Posted 27 Tháng 6, 2011 Bắc Kinh chưa thuộc lời dạy của Khổng Tử Hiểu được sức mạnh của văn hóa, nên gần đây, bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế, hiện đại hóa quân đội, Trung Quốc đã tăng cường công tác truyền bá văn hóa ra nước ngoài. Đến hiện tại, nước này đã cho xây dựng hơn 150 Viện Khổng Tử trên thế giới, với mục đích quảng bá ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa. Việc chọn Khổng Tử để đặt tên cho các viện không phải là ngẫu nhiên, bởi ở Trung Quốc, Khổng Tử được phong là “vạn thế sư biểu” (Biểu trưng người thầy ở mọi thời đại). Ông là người khai sáng Nho giáo, một học phái không chỉ ngự trị ở Trung Quốc hàng ngàn năm, mà còn ảnh hưởng sang nhiều nước trong khu vực, như Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Ngày nay, học thuyết Khổng Tử được nghiên cứu trên khắp thế giới. Chúng ta trở lại sự kiện Lưu Hiểu Ba hồi năm rồi để hiểu thêm về tầm quan trọng của Khổng Tử đối với nhà nước Trung Quốc. Khi được chọn tặng giải Nobel Hòa bình 2010, Lưu Hiểu Ba đang bị giam tại Trung Quốc. Thế mà, Ủy ban Nobel vẫn quyết định tổ chức lễ phát giải vắng mặt. Tại Trung Quốc, trước một ngày khi lễ trao giải Nobel diễn ra, Bắc Kinh đã sáng lập giải Khổng Tử, và trao cho một nhà chính trị Đài Loan. Khi ấy, báo chí phương Tây đã ví von “Khổng Tử trước Nobel”. Cố tình không theo? Trung Quốc xem trọng Khổng Tử như thế, nhưng lạ thay, nước này có vẻ chỉ biết khai thác tiếng tăm của đức Khổng, bởi trong hành động, Bắc Kinh tỏ ra không hề hiểu, hoặc đã hiểu mà cố tình không làm theo lời dạy của ngài. Chúng ta chỉ cần nhìn vào ba điểm then chốt nhất của Khổng Giáo để chứng minh cho lời nhận định trên. 1) Khổng Tử dạy: Người quân tử lấy nghĩa làm đầu, không vì lợi mà quên nghĩa. Năm 1974, nhân thế cuộc chiến tranh Việt Nam lúc cao trào, Trung Quốc thừa cơ đánh chiếm Hoàng Sa. Nên nhớ rằng, trong thời gian đó, quan hệ Việt-Trung là đồng chí, anh em. Năm 1988, Trung Quốc lại tấn công Trường Sa, gây thương vong cho nhiều chiến binh Việt Nam. Hai sự kiện này cả thế giới ai cũng biết. Tức Trung Quốc cũng biết rõ hành động chiếm đoạt lãnh thổ của bằng hữu mình là trước thanh thiên bạch nhật, thế mà vẫn làm. Rõ ràng là thấy lợi quên nghĩa! Gần đây, Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa quân đội, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á, và ngày càng có thái độ hung hăng trên Biển Đông. Thái độ và hành động hung hăng của Trung Quốc vừa qua cả thế giới điều biết, báo đài quốc tế đã tốn nhiều giấy mực để phân tích. Giải thưởng mang tên Khổng Tử được 'sáng lập' để đối chọi với giải Nobel Tại sao Trung Quốc lại tăng cường tấn công Biển Đông như thế mà không ngại trắng trợn vị phạm luật quốc tế, không ngại mất tình láng giềng, không ngại mang tiếng lấn lướt người yếu thế? Câu trả lời rất đơn giản mà cả thê giới đều biết, đó là dưới lòng Biển Đông trong khu vực Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò có một trữ lượng dầu hỏa và khí đốt khổng lồ. Rõ ràng lại vì lợi quên nghĩa! 2) Khổng Tử dạy: Người quân tử không sợ kẻ mạnh, không hiếp người yếu. So với Trung Quốc, các nước có tham gia tranh chấp Biển Đông điều là nước nhỏ hơn, kinh tế kém phát triển hơn, quân lực yếu hơn. Gần đây, Trung Quốc tăng cường ngân sách đáng kể cho quốc phòng, xây dựng căn cứ tàu ngầm Tam Á trên đảo Hải Nam. Trung Quốc cũng vừa soán ngôi Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Trung Quốc lại là một trong năm nước có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Như vậy, có thể nói rằng, dù Bắc Kinh luôn “khiêm tốn” không thừa nhân, nhưng trên thực tế, Trung Quốc là một cường quốc kinh tế, chính trị và cả quân sự. “Tri kỉ tri bỉ”, Trung Quốc hiểu rõ vị thế của mình, và đã tận dụng lợi thế này để lấn lướt các nước trong khu vực, dùng sức mạnh để đe dọa láng giềng, không kể gì đến luật pháp quốc tế và tình nghĩa cận thân. Rõ ràng là ỷ mạnh hiếp yếu! 3) Khổng Tử dạy: Trong quan hệ bằng hữu, lấy chữ tín làm đầu. Trên các diễn đàn chính thức, Bắc Kinh luôn tuyên bố không cậy mạnh hiếp yếu, muốn giải quyết tranh chấp bằng hòa bình. Thế mà sự thật đã chứng minh, Trung Quốc tỏ ra "tiền hậu bất nhất". Philippines vừa rồi tố cáo Trung Quốc nhiều lần xâm phạm lãnh hải, trong khi quan chức Bắc Kinh đến thăm Philippines để tăng cường tình hữu nghị. Tàu hải giám Trung Quốc vào trong phạm vi đặc quyền kinh tế của Việt Nam để tấn công tàu Việt Nam. Thế mà, người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Trung Quốc lại cáo buộc điều ngược lại, trong khi báo đài thế giới đều ghi nhận sự xâm phạm lãnh hải Việt Nam này của phía Trung Quốc. Rồi tại diễn đàn Shangri-La 2011, trước phản ứng của Philippines, Việt Nam, Malaysia, tổng trưởng quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt lại tuyên bố mạnh mẽ rằng Trung Quốc không hề dùng sức mạnh đe dọa láng giềng, Trung Quốc theo đuổi giải pháp hòa bình... Sau cuộc "trấn an", tàu Trung Quốc lại tiếp tục tấn công tàu Việt Nam một lần nữa. Rõ ràng là không giữ điều tín nghĩa ? Đức Khổng Tử răn dạy hậu thế tu thân để thành người quân tử. Thế nhưng, chỉ xét sơ ba điều cơ bản của Nho Giáo nói trên, thì đủ thấy rằng bài học cơ bản của đức Khổng đã không được Bắc Kinh học thuộc. Như vậy, chính phủ Bắc Kinh có xứng đáng là con cháu Khổng Tử chăng? Nếu phải, thì nên chăng Bắc Kinh phải học lại Khổng Giáo trước khi truyền bá cho người. Bài phản ánh quan điểm cá nhân của tác giả Lê Phước, một người nghiên cứu Nho giáo, hiện là nghiên cứu sinh tiến sỹ tại Đại học Versailles Saint-Quentin-En-Yvelines, vùng Ile de France, Pháp. Dưới đây trích bài “Nhân ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, suy nghĩ về việc học tập và làm theo đạo đức danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thiện Chí, giảng viên cao cấp trường Đại học sư phạm Tp HCM, tháng 5-2011: Nói đến Khổng Tử, ta thường bị ám ảnh bởi Khổng Tử là người Trung Quốc, không sai. Khổng Tử là người Trung Quốc, ông là người nước Lỗ, sinh năm 551 trước công nguyên, cách nay 2562 năm. Nhưng Khổng Tử được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới từ năm 1952, cho nên nhìn và đánh giá Khổng Tử cần đứng góc độ ông là người của nhân loại. Năm 1998 những người được giải Nobel hòa bình trên toàn thế giới đã nhóm họp tại Paris thủ đô Pháp, có ra lời tuyên bố, long trọng kêu gọi thế giới rằng: “ Nếu loài người muốn tồn tại ở thế kỷ 21, cần phải hồi tưởng lại 2500 năm trước đây, tiếp thu trí tuệ của Khổng Tử”. Qua đó ta có thể thấy, nhân loại đánh giá rất cao giá trị học thuyết Khổng Tử. Tư tưởng Khổng Tử, nói chung là học thuyết Khổng Mạnh, Nho giáo, từ ngàn xưa ảnh hưởng rất sâu sắc đối với người Việt Nam ta, nhất là đối với các bậc sĩ phu thời phong kiến. Không phải ngẫu nhiên mà tại Quốc tử giám Văn Miếu, trường đại học đầu tiên của nước ta, trang trọng thờ Khổng Tử giữa chính điện từ nghìn năm nay. Hồ Chí Minh cũng không ngoại lệ. Những tư liệu mà chúng tôi tiếp cận được chứng minh rằng thời còn bé là cậu Nguyễn Sinh Cung, rồi trước khi ra đi tìm đường cứu nước lấy tên là Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động cách mạng là Nguyễn Ái Quốc và khi làm chủ tịch nước là Hồ Chí Minh, Người đã tiếp nhận Khổng Tử, ca ngợi Khổng Tử và vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức Khổng Tử. Trong hệ thống quan điểm, đạo đức Hồ Chí Minh có phần của Khổng Tử. Xin được lý giải: Đất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ chưa được phổ cập. Các bậc cha mẹ dạy con em mình, hoặc cho con em đi học, học vỡ lòng đều bắt đầu bằng chữ Nho, được gọi là chữ thánh hiền, đi học được xưng là đến “cửa Khổng sân Trình”, học Tam thiên tự, Tứ thư, Ngũ kinh. Nam Đàn Nghệ An là vùng đất văn vật, địa linh nhân kiệt, nhiều vị học rộng tài cao, đậu giải nguyên khoa bảng. Thời bầy giờ lưu truyền câu thơ “Tứ hổ” (bốn ông đồ nổi tiếng xứ Nghệ) Thông minh bất như Qúi ( Vương Thúc Qúi, chữ đẹp, giỏi câu đối) Uyên bác bất như San ( Phan Văn San đậu giải nguyên) Tài hoa bất như Song ( Ngô Qúi Song, học giỏi, chữ đẹp, đỗ tiến sĩ) Cường ký bất như Lương ( Trần Văn Lương, trí nhớ tốt, nhớ lâu) Và các bậc nho sĩ nổi tiếng khác như thầy Đô, thầy Trần Thân, Hoàng Phan Quỳnh, Ngô Thúc Tự… hầu như tất cả các vị đó Nguyễn Sinh Cung đều được thụ giáo. Thủa nhỏ Nguyễn Sinh Cung học rất thông minh, được xem như “thần đồng”, lại tiếp thu nhanh, sáng dạ, có đầu óc tư duy phản biện, có tài đối đáp, làm câu đối, thuộc làu các câu trong Luận Ngữ của Khổng Tử, thuộc làu thơ Đường Tống. Các cụ cứ đồn đại, cậu Cung của cụ Phó Bảng thuộc thông Tứ thư, Ngũ kinh, thầy dạy không còn đâu chữ nghĩa để dạy nữa. Thời kỳ ở Pháp từ 1921, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài bình luận về học thuyết Khổng Tử, dịch sang tiếng Pháp nhiều bài của Khổng Tử. Nguyễn Ái Quốc viết: “ Khổng Tử là con người vĩ đại, ông đã đề xướng sự bình đẳng về quyền lợi trong một thế giới đại đồng giàu có”. Khổng Tử cho rằng: “ thiên hạ thái bình chỉ có thể thực hiện được trên nền tảng một thế giới đại đồng”. Nguyễn Ái Quốc trích dẫn câu nói của Khổng Tử “Không sợ nghèo, chỉ sợ không công bằng”, “của cải và cuộc sống phải bình đẳng với nhau”. Khi Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu, có một sự kiện chấn động làm mọi người phải kinh ngạc. Đó là vào ngày 15-2-1927 chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ra quyết định “Kể từ nay trở đi, hủy bỏ các hoạt động thờ cúng Khổng Tử và theo đó chính phủ sẽ không cấp kinh phí nữa. Đền thờ Khổng Tử sẽ tu sửa thành trường học”. Bảy ngày sau đó, ngày 22-2-1927 ngay tại Quảng Châu, Nguyến Ái Quốc đã chính thức soạn thảo một văn bản với nội dung phê phán quyết định trên, Nguyễn Ái Quốc cho rằng “ Quyết định này là trái với tinh thần dân chủ” và Nguyễn Ái Quốc nói “Người An Nam chúng tôi vẫn phải đọc sách của Khổng Tử để tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần”. Cốt lõi của học thuyết Khổng Tử là chữ NHÂN, lòng yêu thương con người, coi trọng con người. Chính Nguyễn Ái Quốc đã nhiều lần đề cập vấn đề này. Ngày 20-3-1947 Hồ Chủ tịch viết cuốn “Đời sống mới” để giáo dục cán bộ. Trong đó viện dẫn rất nhiều câu nói của Khổng Tử, Mạnh Tử như: “ Cụ Khổng Tử nói: Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít, làm ra mau, dùng đi chậm thì của cải luôn luôn đầy đủ” “Cụ Khổng Tử nói: Người mà không LIÊM, không bằng súc vật” “Cụ Mạnh Tử nói: Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy” “Về chữ CHÍNH cụ Khổng Tử nói: Mình có đúng đắn mới tề được gia, mới trị được quốc, mới bình được thiên hạ”. Một sự kiện khiến ta phải suy ngẫm là vào tháng 5-1965, để tránh mừng thọ trong nước, Người sang thăm Trung Quốc với tư cách cá nhân. Đúng vào ngày 19-5-1965 Người đến thăm Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử và thăm đền thờ Khổng Tử, trong bối cảnh Trung Quốc đang “phê Lâm phê Khổng”, là việc không bình thường. Người được phó chủ tịch nước Trung Quốc là Đổng Tất Vũ và phu nhân tháp tùng đến thăm tỷ mỉ ba giờ đồng hồ liền. Tại đây, Người kể về thân thế, sự nghiệp của Khổng Tử, bàn luận về Khổng Tử. Người nói: “ Khổng Tử vĩ đại, siêu nhân, người dẫn đầu triết lý thánh hiền của thiên hạ”, “Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là khoa học về đạo đức và kinh nghiệm xử thế. Tinh hoa của học thuyết Khổng Tử là ở chỗ sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, mà sự tu dưỡng này rất quan trọng đối với sự mưu cầu hạnh phúc của nhân loại và phúc lợi xã hội”. Học thuyết Khổng Tử trải qua các thời đại, sớm trở thành hệ thống tư tưởng mang tính chính thống và đầy sức sống. Chúng ta không thể bác bỏ tất cả, mà nên tiếp thu một cách có chọn lọc và học lấy điều hay, điều đúng, làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân mình và cho lớp con cháu mai sau. Trên đường từ Khúc Phụ đến Bắc Kinh, ngồi trên tàu lửa, Người đọc bài thơ vừa sáng tác cho mọi người cùng nghe 訪曲阜 Phỏng Khúc Phụ 五月十九訪曲阜 Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ 古松古廟兩依稀 Cổ tùng cổ miếu lưỡng y hy 孔家勢力今何在 Khổng gia thế lực kim hà tại 只剩斜陽照古碑 Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi Thăm Khúc Phụ Mười chín tháng năm thăm Khúc Phụ Miếu cổ, tùng xưa bóng chửa nhòa Uy quyền họ Khổng giờ đâu tá? Thấp thoáng bia xưa chút ánh tà ( bản dịch Nguyễn Thiện Chí) Bài thơ trữ tình, súc tích, ngắn gọn mà sâu sắc, đầy chất trí tuệ, ẩn chứa sự phê phán, bênh vực cho Khổng Tử. Xem thế ta có thể thấy được đạo đức Hồ Chí Minh có tiếp thu một cách sáng tạo tư tưởng đạo đức Khổng Tử. Chính Người đã tự nói điều này. Ngoài ra tất nhiên còn có vấn đề gia phong, truyền thống gia đình, ảnh hưởng của xã hội: sự cần cù hiếu học, chịu đựng gian khổ, sống đạm bạc giản dị, tôn ti nề nếp, kính già yêu trẻ, hiếu thảo ông bà cha mẹ, nhường nhịn lễ phép, yêu nước thương nòi là những biểu hiện đạo đức truyền thống của xã hội Việt Nam. Xin trích bảy câu nói của Hồ Chí Minh: “ Nếu ai nói chúng ta không dân chủ thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế” “Cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại” “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết” “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa” “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài” “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ A,B,C này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được” “Làm cán bộ phải nhận ra phải trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước, tận hiếu với dân”. …. … Tố Hữu nhà thơ lớn của chúng ta đã viết trong bài “Chào xuân 1999” : ÔI ! Việt Nam đất nước nghĩa tình Trái tim lớn yêu Chân Thiện Mỹ Sao gần xa cái Ác cứ rình Mặt nạ người che lòng dạ quỷ ! Sao lắm kẻ xưng danh đồng chí Nhạt lương tâm lạnh ngắt đồng tiền Gian tà dám bán rao đạo lý Tham nhũng leo thang bậc cửa quyền. Trong bài “Viếng bác Tú Xương” (18-5-2001) nhà thơ lại than thở: Chẳng ít quan tham nhũng Bỏ nghĩa chạy theo vàng Kéo cánh bè ăn vụng Mua chức vị làm sang ! Nhưng rồi Tố Hữu lại nhắn nhủ: Nhưng bác Tú Xương ơi ! Dân vẫn phân đen trắng Tay nào che mặt trời Chân lý nhất định thắng ! 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites