : Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất là con trâu và con chó. Trâu để cầy ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ. Đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ. Chó đá được dựng lên vì thế. Ở làng quê miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà hay ở ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ. Rồi để bầy chó đá hoá linh trước điện thờ, hay bàn thờ ở những nhà giàu có, ở các đình chùa đền miếu, chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét uy nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là con Nghê. Thủa nhỏ, vào khoảng đầu thập niên 1950 ở Thái Bình, còn thấy ở nhà cụ Hà Ngọc Huyền, ông ngoại chúng tôi có trưng tượng con Nghê cao gần một thước ngay lối vào phòng khách cùng với những bình, những chóe đời Khang Hy nhà Thanh, đời Minh… Con Nghê này không biết nay đã lưu lạc về đâu? Tóm lại con Nghê là một linh vật được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt. Con Nghê thường được thấy qua các món đồ gốm như: 1. Tượng con Nghê 2. Bình đốt trầm hương trên bàn thờ 3. Nậm rượu hình con Nghê. 1. Tượng con nghê Vài hình tượng con Nghê tiêu biểu 1. Tượng con Nghê: Dựa trên nước men, mầu men, chất đất ta có thể định rằng đây là một tác phẩm đời Lý (thế kỷ 11 –12). Con Nghê này cao độ 36cm, bằng đất nung, phủ men nâu, nét tô đắp cực kỳ tinh xảo, con Nghê trông sống động, oai vệ, tưởng chừng như có thể phóng lên xua đuổi tà ma ngay tức khắc. Mặt Nghê ngắn. Mình Nghê thon dài, rất thanh tú. Cổ Nghê đeo dây lục lạc có tua, cổ ngửng thẳng. Lông trên sống lưng dựng đứng như một hàng kỳ, chạy suốt từ đỉnh đầu xuống đến đuôi. Chân Nghê thanh nhưng thẳng và mạnh, chân sau ở thế ngồi bắp thịt đùi trông rắn chắc mạnh mẽ, hai chân trước chống cao, chỗ đầu gối có lông xoắn cong. Mắt to, miệng lớn, mũi lớn, miệng Nghê hơi hé mở để lộ những răng nanh nhọn hoắt, như sẵn sàng xua đuổi tà ma. Tai Nghê lớn nhưng không dựng lên như tai chó. Lông Nghê mượt sát vào mình với những đường khắc, uốn từ sống lưng xuống phía bụng, trông như vằn chó. 2. Nậm rượu hình con nghê 2. Nậm rượu hình con Nghê: Chúng tôi xin đưa ra hình hai nậm rượu hình con Nghê, một mầu nâu, một mầu đen. Nghê với hình dáng và thế ngồi cũng như mô tả ở trên, tuy rằng các chi tiết không sắc sảo bằng. Nghê ngồi trên một bầu rượu có dáng trên tròn dưới ống. Mình Nghê rỗng, trên lưng Nghê có vòi loe để chuyên rượu vào (nắp đậy chỗ này không còn, cho nên ta không biết nắp cũng làm bằng đất sét nung hay bằng gỗ hoặc lá cuộn). Rượu được rót ra từ vòi dài đi từ thân nậm, tựa như cọc với dây xích buộc Nghê. 3. Bình trầm hương hình Nghê (hình trên cùng): Mầu men, nước men, chất đất, độ nung của các bình hương này cho thấy đây là các tác phẩm làm thời Chu Đậu (thế kỷ 16, 17, 18 ) chứ không phải đồ đời Lý hay đời Trần. Bình hương gồm hai phần, phần dưới là một hộp nhỏ hình chữ nhật. Đây là chỗ bỏ trầm vào đốt. Phần trên là nắp. Nắp là con Nghê ngồi trên một mặt phẳng đậy vừa kín phần dưới. Mình Nghê rỗng, khi đốt, trầm khói từ phần hộp phía dưới luồn trong mình Nghê rồi bay ra từ miệng Nghê đang hơi khẽ mở, trông rất oai nghiêm. Vì trầm được đốt trong hộp kín phía dưới mà chỉ có thể thoát khói ra khỏi miệng Nghê nên cháy rất chậm, vừa toả đủ khói hương để mang đầy vẻ linh thiêng mà vẫn cháy lâu cả buổi. Phân biệt con nghê và con lân: Tượng con lân (kỳ lân) Con Nghê là linh vật đặc biệt của văn hóa Việt Nam, con Lân thuộc văn hóa Trung Hoa. Về hình dạng, con Lân giống sư tử, đầu có 1 sừng, chân ngựa, mình tròn mập có vảy, đuôi ngắn, miệng ngậm quả cầu, hay ngồi chống chân lên quả cầu. Con Nghê có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, dáng thanh, đuôi dài, trông rõ ràng dáng chó. Một số bình hương, chân đèn gốm Việt Nam thời Chu Đậu làm vào khoảng thế kỷ 16, 17 cũng có hình con lân, nhìn vào thì thấy rõ ngay là con lân chứ không phải là con nghê. (Trong sách “Vietnamese ceramics – a separate tradition” của John Guy và John Stevensen soạn, có nhiều hình bình hương trầm với con nghê nhưng đồng thời lại có hình con lân mà ghi chú nhầm là con nghê). Thời thịnh đạt của Con Nghê Trong những thế kỷ Bắc Thuộc khi người Trung Hoa làm đủ mọi cách để hủy diệt văn hoá Việt Nam, như: tịch thu, hủy diệt và cấm làm trống đồng, bắt người Việt đổi theo họ Tầu (vì thế những họ cổ Việt Nam như họ Trưng (Trưng Trắc)… không còn nữa….), thì không biết ông cha ta có làm hình tượng chó đá và con Nghê không? Quan sát cách sinh hoạt của người Thượng trên các miền cao nguyên, ta thấy rằng con chó vẫn là con vật rất quan trọng của đời sống thôn dã. Vậy thì ai có thể quả quyết rằng, chó đá, con Nghê không được phát sinh từ thời xa xưa? Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa có dịp may được thấy các hình ảnh hay vật tích hình con Nghê của thời đại cổ xưa này. Ước rằng có người với những phương tiện đầy đủ sẽ làm các việc khai quật nghiên cứu và tìm ra di tích con Nghê từ thời xa xưa. Con Nghê tiêu biểu Khi Đinh Bộ Lĩnh dành lại nền tự chủ cho nước Việt, nhà Lý, nhà Trần, rồi nhà Lê nối ngôi dựng lại nền văn hóa thuần Việt phong phú cùng văn học, xã hội, chính trị, nghệ thuật tạo hình của người Việt phát triển rực rỡ. Trong bối cảnh văn hoá ấy, với sự nẩy nở của những nghệ phẩm, tác phẩm Việt Nam, sự phát triển của kiến trúc đình chùa, sự phát triển của giới quý tộc, trưởng giả càng đòi hỏi nhiều hơn nữa những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và trưng bày. Khung cảnh và nhu cầu này đưa đến biết bao phát triển của nghệ thuật tạo hình. Nhu cầu tinh thần, nhu cầu vật chất được đáp ứng bởi bàn tay, khối óc của các nghệ nhân Việt lúc nào cũng xông xáo sáng tạo. Biết bao kiến trúc, cung điện, đình chùa với mái cong thuần túy Việt được dựng lên. Đồ gốm Việt Nam bừng lên tổng hợp kỹ thuật và sắc men Trung Hoa với dạng thức, nét vẽ, và phong cách hoàn toàn Việt Nam. Từ đây những bình, ấm, tô, chén, đĩa… những món đồ Lý Trắng, Lý Nâu, Lý Lục, Lý Đen, những món đồ men ngọc, chuyển qua những món men trắng hoa chàm của đời Trần, đời Lê tuyệt vời, được sản xuất mạnh mẽ. Rồi tiếp theo đó, sang thế kỷ 16, 17, 18 là thời của gốm Chu Đậu, thời tuyệt đỉnh của đồ gốm Việt Nam, với biết bao phẩm vật xuất cảng sang vùng Ba Tư, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nhật Bản…. Dựa trên số lượng và phẩm tính của những con Nghê trong các viện bảo tàng và bộ sưu tập của các tư nhân, ta thấy rằng thời thịnh đạt nhất của con Nghê là từ đời Lý cho đến cuối đời Tây Sơn (thế kỷ 11 đến thế kỷ 18). Suốt từ đời Lý, Con Nghê được trọng dụng ở khắp mọi nơi, từ những ngôi nhà dân dã, từ cung đình, cho đến lâu đài, đình chùa, lăng miếu… Đến cuối đời Lê, loạn Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước đi vào 300 năm khói lửa, nhưng không vì thế mà văn hoá Việt điêu tàn mà trái lại càng phát triển mạnh thêm về mọi mặt (thơ văn, kiến trúc, khắc gỗ, gốm sứ …). Trong suốt 8 thế kỷ này, các bình hương trầm, các nậm rượu, và các tượng hình con Nghê là những món không thể thiếu ở nơi tế tự, ở các nhà trưởng giả cho đến nhà bình dân. Tượng Nghê cổ Thời suy tàn của con Nghê Khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, triều đình nhà Nguyễn – có lẽ do mặc cảm, do lòng thù ghét các dấu vết văn hóa của đất Bắc, của nhà Trịnh, nhà Tây Sơn – đã quay lưng lại văn hóa Việt Nam mà ưa chuộng văn hóa Trung Hoa. Thế nên, con rồng Việt Nam uyển chuyển của đời Lý Trần Lê, đã bị thay bằng con rồng Tầu thân mập vẩy to, mặt ngắn. Thế nên, thành Thăng Long bị phá đi xây lại nhỏ hơn và biết bao cung điện đời trước (còn lại sau những năm dài chinh chiến) đã bị nhà Nguyễn cho phá đi. Thế nên, trong dù đang chật vật cạnh tranh với đồ gốm Tầu trên thị trường quốc tế, cả một kỹ nghệ đồ gốm Việt nam đã không được triều đình nâng đỡ. Thay vào đó, các món đồ dùng trong cung đình Huế thì được đặt làm từ các lò gốm ở bên Tầu. Thế nên, cả làng Chu Đậu (Hải Dương) phải bỏ nghề gốm mà chuyển qua nghề dệt chiếu (một số nhỏ đã dọn đến Bát Tràng tiếp tục nghề cũ, trong phạm vi rất nhỏ hẹp so với Chu Đậu). Trong các cung điện ở Huế, con Nghê không được dùng, vì đã bị con Lân của Tầu thay thế. Các lư trầm bằng đồng với hình tượng con Lân trên nắp trở nên phổ thông. Các nhà trưởng giả đua theo triều đình chuộng các linh tượng Trung Hoa. Kỹ nghệ đồ gốm tàn lụi, con Nghê chỉ còn sót lại trong những bàn thờ cổ ở chốn thôn dã. Hãy đi đến các ngôi chùa, các kiến trúc ở Việt Nam làm từ thế kỷ 19, ta thấy ngay rằng, con rồng Việt đã biến đổi, con Nghê đã bị thay bằng con Lân, chim Hạc chỉ còn là biểu tượng xưa cũ. Thương thay, các biểu tượng thuần Việt, các nét tạo hình thuần Việt không còn được người Việt biết đến nữa. Lâu nay, khi đi qua cửa các nhà giàu có ở Hoa Kỳ, ta vẫn thấy chủ nhà hãnh diện bầy hai con Lân hai bên cửa, cứ như là chùa Tầu. Ở các lò gốm bên Việt Nam, ở Non Nước, Đà Nẵng-Hội An, các nhà khắc chạm cẩm thạch, đâu đâu cũng chỉ sản xuất toàn con Lân mà không có con Nghê. Buồn thay! Chúng tôi ước ao rằng các nhà làm đồ gốm Việt Nam sẽ làm lại tượng con Nghê, bình hương trầm con Nghê để tất cả chúng ta còn hãnh diện nối theo dòng văn hóa Việt Nam của ông cha thủa trước. Bùi Ngọc Tuấn Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 Vài câu hát nhắc đến con Nghê: Cưả Hàn , nằm ở trong xa Ngoài mũi Sơn Trà lại có Con Nghê. Anh đi làm thợ nơi nao Để em gánh đục gánh bào đi theo?... Bốn cửa chạm bốn con nghê Bốn con nghê đực chầu về xứ Đông Bốn cửa chạm bốn con rồng Ngày thời bắt chuột tối thời rồng leo... Mỗi người đều có một nghề Con công thì múa con nghê thì chầu Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 Hòn Nghê Sơn Trà Vài câu hát nhắc đến con Nghê: Cửa Hàn , nằm ở trong xa Ngoài mũi Sơn Trà lại có Con Nghê. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 Chuẩn không cần chỉnh. ;) ;) ;) Vusonganh có quả máy xịn nhỉ http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/41.gif Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 Hột zịt lộn anh ơi hổng phải ảnh của em. Em đi xin đó mừ Chuẩn không cần chỉnh. ;) ;) ;) Vusonganh có quả máy xịn nhỉ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 không có hột zịt lộn đâu. Hai câu trên là khác nhau. Chuẩn ko cần chỉnh là nói núi giống hình con Nghê. Còn câu thứ 2 nói đến cái máy ảnh của Vusonganh :unsure: Share this post Link to post Share on other sites
Posted 15 Tháng 7, 2011 Các cổ vật có hình con Nghê của Bảo tàng Guimet (Paris): 1. Chân đèn có tượng Nghê, với ký hiệu cho biết được chế tạo vào năm 1637 tại Bát Tràng. Nghê Bát Tràng 2. Đĩa vẽ hình Nghê, được sản xuất cho thị trường Trung Đông và những nước theo Hồi giáo. Đĩa trang trí hing con nghê Các hiện vật hình con Nghê của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà Nội): 1. Đỉnh có nắp, men trắng xám rạn. Triều Lê Trung Hưng, tháng 4 năm Vĩnh Hựu 2 (1736). Đỉnh có nắp hình vòm, chỏm là tượng Nghê vờn ngọc, xung quanh trổ thủng bát quái, gờ miệng phẳng, thân phình, 3 chân thú chạm nổi hổ phù, 2 quai hình rồng. Trang trí nổi các băng văn dây lá lật, hồi văn chữ T, lá đề và rồng trong mây. Minh văn khắc dưới đế. Vĩnh Hựu vạn vạn niên chi nhị, tứ nguyệt nhật cung tác). Men rạn trắng xám. 2. Nậm rượu, men nhiều mầu. Triều Mạc – Lê Trung Hưng, thế kỷ 16 – 17. Nậm có cổ cao hình trụ, miệng đứng, thân chia 6 múi nổi hình cánh hoa, chạm nổi hình Nghê và hoa, viền đế tô nâu. Men trắng ngà và xanh rêu. 3. Tượng Nghê, men trắng ngà và xanh rêu. Triều Lê Trung Hưng, thế kỷ 17. Tượng Nghê trên bệ chữ nhật, tư thế ngồi chầu, 2 chân trước chống, 2 chân sau khuỵu gập lại, đầu ngẩng, cổ đeo chuỗi nhạc nổi. Xung quanh thân và chân chạm mây. Ðế chữ nhật chạm mây, hoa sen và hồi văn. Men trắng ngà và xanh rêu. 4. Hũ có nắp, men rạn và lam. Triều Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802-1819). Nắp hũ hình vòm có chỏm là tượng Nghê vờn ngọc, vẽ mây xung quanh. Hũ có gờ miệng uốn, cổ ngắn, vai phình, thân cao, đế rộng. Vai đắp nổi 4 đầu sư tử ngậm vòng tròn. Vẽ lam đề tài phong cảnh sơn thuỷ, nhà cửa, cây lá, người đội ô, người chèo thuyền. Minh văn viết bằng men lam dưới đế. “Gia Long niên chế” (Chế tạo trong niên hiệu Gia Long). 5. Hũ có nắp, men nâu trắng và lam. Triều Nguyễn, niên hiệu Gia Long (1802-1819). Nắp có chỏm hình Nghê vờn ngọc, vẽ hoa lá men lam. Hũ có gờ miệng phẳng, cổ ngắn, vai phình, đáy lõm. Trên vai đắp nổi 4 đầu sư tử ngậm vòng. Xung quanh thân vẽ lam tiêu – tượng, mã – liễu, tùng – lộc. Minh văn viết 4 chữ. “Gia Long niên tạo” (Chế tạo trong niên hiệu Gia Long). Men nâu, trắng và lam. 6. Đài thờ có nắp, men rạn, ngà. Triều Lê Trung Hưng, thế kỷ 18. Đài thờ có 2 phần, miệng hình ô van, nắp trang trí nổi núm hình Nghê, băng lá lật, mai – trúc – cúc – tùng, chữ “vạn”, hổ phù. Men rạn ngà. 7. Tượng Nghê, bằng sành. Triều Lê-Nguyễn, thế kỷ 18 – 19. Nghê đứng trên bệ chữ nhật, quanh thân chạm nổi văn mây. Màu đỏ nâu. 8. Tượng Nghê, bằng sành. Triều Lê-Nguyễn, thế kỷ 18 – 19. Nghê quỳ trên bệ chữ nhật, đuôi xoắn, thân chạm nổi văn mây. Màu đỏ nâu. Sưu tập tư nhân: Tượng Nghê, bằng sứ. (Nguồn: Bảo tàng Guimet (Paris), Bảo tàng Lịch sử Việt Nam) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 7, 2011 Con kỳ lân và con nghê Trong rất nhiều chi tiết trang trí kiến trúc hiện nay, hình tượng kỳ lân và nghê tạo ra nhiều ngộ nhận hơn cả. Đằng sau hai hình tượng này là câu chuyện về quá trình tiếp nhận văn hóa của người Việt. Mặt Nghê đá đời Trần Con vật báo điềm lành Kỳ lân là một trong 4 linh vật: long, ly, quy, phượng theo tín ngưỡng dân gian Á Đông như tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam… Kỳ lân là một con vật tưởng tượng, có đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc ai bao giờ nên sừng này (được coi) là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Đôi khi nó có hình dáng của một con hưu xạ, với chiếc đuôi bò, trán sói, móng ngựa, da có 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, dưới bụng có màu vàng. Con vật này lắm lúc xuất hiện với mình của một con hoẵng, có vảy cá ở thân… Nhưng dù xuất hiện với hình dạng như thế nào thì trong trí tưởng tượng của tín ngưỡng dân gian phương Đông, kỳ lân cũng là con vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng cho sự trường thọ, sự nguy nga đường bệ và niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân mang trong mình tất cả những phẩm chất của một con vật nhân từ, nó tránh giẫm lên các loại côn trùng, cũng như không phá hoại cỏ mềm dưới chân mình. Nó không bao giờ ăn thịt hay làm hại bất cứ con vật nào cũng như không bao giờ uống nước bẩn. Kỳ lân xuất hiện đồng nghĩa với việc một vị minh quân, một nhà hiền triết nào đó sắp ra đời. Sử sách Trung Quốc cho rằng trong lịch sử, kỳ lân đã xuất hiện dưới triều vua Nghiêu, Thuấn và sau đó là vào thời điểm Khổng Tử ra đời. Là con vật biểu trưng cho niềm vui và may mắn nên kỳ lân được sử dụng nhiều trong các chi tiết trang trí kiến trúc. Lân được dùng như một kiểu trang trí trên các bức bình phong của chùa, đền, miếu… lắm lúc chuyên chở trên lưng các bức cổ đồ, hình bát quái… với ý niệm thể hiện sự may mắn luôn song hành cùng chữ nghĩa, đạo lý cuộc đời, đó là sự bảo trợ cần thiết mang tính linh thiêng. Thỉnh thoảng, lân cũng được gửi gắm như con vật linh bảo vệ cho các công trình kiến trúc, dinh thự, lăng mộ… từ Trung Quốc, hình tượng kỳ lân với đầy đủ ý nghĩa của nó đã vào Việt Nam theo bước chân xâm lăng và ý muốn đồng hóa dân tộc Việt của người Hán. Sự truyền bá văn hóa đó đã diễn ra có lúc mãnh liệt có lúc tàn bạo với ý muốn hủy diệt. Hình tượng kỳ lân từ đó đã xuất hiện nhiều hơn ở Việt Nam, ngay cả khi đất nước đã giành được độc lập. Tuy nhiên, bên cạnh chi tiết trang trí kỳ lân, trên các công trình kiến trúc, đồ gốm, đồ đồng… ở nước ta còn xuất hiện thêm hình tượng trang trí có hình dáng giống với kỳ lân nhưng không hẳn là kỳ lân. L.Cadiere, vị linh mục người Pháp có tinh thần khách quan trong những công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, đã nêu nghi vấn về chi tiết trang trí này. “Có một con vật rõ ràng không phải là con kỳ lân thực sự, mà nó có vẻ là con sư tử, hay là thuộc một giống vật khác; trong lúc đó nó lại được người Việt Nam gọi là con kỳ lân. Đó là con vật mà chúng ta thấy ở trên đầu các trụ trước các đền chùa. Bộ lông, cái đầu, cái đuôi, nhất là những móng vuốt, thay cho những móng đề, đã làm cho con vật này giống với con sư tử hơn là một con kỳ lân”. Sự nghi ngờ ấy là có cơ sở vì kỳ lân là một con vật tưởng tượng, sẽ hiện diện trên thực tế với ý niệm và tâm hồn của văn hóa đất nước nó đang tồn tại. Con vật được người Việt sử dụng nhiều trong các công trình kiến trúc nhằm chuyển tải ước muốn may mắn hẳn nhiên chịu ảnh hưởng của con kỳ lân Trung Hoa nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng đó là hoàn toàn hình mẫu căn bản từ con kỳ lân đến từ phương Bắc. Linh vật thuần Việt Trong các chi tiết trang trí kiến trúc của văn hóa Việt Nam, vẫn tồn tại hình tượng con nghê với những miêu tả về hình dáng giống với con kỳ lân Trung Quốc. Đó là con vật mình không lớn, không có sừng, chân ngắn và thường có móng vuốt, không có vảy ở thân, đầu, mình và đuôi thường có lông che phủ. Với hình dáng nhỏ nhắn, phần nào thể hiện nét tinh nghịch và vui tươi, nghê là chi tiết trang trí được sử dụng nhiều ở Việt Nam. Tác giả Bùi Ngọc Tuấn trong cuốn Đồ gốm cổ truyền Việt Nam đã cho rằng nếu kỳ lân là hình tượng của văn hóa Trung Hoa thì nghê là hình tượng mang đầy đủ ý niệm và tâm linh của người Việt Nam. “Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất là con trâu và con chó. Trâu để cày ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ. Đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ. Chó đá được dựng lên vì thế. Ở làng quên miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà hay ở ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ (…) Rồi để bày trước điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu, chó đá hóa linh. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là con Nghê”. Quả thật, con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên cốn (xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), hay được đặt trên đầu đao (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (mã tấu) nên gọi là đầu đao), như trên cốn đình làng An Hòa (Hà Nam), Phất Lộc (Thái Bình), cột đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh), đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc Giang), làng Trung Cần (Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây)… chẳng hạn. Cho nên, tác giả Bùi Ngọc Tuấn kết luận: “Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt”. Lý giải của tác giả Bùi Ngọc Tuấn không phải không có cơ sở vì con chó trong văn hóa Việt Nam là một con vật sống gần gũi, gắn bó với con người. Điều đó được minh chứng trong rất nhiều câu chuyện thần thoại, truyền thuyết lưu giữ trong dân gian của dân tộc Việt, Mường… Nhìn lại cụ thể, chi tiết kiến trúc mà L.Cadiere nghi vấn ở trên có thể có hình dạng từ con chó. Tất nhiên, hình tượng đó đã được trí tưởng tượng của người dân đất Việt thêm thắt cho phù hợp với ý muốn và sự cầu mong may mắn của mình. Tuy nhiên, tất cả những lý giải trên đều chỉ là phỏng đoán; và vẫn chưa có cứ liệu cụ thể để khẳng định hình tượng con nghê xuất phát từ hình dạng con chó. Chúng ta đều thừa nhận trong văn hóa Việt, con chó là con vật gần gũi, thân thiết với cuộc sống con người như những lý giải của tác giả Bùi Ngọc Tuấn. Nhưng rõ ràng con chó đối với người Việt vẫn chưa được thiêng hóa đến mức có thể coi là vật linh để được khắc họa trên các trụ biểu, đầu đao hay trấn giữ cổng chùa, đền, miếu… Vẫn còn đó những danh xưng có phần miệt thị và bạc bẽo tồn tại trong dân gian dành cho con chó, đồ con chó, đồ chó đẻ… Trên thực tế, nghê (hay toan nghê) trong tiếng Hán có nghĩa là con sư tử. Điều đó có đồng nghĩa nghê chỉ là con vật mang hình dạng của sư tử? Merher Mc Arthur chỉ rõ: “tại cổng vào của một số đền chùa, nhất là ở Đông Á và Đông Nam Á thường có một cặp nghê, một thứ linh thú tựa như sư tử, từ Hán Việt là Phật sư, trấn giữ”. Nhìn đại thể, văn hóa Việt Nam với cơ tầng vốn có của mình bên cạnh việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa của người Hán đã tiếp nhận trong hòa đồng một phần văn hóa Ën Độ, cụ thể ở đây là Phật giáo. Nếu văn hóa Hán theo bước chân những đạo quân xâm lăng phương Bắc tràn vào Việt Nam thì văn hóa Phật giáo đến với người Việt một cách nhu mì hơn. Người Việt trong hoàn cảnh phải chống lại thế lực hùng mạnh phía Bắc đã nương nhờ vào triết lý từ bi, khoan dung của Phật giáo để tồn tại suốt thời kỳ Bắc thuộc cũng như thời kỳ đầu độc lập. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà các nhà Lý, Trần chọn Phật giáo làm tôn giáo chính của đất nước dù trên danh nghĩa tôn giáo này không phải là quốc giáo. Các vị sư sãi đã đóng những vai trò quan trọng trong triều đình; chùa chiền, tự viện mọc lên khắp đất nước thời kỳ này (và cả về sau)… Phật giáo đã hòa vào lòng dân tộc Việt Nam; nói đến văn hóa Phật giáo cũng đồng nghĩa với việc đang nói đến văn hóa Việt Nam. Hiểu rõ điều này ta sẽ dễ dàng chấp nhận tượng nghê ở đầu các trụ biểu, đầu đao, cổng chùa, đền, miếu… là hình tượng của Phật sư hay sư tử trong văn hóa Phật giáo. Trong lịch sử Phật giáo, sau khi Đức Phật giác ngộ, người ta thường nhắc đến Ngài như là Con sư tử của dòng họ Shakyas cũng như nói đến nguồn gốc vương giả và thừa nhận uy lực tâm linh vô biên của Ngài. Sư tử trong văn hóa Phật giáo thường biểu thị uy lực của Phật pháp; nhưng trong hình tượng chung, sư tử thể hiện sức mạnh của con vật là chúa tể muôn loài, quyền năng và quý trọng. Hình tượng sư tử ở ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam có những nét không giống nhau tùy theo cách hiểu và vận dụng ý nghĩa ban đầu của con vật này ở mỗi nền văn hóa. Như vậy với văn hóa Việt Nam, hình tượng con nghê rất có thể bắt nguồn từ Phật sư, nhưng hình tượng ấy được thể hiện nhỏ nhắn và linh động hơn. Người Việt Nam đã khôn khéo xây dựng cho riêng mình con nghê không giống với nghê mang hình dáng sư tử, bệ vệ trên các công trình của Phật giáo ấËn Độ (hoặc các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo và văn hóa ấn Độ). Nó cũng là một biểu tượng khác với kỳ lân hay sư tử Trung Quốc. Nghê trong hình tượng trang trí ở Việt Nam không có thân hình cao lớn của ngựa như sự tưởng tượng về con kỳ lân, đuôi hẳn nhiên không phải là đuôi bò, thân ít khi có vảy cá. Nghê cũng không có đầu nửa rồng nửa thú và lại không có sừng. Nghê trong mỹ thuật trang trí của người Việt có thân hình vừa phải, không quá to như thân sư tử. Dáng đứng của nghê cũng không quá chú trọng đến việc tạo ra sự hiên ngang, khí phách mà thay vào đó là sự uyển chuyển và nhẹ nhàng. Tựu trung lại, hình tượng nghê và kỳ lân trong nghệ thuật trang trí trên các công trình kiến trúc ở Việt Nam là hai hình tượng khác nhau. Kỳ lân là hình tượng mang phong cách văn hóa Trung Hoa trong khi nghê là linh vật bắt nguồn từ Phật giáo nhưng đã được người Việt cải biến. Đó cũng là một điều dễ hiểu. Trong văn hóa Việt Nam, qua quá trình tiếp xúc với văn hóa bên ngoài, người Việt đã tiếp thu những điều cần thiết và cải biến chúng mang hồn Việt và văn hóa Việt. Trường hợp con kỳ lân và con nghê là ví dụ cụ thể. Nguồn vanhoaphatgiao 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 9, 2011 L.Cadiere, vị linh mục người Pháp có tinh thần khách quan trong những công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, đã nêu nghi vấn về chi tiết trang trí này. “Có một con vật rõ ràng không phải là con kỳ lân thực sự, mà nó có vẻ là con sư tử, hay là thuộc một giống vật khác; trong lúc đó nó lại được người Việt Nam gọi là con kỳ lân. Đó là con vật mà chúng ta thấy ở trên đầu các trụ trước các đền chùa. Bộ lông, cái đầu, cái đuôi, nhất là những móng vuốt, thay cho những móng đề, đã làm cho con vật này giống với con sư tử hơn là một con kỳ lân”. Sự nghi ngờ ấy là có cơ sở vì kỳ lân là một con vật tưởng tượng, sẽ hiện diện trên thực tế với ý niệm và tâm hồn của văn hóa đất nước nó đang tồn tại. Con vật được người Việt sử dụng nhiều trong các công trình kiến trúc nhằm chuyển tải ước muốn may mắn hẳn nhiên chịu ảnh hưởng của con kỳ lân Trung Hoa nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng đó là hoàn toàn hình mẫu căn bản từ con kỳ lân đến từ phương Bắc. Linh vật thuần Việt Trong các chi tiết trang trí kiến trúc của văn hóa Việt Nam, vẫn tồn tại hình tượng con nghê với những miêu tả về hình dáng giống với con kỳ lân Trung Quốc. Đó là con vật mình không lớn, không có sừng, chân ngắn và thường có móng vuốt, không có vảy ở thân, đầu, mình và đuôi thường có lông che phủ. Với hình dáng nhỏ nhắn, phần nào thể hiện nét tinh nghịch và vui tươi, nghê là chi tiết trang trí được sử dụng nhiều ở Việt Nam. Tác giả Bùi Ngọc Tuấn trong cuốn Đồ gốm cổ truyền Việt Nam đã cho rằng nếu kỳ lân là hình tượng của văn hóa Trung Hoa thì nghê là hình tượng mang đầy đủ ý niệm và tâm linh của người Việt Nam. “Trong đời sống của người dân Việt, hai con thú được coi như những người bạn thân thiết, gần gũi và quan trọng nhất là con trâu và con chó. Trâu để cày ruộng, giúp sản xuất lúa gạo, chó để giữ nhà, phòng kẻ gian, phòng thú dữ. Đời sống thực tế có chó giữ nhà, còn đời sống tinh thần thì sao? Ông cha ta cũng cần một linh vật để chống lại các tà ma ác quỷ nữa chứ. Chó đá được dựng lên vì thế. Ở làng quên miền Bắc Việt Nam, trước cổng làng bao giờ cũng có một con chó đá để bảo vệ cả làng, trước cổng đình bao giờ cũng có chó đá, và trước cổng nhà hay ở ngoài đầu hồi, ngoài cửa nhà cũng thường có chó đá ngồi trước canh giữ cho gia chủ. Những con chó đá này hình dạng thay đổi, cao khoảng từ nửa thước tới một thước, thường là những tảng đá được khắc đẽo rõ ràng oai vệ, nhưng có khi chỉ là một khối đá đặt nghiêng theo dáng một con chó đang ở thế ngồi canh giữ (…) Rồi để bày trước điện thờ, hay bàn thờ của những nhà giàu có, ở các đình chùa, đền miếu, chó đá hóa linh. Chó đá được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, đầu chó, mặt chó đầy những nét oai nghiêm. Vì linh thiêng như thế, nên được gọi là con Nghê”. Quả thật, con Nghê còn được dùng để trang trí trong các ngôi đình cổ ở Việt Nam. Nghê được chạm trên cốn (xà ngang từ cột ra để đỡ xà dọc ở mái ngoài), hay được đặt trên đầu đao (sống mái chạy từ đỉnh nóc nhà xuống, cong lên như hình cây đại đao (mã tấu) nên gọi là đầu đao), như trên cốn đình làng An Hòa (Hà Nam), Phất Lộc (Thái Bình), cột đình làng Hội Thống (Hà Tĩnh), đầu đao đình làng Phù Lão (Bắc Giang), làng Trung Cần (Nghệ An), làng Tây Đằng (Sơn Tây)… chẳng hạn. Cho nên, tác giả Bùi Ngọc Tuấn kết luận: “Vậy con Nghê là một linh vật thuần Việt được sáng tạo để bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt”. Lý giải của tác giả Bùi Ngọc Tuấn không phải không có cơ sở vì con chó trong văn hóa Việt Nam là một con vật sống gần gũi, gắn bó với con người. Điều đó được minh chứng trong rất nhiều câu chuyện thần thoại, truyền thuyết lưu giữ trong dân gian của dân tộc Việt, Mường… Nhìn lại cụ thể, chi tiết kiến trúc mà L.Cadiere nghi vấn ở trên có thể có hình dạng từ con chó. Tất nhiên, hình tượng đó đã được trí tưởng tượng của người dân đất Việt thêm thắt cho phù hợp với ý muốn và sự cầu mong may mắn của mình. Chắc chắn rằng: Con Nghê chính là hình ảnh nhân cách hóa con chó trong văn hóa Việt Nam - Linh vật bảo vệ (và báo động) nguồn tâm linh Việt ở các đình, đền, miếu, chùa, từ đường... Sau khi ráng chiều buông xuống đỏ ối ở phía chân trời (bờm lửa) là lúc sức mạnh con Nghê bắt đầu khởi phát. Người Việt dùng hình ảnh con chó vì nó mang trong mình các đặc tính quan trọng nhất: TÍN - NGHĨA - DŨNG. * Phúc Lộc Thọ mãn đường * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 9, 2011 Kỳ Lân - vốn bị ngộ nhận là có nguồn gốc Trung Hoa - và con Nghê được coi là của Việt Nam thực ra chỉ là một, những được mô tả khác nhau về hình tượng mà thôi. Nguồn gốc xa xưa của Long Lân Quí Phụng đều thuộc về người Lạc Việt, một thời đã tạo nên nền văn minh huy hoàng ở Nam Dương tử. Nhiều đình, đền , chùa cổ Việt Nam vẫn khắc hình tượng Long. Lân (Nghê), qui, phụng. Nay không lẽ của Trung Quốc thì gọi là long lân qui phụng, còn của Việt thì là Long Nghê qui phụng. Nhiều nhà nghiên cứu căn cứ vào thư tịch chữ Hán xác định con Lân có từ thời Nghiêu Thuấn và Khổng tử , để xác định con Lân của Trung Quốc. Vậy nếu thư tịch Hán đó viết đúng thì lúc Nghiêu Thuần và Không tử sinh ra có Kỳ Lân xuất hiện thật hay sao (Xem chi tiết các bài viết ở trên)? Vậy con Kỳ lần hiên trên sông Hoàng Hà cũng thật hay sao? Còn nếu đã là không thật thì làm sao tin vào văn bản đó được? Không lẽ đấy là tư duy khoa học? 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites