Posted 22 Tháng 6, 2011 A. Phong Thủy? Phong là GIÓ, Thủy là NƯỚC, nghiên cứu Phong Thủy thực chất là nghiên cứu nguồn gió và dòng nước. Muốn làm được việc đó, cần có những cứ liệu chính xác về địa lý cảnh quan, để rồi hoặc tận dụng những điều kiện ưu việt của nó, giúp con người sống ngày một tốt hơn, hoặc khắc chế những yếu tố bất lợi của nó, để giảm bớt tai họa cho cuộc sống của mỗi người. Ở tầm “vi mô”, các thầy phong thủy hành nghề theo yêu cầu của các gia chủ, họ chỉ xem xét phạm vi chật hẹp của ngôi nhà, thửa đất nho nhỏ của một gia đình, họ chỉ được quan sát môi trường hẹp xung quanh mảnh đất, đường đi lại, dòng sông chẩy qua, mái đình, ngôi chùa ở gần đó, cái cột điện, cây đa truyền sinh khí hay lưu âm khí … rồi ông thầy đưa ra các giải pháp chế ngự hung khí, khai thác sinh khí bằng cách trổ cổng ngõ, đào ao, trồng cây, hoặc có khi chỉ treo trước nhà một tấm gương hay một lá bùa… Ông thầy có thể hiểu, nhưng không thay đổi được vận khí của một vùng đất, của cả làng, cả huyện, cả tỉnh hoặc cả một quốc gia. Thực tế, đã có nhiều thầy giỏi, hành nghề có uy tín, được nhiều người hâm mộ. Nhưng, ta hãy thử nghĩ xem, nếu cả huyện, cả tỉnh hay cả quốc gia của ta bị lụn bại, thì việc bám vào tấm gương hay lá bùa trước cổng, điều hanh thông có đến được với gia đình ta và con cháu ta không? Ở tầm “vĩ mô”, các nhà nghiên cứu phong thủy địa mạch có tầm nhìn bao quát hơn, rộng hơn và cơ bản hơn. Từ hình dạng đất nước, từ cấu trúc địa hình, dẫy núi, dòng sông… con người phải tận dụng, nhưng phải tôn trọng, làm những việc hợp với nguyên lý khoa học, hợp với thời đại và mang lại lợi ích trường tồn cho đất nước ta, tức là cho mỗi chúng ta. B - Chiến tranh Phong Thủy Theo những tài liệu đã tung lên mạng của nhóm Lê Văn Xương từ hàng chục năm trước, thì từ đỉnh Everest cao 8.800m trên dẫy Hymalaya có một đường gân núi cổ sinh uốn lượn, theo biên giới Ấn Độ và Tây Tạng, qua cao nguyên Vân Nam của Trung Quốc, đến đỉnh Fanxipan của dẫy Hoàng Liên Sơn trên nước ta cao 3.341m, mạch núi cổ đi đến vùng Lâm Thao Phú Thọ thì “lặn xuống” và qua con sông Đà uốn lượn, gân núi cổ sinh lại “mọc lên” đỉnh Ba Vì cao 1.226m. Gân núi này uốn lượn theo hình một con Rồng khổng lồ, đuôi xòe ra ở đồng bằng Bắc Bộ. Nếu ta gọi Everest là Tổ Sơn, nóc nhà của thế giới, nơi tiếp nhận linh khí của Trời, đến đỉnh Fanxipan của dẫy Hoàng Liên Sơn là Thái Sơn, nơi thụ Linh khí truyền vào đất nước ta, thì Ba Vì là Trấn Sơn, hòn núi đứng gác non sông. Quanh Trấn Sơn Ba Vì còn có các dẫy núi khác quây lại (gọi là núi chầu Thiếu Sơn) như Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, Hoàng Liên Sơn, Sông Đà, Tam Đảo và Trường Sơn. Chạy theo các dẫy Núi chầu này là các dòng Sông Tụ: đó là Sông Hồng, sông Chẩy, sông Lô, sông Đà, sông Thao…. gặp nhau ở Việt Trì rồi tỏa xuống, đưa nước vào nuôi sống cả đồng bằng Bắc Bộ. Quả vậy, Ba Vì là Trấn Sơn, hòn núi đứng gác non sông, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, với bao truyền thuyết đáng ghi nhớ. Không phải vô cớ mà cách đây 1200 năm, thầy phong thủy Cao Biền, quan Thái thú của vua Đường Y Tôn đã phát hiện ra các huyệt đạo quan trọng và đã cố công trấn yểm để diệt hiền tài của nước ta, nhưng vẫn bị bó tay với Ba Vì. Trước mặt Ba Vì ở khoảng cách 26 km là Hồ Tây mênh mông, nơi tụ linh khí tỏa ra từ đỉnh Ba Vì, là Minh đường lớn và chính Cao Biền đã gọi Hồ Tây là Não thủy (xưa kia còn có tên là hồ Dâm Đàm, hồ Xác Cáo, hồ Kim Ngưu…) ở đó có những mạch nước thông với sông Hồng, nên những lúc nước sông Hồng dâng cao vẫn có bọt sủi và xung quanh Hồ Tây, đặc biệt khu vực Tây Hồ Tây thuộc phường Xuân La ngày nay, vẫn còn những địa danh cổ rất lạ như sông Thiên Phù (Trời giúp) Đình Bái Ân, Chùa Bái Ân (tạ ơn Trời), ở hồ Tây đã từng nhiều lần xẩy ra hiện tượng Long quyển thủy (rồng cuốn nước). Năm 1010 Vua Lý Thái Tổ dời đô về và đặt tên Thăng Long chính vì lẽ đó. Chưa hết, từ Ba Vì ra đến cảng Vân Đồn thì đuôi rồng lặn xuống nước, nên nơi đó có tên là vịnh Hạ Long, rồi đường gân đi xa mãi, xa mãi đến vịnh Mindanao ở Philipin sâu gần 11.000m. Ta cũng biết rằng nhiều ngàn năm qua người Hán từ Tây Bắc Trung Hoa tràn xuống xâm chiếm và đồng hóa các dân tộc Bách Việt ở phía Nam sông Trường Giang, nhưng đến đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc núi chầu sông tụ và có trấn Sơn Ba Vì thì họ bó tay. Một ngàn năm Bắc thuộc mà họ không đồng hóa nổi chúng ta cũng vì đặc điểm cấu trúc phong thủy này. Người Hán có nguồn gốc ở Tây Bắc nước Trung Hoa tràn xuống Phương Nam, họ có tham vọng vô cùng lớn. Họp đã thôn tính được các dân tộc Bách Việt ở Nam Trường Giang. Năm 1914, nhà Thanh thôn tính được quốc gia Tây Tạng và hôm nay họ biết họ không đồng hóa được Tạng Tộc thì họ tàn sát cho đến người Tạng cuối cùng và hôm nay họ xâm lấn các tỉnh biên giới, họ khai thác Bauxite để phá Tây Nguyên và từ năm 1974 đến nay họ không ngừng gây sự với ta để chiếm Hoàng Sa Trường Sa, đồng thời uy hiếp Philipin cũng vì kho của cải vô giá ở Biển Đông. Các sự kiện trên Biển Đông hôm nay. Những phản ứng mới nhất của Philippin và cộng đồng Đông Nam Á gần đây đang phản ánh cuộc chiến đấu nghiêm trọng, mà Việt Nam đang là yết hầu của cuộc chiến này, nếu TQ “thắt cổ” được Việt Nam là Trung Quốc nuốt gọn Đông Nam Á. Nếu ta coi Trái đất là một cơ thể sống hoàn chỉnh, thì “đường gân” từ đỉnh Everest nóc nhà thế giới đến đáy vịnh Mindanao là bộ xương sống giữ cho hình dạng trái đất không bị biến dạng, không bị bóp méo và bởi vậy, con người mới có cuộc sống yên ổn, không phải nơm nớp lo sợ động đất, sóng thần, lở núi...cùng nhiều tai họa khác. Cũng trên nguyên lý đó, nếu ta coi vùng núi cổ sinh Ba Vì là hòn núi đứng gác non sông có trên 250 triệu năm với lịch sử giữ nước của dân tộc ta cũng như thảm thực vật đa dạng và quý hiếm của nơi đây, thì ta ý thức được đồng bằng Bắc Bộ “non trẻ” có thể tồn tại được, có thể duy trì cuộc sống cho con người mãi mãi cũng nhờ vùng đá cổ sinh này. Bởi vậy, đào núi Ba Vì lên để đào vàng hay làm bất cứ chuyện gì đều động chạm thô bạo đến “cái lõi” giữ cho đất nước ổn định, là là phá hoại an ninh đất nước. C- Những Kiến nghị Khái niệm về Công viên địa chất Geopark đã được thế giới định nghĩa, đầu tiên phải là một vùng có những di sản địa chất có giá trị khoa học, là một vùng có cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và có thảm thực vật đa dạng sinh học. Việt Nam chúng ta đã có Công viên địa chất cao nguyên Đồng Văn được UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu. Nếu trong Hội nghị quốc tế về Công viên địa chất tổ chức từ ngày 16 đến 24/7 -2011 tại Hà Nội, ta được UNESCO công nhận Ba Vì là Công viên địa chất thứ hai, thì Hà Nội sẽ vinh dự được đầu tư Ba Vì thành một đô thị du lịch. Để có thể có được một công viên địa chất toàn cầu, có giá trị về bảo tồn di sản văn hóa, lại có sức hấp dẫn khách du lịch, phải có một nghiên cứu tổng thể, phân loại, đánh giá, không chấp nhận kiểu tự phát, xô bồ, mạnh ai người đó làm như hiện nay. 1 - Khu vực Rừng Quốc gia Ba Vì là khu vực bảo tồn cấp nhà nước, không chấp nhận cho bất cứ một nhóm tư nhân nào chiếm làm của riêng. Phải ngừng ngay và cấm hẳn việc cho xe ủi đất đào bới khu vực Rừng Quốc Gia đồng thời, cần phải dừng ngay việc xây dựng tháp báo thiên ở trên đỉnh núi, việc đó sẽ dẫn tới sự thất thoát linh khí. 2 - Thành phố Hà Nội cần tận dụng những kết quả đã dầy công nghiên cứu khoa học của PGS.TS Tạ Hòa Phương và các cộng sự chuyên ngành địa chất, để cùng đề xuất trong Hội nghị Quốc tế vào tháng 7 tới, tổ chức tham quan, khảo sát… quyết giành được sự chấp thuận của UNESCO cho xây dựng Ba Vì thành một công viên địa chất cấp quốc tế để phục vụ nghiên cứu khoa học và kinh tế du lịch. 4- Về mặt Quy hoạch & Kiến trúc, rất nhiều nhà nghiên cứu đặt câu hỏi rằng Đà Lạt cách xa TP Hồ Chí Minh những 300 km, mà có thể trở thành một thành phố nghỉ dưỡng đẹp, mang phong cách Châu Âu, thu hút khách du lịch khắp nước, thì tại sao Hà Nội có Sóc Sơn, Ba Vì mà tại sao không thể tạo thành một “Thành phố xanh” hay gọi là “Đà Lạt sát bên Thủ đô” với các loại hình du lịch sinh thái (của người Mường) và du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh (của người Dao với 300 loài cây thuốc quý và nghề chữa bệnh truyền thống mà không nơi nào có thể tìm thấy được). 5 - Đã đến lúc, người hưởng thụ ý thức được niềm hạnh phúc được sống hòa mình trong thiên nhiên với những ngôi nhà xinh xắn, vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm, với những thảm thực vật đa dạng và cây cỏ phong phú. Để có giá trị văn hóa sâu sắc và để thực sự thu hút được sự hâm mộ của đại đa số khách du lịch tham quan trong nước và bạn bè quốc tế, việc xây dựng, hình mẫu kiến trúc… không thể tùy tiện, mạnh ai người đó làm như đang xẩy ra. Vừa qua, Hội KTS Việt Nam đã thành lập Hội đồng KIẾN TRÚC XANH, rất hy vọng Hội sẽ phát động các cuộc thi làm quy hoạch và sẽ lựa chọn hình mẫu kiến trúc, xây dựng thử một khu vực hoàn chỉnh… Tóm lại, để chung sức đóng góp bảo vệ toàn bộ Khu vực và Vườn Quốc gia Ba Vì, khu đất linh thiêng quan trọng nhất của đất nước, nơi còn có tên là TRẤN SƠN – hòn núi đứng gác non sông. Nơi ấy là địa điểm quan trọng, liên quan đến vận mệnh của đất nước, nên quy hoạch và xây dựng Ba Vì phải được nghiên cứu thận trọng và phải được các cơ quan chuyên môn nghiên cứu và Chính phủ ra quyết định. (Nguồn) 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 6, 2011 Bài này của bà kiến trúc sư Trần Thanh Vân mà. Bài này đã đưa lên diễn đàn lâu rồi. Hình minh họa của bài này chính là hình tôi vẽ ngày xưa và lần đầu tiên đưa lên trên trang tuvilyso.com (Trang này đã bị xóa . Nay là tuvilyso.net). Việt Nam có hòn đảo gọi là Bạch Long Vĩ - đuôi rồng trắng - chính vì con rồng này xuất phát từ phương Tây - so với Văn Lang ở Nam Dương Tử. Phương Tây thuộc Kim / sắc trắng - Cái này tất cả dân lý học đều biết - Nên gọi là Bạch Long Vĩ. Đúng là Ba Vì có một vị trí đặc biệt về Phong thủy trong địa hình toàn bộ đồng bằng sông Hồng. Ngay cả trong trường hợp xấu nhất xảy ra liên quan đến lũ lụt, vỡ đập .....thì chính Ba Vì là nơi giảm thiểu thiệt hại. Tất nhiên xét về phong thủy. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 6, 2011 Bài này của bà kiến trúc sư Trần Thanh Vân mà. Bài này đã đưa lên diễn đàn lâu rồi. Hình minh họa của bài này chính là hình tôi vẽ ngày xưa và lần đầu tiên đưa lên trên trang tuvilyso.com (Trang này đã bị xóa . Nay là tuvilyso.net). Việt Nam có hòn đảo gọi là Bạch Long Vĩ - đuôi rồng trắng - chính vì con rồng này xuất phát từ phương Tây - so với Văn Lang ở Nam Dương Tử. Phương Tây thuộc Kim / sắc trắng - Cái này tất cả dân lý học đều biết - Nên gọi là Bạch Long Vĩ. Đúng là Ba Vì có một vị trí đặc biệt về Phong thủy trong địa hình toàn bộ đồng bằng sông Hồng. Ngay cả trong trường hợp xấu nhất xảy ra liên quan đến lũ lụt, vỡ đập .....thì chính Ba Vì là nơi giảm thiểu thiệt hại. Tất nhiên xét về phong thủy. http://lyhoc.vstatic.net/public/style_emoticons/default/39.gif Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 6, 2011 "Xẻo thịt" núi Ba Vì! 26/01/2011 11:05:27 - "Vùng núi Ba Vì (Hà Nội) đang bị xẻo thịt cho các dự án lớn nghỉ dưỡng và du lịch giải trí. Các nhà khoa học môi trường kêu cứu nhưng hình như tiếng kêu chưa thấu" - TS Ngô Kiều Oanh, nguyên cán bộ nghiên cứu, Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam, phản ánh. Có tội với người dân Thủ đô! Tôi nghe nói bà được mệnh danh là "Người đàn bà yêu núi Ba Vì". Không hiểu tình yêu đó bắt đầu từ bao giờ? Tôi đặt chân lên vùng đất đó từ năm 1987 và yêu nó ngay từ lần gặp đầu tiên. Tôi yêu nó bởi tôi thấy nó có sự cuốn hút đặc biệt. Bà có thể cho tôi thấy sự đặc biệt đó? Ba Vì là vùng đệm rất quan trọng cho Thủ đô và nó hội tụ rất nhiều điều kiện. Nó là vành đai bảo vệ và ứng cứu cho Thủ đô trong các vấn đề như an ninh, môi trường, giáo dục, văn hóa, lịch sử... Thủ đô muốn phát triển bền vững rất cần có một vành đai căn cơ về các mặt lịch sử, sinh thái tự nhiên và văn hóa. "Tôi và các nhà khoa học đã khẩn thiết đề nghị cần phải bảo vệ Ba Vì như một đối tượng tự nhiên đặc biệt". Hà Nội càng ngày càng ô nhiễm chật chội và vấn đề an toàn thực phẩm đặt ra rất gay gắt. Thế mà Hà Nội lại không có một vùng đệm cung cấp thực phẩm sạch thì dân Hà Nội sẽ chịu đầu tiên. Thà mình không có vùng quý như Ba Vì thì mình không nói. Nhưng mình có mà không biết giữ là có tội với người dân Thủ đô! "Tôi được đào tạo ở Liên Xô là 12 năm, tốt nghiệp khoa Điều khiển học tại Đại học Năng lượng Mát-xcơ-va và Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ). Khi về nước năm 1974, tôi tham gia ngay vào điều khiển học trong nông nghiệp, về quy hoạch vùng. Điều khiển học cho mình nhãn quan về hệ thống và tính liên kết trong hệ thống. Tôi yêu Ba Vì là bởi đó là một kho gen khổng lồ về động thực vật, côn trùng và vi sinh vật và rất thuận lợi cho các nhà khoa học với tới được trong lúc ngân sách và điều kiện tài chính eo hẹp cho các hoạt động khoa học ứng dụng mang tính dài hơi như hiện nay." Nhưng người ta đã làm gì nên tội? Người ta đang có ý định xây nào là cáp treo, nào là biệt thự, nào là các khu du lịch giải trí đón hàng triệu du khách... Hệ lụy kèm theo là khi các hoạt động du lịch tiến sâu vào lõi rừng, là sự xả rác khủng khiếp và ăn thịt thú rừng... Tôi và các nhà khoa học đã khẩn thiết đề nghị cần phải bảo vệ Ba Vì như một đối tượng tự nhiên đặc biệt. Cũng cần phải kể đến tính linh thiêng mà cả dân tộc Việt phải thờ phụng hàng nghìn năm nay đối với ngọn núi này. Các nhà khoa học phải được coi trọng! Lời đề nghị khẩn thiết ấy có được thông qua? Ít nhiều thì lời đề nghị đó đã được thông qua. Ban đầu người ta đã định đưa Trung tâm hành chính lên sát chân núi Ba Vì. Họ làm vậy là bởi trong các chiến lược phát triển, họ không coi trọng các nhà khoa học, không lấy được bao nhiêu các tri thức và kinh nghiệm của các nhà khoa học làm căn cứ khoa học cho các quyết sách, nhất là trong công tác làm quy hoạch. Viện nơi tôi đã làm việc có hàng nghìn các nhà khoa học nghiên cứu cơ bản nhưng áp dụng các kết quả khoa học cho các dự án quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về kinh tế xã hội môi trường được bao nhiêu? Ứng dụng được bao nhiêu? Ít lắm! Các nhà khoa học chưa được luật pháp hóa để mà ngồi lâu dài trong các dự án đó. Không phải các nhà khoa học ăn cái gì trong dự án cả, nhưng bét ra ý tưởng của các nhà khoa học cũng phải được coi trọng! Nghĩa là theo bà thì các nhà khoa học cần có chân trong các dự án? Đúng vậy. Tôi không cần và tôi nghĩ các nhà khoa học không cần ăn cái gì bổ béo trong dự án cả. Quan trọng nhất là ý tưởng của các nhà khoa học phải được tôn trọng. Rồi khi dự án thực hiện, các nhà khoa học phải được giám sát. Cứ kêu gào là các nhà khoa học không đóng góp, làm sao mà đóng góp được! Nhiều đại gia đang "xẻo thịt" nó! "Ở nước ngoài người ta bán ý tưởng đắt lắm. Ở nước mình có lúc thì phải cho không ý tưởng mà vẫn không được sử dụng. Tôi có cái mô hình rau an toàn mà phải mấệ cả chục năm, đã đi rất nhiều nơi mãi cho đến khi gặp được Sở Khoa học tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu mới làm được vì bị cho là vấn đề tế nhị, dính đến thuốc bảo vệ thực vật." Từ khi bà biết đến Ba Vì và yêu nó thì sự "trinh trắng và quý giá" của nó có còn được nguyên vẹn? Nó đang biến đổi xấu đi về thiên nhiên, sinh thái. Nhiều đại gia đang xẻo thịt nó! Vì sao họ xẻo thịt nó ư! Vì nó quý. Vì nó nằm ngay trong lòng Thủ đô. Nó rất thuận lợi cho đội ngũ trí thức, các nhà khoa học làm công tác nghiên cứu về nhiều mặt như một phòng thí nghiệm thiên nhiên và lịch sử rất lớn và đa dạng. Nhưng nó cũng rất thuận lợi cho người ta lên đó nghỉ ngơi, thư giãn cuối tuần? Thì thế mới chết! Nhưng cần phải đặt nó nằm trong mối quan hệ giữa cái lâu dài và ngắn hạn, giữa hy sinh quyền lợi của một nhóm và của dân tộc thì cái nào hơn? Tôi và bà có thể sẽ đặt quyền lợi dân tộc lên vì không có quyền lợi trong đó. Nhưng người khác thì... Đúng vậy. Tôi lo sợ nhất là một bộ phận nhỏ quan chức tham lam liên kết với các đại gia vì họ có phần trong đó... Vậy nếu Ba Vì bị xẻ thịt thì lỗi là do nó không đáng yêu hay còn quá ít người yêu Ba Vì và muốn giữ gìn nó? Lỗi do cơ chế. Cơ chế mình hổng làm cho người tốt mà ngồi trên cái ghế đó cũng tham nhũng. Chính vì tham nhũng mà khoa học không đóng góp được gì nhiều. Văn hóa phong bì như một con bạch tuộc bám vào mọi nơi. Vẻ đẹp nguyên sơ của núi Ba Vì. (Ảnh: VOVNews) Phí phạm quá! Nhiều người cho rằng người giỏi là người biết thích nghi với thời cuộc. Bà cứ đấu tranh như vậy mà không được gì, có lúc nào bà nghĩ rằng công sức của bà đang đổ xuống sông biển? Tôi đấu tranh nhưng tôi vẫn lẳng lặng làm. Cũng có những lúc công sức đổ xuống sông xuống biển, có lúc rất vất vả không đáng có. Tôi thấy thật buồn cười khi mà các nhà khoa học như tôi cứ phải suốt ngày đi chiến đấu với cơ chế. Phí phạm quá! Đáng lẽ chúng tôi phải chuyên tâm vào nghiên cứu, chuyên tâm thực hiện các mô hình thí điểm chứ. Có lẽ tại các nhà khoa học chưa chuyên tâm thôi chứ tôi thấy ngân sách nhà nước dành cho khoa học cũng nhiều đấy chứ? Tiền của Nhà nước cho khoa học không ít, nhưng nó đi đâu ấy! Nó còn thừa là đằng khác. Vì sao nó có thể thừa khi mà các nhà khoa học đang rất cần tiền để nghiên cứu? Nó thừa do cơ chế tham nhũng. Vì không lót tay ông nọ bà kia thì không được duyệt đề tài. Cái đó là chắc chắn đấy. Nếu đúng thế tại sao bà không vạch mặt, điểm danh những kẻ đó ra để xã hội biết? Không thể chỉ mặt điểm tay được vì nó diễn ra sau lưng. Cơ chế nó tạo ra như vậy. Tôi xin ví dụ một cái bất cập về cơ chế hiện nay. Đó là cách đánh giá một công trình khoa học. Nó đánh giá theo kiểu cái khung tranh này mua ngoài thị trường hết bao nhiêu tiền, mực bao nhiêu, giấy bao nhiêu?... Phải đánh giá giá trị của bức tranh đó chứ! Rồi làm xong đề tài phải đi lấy hóa đơn! Nhiều cái làm gì có hóa đơn. Thế là phải nói dối. Lúc nào cũng tìm cách nói dối. Thế là cái ông quan trọng nhất trong các đề tài khoa học là ông quản lý, ông tài chính, ông kế toán chứ không phải các nhà khoa học nữa. Một người làm về tài chính trong các đề tài khoa học đã nói với tôi rằng nhiều lúc chán nản khi va phải cơ chế đó. Nó quá cổ lỗ. Xin cảm ơn bà vì cuộc trò chuyện thẳng thắn này. Chúc bà có một cái Tết khoẻ mạnh, vui vẻ, năm mới thuận hòa! Nguyên Thủy (thực hiện) Share this post Link to post Share on other sites
Posted 21 Tháng 10, 2011 LÝ CÔNG UẨN VÀ CHIẾU ĐỜI ĐÔ * Tạ Ngọc Liễn Hội Nhà Văn Việt Nam Lý Công Uẩn, người khai sáng vương triều Lý (1010-1225), khai sáng Thủ đô Thăng Long - Hà Nội, sinh ra và được nuôi dưỡng, giáo dục nơi cửa chùa rồi được giới tăng sĩ ủng hộ, tôn phò làm vua. Cống hiến có ý nghĩa lịch sử quan trọng nhất của Lý Công Uẩn sau khi lên làm vua là việc ông quyết định chọn thành Đại La làm kinh đô, dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên thành Thăng Long, Hà Nội ngày nay. Việc Lý Công Uẩn chọn Thăng Long làm kinh đô vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển mới của thời đại, của Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đang vươn lên mạnh mẽ, vừa có tầm nhìn xa rộng và kế sách lo toan cho con cháu muôn đời sau. Lý Công Uẩn làm vua 18 năm. Trong thời gian ấy ông đã làm được một số việc mà quốc sử ghi chép như là những việc trọng đại: Thứ nhất, Lý Công Uẩn cho xây dựng kinh thành Thăng Long có quy mô bề thế, bao gồm cung điện và một hệ thống các điện Càn Nguyên (làm chỗ thiết triều), điện Tập Hiền, điện Giảng Võ… cùng kho tàng, hào lũy. Bốn mặt thành mở 4 cửa Tường Phù (phía Đông), Quảng Phúc (phía Tây), Đại Hưng (phía Nam), Diệu Đức (phía Bắc). Thứ hai, để đáp ứng nhu cầu của đời sống tâm linh, nhu cầu về tôn giáo tín ngưỡng, mà khi đó Phật giáo là Tôn giáo được tầng lớp quý tộc, cung đình cũng như dân chúng tôn sùng, Lý Công Uẩn đã cho xây cất nhiều chùa, như ở phía Nam kinh thành, ở phủ Thiên Đức (châu Cổ Pháp cũ). Lý Thái Tổ là người đặt nền móng vững vàng cho sự hưng thịnh của Phật giáo thời Lý. Thứ ba, khi vương triều Lý được thành lập, ở một số địa phương, đặc biệt là ở vùng biên giới phía Bắc, có những thế lực nổi dậy cướp phá, cát cứ. Nhằm dẹp yên các cuộc khởi loạn và nắm được quyền uy của vương triều Lý trên toàn lãnh thổ quốc gia, Lý Thái Tổ tiến hành những cuộc chinh phạt có hiệu quả ở châu Ái, châu Diễn, châu Vị Long, châu Thất Nguyên… Thứ tư, về đối ngoại, Lý Thái Tổ đã thiết lập được quan hệ ngoại giao khá tốt đẹp với triều Tống. Bên cạnh những thành tích lớn trên, Lý Thái Tổ còn có công bước đầu xây dựng một bộ máy có quy chủ từ triều đình xuống tới châu, huyện, hương, ấp; bổ nhiệm một hệ thống quan chức Thái úy, Tổng quản, Khu mật sứ, Thái bảo, Thái phó, Tả hữu kim ngô, Tả hữu võ vệ, Ngự sử đại phu, Đô đốc Thượng tướng quân và Viên ngoại lang. Đồng thời, Lý Thái Tổ sau khi lên làm vua, đã sớm ban bố chiếu lệnh buộc những người trước kia trốn tránh phải trở về quê cũ sản xuất; định lệ thuế khóa các loại… Trong chính sách thuế, ông có sự chiếu cố đối với người già yếu, kẻ mồ côi, tàn tật, góa bụa. Các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư khen Lý Thái Tổ “là người khoan từ nhân thứ”. Sử gia Ngô Thì Sĩ khi đánh giá nhà Lý, nhà Trần có viết: “Triều Lý nhân ái, triều Trần anh hùng”. Nền nhân chính thời Lý được hình thành chính là từ Thái tổ Lý Công Uẩn. Vương triều Lý do Lý Công Uẩn khai sáng tồn tại 215 năm, với 8 đời vua, là một triều đại lớn trong lịch sử Việt Nam có những ông vua anh hùng cứu nước và khai sáng văn hiến dân tộc, như Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128); những nhà quân sự, chính trị kiệt xuất, như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành… Khi khảo cứu về chế độ, điển chương thời Lý, Lê Quý Đôn cũng như Phan Huy Chú đều nói, vì thời Lý cách xa quá lâu, tài liệu mất mát, thiếu thốn nhiều, song dựa vào các nguồn tài liệu sách vở, văn kiện hiện còn, chúng ta thấy những dấu ấn văn hóa khá rực rỡ của triều Lý vẫn in khắc sâu trong lịch sử Việt Nam. Thí dụ về cơ cấu tổ chức Nhà nước, về quan chế... Phan Huy Chú đã khảo cứu chức “Á tướng” đời Lý là Tả hữu Tham tri chính sự là chức ở trong Chính phủ, dưới chức Tướng quốc. Hoặc như Lục bộ, theo Phan Huy Chú, ở nước ta chức Thượng thư đặt ra bắt đầu từ thời Lý, nhưng tên các bộ chia đặt thế nào chưa rõ. Đời Trần theo phép ấy của nhà Lý đặt chức Thượng thư hành khiển, Thượng thư hữu bật, sau mới chia ra Thượng thư các bộ (bộ Lại, bộ Binh, bộ Hình). Về quân sự, nhà Lý buổi đầu mô phỏng binh chế đời Đường… đời Tống, nhưng có nhiều sáng tạo độc đáo, trong đó cách hành quân, cách tác chiến chính người Tống lại phải học tập nhà Lý. Những chiến tích quân sự bất diệt của đời Lý đã chứng minh nền quốc phòng và quân sự đương thời là vô cùng mạnh mẽ, tài giỏi. Cùng với thành tích quân sự, nền ngoại giao triều Lý cũng giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Với một đường lối đối ngoại vừa khôn khéo, vừa cứng cỏi, vương triều Lý đã buộc nhà Tống phải nể trọng, nên trong việc giải quyết về các vụ tranh chấp đất đai ở khu vực biên giới giữa nhà Lý với nhà Tống, phía nhà Lý thường chiếm ưu thế, bởi vậy, lãnh thổ đất nước được bảo vệ chắc chắn, toàn vẹn. Về phát triển kinh tế, dưới triều Lý còn có nhiều bước tiến bộ quan trọng, đặc biệt là việc xây dựng các công trình thủy lợi, trong đó công trình đắp đê Cơ Xá (sông Hồng, Thăng Long). Nghề dệt, nhất là nghề làm đồ gốm đạt tới đỉnh cao của kỹ thuật và nghệ thuật thủ công nghiệp. Ngoại thương phát đạt. Việc giao lưu buôn bán giữa nhà Lý với các nước vùng Đông Nam Á như Xiêm La, Giava, Tam Phật Tề ( Palembang)... khá sôi nổi. Vân Đồn trở thành thương cảng quốc tế quan trọng của Việt Nam khi đó. Trong lịch sử văn minh Việt Nam, vương triều Lý là vương triều mở đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Việc triều Lý mở Quốc Tử Giám, xác lập chế độ đại học, mở khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước là những sự kiện, những cái mốc văn hóa mang ý nghĩa trường cửu. Phật giáo du nhập nước ta từ rất sớm. Giao Châu từng là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng thời cổ. Nhưng phải đến thời Lý, người Việt Nam mới xây dựng được một đạo Phật mang đặc điểm dân tộc rõ nét, đánh dấu bằng sự ra đời của Thiền phái Thảo Đường (1096-1205) với các thế hệ Lý Thánh Tông (1054-1017), Không Lộ, Giác Hải, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông... Dưới ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo Thiền Tông, ở thời Lý, kiến trúc nghệ thuật xây chùa, tháp, đúc tượng đạt thành tựu rực rỡ. Văn học, đặc biệt là thơ Thiền đời Lý, đã trở thành một di sản quý giá trong kho tàng văn chương Việt Nam. Khi nói đến sự kiện Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình ra Đại La, tức Thăng Long là phải nói đến Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) do Lý Công Uẩn tự tay viết. Chiếu dời đô, vừa là một văn kiện lịch sử, chính trị, vừa là một áng văn bất hủ, mở đầu 1000 năm thơ văn viết về Thăng Long - Hà Nội. Nguồn sử tịch sớm nhất chép bài văn Chiếu dời đô của Thái Tổ Lý Công Uẩn là Đại Việt sử ký toàn thư, bộ quốc sử do Ngô Sĩ Liên biên soạn năm 1479, dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn (nửa sau thế kỷ XIX) cũng có bài Chiếu dời đô. Ngoài ra, còn có một số sách khác cũng chép bài Chiếu dời đô, thí dụ Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích (1744-1818). Sau khi đối chiếu các văn bản Chiếu dời đô được chép ở ba bộ sách vừa dẫn trên, chúng tôi chọn bài Chiếu dời đô trong Đại Việt sử ký toàn thư để dịch lại và giới thiệu, vì đây là văn bản có niên đại sớm nhất (thế kỷ XV) mà về sau Bùi Huy Bích cũng như Quốc sử quán triều Nguyễn đều dựa vào để sao chép lại (rồi sửa chữ như Bùi Huy Bích, hoặc lược bớt đi cho gọn như các sử thần ở Quốc sử quán triều Nguyễn đã làm). Dưới đây là phần phiên âm và dịch nghĩa, chú thích toàn văn bài Chiếu dời đô. Phiên âm "Thủ chiếu viết: "Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành vương tam tỉ; khởi Tam đại chi sổ quân, tuẫn vu kỷ tư, võng tự thiên tỷ, dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế. Thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải, cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh, Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi, Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỷ. Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế, chính nam, bắc, đông, tây chi vị, tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải, dân cư miệt hôn điếm chi khốn, vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa, thành tứ phương bức thấu chi yếu hội, vi vạn thế kinh sư chi thượng đô. Trẫm dục nhân thử địa lợi, dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?". Dịch nghĩa "(Nhà vua) tự tay viết Chiếu rằng: "Xưa kia nhà Thương đến đời Bàn Canh ([1] năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ( [2]) ba lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại [3]) liều vì riêng mình, tự ý bậy bạ chuyển đi nơi khác, mà bởi họ mưu tính lớn lao, chọn ở nơi trung tâm, làm kế muôn vạn đời cho con cháu về sau. Trên cung kính mệnh trời, dưới dựa theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên phúc nước dài lâu, phong tục giầu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê mới vì riêng mình, quên mệnh trời, bước đạp bừa lên dấu tích Thương, Chu, cứ yên ở mãi ấp ( [4]) nhỏ của mình nơi ấy, để đến nỗi đời chẳng được dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không thích hợp, Trẫm rất thương xót, không thể không di dời khỏi đó. Huống chi thành Đại La ( [5]), đô ( [6]) cũ của Cao Vương ( [7]) ở khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuốn, hổ ngồi; chính vị đông, tây, nam, bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi. Ngắm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất, thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất kinh sư của kinh sư ( [8]) muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định đô ở đó, các khanh nghĩ thế nào?". Chiếu, tức chiếu lệnh hoặc chiếu thư, là một thể văn, vua ban ra để nói rõ cho quần thần, dân chúng biết về một vấn đề gì đó. Đây là loại hình văn bản quan trọng vì nó vừa là mệnh lệnh của vua, vừa là chủ trương, chính sách của triều đình về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục... mà quan, dân phải thực hiện. Ở nước ta thời xưa, Chiếu dời đô là văn bản sớm nhất, đầu tiên, của thể văn chiếu và là một văn kiện mang ý nghĩa vô cùng to lớn, vì đây là tờ chiếu nói về việc Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long - một sự kiện trọng đại, mở ra bước phát triển mới trong lịch sử Việt Nam. Chiếu dời đô không chỉ là một văn kiện chính trị, mà còn là một áng văn hay, có giá trị văn học. Việc Bùi Huy Bích chọn đưa Chiếu dời đô vào công trình Hoàng Việt văn tuyển, chứng tỏ cụ là nhà làm văn tuyển có con mắt rất tinh tường. Đọc Chiếu dời đô, chúng ta thấy áng văn này đã thể hiện được rõ Lý Công Uẩn, người khai sáng Vương triều Lý, khai sáng Kinh đô Thăng Long, có tầm nhìn chiến lược đại ngàn, đã định hướng đúng cho sự phát triển bền vững, lâu dài của đất nước. Cũng qua Chiếu dời đô, chúng ta biết Lý Công Uẩn có ngọn bút tả cảnh tài giỏi, giầu hình tượng và giầu trí tưởng tượng, giầu tính dự báo. Nếu nhìn từ góc độ văn học sử mà nói, Chiếu dời đô quả là áng văn bất hủ, mở đầu cho 1000 năm thơ văn viết về Thăng Long - Hà Nội. Chú thích: [1] Bàn Canh: Vua thứ 17 của nhà Thương (ước khoảng thế kỷ XVI tr. Cn - 1066 tr. Cn. [2] Thành Vương: Vua thứ 3 nhà Chu (ước khoảng năm 1066 tr. Cn - 771 tr. Cn). [3] Tam đại: ba đời Hạ, Thương, Chu ở Trung Quốc. [4] Ấp: Theo chế độ hành chính thời cổ, đất ở địa phương, lớn gọi là đô, nhỏ gọi là ấp. Đất được phong cũng gọi là ấp. [5] Thành Đại La: thuộc địa phận Hà Nội (cũ). [6] Đô: ở đây là chỗ chính quyền cấp cao nhất ở, tức thành Đại La. [7] Cao Vương: tức Cao Biền, viên quan đứng đầu bộ máy cai trị của nhà Đường ở nước ta (thời đó gọi là Giao Châu) vào nửa sau thế kỷ thứ IX và Cao Biền cho đắp thành Đại La khoảng năm 866. [8] Kinh sư: là quốc đô, nơi vua ở. Kinh sư còn gọi là Thượng đô, Kinh đô. Chữ "Thượng đô" trong nguyên tác Chiếu dời đô, khi dịch, tôi chuyển thành chữ "Kinh sư". Tư liệu khác: - Chiếu dời đô (06/03/2009) - Kinh thành và Hoàng thành thời Lý (25/10/2009) - Chiến lược độc đáo bảo vệ Thăng Long thời Lý (07/09/2009) - Thời Lý (1009-1225): Hai thế kỷ hưng khởi đầu tiên của văn hóa Thăng Long (07/08/2009) - Nhà Lý (06/08/2009) Huống chi thành Đại La ( [5]), đô ( [6]) cũ của Cao Vương ( [7]) Tôi nghi ngờ đoạn này: - Truyền thuyết Cao Biền trấn yểm nước ta dĩ nhiên vẫn có trong thời Lý. - Vua Lý Công Uẩn và các Quân Sư rất am tường phong thủy. - Dùng từ Kinh đô và Cao Vương không hợp lý. Cao Vương là do dân gian gọi; Kinh đô không thể gọi vì thời Đường là ở bên Tàu. Cũng tương tự, nên xem lại Sĩ Nhiếp là ai mà tới hôm nay lại còn đón rước long trọng vậy?. - Nếu không dùng đoạn văn này ta vẫn có thể dùng nội dung khác mà vẫn nguyên nghĩa. - Thời Minh xâm chiếm, quân ta thu được danh sách các long mạch đã bị Cao Biền trấn yểm. - Trước Đại La thì trung tâm đặt ở đâu? - Nếu đời đô thì phải di dân từ nơi kinh đô Hoa Lư cũ - có phải chắc chắn triều đại trước ở Ninh bình không?, cho tới giờ vùng này vẫn hoang vắng?. Cũng Ngô Sĩ Liên, trong Đại Việt sử ký toàn thư, viết: "Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Con không hiền là tội của con thôi. Tục truyền rằng sau khi vương chết đã chôn, đến cuối thời nhà Tấn đã hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ của vương, thấy mình mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người địa phương cho là thần, làm miếu để thờ gọi là "Tiên Sĩ Vương". Có lẽ là khí tinh anh không nát, cho nên thành thần vậy": Câu này có vấn đề - nên nhớ là vua Quang Trung không chấp nhận sử gia Ngô Sĩ Liên và nói ông xuyên tạc lịch sử. Còn việc định dời trung tâm hành chính Hà Nội về Ba Vì là một cuộc chơi đất đai vô tiền khoáng hậu trong lịch sử kinh doanh thế giới - đúng là những thằng người thời đại mới kinh thật. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 10, 2011 Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Nguyên bản Hán Văn: 南國山河 南 國 山 河 南 帝 居 截 然 定 分 在 天 書 如 何 逆 虜 來 侵 犯 汝 等 行 看 取 敗 虛 Bản phiên âm Hán-Việt: Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Bản dịch thơ: Sông núi nước Nam Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rành định phận tại sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Chúng ta kết hợp đoạn văn Huống chi thành Đại La ( [5]), đô ( [6]) cũ của Cao Vương ( [7]) Cùng với nội bài thơ Nam quốc sơn hà ở trên qua đoạn: Rành rành định phận tại sách trời thì thấy hoàn toàn mâu thuẫn, chẳng nhẽ: định phận bởi Mr. Cao Biền?. Như vậy, có thể rút ra một kết luận chắc chắn, đoạn văn trên không phải là bản gốc. Mặt khác, Đại Việt Sử ký toàn thư tôn vinh Mr. Sĩ Nhiếp một cách lố bịch, lại có ý làm hoang mang, sợ hãi tinh thần nhân dân khi chuyển hóa thành thần thánh: Cũng Ngô Sĩ Liên, trong Đại Việt sử ký toàn thư, viết: "Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao? Con không hiền là tội của con thôi. Tục truyền rằng sau khi vương chết đã chôn, đến cuối thời nhà Tấn đã hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ của vương, thấy mình mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người địa phương cho là thần, làm miếu để thờ gọi là "Tiên Sĩ Vương". Có lẽ là khí tinh anh không nát, cho nên thành thần vậy". Tại sao hai vấn đề này lại nằm ngay trong những dấu mốc quan trọng, mang tính bước ngoặc của lịch sử nước nhà - Thật là kỳ lạ. Chúng ta hoàn toàn không còn cách giải thích hợp lý nào khác hơn nữa. Lĩnh Nam Chích Quái – Truyện Sĩ Nhiếp Văn Miếu Tiên Nho thờ Sĩ Nhiếp, Bắc Ninh Theo sách “Tam Quốc Chí” thì Nhiếp (1) họ Sĩ ,tên Nhiếp, người Quảng Tín, huyện Thương Ngô (Trung Quốc); tổ tiên là người Vấn Dương, nước Lỗ, tránh loạn Vương Mãng đến cư ngụ ở đất ấy, thời Hán Hoàn Đế làm thái thú Nhật Nam. Nhiếp thuở nhỏ du học ở kinh đô nhà Hán, chú giải sách Tả Thị Xuân Thu, thi đậu khoa Hiếu Liêm, bổ làm Thượng Thư Lang, vì việc công bị miễn chức. Sau lại đỗ Mậu Tài, được giữ chức quan Lệnh Vu Dương. Hiến đế lại sai làm Thái thú Giao Châu. Lúc ấy nhằm lúc cuối đời Hán thời loạn Tam quốc, Sĩ Nhiếp đang cai trị thành Thanh (nay là thành Long Biên). Hiến Đế nghe tin ,ban cho ông bảy bộ sách ,vẫn giữ chức Thái thú Giao Châu như cũ. Nhiếp liền sai Trương Mân đi sứ,đến kinh đô nhà Hán sửa lễ tiến cống. Hiến Đế xuống chiếu triệu về, cho ông làm An Viễn tướng quân, phong tước Hầu Long Độ Đình. Sau, Tôn Quyền nhà Ngô phong Nhiếp làm Tả Tướng Quân, và phong cho hai con trai làm Lang Trung. Nhiếp đem dâng lên Tôn Quyền các vật quý giá ở địa phương thường được Quyền khen ngợi, nên cho người em của Nhiếp tên Nhất làm Thái thú châu Hợp Phố, cho người em tên Vị làm Thái thú quận Cửu Chân (nay huyện Kỳ Phong) và người em tên Vũ làm Thái thú quận Nam Hải (Nay là Liêm Châu). Nhiếp là người khoan hòa, độ lượng, khiêm tốn với mọi người; nhân sĩ lánh nạn nhà Hán nhiều người theo về với Nhiếp. Dân ta đều gọi Nhiếp là Vương. Đời Hán có Viên Huy và Thượng Thư Tuân Úc viết sách, tóm lược như sau: “Sĩ Nhiếp ở Giao Châu, học vấn uyên thâm, làm quan đức độ, giữa thời loạn mà giữ yên được cả 1 phương trời hơn 30 năm, bờ cõi yên ổn, dân không cầu cạnh gì. Dù cho quan trấn thú Hà Tây là Đậu Dung cũng không hơn được. Lại còn em trai của Nhiếp có tước Hầu, trị dân cả một phương trời. Lúc Nhiếp đi lại, nghi lễ đầy đủ cả, huyên náo rầm rộ. Bấy giờ, sự sang trọng và oai danh của Nhiếp rúng động cả trăm bộ dân man. Đem so sánh thì Triệu Đà cũng không làm sao bì kịp!”. Nhiếp thọ 90 tuổi, ở chức lớn 40 năm, Nhiếp giỏi điều hòa sức khoẻ, rèn luyện nhân tài. Đến khi Nhiếp mất, chôn cất ở nước ta. Đến cuối đời Tấn, trải qua hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp phá quan tài của Nhiếp, thấy toàn thân vẫn chưa hư hủy, tươi tắn như lúc còn sống. Chúng cả sợ nên cho chôn cất lại như xưa. Dân chúng nói rằng Nhiếp đã thành tiên, bèn lập miếu thờ cúng. Đến giữa những năm Hàm Thông đời Đường, Cao Biền đem quân đánh dẹp Nam Chiếu, ngang qua miếu ấy, gặp một dị nhân, mặt mày tươi đẹp, áo mũ chỉnh tề, đứng chắn đường chào hỏi. Biền vui, vời vào trong trướng cùng đàm đạo chuyện đời Tam quốc, đưa đón khi vào ra, rồi đột nhiên thấy biến mất. Cao Biền bèn hỏi người trong thôn, mọi người nói rằng ở đất hướng Nam có mộ Sĩ Nhiếp. Biền than hồi lâu, rồi ngâm bài thơ sau: “Sau thời sơ Ngụy, Nay đến Hàm Thông, Mấy trăm năm lại, May gặp Nhiếp ông”. Xa gần trong huyện, có ai cầu đảo đều thấy linh ứng. Đời Trần truy phong Nhiếp làm “Thiện huệ uy gia linh ứng đại vương”. Đến nay vẫn là một vị phúc thần. (Nay miếu ở tại xã Thanh Tương, huyện Siêu Loại và ở xã Tam Thê, huyện Gia Định. Hai miếu thờ này đều là Thượng Đẳng thần). Chú thích 1) Việt Sử Lược chép rằng: “Bấy giờ, sự sang trọng và oai danh của Nhiếp rúng động cả Nam Man. Đem so sánh thì Triệu Đà cũng không làm sao bì kịp!”. Sách xưa viết truyện này là “Truyện Sĩ Vương”. Nếu dân man không phải chịu khổ cực, ra sức phục vụ hết mình thì làm sao Nhiếp có được cuộc sống xa hoa, vương giả đến như thế. Có xứng đáng với địa vị là Vương chăng?. Điều này chúng ta phải xét lại. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng có nhận xét khác: “Xét ra, Sĩ Nhiếp chỉ là một quan Thái Thú nhà Hán, chưa hề xưng Vương. Sử cũ chép riêng làm một kỷ, đem so với lệ chép Cương mục (Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục ) thì không hợp, nay bỏ đi”. Thế nên dịch giả trong bài này sẽ dùng tên Nhiếp thay vì Vương để dịch cho phù hợp hoàn cảnh và địa vị. (Nguyễn Hữu Vinh dịch) Bình: Truyện này không biết ai viết, nhưng xem ra không được quân bình. Sĩ Nhiếp chỉ là quan thái thú của một vùng, mà gọi là vua (“Vương”. Tuy nhiên anh Nguyễn Hữu Vinh đã không dịch là “vua” hay “vương”, mà chỉ dịch là “Nhiếp”. Xem “chú thích” bên trên). Nước ta thì gọi là thuộc “nam man.” Ta lại phong thần cho Nhiếp là “Thiện huệ uy gia linh ứng đại vương”. Và ngày nay ở Văn Miếu Tiên Nho tại Đền Lũng, Bắc Ninh, dân ta vẫn thờ Sĩ Nhiếp là Nam Giao Học Tổ, ông tổ về giáo dục của đất Nam “dạy người Việt khiến cho biết được tiếng Hán, hiểu được đạo thánh hiền, đến nay thành một nước văn hiến.” Cứ như dân ta đúng là man di, không biết đạo đức, trước khi người Hán chiếm. Dĩ nhiên là người Hán xâm lược phải đồng hóa người Việt bằng Hán học và văn hóa bắc Phương, và xóa đi văn hóa của ta càng nhiều càng tốt. Gân đây, người Pháp cũng làm thế với văn hóa Tây phương. Không làm thế thì không thể trị nước bị xâm lăng. Chúng ta xem truyện Sĩ Nhiếp trong Lịnh Nam chích quái: vâng hoàn toàn logic, khi trong nội dung đều có tên Mr. Cao Biền và Mr. Sĩ Nhiếp. Lời bình trên rất tuyệt. Mặt khác lại so sánh tới Triệu Đà không ăn khớp về vai trò và tầm vóc quốc gia. Phải xem lại các nội dung lịch sử mang đậm truyền thuyết trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 24 Tháng 10, 2011 Khôi phục lễ rước Sĩ Nhiếp “Nam Giao học tổ” Dưới đây là phiên bản cache tại địa chỉ: http://dantri.com.vn (Dân trí) - Lễ rước và tế Thánh Vương Sĩ Nhiếp tại lăng và đền ở thôn Tam Á, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đã được khôi phục lại trong dịp Tết Kỷ Sửu sau 66 năm vắng bóng. Cổng vào lăng Sĩ Nhiếp ở huyện Thuận Thành. (Ảnh: dongtac.net) Các nghi lễ đã tập trung tái hiện nét văn hoá lịch sử truyền thống, giúp cho người dân hiểu, biết và tưởng nhớ tới công lao của ông. Từ năm 1943 trở về trước, hằng năm nhân dân trong vùng đều tổ chức lễ rước và các nghi lễ hoàn chỉnh, song, do nhiều lý do khác nhau, hoạt động này đã gần như bị lãng quên. Sĩ Nhiếp (137 - 226) là Thái thú đất Giao Chỉ vào thời Bắc thuộc từ năm 187 đến năm 226, phong là Long Độ Đình Hầu, đóng đô tại thành Luy Lâu. Ông là một vị quan cai trị có tài, có công phát triển văn hoá cho người Việt và được giới Nho học phong kiến Việt Nam sau này suy tôn là một trong những nhân vật mở đường cho Nho giáo ở Việt Nam, coi là “Nam giao học tổ”. Ông là người đặt nền móng cho nền văn minh Đại Việt sau này, người đầu tiên mở trường dạy chữ Hán. Lợi dụng nhà Hán suy yếu, ông đã xây dựng Luy Lâu sầm uất như một kinh đô của nước độc lập. Thời kì này cả nước Hán loạn lạc liên miên nhưng vùng đất của Sĩ Nhiếp cai trị vẫn thái bình thịnh trị. Đại Việt sử kí toàn thư xếp thời này là một triều đại riêng của nước ta, gọi là kỉ Sĩ Vương. Sĩ Nhiếp đã biến chùa Dâu thành trung tâm phật giáo lớn và cổ xưa nhất nước ta được các tăng sĩ Ấn Độ trực tiếp đến truyền giáo. Chu Thanh Vân TTXVN Đại Việt sử kí toàn thư xếp thời này là một triều đại riêng của nước ta, gọi là kỉ Sĩ Vương. Sĩ Nhiếp đã biến chùa Dâu thành trung tâm phật giáo lớn và cổ xưa nhất nước ta được các tăng sĩ Ấn Độ trực tiếp đến truyền giáo: dẹp bỏ được rồi, chỉnh lại triều đại này mất một chút thời gian thôi. Xóa bỏ "Nam giao học tổ": đây là danh xưng ngớ ngẩn nhất. Không hãi uy, nếu đúng có công lao thì ta tôn trọng chức không đặt "đỉnh" mà chưa xem xét tới vai trò của các anh hùng, hào kiệt trong lịch sử nước nhà. Đặc biệt, là đang làm rõ về thời đại Hùng Vương dựng nước huy hoàng trong khoảng 3000 TCN. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 10, 2011 Wiki: Lý Nam Đế (chữ Hán: 李南帝; 503–548) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lý và khai sinh nhà nước Vạn Xuân trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Lý Bí (李賁), còn gọi là Lý Bôn[1], người làng Thái Bình, phủ Long Hưng[2], Việt Nam (khoảng Thạch Thất và thị xã Sơn Tây, Hà Nội). [1] Lý Nam Đế có tài văn võ. Ông đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, đánh đuổi được quân đô hộ, rồi xưng là Nam Đế (vua nước Nam), đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (chưa rõ ở đâu, có lẽ gần thành phố Bắc Ninh ngày nay). Trích Chiếu đời đô: Thế mà hai nhà Đinh, Lê mới vì riêng mình, quên mệnh trời, bước đạp bừa lên dấu tích Thương, Chu, cứ yên ở mãi ấp ( [4]) nhỏ của mình nơi ấy, để đến nỗi đời chẳng được dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không thích hợp, Trẫm rất thương xót, không thể không di dời khỏi đó. Cao Biền (tiếng Trung: 高駢; tự Thiên Lý (千里); 821–887) là một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ năm 866 đến năm 875 với chức vụ tiết độ sứ. Sau lại làm phản nhà Đường và bị giết năm 887. Tổ tiên là người Bột Hải (Mãn Châu), sau di cư đến U Châu. Chúng ta xem xét mối tương quan giữa các nội dung trên: - Thời Lý Nam Đế đã đóng đô ở Long Biên trước khi Cao Biền xây thành Đại La. - Lịch sử nước Việt trước thời Lý có nhiều triều đại, do vậy trong Chiếu đời đô chỉ đề cập tới triều Đinh, Lê là không hợp lý. Mặt khác, về lịch sử không thể dùng triều Đinh, Lê trong mối tương quan với Đại La - Cao Biền được, chắc gì Cao Biền xây thành Đại La hay đắp thêm?. - Vấn đề đưa triều Đinh, Lê nhằm so sánh ý hạ thấp so với Cao Biền là rõ rệt. Trong khi đó đây là những triều đại giành được độc lập sau đêm trường Bắc thuộc, công lao với dân tộc vô cùng to lớn. Cho nên, với am hiểu siêu việt của vua Lý Công Uẩn và các quần thần, chắc chắn không ai ghi đoạn văn này cả. - Bản Chiếu đời đô đo đếm là 214 chữ, phù hợp theo truyền thuyết dân gian đúng bằng số năm tồn tại của triều Lý, nó hàm ý gì trong các mối tương quan?. Với các phân tích trên, tôi nghĩ rằng người "chỉnh sửa" Chiếu đời đô có mục đích ràng buộc câu văn để không thể sửa được qua truyền thuyết này. Như vậy, người sửa Chiếu dời đô phải sinh sau triều Lý. Để khả người soạn Chiếu dời đô thời Lý thì khả năng nội dung với 214 chữ "để trùng khớp" với 214 năm rõ ràng xác suất bằng ZERO. - Trong tất cả các truyền thuyết và huyền thoại rất tuyệt vời của Việt Nam lại có một câu chuyện về Sĩ Vương (dính dáng cả Mr. Cao Biền) nửa đường "nhảy" vào - rất khập khiễng, cho dù nó đã được xây dựng nên. Tham khảo: - Ngô Sĩ Liên... soạn thảo Đại Việt Sử Ký toàn thư (1272 - 1697). - Tương truyền Trần Thế Pháp (? - ?), một danh sĩ đời nhà Trần, là tác giả bộ sách Lĩnh Nam chích quái. Thông tin này đã được ghi trong các sách: Vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm[2], Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn và Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Đều sau thời Lý cả. Vậy thì, nhận định trên là hợp lý. Chúng ta sẽ cố gắng tìm kiếm các nhận định và đánh giá của vua Quang Trung về sách lịch sử? * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 10, 2011 Theo tài liệu sử có được thì không chỉ vua Lê Thánh Tông mà cả vua Quang Trung khẳng định Ngô Sĩ Liên đã viết sử cho ta là phiên thuộc của phương Bắc. Như vậy để chống lại "ma trận tâm linh" đã được giăng ra, ông cha ta đã giải quyết chúng qua câu chuyện Thần sông Tô Lịch và Thánh Tản Viên. Các huyệt đạo đã bị Cao Biền Yểm, cũng như trụ đồng Mã Viện nằm ở đâu?. Về vấn đề trụ đồng Mã Viện, tôi nghi ngờ rằng được xây dựng thời Cao Biền và tá danh Mã Viện để trấn áp và trụ đồng này phải đặt ở vị trí quan trọng nhất của La Thành. Năm Hàm Thông thứ 6, vua Đường ý Tông sai Cao Biền làm đô hộ tướng quân, đem binh đánh giặc Nam Chiếu. Lúc Biền trở về, nhà vua đặt Tĩnh Hải quân ở thành Lĩnh Nam, cho Biền làm tiết độ sứ. Biền thông hiểu thiên văn địa lý, xem hình thế đất mà xây thành Đại La ở phía tây Lô Giang, chu vi 30 dặm để ở. Có dòng sông con từ Lô Giang chảy vào phía Tây Bắc, cuốn quanh phía nam, ôm lấy thành Đại La rồi lại nhập vào sông cái. Hồi đó đang giữa tháng sáu nước mưa lên cao: Biền cưỡi thuyền nhẹ thuận dòng vào tiểu giang đi khoảng một dặm, bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kỳ, tắm ở giữa dòng sông, cười nói tự nhiên. Biền hỏi họ tên. Đáp: ta họ Tô tên Lịch. Biền lại hỏi: Nhà ở đâu? Đáp: Nhà ở trong sông này. Dứt lời, lấy tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch. Một buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ sông Lô Giang, phía đông thành Đại La, thấy trận gió lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trời mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mũ tím, tay cầm hốt vàng rực rỡ một khoảng trời, chập chờn lên xuống trên khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây hãy còn mù mịt, Biền rất kinh dị, muốn yểm thần. Đêm nằm mộng thấy thần nhân tới nói rằng: "Chớ yểm ta, ta là tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa linh, ông xây thành ở đây, ta chưa được gặp, cho nên tới xem đó thôi, ta có sợ gì bùa phép?" Biền kinh hãi. Sáng hôm sau, Biền lập đàn niệm chú, lấy kim đồng thiết phù để yểm. Đến hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro, bay tan trên không. Biền càng kinh hãi, than rằng: "Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ”. Sau ý Tông triệu Biền về, quả nhiên Biền bị giết và Cao Tàm được cử sang thay. Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm vạn (?) Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy. Theo sách Ai giao châu tự của Đường Tăng thì Đại Vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Thường thường, vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong hang núi. Dân trong vùng nói rằng đó là Sơn thần hiển hiện. Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng: "Linh khí ở phương Nam không thể lường được. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 10, 2011 Đi Tì Đi Tìm Dấu Vết Cột Đồng Mã Viện Cao Nguyên Lộc 13 tháng 11 năm 2008 trích 1 phần Đào Duy Anh khởi đầu đề mục 'Les Colonnes de Bronze de Ma Vien' trong tập san Bulletin des Amis du Vieux Hue số tháng 10 và 11 năm 1943 với nhận xét như sau: 'Cột đồng Mã Viện luôn là một bí ẩn lịch sử mà mãi đến nay vẫn chưa hề được sáng tỏ.' Ông nêu ra nghi vấn phải chăng cột đồng Mã Viện thực sự hiện hữu? Và nếu ta không tìm thấy dấu vết nào liên quan về chúng vậy biết tìm chúng nơi đâu? Theo An-Nam Chí Lược của Lê Tắc (đầu thế kỷ thứ 14), bộ sử lược lâu đời nhất của nước ta có đề cập đến di tích này, thì thuở trước ở vùng hang động Cổ Sâm thuộc Khâm Châu có những cột đồng do Mã Viện dựng nên. Sang đến thế kỷ thứ 19, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng nhắc lại lời hăm dọa trên của Mã Viện. Tuy nhiên sách sử Tàu thì khác, cả Hậu Hán Thư (chương nói về tiểu sử của Mã Viện) lẫn Hậu Hán Ký đều không hề nhắc đến việc Mã Viện cho dựng những cây trụ đồng ở nước Nam. Dựa theo đó, nhà Hán học lừng danh Henri Maspéro trong tập XVIII, số 3 năm 1918 của tập san Bulletin de l'EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ), trong phần biên khảo về cuộc viễn chinh của Mã Viện đã không hề nhắc đến những cây cột đồng Mã Viện mà cũng chẳng có lời phủ nhận về sự hiện hữu của chúng. Về sau, Nguyễn Văn Tố, làm phụ tá cho Viễn Đông Bác Cổ, trong Tri Tân số 14 phát hành ngày 12 tháng 9 năm 1941 đã thu thập được một số tài liệu từ cả Việt lẫn Hán về cột đồng Mã Viện và đưa ra nhiều thắc mắc nhưng bấy giờ ông cũng không giúp làm sáng tỏ gì hơn về nghi vấn nêu trên. Quảng Châu Ký (thế kỷ thứ 4 hoặc 5) có đề cập đến chúng và cho rằng Mã Viện đã cho dựng lên những cột đồng là theo truyền thống đã có từ thuở xa xưa. Tuy nhiên, trước Quảng Châu Ký, Trương Bột trong Ngô Lục (đầu thế kỷ thứ 4) có bàn đến những cột đồng nhưng lại không nhắc đến Mã Viện như sau: 'Ở Tượng Lâm nơi vùng biển có một cù lao nhỏ nơi người ta khai thác được nhiều vàng. Nếu đi chừng 30 lý từ Bắc xuống Nam sẽ đến một vương quốc có tên Tây Thuộc (còn được gọi là Tây Đồ). Cư dân ở đây đặt tên như vậy để nhắc nhở họ thuộc Hán tộc. Tại đây có những cột đồng mà người ta truyền rằng để đánh dấu ranh giới của nhà Hán.' Thủy Kinh Chú (cuối thế kỷ thứ 6) cũng đề cập đến truyền thống dựng cột: 'Mã Văn Uyên (bút hiệu của Mã Viện) có dựng những kim tiêu để đánh dấu biên giới phía nam của nhà Hán.' Du Ích Kỳ và Hàn Khang Bá cũng góp thêm vào: 'Mã Văn Uyên cho dựng hai cột đồng ở bắc ngạn của Lâm Ấp và cho định cư ở đấy chừng mươi gia đình binh sĩ mà không ảnh hưởng gì đến đời sống của cư dân Thọ Linh ở nam ngạn nơi nhìn qua phía những cột đồng. Tất cả những gia đình mới đến định cư này đều thuộc Mã tộc, họ chỉ cưới gả với nhau trong phạm vi tộc họ. Ngày nay ở nơi đây có chừng 200 nóc gia. Người Giao Chỉ coi họ như những người ngoại quốc sống lưu vong nên mới gọi những người Mã tộc này là Mã Lưu, ngôn ngữ và tập quán ăn uống của họ đều theo lối người Hoa. Nhưng rồi thời gian biến cải vũng nên đồi, núi và sông đều đổi thay, những cột đồng rồi ra đã bị vùi dưới biển sâu, người đời khó tìm thấy lại dấu tích ngày trước.' Trong lịch sử nước Tàu, việc dựng cột để đánh dấu một cuộc viễn chinh là chuyện thường thấy. Sau Mã Viện, những tướng Tàu khác như Hà Lý Trinh, Trương Chu và Mã Tống thuộc đời Đường còn có Mã Hy đời Hậu Tấn cũng dựng cột đồng nơi những xứ ở phía Nam. Theo Đào Duy Anh, chừng nào chúng ta chưa có chứng cớ rõ ràng về việc dựng cột đồng Mã Viện chừng đó chúng ta chưa có lý do phủ nhận điều không thể chối cãi được. Chúng ta phải công nhận về sự hiện hữu của chúng cho đến khi chúng ta có thể chứng minh ngược lại, và hãy thử tìm xem chúng ở đâu. Bản đồ Xứ Đàng Ngoài và Trung Việt. Courtesy of BAVH Trong Nam Phong Tạp Chí số 127 năm thứ 12, ở phần trang tiếng Hoa, một tác giả vô danh đã viết một đề mục bênh vực lập luận về sự hiện hữu của cột đồng Mã Viện. Người ấy phản bác rằng một số tác giả đã dựa vào sự không nhắc đến cột đồng trong Hậu Hán Thư nơi phần tiểu sử của Mã Viện mà phủ nhận sự hiện hữu của chúng; tác giả vô danh cho rằng lý luận như vậy là không công minh. Theo tác giả, Mã Viện là người háo danh, ưa lưu lại hậu thế về cái chiến tích hiển hách của mình bằng cách cho dựng những cột đồng. Nếu Hán Thư với phần tiểu sử của Mã Viện không nhắc nhở gì đến chúng thì hoặc do bởi Mã Viện coi việc ấy chỉ là một thành quả cá nhân, không có gì hệ trọng hoặc do các nhà viết sử ấy đã bỏ sót. Nhà Tấn lên trị vì không mấy lâu sau nhà Đông Hán, trong Tấn Thư có nói rõ về chuyện dựng cột đồng. Ngoài ra, dưới đời nhà Đường, Mã Tống khi làm Đô hộ nước ta cũng có dựng những cột đồng trên chốn xưa (?) để ghi khắc mối liên hệ với Mã Viện. Tác giả vô danh kết luận rằng dựa vào những sự kiện nêu trên ta có thể kết luận rằng những cột đồng là thực sự có thật. Ngược lại, chẳng lẽ ngày xưa có kẻ phịa ra truyền thuyết ấy để phỉ báng bao thế hệ hậu duệ ngây thơ cả tin. Tác giả đoan chắc đây không phải là một huyền thoại. Vậy những cột đồng kia tìm đâu thấy? Ý kiến của các tác giả trong cổ thư Việt lẫn Hán đều trái ngược nhau, ba hồi thì cho là ở Quảng Đông, trên lãnh thổ nước Tàu, ba hồi thì cho là ở Phú Yên trong vùng đất cổ của dân tộc Chiêm Thành. Theo Lĩnh Ngoại Đại Đáp (đời Đường) và An Nam Chí Lược như đã đề cập ở phần trên thì những cột này được dựng ở Khâm Châu, trong vùng hang động Cổ Sâm. Dưới thời Nguyên Hòa đời Đường (806-820), Đô hộ Mã Tống có dựng trên núi Phân Mao ở Khâm Châu những cột đồng, cho rằng phỏng theo y như của tiền nhân. Trái lại theo Tân Đường Thư cũng như theo dã sử ở nước ta thì những cột đồng Mã Viện được tìm thấy trên ngọn núi có tên gọi là Núi Đá Bia hay Ngũ đồng Trụ sơn nằm ở nam ngạn sông Đà Lang ( Đà Rằng) thuộc tỉnh Phú Yên. Giả thuyết này khó thể chấp nhận được vì cột đá duy nhất tìm thấy trên núi ấy lại hoàn toàn do thiên nhiên mà có. Khác với trên, sách Lĩnh Biểu Lục Dị kể rằng Vy Công Cán, Thứ sử Ái Châu tìm thấy những cột đồng trong lãnh địa mình, muốn đem phát mại để sinh lợi riêng tư. Dân chúng dâng đơn khiếu nại lên Tổng đốc Hàn Ước. Viên tổng đốc nghe vậy liền tống đạt thư khiển trách Công Cán buộc ông này phải từ bỏ ý định. Lời thuật này cho thấy những cột đồng được tìm thấy ở Ái Châu khá phù hợp với sự diễn giải của nhà Hán học Henri Maspéro về cuộc hành trình của Mã Viện. Tuy hoài nghi về sự hiện hữu của những cột đồng Mã Viện nhưng tác giả đã xác định nơi xa nhất mà đoàn quân viễn chinh của Mã Viện tiến đến là phủ Cư Phong, và đã định vị phủ này nằm ở phần phía Nam của tỉnh Thanh Hóa tức Ái Châu (vào đời Hán, phủ Cư Phong là một phần của huyện Cửu Chân, và huyện này được cải danh thành Ái Châu dưới đời Lương, Tùy và Đường). Ngay chính Cư Phong cũng được đổi tên thành Di Phong vào thế kỷ thứ 3 và về sau trở nên huyện lỵ của Cửu Chân; thủ phủ này nằm bên bờ Lương Giang (tức sông Chu ở Thanh Hóa ngày nay). Tác giả Đào Duy Anh đặt câu hỏi phải chăng đạo quân viễn chinh của Mã Viện đến tận Cư Phong là điểm xa nhất? Biên niên sử cổ kể rằng quân Đông Hán truy đuổi quân của Trưng Trắc đến tận Cư Phong, ở đây mọi sự kháng cự đều bị dập tắt. Đến đó Mã Viện cho dựng những cột đồng để đánh dấu ranh giới cực Nam của nhà Hán (theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục). Suy rộng hơn, nếu Cư Phong là nơi Mã Viện dẹp yên mọi mầm chống đối nhưng có gì chắc là quân ông ta dừng lại nơi đây mà không tiến xuống sâu hơn. Thủy Kinh Chú kể rằng sau khi dẹp yên quân của Trưng Trắc ở Cửu Chân xong, Mã Viện chia quân thành hai đạo, một tiến đến phủ Vô Biên, còn đạo kia tiến đến phủ Cư Phong. Dưới đời nhà tiền Hán, Vô Biên là một phần của huyện Cửu Chân, nhưng trong thời gian Vương Mãn tiếm ngôi, địa danh này đổi tên thành Cửu Chân Đình đồng thời trở nên thủ phủ của huyện Cửu Chân; vào đời nhà Đường (620-907) lãnh địa này bao gồm trong huyện Long Trì (theo Đào Duy Anh chính là phủ Diễn Châu thì đúng hơn). Như vậy, có thể nói rằng quân Mã Viện có thể đã tiến xuống đến tận đất Nghệ An. Theo lời thuật của Du Ích Kỳ và Hàn Khang Bá đã dẫn ở trước thì Mã Viện dựng những cột đồng ở bắc ngạn Lâm Ấp. Nhưng vào thời ấy Lâm Ấp chưa hề hiện hữu, có thể hai vị ấy muốn nói vùng bắc ngạn của con sông sau này làm lằn ranh phân chia Lâm Ấp với phần đất bị nhà Hán thôn tính, được biết đó là đất Thọ Linh. Cũng theo hai vị này ranh giới với Lâm Ấp chính là Thọ Linh. Thủy Kinh Chú có kể rằng vào năm thứ 9 thời kỳ Chính Thủy đời Ngụy (năm 247), quân Lâm Ấp xâm lăng Thọ Linh và lấy vùng đất này làm ranh giới của mình. Sách này còn thêm rằng sông Thọ Linh được đặt tên theo một phủ mang cùng tên. Vậy phủ Thọ Linh nằm nơi đâu? Vẫn theo Thủy Kinh Chú, vào năm thứ 6 thời Nguyên Đỉnh (thế kỷ thứ 3 trước công nguyên), Hán Vũ Đế lập thủ phủ của Nhật Nam ở Tây Quyển, và theo Tống châu Quận chí, vào năm thứ 10 thời Thái Khang, Tấn Vũ Đế cắt bớt đất Tây Quyển để lập thêm phủ Thọ Linh. Như thế Thọ Linh nằm cạnh Tây Quyển và cả hai đều bao gồm trong đất của Nhật Nam. L. Aurousseau trong biên khảo về vương quốc Chàm đã mạo nhận Tây Quyển nằm ở vùng phụ cận của Huế mà sông Thọ Linh theo ông chính là sông đào Phủ Cam (trước đây là sông La Ỷ). Theo Thủy Kinh Chú và theo lời bình của hai ông Du Ích Kỳ và Hàn Khang Bá, thì có lúc sông Thọ Linh được chọn làm lằn ranh của Lâm Ấp. Điều này có thể chấp nhận được vì đây là một dòng sông lớn chảy từ Đông sang Tây, trong khi sông Phủ Cam ngày nay chỉ là một con sông đào nhỏ, vừa mới được nạo vét và mở rộng thêm, lại chảy từ Bắc xuống Nam, lẽ nào sông Thọ Linh như ông Aurousseau nói là đây! Nếu quả nơi ông ta muốn nói chính là Lô Dũng thì lại khác với Thọ Linh mà Đại nam Nhất Thống chí mạo nhận với sông Linh Giang (hay sông Gianh). Theo ông Đào Duy Anh sách Thống Chí đã mạo nhận vì nhầm lẫn từ hai chữ đồng âm trong Hán tự. Nếu Thọ Linh quả là Linh Giang thì phải chăng chúng ta nên tìm những cột đồng ở phía Nam dãy Hoành Sơn, nơi sông Gianh, cách Đồng Hới 34 cây số về hướng Bắc? Nếu Nhật Nam bao gồm phần đất Nghệ Tĩnh, và mặt khác Mã Viện chưa từng vượt qua dãy Hoành Sơn thì những cột đồng ấy nên tìm ở phía Bắc chứ không phải Nam của dãy này. Không ảnh của dãy Hoành Sơn do người Pháp chụp. Courtesy of BAVH Nhưng vì sao Ngô Lục ký lại cho là chúng nằm ở Tượng Lâm? Tượng Lâm là tên của một phủ nằm ở phía Nam của Tượng quận (theo đời Tần) và Nhật Nam (dưới đời nhà Hán). Nhật Nam về sau bị Chàm xâm chiếm rồi thành lập vương quốc Lâm Ấp (theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục) nhưng Lâm Ấp cũng còn là tên cũ của một phủ mà nhà Hán gọi là Tượng Lâm, đó là lý do tại sao các học giả Trung Hoa thuộc các thời kỳ sau, do nêu danh không phù hợp với ngày tháng niên đại, thỉnh thoảng đề cập đến Nhật Nam bằng Lâm Ấp hoặc Tượng Lâm. Một mặt chúng ta đã thấy rằng Mã Viện đã tiến quân xuống đến vùng đất Nghệ An; mặt khác ta cũng đã biết những cột đồng được dựng ở phía Bắc dãy Hoành Sơn. Theo đó, chúng ta có thể khoanh vùng để tìm kiếm trong vùng Nghệ Tĩnh. Sự chú ý của chúng ta cũng bị thu hút đến một ngọn đồi nằm riêng biệt bên tả ngạn Lam giang, cách Vinh khoảng 10 cây số về phía Tây Nam; ở đây có một đường rầy bắt qua con sông. Đại nam Nhất Thống chí gọi đồi này là Hùng Sơn nhưng dân gian quen gọi bằng tên Núi Thành hay Núi Lam Thành hoặc Núi Đồng Trụ. Trên ngọn đồi nay vẫn còn di tích của một thành cổ do tướng Tàu Trương Phụ dựng nên vào cuối thời Trần để trấn áp dân ta. Giữa thành hiện còn tàn tích của đống đá nơi trước đây có dựng cột dinh Trương Phụ nhưng theo truyền thống đây được xem như là nơi dựng cột đồng Mã Viện. Theo H. L. Breton trong Le Vieux An-Tĩnh thì trong Nghệ An Chí, Bùi Dương Lịch, một quan văn cuối đời Lê và qua luôn thời Tây Sơn, cho rằng các đồng trụ được dựng trên đỉnh Hùng Sơn; ông chỉ biên tập theo các tài liệu cũ nhưng vẫn dựa vào các truyền thuyết địa phương. Không có gì để làm bằng chứng xác định cho những ý kiến của ông. Điều này cũng rất khó bởi vì qua bao thế kỷ, người ta không còn thấy những cột này nữa. Nhân dân An Nam tin chắc rằng đến đời nhà Lý (1010-1225) thì chúng đã mất hết dấu tích, như vậy thì phải cho rằng việc phá hủy ấy là để xóa nhòa những dấu vết của ách đô hộ mà tổ tiên ta đã phải mang nặng quá lâu. Còn rất nhiều tài liệu, văn bản cũ cần phải soát lại để giải quyết một cách dứt khoát cái điều khó hiểu và vị trí chính xác của 'cột đồng trụ' và những giai đoạn đầu tiên của lịch sử Lam Thành. Tuy nhiên, tất cả các tài liệu cũng như truyền thuyết làm cho người ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, Núi Đồng Trụ và cái thành xây trên ngọn núi (Lam Thành) và tả ngạn sông Lam đúng là giới hạn phía Nam của đế quốc Hán. Núi Đồng Trụ và di tích thành cổ Lam Thành nhìn về hướng hữu ngạn sông Lam và phụ lưu Ngạn San. Courtesy of BAVH Như đã đề cập ở trên, Trương Bột trong Ngô Lục có thuật lại ở Tượng Lâm nơi vùng biển có 'một đảo nhỏ trên ấy người ta tìm được nhiều vàng. Nếu đi 30 lý theo hướng Bắc Nam sẽ đến vương quốc tên Tây Đồ. Cư dân ở đây đặt tên như vậy để nhắc nhở họ thuộc Hán tộc. Tại đây có những cột đồng mà người ta truyền rằng để đánh dấu ranh giới của nhà Hán.' Dọc theo bờ biển Nghệ Tĩnh ngày nay có thể tìm thấy một đảo tên Hòn Niêu nhưng ở đây chẳng có những đặc tính phù hợp với sự mô tả nêu trên, ngay cả vàng cũng không được tìm thấy. Từ Hòn Niêu nếu đi theo hướng Bắc xuống Nam, hay ngay cả Bắc sang Đông, Nam qua Tây thì sẽ đến cửa sông Lam (Cửa Hội), rồi đi 35 km ngược từ hạ nguồn sẽ lên đến Núi Thành; nhưng nếu đi theo đường thẳng, khoảng cách chỉ còn 20 cây số, khá gần với 30 lý (mỗi lý tương đương khoảng 888 mét) mà Trương Bột đã ước tính. Phải chăng Núi Thành là nơi Trương Bột đã tìm thấy những cột đồng? Đây chính là vùng gọi là vương quốc Tây Đồ. Theo Lâm Ấp Ký thì đây là ranh giới giữa đế quốc nhà Hán với vương quốc Tây Đồ nơi Mã Viện đã cho dựng những cột đồng. Nơi vương quốc này các bộ lạc người sắc tộc nằm rải dài đến phía Bắc dãy Hoành Sơn. Theo lời bình của Du Ích Kỳ và Hàn Khang Bá cùng Lâm Ích Kỳ, sau khi dựng những cột đồng, như ta đã biết, Mã Viện để lại chừng mươi gia đình binh sĩ ở lại định cư trên nam ngạn sông Thọ Linh, nơi nhìn qua phía các cột. Giả sử những cột đồng thực sự hiện hữu ở Núi Thành và những lưu dân Mã Lưu thực sự có định cư ở ngôi làng ở nam ngạn sông Lam (phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Vùng đất thuộc các làng Quang Du, Hưng Nghĩa, và Hưng Phúc ngày nay nằm bên bờ sông, mới hình thành do đất bồi phù sa. Nếu khảo sát trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 ta có thể thấy rõ là ngày xưa Lam Giang đã từng chảy qua Nam Ngạn. Qua nghiên cứu tỉ mỉ, học giả Đào Duy Anh không tìm thấy một quan hệ nào giữa khu làng ngày nay với nam ngạn ngày trước nơi có những người Mã Lưu sinh sống. Vị trí của Lam Thành ở phía Tây Nam thành phố Vinh theo bản đồ tỷ lệ xích 1/500.000. Courtersy of BAVH Sau cùng, sách Tùy Thư có hé lộ những chỉ dấu khá phù hợp với giả thuyết của chúng ta qua lời thuật như sau: 'Tướng Tàu Lưu Phương được phái đi chinh phạt quân Chiêm Thành đã tiến quân ngang qua những cột đồng Mã Viện, và tiếp tục tiến về phía Nam ròng rã suốt tám ngày đến tận kinh đô vương quốc Lâm Ấp.' Đấy chính là đất Trà Kiệu ở Quảng Nam ngày nay. Như ta đã thấy sự hiện hữu của cột đồng Mã Viện là điều không thể phủ nhận được qua sự kể lại của các cổ thư, qua truyền thống dựng cột thường có của các tướng Tàu khi đi chinh phạt vùng đất phương Nam. Tuy nhiên khó có thể chấp nhận là chúng đã được dựng ở đất Thanh Hóa, tên cổ là Ái Châu thời nhà Đường, vì chúng ta đã công nhận là Mã Viện đã đưa đạo quân tiến xa hơn đến tận Nghệ An. Theo đó không có lý do gì phải kiếm chúng bên phía Nam dãy Hoành Sơn. Vậy phạm vi nơi cột đồng có thể được Mã Viện cho dựng lên ắt phải là trong vùng Nghệ Tĩnh. Chúng ta đã xác nhận Núi Thành nằm bên tả ngạn sông Lam cách Vinh chừng mười cây số về hướng Tây Nam là khá phù hợp với lời miêu tả của Ngô Lục lẫn Tùy Thư về địa điểm nơi có những cột ấy. Sự suy luận này được củng cố mạnh thêm nhờ những truyền thống địa phương khi gọi tên ngọn đồi nơi đây bằng cái tên Núi Đồng Trụ. Vào đời Trần, Lam Thành là lỵ sở của vùng Nghệ Tĩnh. Tướng Tàu Trương Phụ chiếm đồi này và cho xây Lam Thành để phòng thủ chống lại quân ta bấy giờ vẫn đang còn kiểm soát vùng hữu ngạn và vùng đồi núi lân cận. Lâm Thành có tầm quan trọng chiến lược vì nó kiểm soát được thủy lộ sông Lam lẫn nơi đổ ra của con đường núi chiến lược lịch sử. Trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh và trong cuộc Nam tiến chống lại Chiêm Thành của dân ta, Lâm Thành đã đóng vai trò của một tiền đồn bảo vệ bờ cõi. Gần cạnh Lâm Thành ngày nay có con lộ nối liền Vinh với Hà Tĩnh. Lâm Thành vốn là điểm huyết mạch cho cả quân ta lẫn quân Tàu phải đi ngang qua khi tiến xuống phía Nam; đồng thời đây cũng là điểm dừng chân của đạo quân viễn chinh trên đường Bắc tiến, vừa để dưỡng quân vừa để củng cố lực lượng. Chẳng có gì quá đáng khi cho rằng chính trên ngọn đồi này mà Mã Viện, sau khi vừa tái lập trật tự nơi phong địa này xong, đã cho dựng những cột đồng để ghi dấu kỳ công bình định 'phản loạn' của mình, đồng thời để đánh dấu biên cương tận cùng của nhà Hán trên vùng đất đô hộ ở phía Nam nước Tàu. Dãy tường mặt Tây của Lam Thành. Bên trong và chung quanh thành có những di tích thời kỳ đô hộ cuối cùng của quân Tàu năm 1423. Nơi đây Lê Lợi chém. đầu Thái Phúc. Courtesy of BAVH Tài liệu tham khảo: (1) Keith Weller Taylor, 'The Birth of Vietnam'; University of California Press, Berkeley and Los Angeles, California, pp. 33-34, 37-41. (2) Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 'Lịch Sử Việt Nam, từ Nguồn Gốc đến Năm 1884'; Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh, trang 57, 60. (3) Đào Duy Anh, 'Les Colonnes de Bronze de Ma Vien'; Bulletin des Amis du Vieux Hué; I:4 (10-11 / 1943), pp. 22-34; I:2 (4-12 / 1936), pp. 152, 275, 278; I:2 (4-6 / 1935), pp. 167. (4) Hippolyte Le Breton, dịch giả: Nguyễn Đình Khang và Nguyễn Văn Phú, 'An-Tĩnh Cổ Lục (Le Vieux An-Tĩnh); Nhà Xuất Bản Nghệ An, Trung Tâm Văn Hóa Đông Tây, trang 247. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 26 Tháng 10, 2011 Đào Duy Anh nói trên là vị học giả khả kính định nghĩa: "Văn hóa là sinh hoạt" trong "Việt Nam văn hóa sử cương". Cứ theo định nghĩa của ông ta thì nhưng Khu phố văn hóa , làng văn hóa hiện nay đều là làng sinh hoạt, khu phố sinh hoạt. Đại để vậy. Với tầm nhìn xa dưới 10km của ông này - là tiền đề cho cái "hầu hết" và "cộng đồng" phủ nhận văn hiến Việt trải 2000 năm - thì cột đồng Mã Viện ở Thanh Hóa. Còn tôi, thì ngày ấy cột đồng không nằm ở bất cứ nơi nào thuộc vùng lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Bởi vì, đã có rất nhiều bằng chứng lịch sử từ văn bản, di tích....chứng minh rằng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng hoàn toàn chỉ ở Nam Dương tử - nơi bách Việt ở từ hàng thiên niên kỷ TCN - Sử ký Tư Mã Thiên đã ghi nhận như vậy (Và còn nhiều chứng cứ khác). Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 10, 2011 Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp 767, sau tới Triệu Xương gia cố, Trương Chu bổ sung và Cao Biền mở rộng. Thời Lý tài liệu lịch sử, văn hóa... vẫn còn đầy đủ, do vậy việc hiểu rõ Cao Biền là ai rất đơn giản. Ngoại trừ, cho thời giặc Minh xâm chiếm, chúng phá hủy hầu như toàn bộ nền văn hóa việt: đố, phá, đập bỏ... cái hay thì đem về Tàu sử dụng. Do vậy, các loại văn, thơ, truyện... của Tàu cho tới nay cũng có thể trước đó là của ta không chừng. Quay lại thời Sĩ Nhiếp (137-226): từ phân tích trên, dễ dàng thấy thời kỳ này nền văn hóa Việt vẫn còn đậm đặc so với thời Lý (khoảng 800 năm sau) cho nên Mr. Sĩ Nhiếp được phong là Nam Giao Học Tổ đúng là hết sức vớ vẩn. Ngoài ra, theo thần phả Hà Đông, Cao Biền có người vợ, người Bắc sang Việt, truyền nghề dệt lụa cho dân và trở thành Bà Tổ dệt lụa Hà Đông, điều này có khác gì đả phá Thánh Mẫu Thượng Ngàn, là Bà Tổ dạy nghề dệt lụa của người Việt?. Thật là củ chuối. Báo cáo của Cao Biền về Long mạch của Việt Nam Cao Biền được vua Đường Trung Tông phong làm An Nam Tiết Độ Sứ, sang đô hộ nước ta. Cao Biền là 1 nhân vật rất giỏi về khoa địa lý nên trước khi đi sang nước ta nhậm chức, vua Đường Trung Tông đòi vào triều ủy thác sứ mệnh cho Cao Biền phải tìm các nơi thủy tú sơn kỳ trên đất nước ta, nơi nào có Long Mạch lớn, có huyệt kết tốt thì phải yểm phá, và lập bản tấu thư về cho vua Đường Trung Tông biết. Sau khi sang nước ta, Cao Biền vận dụng hết khả năng và thời gian đi khắp các nơi để tầm long điểm huyệt. Chính Cao Biền cũng không ngờ trên 1 đất nước nhỏ bé như nước ta lại có nhiều Long Mạch lưu tụ và khí thế sông núi ưu tú đến như vậy. Nên Cao Biền không viết tấu thư mà viết hẳn 1 cuốn sách tựa đề là “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự” gởi về tấu trình. Mặt khác Cao Biền lại tìm cách trấn yểm và phá hủy những Long Mạch lớn, phát vương tướng. Xin trích 1 số đoạn trong sách này cho các quý vị tham khảo:” Giao Châu Đô hộ Sứ, thần Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch thế hình thế sự, thần hạnh phát dư sinh thao tỵ hà những, thượng tự thâm sơn, hạ hạ chi đại hải, ngưỡng quan phủ sát, phát tận chân cơ, ký tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn, thượng tự tự đế vương, vương công, công hầu, vương phi, thứ thần đồng, tú tài, vị chi thị phủ, phục khất phủ lãm giảo quan chi khí, kiến văn cụ lục. HÀ ĐÔNG THANH OAI: _ Đệ nhất: THANH OAI phong Ấp trung Thanh Uy, hình thế tối kỳ Thủy lưu tứ vượng, án khởi tam qui Mạch tòng hữu kết, khí định tả y Thần đồng tiền lập, quỷ xứ hậu tỳ Khôi khoa tảo chiếm, phúc lộc vĩnh tuy Tu phong mạch tận, thừa tự vô nhi. _ Đệ nhị : CAO XÁ phong Thanh Oai Cao Xá, chân vi quý long Thủy khuê tùy mạch, bình dương lai tung Hoa khai hữu hổ, tinh hiện tả long Sơn thủy trù mật, khí thế sung giong Hà tu hợp hải, ngưu giác loan cung Chủ khách hoàn mỹ, tả hữu vô tòng Hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng Văn khôi hoa giáp, võ tổng binh nhung Phú quý thọ khảo, kiêm hữu kỳ công. ……..” => Giao Châu Đô hộ Sứ, thần Cao Biền kính cẩn tâu: Bản châu địa thế như vầy, thần nguyện đem hết kiếp sống thừa, từ tận núi cao ra đến biển cả khảo nghiệm để biết các cuộc đất phát lớn từ vương tôn công hầu, đến thần đồng, tú tài, khoa đệ, giàu sang phú quý mọi thứ… làm bản tấu ca dâng lên tường tận HÀ ĐÔNG THANH OAI : 1/. Cuộc đất Thanh Oai: Trong ấp Thanh Oai, hình thế rất lạ Thủy vượng 4 phương, án phát tam qui mạch kết bên hữu, khí dựng phía tả Thần đồng đứng trước, quý sứ nối sau Bảng vàng sớm chiếm, phúc lộc dồi dào Nên phòng mạch tận, không con nối dòng. 2/. Cuộc đất Cao Xá : Thanh Oai Cao Xá, thật có quý địa Nước khe theo mạch, về nơi đất bằng Hoa nở bên Bạch Hổ, sao hiện bên Thanh Long Sơn thủy dồi dào, khí thế sung mãn Cần gì hợp biểu, ngưu giác loan cung Chủ khách đều tốt, tả hữu 1 lòng Lòng hoa rộng mở, thế phát anh hùng Văn chiếm đầu bảng, võ chiếm nguyên nhung Sống lâu phú quý, lập nhiều kỳ công. …..” Theo quyển “Tấu thư địa lý kiểu tự” Cao Biền ghi tất cả là 632 huyệt chính, và 1517 huyệt bàng trên khắp các tỉnh như: _ Hà Đông : 81 chính - 246 bàng _ Sơn Tây : 36 chính - 85 bàng _ Vĩnh yên Phú Yên 65 155 Phú Thọ _ Hải Dương Hưng Yên 183 483 Kiến An _ Gia Lâm 134 223 Bắc Ninh Đáp Cầu Bắc Giang Lạng Sơn _ Hà Nam Nam Định 133 325 thái Bình Ninh Bình Theo thống kê trên, cũng đủ thấy công phu tầm long điểm huyệt và trấn yểm của Cao Biền đến bực nào rồi. Các truyền thuyết về Cao Biền còn lưu lại rất nhiều trong dân gian VN ta. Như ở Phú Yên, tương truyền có mả Cao Biền ở đó, đấy là 1 độn cát nơi chân núi dưới biển. Độn cát không lớn lắm, nhưng không bao giờ san bằng được vì 4 mùa gió cát vun lên. Dân trong vùng có câu phong dao: Ngó lên hòn núi cả thấy mả Cao Biền Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai. Theo truyền thuyết thì từ thuở xa xưa, Cao Biền đã vun biểu tượng mả để trấn yểm dân VN. Vì thuật địa lý giỏi nên ông ta đã tìm 1 nơi 4 mùa cát vun để ngôi mả đó không bị mất đi. Trong quyển “Địa dư bình Định” của ông Bùi Văn Lăng viết từ năm 1930 cũng có đề cập đến di tích Cao Biền như sau: “Dọc theo đường QL số 1 chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là 1 cái thẻ thời xưa Cao Biền trấn yểm. Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ, nhưng nhổ không lên”. Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gi có 1 cụm núi nhỏ, cách đó không xa, lại có 1 hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi Cao Biền đã dùng phép trấn yểm thuở xưa. Cao Biền bị giết sau khi về lại Tàu là đúng rồi - vua Tàu tin phong thủy dĩ nhiên sử dụng xong thì họ xử lý ngay (luật chính trị). Bản Tấu thư trên khi vào tay quân ta chắc chắn là không đủ, những nơi huyệt chính không ghi rõ và chắc chắn những huyệt đã được Biền yểm sẽ bí mật. Theo câu chuyện Thần sông Tô Lịch thì chắc chắn Biền có yểm trong thành Đại La - Thăng Long bây giờ. Ta không rõ Nhà Lý - Trần đã xử lý chưa?, và sau đó là nhà Lê. Theo các bài viết của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, thì nhà Thanh cũng đã trấn yểm ở trong Miền Nam nước ta như vùng Châu Đốc, Bà Rịa Vũng Tàu... và trong những năm qua họ tiếp tục tại hồ Tuyền Lâm - Đà Lạt... Kinh khủng thật - không có các Phật, Thánh, Thần, Tiên của nước ta tính toán - phòng bị từ trước thì TA đứt từ lâu rồi. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 10, 2011 'Độc nhãn long' ở Cổ Loa thành vẫn là ẩn số? Xem tin gốc Báo Đất Việt - 7 tháng trước 1357 lượt xem Nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành nhưng chưa có lời giải đáp cho hiện tượng cùng một địa hình mà hai hố đất gần nhau ở Khu di tích thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) một có nước một không, nên niềm tin về con mắt của “độc long nhãn” trong truyền thuyết xưa càng được củng cố. Facebook Twitter 2 bình chọn Viết bình luận Lưu bài này Từ lúc được phát hiện tới nay, hai hố vẫn được cho là mắt rồng ở thành Cổ Loa (Đông Anh (Hà Nội), một vẫn đầy ắp nước bất kể mùa hạn hay mùa khô, một luôn khô cạn ngay cả những hôm trời mưa như trút. Cuộc tranh hùng của 9 con rồng “Hai mắt rồng” nằm ở khu vực đền Thượng - nơi tẩm cung của Thục phán An Dương Vương của Khu di tích Cổ Loa. Nhìn từ trên cao, đền Thượng dường như được đặt giữa trán rồng, phía trước có hai hố mắt, miệng là hồ bán nguyệt há ngậm viên ngọc - giếng nước nằm trong lòng hồ này. Truyền thuyết xưa kể rằng, thời An Dương Vương đã có một cuộc tranh hùng dữ dội của 9 con rồng - Cửu long tranh châu (chín con rồng tranh một hòn ngọc). Đây cũng chính là tiền thân của truyền thuyết về "độc nhãn long". Truyện rằng, khi An Dương Vương lệnh cho các thầy địa lý tìm khắp cõi Âu Lạc xem đâu có thế đất thịnh vượng để dựng kinh đô. Sau hàng tháng trời tìm kiếm, các thầy báo về có một nơi được coi là đỉnh của vùng tam giác châu thổ sông Hồng, là vị trí đắc địa bởi từ đây, có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết định rời đô từ Phong Châu (Lâm Thao - Phú Thọ) về, đoàn thuyền của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện - đền Thượng bây giờ. Trong cuộc giao long, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Cũng có lời kể rằng, chính An Dương Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó. Sau đó, vua cho dựng chính điện trên đầu rồng. Kỳ lạ con mắt phải Thành Cổ Loa vốn tọa lạc trên nền địa chất khô và cứng vì thế phải đào sâu xuống khoảng 30-40m mới có nước. Thế nhưng, ở hai hố mắt trước cửa đền Thượng, với độ sâu chừng 2m, hố bên phải luôn đầy ắp nước là hiện tượng rất lạ. Trước đây, Ban quan lý khu di tích thành Cổ Loa cũng vài ba lần tiến hành việc nạo vét lòng hồ bán nguyệt và hố đất bên phải nhưng không thực hiện được bởi khi đào được vài chục phân đất gặp ngay một mạch nước ở giữa giếng ngọc phun lên dữ dội. Lý giải hiện tượng này, nhiều người đã đưa ra giả thuyết, người xưa khi xây dựng đền đã dựa vào địa thế địa hình thực tế. Việc tạo hai hố mắt trong khuôn viên của đền Thượng cũng tương tự. Hai hố mắt đó là có sẵn, chỉ việc khoét tạo hình cho hai hố đó cân xứng. Việc hố bên phải có nước, còn hố bên trái không có cũng rất tự nhiên, không hề có bàn tay can thiệp của con người. Lại có người cho rằng, có thể những thợ xây dựng đền xưa đã áp dụng một công nghệ nào đó để tạo, dẫn và cân bằng mực nước trong hố mắt phải với mực nước bên hồ bán nguyệt phía trước cửa đền… Tuy nhiên, những giả thuyết này vẫn chưa thực sự thuyết phục. Truyền thuyết về “rồng một mắt” càng có căn cứ khi gần đây các chuyên gia Việt Nam và Nhật Bản phối hợp tiến hành khai quật hố mắt bên phải, phát hiện một khối hình cầu màu đỏ giống quả cầu mây. Khối hình cầu này có đáy, tường bao quanh khum vào bên trong, có lỗ thông ra hai bên, phía trong “mắt” phải rồng có một lò nung nhỏ ở chính giữa. Niên đại của “con ngươi” mắt rồng đến nay chưa được xác định. Lạ kỳ hơn là dù đào sâu xuống bên dưới thì đoàn khảo cổ cũng không tìm được bất kỳ mạch nước hay “công nghệ” dẫn nước nào vào bên trong con mắt này. Chính vì những lý do trên mà hiện nay, người dân vẫn tin rằng đây chính là đôi mắt của “độc long nhãn” và hằng ngày vẫn có nhiều người đến đây lấy nước về chữa bệnh và cầu may. Bảo Bình Theo thực tế Mắt phải có nước và mắt trái không: như vậy mỗi đình, đền, chùa chỉ có một mắt phải thôi - Độc nhãn long. Không ai làm 2 giếng trong 1 khu vực cả. Theo phong thủy khả năng tích nước có vẻ hợp lý, còn mắt trái bị đào thêm nhằm mục đích phá thế phong thủy các khu vực tâm linh. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 10, 2011 Phát hiện giếng 'thiêng yểm bùa' chôn kho báu? Cập nhật lúc :2:20 PM, 27/10/2011 Có nhiều câu chuyện xung quanh giếng “thiêng" ở Bắc Giang, nhưng câu chuyện gây được sự chú ý hơn cả là lời đồn về một kho báu đang được chôn giấu ở xung quanh chiếc giếng đến nay vẫn chưa được tìm thấy. Bí ẩn xung quanh cái giếng bị nghi yểm bùa Lâu nay người dân xã Vô Tranh, huyện Lục Nam (Bắc Giang) vẫn rì rầm bàn tán về những câu chuyện còn chứa đầy bí ẩn xung quanh cái giếng Chợ ở thôn Tranh. Nào là uống nước ở đó khen ngon, chê dở đều bị đau bụng hay như sự xuất hiện của con chó đá giữa lòng giếng… Người dân nơi đây vẫn bảo nhau, giếng Chợ rất "thiêng". Theo như các bậc cao niên truyền lại thì trước đây người Tàu đã chôn theo một cô con gái chưa chồng để làm thần giữ của. Nước trong giếng lúc nào cũng trong vắt. Sau những lời ẩn chứa hình ảnh ma mị, người ta giới thiệu chúng tôi đến gặp bà Bùi Thị Nhỡ, năm nay đã 83 tuổi, dù tuổi đã cao sức khỏe đã yếu nhưng bà vẫn rất minh mẫn. Bà chậm rãi kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện xung quanh cái giếng thiêng. Theo bà Nhỡ thì cái giếng đã có từ rất lâu và không ai biết nó có từ bao giờ vì khi bà còn trẻ đã nghe những người già trong làng nói rất nhiều câu chuyện xung quanh cái giếng này. Ngày trước xung quanh cái giếng cây cối rậm rạp, um tùm, nước trong vắt và quanh năm không bao giờ cạn, kể cả vào mùa khô hạn hán mấy tháng trời nhưng giếng nước vẫn chảy. Bên cạnh có mấy phiến đá to phẳng lỳ không ai biết là do nhân tạo hay tự nhiên mà có. Người dân nơi đây khi đi làm đồng rẽ vào uống nước nhưng tuyệt nhiên không được khen nước ngon hay chê nước dở vì chỉ cần mở miệng thì lập tức về nhà người đó sẽ bị đau bụng, có đi khám cũng không tìm ra bệnh. Mọi người vẫn truyền tai nhau rằng ngày trước người Tàu có chôn một người con gái chưa chồng xuống đây để làm thần giữ của, người nào vào đó có xúc phạm sẽ bị “bà cô” phạt. Thực tế thì đã có vài người trước đây có uống nước do lỡ mồm lỡ miệng nên đã bị đau bụng thật. Câu chuyện tưởng chỉ dừng lại ở những lời đồn đoán bâng quơ cho đến một ngày ông Hoàng Văn Triệu cất nhà ngay cạnh cái giếng. Do không có nước sinh hoạt nên ông rủ vài người hàng xóm cùng nhau góp tiền xây thành giếng và nạo vét cho sạnh sẽ để lấy nước về dùng. Bà Nhỡ kể lại câu chuyện bà từng được nghe về cái giếng thiêng. Trong khi mọi người đang tiến hành công việc thì phát hiện dưới sâu lớp bùn trong lòng giếng có một con chó đá. Sự tình cờ đó khiến ông Triệu và người dân nơi đây càng tin vào những câu chuyện được người già kể lại là có một điều gì đó bí ẩn đang tồn tại xung quanh đây. Sau đó con chó đá được trục vớt lên thì phát hiện ở cổ có đeo vòng Tràng Hạt và một cái chuông. Con chó có chiều cao khoảng 60cm, nặng khoảng 200kg sau đó được đặt ngay bên cạnh thành giếng. Sạt nghiệp vì lòng tham Ông Triệu và người dân trong làng còn truyền tai nhau rất nhiều câu chuyện khác nữa xung quanh cái giếng "thiêng" này. Những câu chuyện thêu dệt đầy ma mị đều hướng đến một kho báu đang nằm đâu đó xung quanh cái giếng. Có người thì bảo thấy một đàn lợn vàng, chó vàng chạy ra từ hướng cái giếng rồi mất tích một cách bí ẩn. Ông Triệu bảo ông không tin vào nhưng câu chuyện có nhiều yếu tố hoang đường nhưng đúng là ông và hàng xóm sống gần cái giếng rất hay ốm vặt, người không bị thế này thì bị thế kia, bản thân ông cũng phải mổ ruột thừa, rồi ngã xe gãy chân… Ông Triệu kể, cách đây hơn chục năm có vài người trên huyện Lục Ngạn xuống đo đạc và tìm kiếm kho báu. Họ lắp máy bơm với ý định bơm cạn cái giếng nhưng bơm mãi nước trong giếng cũng chỉ cạn có chừng mực mà không cạn hết được. Ông Hoàng Văn Triệu kể lại câu chuyện đã xảy ra với bản thân và gia đình. Trong đoàn có người xuống lòng giếng và thọc tay sâu xuống lớp bùn lấy lên một nắm cát, sau khi quan sát kĩ họ công nhận có vàng sa khoáng. Công việc đang được tiến hành suôn sẻ thì bỗng dưng có mấy người tự xưng là dân làng bên sang tranh và giở luật giang hồ, cuộc xô xát xảy ra và những người ở Lục Ngạn bỏ lại đồ đạc máy móc chạy thoát thân. Sau khi chiếm được giếng, những người chủ mới tiến hành tìm kiếm nhưng tìm mãi cũng không thấy kho báu ở đâu. Một biểu hiện khá lạ là những thanh niên trai tráng khỏe mạnh đang làm tự dưng bị ốm mệt mỏi, uống thuốc cũng không khỏi nhưng khi làm lễ cúng lại đứng dậy đi làm bình thường. Sau khoảng nửa tháng tìm kiếm dù đã sử dụng cả các loại máy móc hiện đại nhưng họ không tìm được gì mà còn phải tiêu tốn khoản chi phí khá cao cho thuê người, thuê máy. Theo lời ông Triệu thì mấy người đụng chạm đến cái giếng đều có chung một kết cục về sau này là làm ăn thất bát, con cái đau ốm, gia đình lục đục dẫn đến ly hôn. Con chó đá sau khi được đội của ông Triệu trục vớt lên đặt ngay bên thành giếng, ai đi qua cũng tấm tắc khen con chó đẹp, bao người xin nhưng ông đều từ chối không cho vì lý do đơn giản "không phải của mình nên không dám cho". Rồi một buổi sáng ông thức dậy bỗng không thấy con chó đâu nữa, đó là ngày 30/12 (âm lịch) năm 2007, ông có đi tìm vài lần và hỏi nhiều người nhưng không thấy. Điều ngạc nhiên đã xảy ra, đúng buổi sáng ngày 30/12 (âm lịch), năm 2008, khi ông thức dậy nhìn xuống giếng lại thấy con chó đang ngồi ngay ngắn ở vị trí cũ. Ông và những người hàng xóm không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Mãi sau này ông mới biết con chó đá đã bị ông Nghi Hải ở Trại Găng lấy trộm. Sau khi mang con chó về, gia đình ông Nghi Hải xảy ra rất nhiều chuyện mà theo người dân nơi đây là do ông đã trộm con chó đá về nhà nên bị phạt. Thằng con trai nhà ông đi xe máy tự ngã rồi chết, còn bản thân ông cũng bệnh tật liên miên, làm ăn thất bát… Sau khi nghe nhiều người nói vậy ông sợ quá nên lại đem trả vào đúng ngày giờ mà ông mang về. Sau khi được trả vài tháng thì con chó đá lại mất và đến giờ đã hai năm trôi qua mà vẫn chưa thấy đâu. Đem những chuyện còn đầy nghi vấn xung cái giếng Chợ đến hỏi ông Nguyễn Văn Bằng phó chủ tịch UBND xã Vô Tranh thì chúng tôi nhận được câu trả lời: “Đúng là có chuyện các cụ già trong làng, xã vẫn truyền tai nhau về chuyện người tàu yểm bùa giữ của nhưng đã có rất nhiều người dùng máy dò đến tìm nhưng chỉ tìm được những đồng xèng (tiền cổ) còn vàng thì chưa ai tìm thấy cả”. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 10, 2011 Trong quá khứ. Nếu nói đến chiến tranh Phong thủy thì người Hán chẳng làm nên trò trống gì ở Việt Nam cả. Sự sai lệch nằm ở phía nam so sánh giữa Hà Đồ với Lạc thư. Cao Biền sau khi trấn yểm thành Đại La - nổi tiếng trong vụ trấn yểm ở sông Tô Lịch trên báo chí - thì bị Đường Ý tông gọi về chém. Hai trăm năm sau nước Việt hưng quốc và Đại La trở thành Thăng Long Hanoi bi wờ. Đối với Phong thủy Tàu - "nghề này thì lấy ông này tiên sư". Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 10, 2011 Thực hư về 'núi thiêng' có kho báu yểm bùa ở Hà Nội Theo nhiều người dân Vân Côn (Hoài Đức, Hà Nội), không chỉ có ông Hận mà những người tham gia vào cuộc tìm kiếm vàng trên núi thủa trước, giờ ai cũng gặp chuyện "xui". Có người phá sản, người nghèo đói túng quẫn, người bệnh tật, người chết trẻ hoặc con cái lục đục… Cách trung tâm Hà Nội chưa đầy 15 km, thôn Vân Đồn, xã Vân Côn, huyện Hoài Đức nằm men theo đại lộ Thăng Long, đại lộ lớn nhất Việt Nam. Không còn nhà cửa lụp xụp của một ngôi làng thuần nông, Vân Côn giờ nhộn nhịp với những ngôi nhà cao tầng mọc lên như nấm, chợ búa sầm uất… Thế nhưng, đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng, ít ai biết rằng, có một câu chuyện mang đầy tính huyễn hoặc, liêu trai tồn tại cả trăm năm nay trên ngọn núi Bạch Tuyết. Câu chuyện được lưu truyền trong ngôi làng, mà mỗi khi nhắc đến, những người biết chuyện cũng 5, 7 phần run sợ… Ngọn núi nhuốm màu truyền thuyết. Núi thiêng bị yểm bùa Khi chúng tôi tìm đến nhà Nguyễn Văn Phê (72 tuổi) nằm san sát bên sườn ngọn núi thiêng, ông đang bận rộn dọn dẹp nhà cửa. Nhưng vừa nghe chúng tôi nói lý do, ông vội vàng ngừng tay và nói khe khẽ như sợ ai nghe thấy: “Mời chị vào nhà, uống nước rồi nói chuyện”. Ông bảo, ông vốn là bộ đội về hưu, cũng không hẳn là người duy tâm, tuy nhiên, nhắc đến những chuyện linh thiêng thì phải giữ mồm giữ miệng. Cứ oang oang như chuyện buôn bán ngoài chợ, “thánh” quở chết. Nhấp ngụm nước chè, ông lim dim nhớ lại: “Chẳng biết câu chuyện được lưu truyền từ bao nhiêu đời, nhưng từ khi tôi còn bé, đã nghe người lớn kể lại rất nhiều truyền thuyết về ngọn núi. Theo lời cha ông, từ thời Trung Quốc xâm lược nước ta, chúng để lại dưới chân ngọn núi rất nhiều vàng bạc. Và để giữ của, chúng đã nuôi một cô gái trong vòng 100 ngày. Thế rồi, sau 100 ngày, người con gái trinh nữ có nước da trắng ngần, mái tóc đen dài óng ả ấy bị thả xuống hố để chôn sống làm thần giữ của. Từ đó, linh hồn người con gái bị yểm bùa ấy cứ quanh quất bên ngọn núi. Có người quả quyết khi đi ngang qua ngọn núi nhìn thấy những con trăn khổng lồ hay con lợn vàng. Những câu chuyện như thế càng khiến người làng đinh ninh rằng, ngọn núi này rất thiêng, vì thế, không ai dám bén mảng gần. Thế nhưng, trong làng có ông Trẻ Cu, người chẳng sợ gì ma quỷ thánh thần. Ông cứ lùa trâu lên núi đó chăn rồi vào tán cây cạnh những phiến đá đó nằm ngủ. Một hôm, đang ngủ, ông giật mình bởi thấy có tiếng nói từ trong núi vọng ra rằng nếu ông mang một mâm xôi, một con gà trống thiến đến núi thắp hương thì thần núi sẽ trả một con gà bằng vàng. Giờ đi qua đây người dân vẫn có phần "run sợ". Nghe thế, ông Trẻ Cu mừng rỡ về nhà vay mượn tiền mua xôi, gà như thần núi đã dặn. Thắp hương xong thì quả thật, từ trong kẽ đá, một đàn gà bằng vàng kéo nhau chạy ra. Tuy nhiên, thần núi chỉ cho ông bắt con gà què đi phía sau cùng. Ông đã không đồng ý với giao kèo đó và đàn gà biến mất. Tức khí, ông Trẻ Cu mang chõng lên núi nằm ăn vạ. Tuy nhiên, cứ đêm kê võng nằm trên núi thì sáng mở mắt ra, ông lại thấy mình nằm ở dưới đồng. Chuyện đó lặp đi lặp lại nhiều lần, lại không thấy đàn gà trên xuất hiện nữa, nản chí ông Trẻ Cu đành bỏ cuộc…”. Khép lại những câu chuyện được “thừa hưởng” từ đời trước trên, ông Phê bảo, ông không tin nhiều vào những chuyện đầy yếu tố hoang đường trên nhưng không có lửa thì làm sao có khói. Chắc chắn trong lòng núi Bạch Tuyết có cất chứa một điều gì bí mật. Và sự hồ nghi đó càng có cơ sở khi cách đây chừng 30 năm, một đại gia ở Vân Côn đã tổ chức một cuộc khai quật quy mô lớn ở ngọn núi này. Cuộc tìm kiếm đó tuy không tìm thấy bạc vàng châu báu nhưng những gì đoàn tìm kiếm tận thấy, trải qua càng làm mọi người tin hơn chuyện người Tàu giấu của ở ngọn núi này. Đó là ông Nguyễn Tài Hận, cũng là một người dân trong xã. Cuộc săn vàng và sự lụn bại của một đại gia Theo lời chỉ dẫn của ông Phê, chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Tài Hận, người được mệnh danh là một đại gia nức tiếng một thời. Nhắc đến chuyện cũ, ông Hận vẫn còn ngẩn ngơ: “Đúng là cách đây 30 năm tôi có đứng ra tổ chức một cuộc tìm kiếm vàng dưới chân ngọn núi. Nhưng quả tình, tôi cũng không muốn nhắc lại chuyện này nữa, có lẽ, cũng vì nó mà tôi khuynh gia bại sản, việc làm ăn chao đảo đến 5, 7 lần”. Theo lời ông Hận, vào những năm 80 của thế kỷ trước. Ông vốn là một người nức tiếng giàu có trong làng, xã thậm chí nhất huyện lúc bấy giờ. Việc kinh doanh buôn bán của ông trải dài khắp trong Nam, ngoài Bắc. Ông buôn từ gỗ lạt, than củi, rồi đốt lò gạch rồi đến trâu bò… Ông bảo, cứ cái gì sinh lời là ông buôn. Ông Nguyễn Văn Phê. Cũng chính bởi đầu óc nhanh nhạy nên việc kinh doanh của ông phất như diều gặp gió. Độ ấy, nhìn phong thái ung dung đĩnh đac, quần áo là lượt và gia tài kếch xù, ông đi đâu cũng được người dân trong làng xã đôi phần kính nể. Ngôi nhà khang trang 5 gian của ông khi xây lên phải đóng mất một số tiền tương đương với 10 chiếc xe “kích” thời ấy. Nhưng tất cả sự giàu có ấy đã trở thành một câu chuyện dĩ vãng khi ông bắt tay vào việc tìm kiếm kho báu dưới chân núi cô Tiên. Theo lời ông Hận, đó là vào khoảng năm 1982. Khi đó, người dân trong xã đa phần là đói kém. Dù rất sợ ngọn núi thiêng nhưng nhiều lúc thiếu ăn, một số người vẫn làm liều, khoét đất khoanh chân núi đem bán để lấy tiền đong gạo. Khi đào hết lớp đất mỏng thì bỗng hiện ra một luồng đá được lát như một con đường chạy thẳng vào núi mà chỉ nhìn qua cũng biết đó là do bàn tay con người làm. Vốn vẫn tin là ngọn núi có vàng, vì thế, khi nhìn thấy con đường này nhiều người đã mừng như mở cờ trong bụng, nhưng vẫn e ngại sợ “thần giữ của”. Khi ấy, ông Hận vốn là người cùng xã nhưng khác thôn đi qua, thấy ông mấy người đàn ông liền “rủ rê”: “Ông có chung với chúng tôi không?”. Rồi nháy mắt chỉ vào lối đi được lát những phiến đá xanh kỳ bí. Ông Hận gật đầu. Ông đồng ý tài trợ mọi kinh phí cho cuộc tìm kiếm bao gồm tiền ăn cho hơn chục trai đinh, tiền mua dụng cụ khai quật. Tuy nhiên, chẳng ham hố chuyện của nả từ đất chui lên, từ trời rơi xuống, ông chỉ bảo mọi người thực hiện cam kết nếu tìm được vàng bạc thì mọi người chia nhau, còn tìm thấy cổ vật thì ông được hưởng. Ông Nguyễn Tài Hận vẫn tiếc nuối khi nhớ tới thời vàng son. Cứ theo hai hàng đá ấy, sau chục ngày đào bới, mọi người đã khoét một đường hầm ăn xiên vào núi theo hướng nghiêng 30 độ. Đào được chừng 15 m thì bắt gặp một phiến đá lớn chắn ngang giao thông hào. Bị chặn đường, mọi người đào rộng ra hai bên đến vài mét nhưng phiến đá vẫn chắn ngang trước mặt. Đào sang hai bên không được, ông Hận chỉ đạo mọi người đào sâu xuống chân phiến đá. Và, thật bất ngờ, khi đào xuống được chừng hơn mét thì thấy trên phiến đá đó có một lỗ nhỏ bằng chừng bắp chân người. Lỗ ấy đã bị đất mít kín. Thuốn sắt, thấy phiến đá không dày, ông Hận hạ lệnh dùng búa mở rộng lỗ thông có sẵn đó. Khi “cửa hang” được mở ra, chui vào trong, đoàn tìm kiếm phát hiện một khoảng trống rộng chừng nửa gian nhà. Khoảng trống đó do ba phiến đá chụp ngọn vào nhau tạo thành. Soi đèn kiếm tìm, ông Hận thấy ở phiến đá đối diện cửa hang có hình con rùa đang chũi đầu xuống đất. Ông Hận kể, lúc đầu ông và mọi người cũng tưởng hình con rùa đó là do tự nhiên vô tình tạo nên nhưng khi cạo lớp đất dính trên phiến đá ấy ra thì hoàn toàn không phải. Những họa tiết, hình khối trên phiến đá đó rất rõ ràng, sắc nét. Ngoài hình con rùa trên thì trong khoang trống đó mọi người không thu được bất cứ vật gì. Bị ba phiến đá bủa vây, ông Hận và mọi người đã cố sức mở lối đi sâu vào trong nhưng vô hiệu. Không như phiến đá ở ngoài, hai phiến đá khép góc phía trong cứng hơn thép. Búa tạ phang vào chỉ thấy tóe lửa sáng lòa, khét lẹt chứ chẳng hề sứt mẻ, xây xát, sức người không tài nào đánh sập nổi. Thế là cuộc tìm kiếm khép lại. Ông Hận bảo, cũng từ bận ấy, chẳng biết là sự trùng hợp hay sự trừng phạt của “thánh thần” mà chuyện làm ăn của ông liên tiếp gặp vận rủi. Từ một đại gia tiền nhiều không kể xiết, mấy lần ông chịu cảnh trắng tay. Làm ăn thua lỗ, phá sản, và khó khăn lắm ông mới trụ được, nhưng mãi chỉ ở mức trung bình. Thời vàng son của đại gia Nguyễn Tài Hận cũng chấm dứt từ đây. Ngọn núi linh thiêng Theo nhiều người dân trong làng, không chỉ có ông Hận mà những người tham gia vào cuộc tìm kiếm thủa xưa, giờ ai ai cũng “gặp chuyện xui”. Có người phá sản, người nghèo đói túng quẫn, người bệnh tật, người chết trẻ hoặc con cái lục đục… Bà Vũ Thị Đang: "Tôi rất sợ khi đi ngang qua ngọn núi đó". Một trong số ít những người còn lại trong làng không bị “vận” là ông Vũ Văn Tỵ. Khi chúng tôi đến nhà, ông Tỵ đang đi vắng chỉ còn vợ ông, bà Vũ Thị Đang ở nhà. Vừa nghe hỏi chuyện, bà Đang đã vội vàng xua tay: “Thời ấy chồng tôi cũng tham gia nhưng chỉ một vài ngày thôi. Thấy nhiều chuyện hãi hùng thì vội vàng dừng lại, sau chỉ đứng xem”. Bà Đang bảo, không chỉ thời xưa, mà ngay hiện nay người dân trong làng vẫn luôn tin có vàng dưới chân ngọn núi. Nhưng từ câu chuyện thủa trước mà chẳng ai dám nghĩ đến việc đào bới lần nữa. Bản thân bà hiện nay cũng chẳng mấy khi dám đi ngang qua ngọn núi thiêng ấy vì… sợ. Bà bảo, không ít người con gái đi ngang qua đây đã bị “bắt vía”. Cứ trở nên ngớ ngẩn, ăn nói lảm nhảm, lúc khóc lúc cười. “Như nhà cô Hạnh đầu xóm, người mới nhất bị 'bắt vía'. Phải mất mấy tháng mới lại trở lại bình thường đấy", bà nói. Cũng theo bà Đang, chính vì sự linh thiêng của ngọn núi nên khách thập phương ngày rằm, lễ Tết tìm về đây cúng bái rất nhiều. Ngọn núi Bạch Tuyết hay núi Cô Tiên linh thiêng của làng giờ đã được san lấp gần như bằng phẳng thành đường đi, nhà ở. Giờ chỉ còn dấu tích là 4 tảng đá chụm vào nhau, người dân trong xã đã xây tường bao trở thành nơi thờ cúng. Trao đổi với chúng tôi, ông Hoàng Văn Tuấn, Trưởng Công an xã Vân Đồn cho hay, 15 năm công tác tại xã ông không thấy và cũng không tin những câu chuyện kỳ bí như thế. “Đó có thể chỉ là những truyền thuyết tín ngưỡng trong dân gian mà thôi”, ông Tuấn phỏng đoán. 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 28 Tháng 10, 2011 Cao Biền là tướng Lạc Diêu . Bách Việt trùng cửu . Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn viết: Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Cao Vương ở đây được cho là Cao Biền, viên quan đô hộ dưới thời nhà Đường, người đã đuổi quân Nam Chiếu ra khỏi An Nam đô hộ phủ và xây thành Đại La. Nhưng tại sao Chiếu dời đô lại gọi quan đô hộ nhà Đường là Vương (Cao Vương) trong một văn bản quan trọng, mang tính dời đô lập quốc như vậy? Cao Biền là tướng giặc ngoại xâm hay là một vị quan cai trị chính thống, có công với người Việt? Liệu Cao Vương ở đây là Cao Biền hay … Cao Lỗ, người đã xây thành Cổ Loa? Lĩnh Nam chích quái, truyện Tướng quân họ Cao ở Vũ Ninh có kể việc thần Cao Lỗ, tướng của An Dương Vương, đã hiển linh phù trợ Cao Biền chống giặc Nam Chiếu. Cao Biền sau khi gặp thần, tỉnh mộng có bài thơ: Bách Việt điện khu vũ, Nhất nhung đình sơn xuyên. Thần linh năng trợ thuận, Đường ra cảnh tộ diên. Dịch: Bách Việt vững phong cương, Ba quân dẹp chiến trường. Thần tiên phù chính nghĩa, Muôn năm vững triều Đường. Theo bài thơ này thì triều Đường là một triều đại của người Bách Việt (?!). Cao Biền theo Cựu Đường thư là người Bột Hải. Bột Hải được “ghi chú” là ở Mãn Châu, miền Bắc Trung Quốc. Có thật vậy không? Cao Biền và Cao Lỗ là 2 người cùng họ, lại cùng xây thành Cổ Loa – Đại La. Vì vậy mới có chuyện thần Cao Lỗ phù trợ cho Cao Biền. Họ Cao theo Bách gia tính là một họ cổ của Trung Hoa từ thời Chu, có xuất xứ từ vùng Bột Hải. Nhưng không thể có chuyện Cao Lỗ là người Bột Hải ở tận Mãn Châu được. Trái lại, trong đền thờ họ Cao ở Nho Lâm – Diễn Thọ (Nghệ An) thì họ Cao phát tích từ “Bột Hải triều Nam”. Bột Hải triều Nam hay Bát Hải Động Đình, chính là biển Đông. Bát là số 8, con số chỉ phương Đông. Cao Lỗ và Cao Biền đều là người Việt chính cống, quê gốc ở vùng quanh biển Đông Việt Nam. Một dẫn chứng khác để khẳng định vị trí Bột Hải trong cổ sử là đền Đức Thánh Cả ở Thái Đường (nay thuộc xã Thái Bình - Ứng Hòa – Hà Nội). Đền thờ một vị thần thời Hùng Vương, đã cùng Phù Đổng thiên vương giúp vua Hùng đánh dẹp giặc Ân ở vùng… “châu Hoan, châu Ái”. Sau khi thần hóa được phong là Bột Hải đại vương và thờ ở Thái Đường. Thật khó hiểu, giặc Ân nào ở vùng Thanh Nghệ? Châu Hoan châu Ái là vùng đất ven biển Đông nên Bột Hải phải là biển Đông, chứ không thể ở tận Mãn Châu, nơi mà thời nhà Ân người Trung Hoa còn chưa hề đặt chân tới. Câu đối trong đền Đức Thánh Cả ở Thái Đường: Đệ lục đại Hùng Vương thần tướng huy đao kình khô ngạc đoạn Kỷ thiên thu Đông Hải Ân binh tuyệt mệnh kích chiết chu trầm. Dịch: Hùng Vương thứ sáu triều xưa, thần tướng vung đao, kình đứt sấu đoạn Biển Đông nghìn thu thủa trước, quân Ân hết số, kích gãy thuyền chìm. Từ “Đông Hải” trong vế đối chỉ rõ Bột Hải đại vương là người cầm quân đánh thủy binh của giặc Ân ở vùng biển Đông. Bột Hải chính là chỉ biển Đông. Bột Hải đại vương đóng quân ở Đại Đường Châu (Thái Đường), là nơi nay có đền thờ thần trên bờ sông Đáy. Sông Đáy như vậy thời Hùng Vương có tên là sông Đại Đường. Phải chăng đây là con sông chảy qua đất Đường thời Nghiêu Thuấn? Một tài liệu khác cũng xác định Cao Biền là người Bách Việt là thần tích đình Vạn Phúc (Hà Nội). Theo thần tích này thì Cao Biền là “người Quảng Tín, Thương Ngô”, lấy vợ là Ả Lã Đê Nương, người Tuyên Quang. Sau khi dẹp được giặc Nam Chiếu, Cao Biền tự cho mình có công cao, xưng là Quốc vương thiên tử, phong cho Ả Lã Đê Nương là Nga Hoàng cung phi. Quốc vương thiên tử có thể là tam sao thất bản của tên Lạc Vương: - Lạc – Nác – Nước – Quốc. Còn tên Nga Hoàng cung phi thì rõ ràng lấy theo tên vị vương phi của đế Thuấn. Ả Lã Đê Nương sau khi Cao Biền về Bắc đã ở lại làng Vạn Phúc, mở mang nghề tơ lụa cho người dân trong vùng. Do vậy làng lụa Vạn Phúc Hà Đông tới nay thờ bà Quốc vương thiên tử Nga Hoàng đại vương làm thành hoàng làng. Lạc Vương hay Hùng Quốc Vương cũng có thể là tên của Đế Thuấn trong cổ sử. Cao Biền như vậy coi mình tiếp nối công đức của Lạc Vương Đế Thuấn, phong cho vợ là Nga Hoàng. Điều này cũng cho thấy Đế Thuấn là vị vua đã mở cõi Lạc Việt xưa. Trong thần tích Việt ngoài Cao Biền còn có Lý Thiên Bảo được gọi là Quốc vương thiên tử, như ở các khu Dịch Vọng, Mỹ Đình, Mễ Trì. Như trên, có thể Lý Thiên Bảo đã được gọi là Lạc Vương. Còn Lý Phật Tử ở vùng này được thờ với tên Diêm La thiên tử. Có thể: - Diêm La thiên tử = Diêm Vương = Quỷ Vương = Tây Vương = Thục Vương hay Chiêu Vương. Lý Phật Tử nối ngôi Lý Thiên Bảo, như vậy hợp thành tên Chiêu Lạc vương hay Chiêu Liệt hoàng đế, tức là danh xưng của Lưu Bị nước Thục thời Tam Quốc. Sử cũ chép (Đại Nam quốc sử diễn ca): Cao Biền là tướng lạc điêu, Tài danh sớm đã dự vào giản tri. Và giải thích rằng Cao Biền có tên Lạc Điêu ngự sử vì… có tài bắn cung, một phát trúng 2 con chim điêu (xạ lạc song điêu). Đây là chép sử kiểu suy diễn, giống như giải thích cụm từ “Diên Chỉ chi Ngung” là “cõi đất diều rơi” vậy... Kiểu này khéo phải gọi Cao Biền là “Anh hùng xạ điêu” mất. Ở Ninh Bình còn có chuyện Cao Biền cưỡi diều bay qua đây bị một đạo sĩ địa phương ra tay bắn gãy cánh, rơi xuống thành núi Cánh Diều…Nay với liên hệ Quốc vương thiên tử = Lạc Vương, thì danh hiệu Lạc Điêu của Cao Biền chính xác phải là Lạc Diêu. Lạc là đất Lạc Việt. Điêu, hay Diêu, thực ra là từ Giao. Chữ Diêu này cũng gặp trong tên Diêu Trọng Hóa của Đế Thuấn. Lạc Diêu hay Lạc Giao chỉ rõ vùng Giao Chỉ Lạc Việt hoặc là cõi Nam Giao, nơi Cao Biền, cũng như Đế Thuấn, dựng nghiệp và cai quản. Lạc Diêu còn có thể là Lạc Diên hay Lạc Dương, là đô thành của nhà Đông Chu. Đây chính là vùng Cổ Loa của Cao Lỗ, hay Đại La do Cao Biền xây đắp. Đối với các vị tiền nhân có nguồn gốc “phương Bắc” như Triệu Đà và Sĩ Nhiếp, chính sử Việt hết sức lúng túng trong việc nhận định là Vương hay là Giặc. Lạc Diêu Cao Biền cũng vậy. Chỗ thì ca ngợi như một người có công đánh đuổi giặc Nam Chiếu, dựng thành Đại La. Chỗ thì coi như một kẻ thâm độc, một thầy phù thủy đã trấn yểm tinh khí An Nam. Nay có thể thấy rõ, Cao Biền là người Việt chính cống, quê gốc ở Bột Hải – Biển Đông, là tướng cai quản vùng đất Lạc Việt – Giao Chỉ thời Đường. Lạc Diêu cũng là vùng đất được khai mở bởi Đế Thuấn từ thời cổ sử. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 10, 2011 Lê Văn Hưu (chữ Hán: 黎文休;1230-1322) là nhà sử học đời nhà Trần, tác giả bộ Đại Việt sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Bộ sách này không còn nhưng nhờ nó mà sử gia Ngô Sĩ Liên đã dựa vào để soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Đóng góp to lớn mà Ngô Sĩ Liên còn để lại cho đời sau chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư mà ông đã biên soạn theo lệnh nhà vua, được bắt đầu biên soạn vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479) đời Lê Thánh Tông[5]. Bộ sử gồm 15 quyển[5], chia thành hai phần: Lĩnh Nam chích quái (chữ Hán: 嶺南摭怪; có nghĩa là "Chọn lựa những chuyện quái dị ở đất Lĩnh Nam". Có sách chép là Lĩnh Nam trích quái[1]), là một tập hợp các truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam được biên soạn vào khoảng cuối đời nhà Trần. Đại Nam quốc sử diễn ca (chữ Nho: 大南國史演歌) là một tác phẩm văn vần bằng chữ Nôm sáng tác vào khoảng triều Tự Đức thời nhà Nguyễn. Việc dựa trên tư liệu lịch sử trước làm nền là chuyện tất nhiên - tại sao bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu lại không còn?. Tôi sẽ phân tích các quan hệ về Cao Biền sau, tuy nhiên "Cao thủ" là dùng tướng Cao Lỗ cùng họ làm câu chuyện huyền thoại. Thành Đại La và thành Cổ Loa khác nhau về vị thế khi phải khẳng định trong chiếu dời đô. Khi viết về Đại La, rõ ràng phải nghiên cứu cả 1 quá trình xây thành trước đấy và câu cú với nội dung nâng cao vị thế Việt trên chính trường. Chú ý tên vùng, miền nước trùng hoàn toàn trùng hầu hết vào bất cứ nơi nào của Tàu. Chúng ta có thể tôn thờ anh hùng, thần thánh ngoài biên giới nước ta. Vua Thuấn chắc chắn không phải là vua nào đó của Văn Lang - điều này là chắc chắn. Dĩ nhiên Ông không thể mở rộng và cai quản. Cao Biền về Bắc nhưng quê ở Việt Nam?, vợ thì ở lại (trái phong tục Tàu) dạy dân dệt lụa, thành Thành Hoàng?, mâu thuẫn. Triều Đường được nhà Lý nghiên cứu rất kỹ càng về tế hưng vong để chấn hưng quốc gia. Triều Đường có thể dựng lên của người Bách Việt chứ không có nghĩa triều Đường nghĩ về gốc Bách Việt và "nhớ về cội nguồn" Việt Nam. Một tài liệu khác cũng xác định Cao Biền là người Bách Việt là thần tích đình Vạn Phúc (Hà Nội). Theo thần tích này thì Cao Biền là “người Quảng Tín, Thương Ngô”, lấy vợ là Ả Lã Đê Nương, người Tuyên Quang. Sau khi dẹp được giặc Nam Chiếu, Cao Biền tự cho mình có công cao, xưng là Quốc vương thiên tử, phong cho Ả Lã Đê Nương là Nga Hoàng cung phi. Một phả nào đấy không thể giải thích các mối quan hệ tổng thể. Lĩnh Nam Chích Quái thời Trần + Đại Việt Sử Ký thời trần +...: dùng sử quan trọng hơn truyền thuyết cụ thể như về Cao Biền. Đại Nam quốc sử diễn ca quá gần đây, dùng tham khảo chứ không nên dùng một cách chắc chắn (toàn bộ sử bị phá hủy....?). Vì dọc dải đất Việt Nam hay Trung Hoa nếu lấy tâm vùng đất thì phần lớn vùng Biển nằm phía Đông. Từ đây cũng phải xem lại "AN NAM CHÍ LƯỢC" có phải của Mr. Lê Tắc hay không hay một vị TÀU nào đấy gây ức chế về mặt tư tưởng, khi thông tin cá nhân Lê Tắc hết sức mù mờ - chúng ta cũng rõ vào thời Lý Trần chắc chắn sách sử được đề cao, đồng thời sách sử thời này "mất sạch". Về Sĩ Nhiếp: văn hóa Việt đã suy tàn thời Sĩ Nhiếp chưa? mà gọi "Nam Giao Học Tổ" nếu rồi thì vấn đề khác. Truyện Lĩnh Nam chích quái cách < nghìn năm? liên kết tới Cao Biền? và các phân tích ở các bài trước. Nếu dùng thuyết âm dương ngũ hành: Cao Biền trấn yểm một quốc gia thì phải giải tỏa tư tưởng dân tộc đó, nếu không khi "lực vũ trụ từ tư tưởng dân tộc bị yểm" chuyển hướng theo quy luật vận động vũ trụ sẽ tương tác ngược trở lại, chết cả họ. Một cao thủ siêu đẳng - tuy nhiên vì Vũ trụ là Cái Một nên bất kể vấn đề gì sẽ không thoát Mắt Trời. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 10, 2011 Về Cao Biền: chúng ta cũng rõ, trong bất kỳ cuốn sử nào cũng nói về các nhân vật xây thành Đại La (tạm chấp nhận) trước Cao Biền như Việt Nam Sử Lược, An Nam Chí Lược,... Về Sĩ Nhiếp: Triết gia Kim Định viết hàng loạt các tác phẩm triết về sử học rất tuyệt vời nhưng... chả dính dáng gì tới "Nam Giao Học Tổ" cả, thậm chí các bậc Thánh nào đấy... cũng chưa chắc đã vinh dự được nhận lĩnh vị trí này. Tìm mãi không thấy trước tác nào của Sĩ Nhiếp cả, do vậy cũng tạm dừng ở đây. Chuyển qua cuốn An Nam Chí Lược của Lê Tắc - nhân vật đã được nhiều người viết rồi, chỉ bàn về nguồn gốc có phải là của Lê Tắc hay không mà thôi?. Tôi nhận thấy nội dung An Nam Chí Lược như sau: - Cuốn sách được các học giả? Trung Hoa khen ngợi quá trời. - Theo nội dung thì bản gốc có 20 quyển, nhưng hiện nay chỉ còn 19 - đã bị cố ý cắt mất, điều này là rõ. - Cấu trúc trình bày các quyển theo nội dung lủng củng, đọc không suôn sẻ - hình như kiểu Tàu. - Nội dung về nhân vật Tàu cai trị nước ta rất nhiều, rỏ ràng hơn cả các cuốn sử Ta - khả năng thông tin này có từ Tàu. - Có nhiều các thư từ giao dịch giữa Ta - Tàu trong các thời - chứng tỏ hoặc có từ triều đình Ta hoặc Tàu. - Thậm chí có cả Thư của Triệu Đà - trong khi đó sử ta đã thành truyền thuyết - rõ ràng phải lấy từ Tàu. - Bài thơ Đồ Chí Ca của Lê Tắc, theo thông tin là thần đồng - thì quá tệ. - Tự Sử của Lê Tắc bị cắt nội dung, không rõ ẩn ý gì. Đoạn cuối bài Tự Sự sai dữ kiện lịch sử về Toa Đô, đã bị chém đầu năm 1285 - Kháng Nguyên Mông lần 2 sao còn sống tới 1293 đề cùng Lê Tắc đi Chiết Giang, Hàng Châu - đoạn này bị cắt. - Thông tin cá nhân Lê Tắc không rõ ràng: ta có thể nhận định, 1285 Lê Tắc khoảng 25 tuổi thì cuối cuốn sách 1340 (thông tin các bài tựa xa nhất...) như vậy Lê Tắc viết xong cuốn sách khoảng 80 tuổi - điều này logic không. Nhận thấy: - Cuốn sách cho thông tin các nhân vật Tàu nhiều. - Các thư từ qua lại giữa 2 triều. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 31 Tháng 10, 2011 Trong tấu thư về triều, Cao Biền có nói các long mạch Việt Nam và cũng nói về một số mạch đã được trấn yểm như xây chùa lên trên vị trí đấy. Tham khảo một số bài viết về chùa. đình, đền có hiện trạng "Độc long nhãn" và "Nhị long nhãn", theo cá nhân thì chỉ có một giếng nước mà thôi, nằm bên phải nhìn từ trong ra. Nếu có hai giếng thì chứng tỏ đã bị trấn một cách đơn giản tức là đào thêm 1 giếng đối xứng. Để lấy lại linh khí cho chùa, đình, đền chỉ cần lấp cát tốt được đầm nén vào giếng bên trái là xong. Mục đích trấn yểm các công trình này là phá thế "Âm phù" của một dân tộc. Độc nhãn long' ở Cổ Loa thành vẫn là ẩn số? Nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành nhưng chưa có lời giải đáp cho hiện tượng cùng một địa hình mà hai hố đất gần nhau ở Khu di tích thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) một có nước một không, nên niềm tin về con mắt của “độc long nhãn” trong truyền thuyết xưa càng được củng cố. Từ lúc được phát hiện tới nay, hai hố vẫn được cho là mắt rồng ở thành Cổ Loa (Đông Anh (Hà Nội), một vẫn đầy ắp nước bất kể mùa hạn hay mùa khô, một luôn khô cạn ngay cả những hôm trời mưa như trút. Cuộc tranh hùng của 9 con rồng “Hai mắt rồng” nằm ở khu vực đền Thượng - nơi tẩm cung của Thục phán An Dương Vương của Khu di tích Cổ Loa. Nhìn từ trên cao, đền Thượng dường như được đặt giữa trán rồng, phía trước có hai hố mắt, miệng là hồ bán nguyệt há ngậm viên ngọc - giếng nước nằm trong lòng hồ này. Truyền thuyết xưa kể rằng, thời An Dương Vương đã có một cuộc tranh hùng dữ dội của 9 con rồng - Cửu long tranh châu (chín con rồng tranh một hòn ngọc). Đây cũng chính là tiền thân của truyền thuyết về "độc nhãn long". Truyện rằng, khi An Dương Vương lệnh cho các thầy địa lý tìm khắp cõi Âu Lạc xem đâu có thế đất thịnh vượng để dựng kinh đô. Sau hàng tháng trời tìm kiếm, các thầy báo về có một nơi được coi là đỉnh của vùng tam giác châu thổ sông Hồng, là vị trí đắc địa bởi từ đây, có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết định rời đô từ Phong Châu (Lâm Thao - Phú Thọ) về, đoàn thuyền của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện - đền Thượng bây giờ. Trong cuộc giao long, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Cũng có lời kể rằng, chính An Dương Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó. Sau đó, vua cho dựng chính điện trên đầu rồng. Kỳ lạ con mắt phải Thành Cổ Loa vốn tọa lạc trên nền địa chất khô và cứng vì thế phải đào sâu xuống khoảng 30-40m mới có nước. Thế nhưng, ở hai hố mắt trước cửa đền Thượng, với độ sâu chừng 2m, hố bên phải luôn đầy ắp nước là hiện tượng rất lạ. Trước đây, Ban quan lý khu di tích thành Cổ Loa cũng vài ba lần tiến hành việc nạo vét lòng hồ bán nguyệt và hố đất bên phải nhưng không thực hiện được bởi khi đào được vài chục phân đất gặp ngay một mạch nước ở giữa giếng ngọc phun lên dữ dội. Lý giải hiện tượng này, nhiều người đã đưa ra giả thuyết, người xưa khi xây dựng đền đã dựa vào địa thế địa hình thực tế. Việc tạo hai hố mắt trong khuôn viên của đền Thượng cũng tương tự. Hai hố mắt đó là có sẵn, chỉ việc khoét tạo hình cho hai hố đó cân xứng. Việc hố bên phải có nước, còn hố bên trái không có cũng rất tự nhiên, không hề có bàn tay can thiệp của con người. Lại có người cho rằng, có thể những thợ xây dựng đền xưa đã áp dụng một công nghệ nào đó để tạo, dẫn và cân bằng mực nước trong hố mắt phải với mực nước bên hồ bán nguyệt phía trước cửa đền… Tuy nhiên, những giả thuyết này vẫn chưa thực sự thuyết phục. Truyền thuyết về “rồng một mắt” càng có căn cứ khi gần đây các chuyên gia Việt Nam và Nhật Bản phối hợp tiến hành khai quật hố mắt bên phải, phát hiện một khối hình cầu màu đỏ giống quả cầu mây. Khối hình cầu này có đáy, tường bao quanh khum vào bên trong, có lỗ thông ra hai bên, phía trong “mắt” phải rồng có một lò nung nhỏ ở chính giữa. Niên đại của “con ngươi” mắt rồng đến nay chưa được xác định. Lạ kỳ hơn là dù đào sâu xuống bên dưới thì đoàn khảo cổ cũng không tìm được bất kỳ mạch nước hay “công nghệ” dẫn nước nào vào bên trong con mắt này. Chính vì những lý do trên mà hiện nay, người dân vẫn tin rằng đây chính là đôi mắt của “độc long nhãn” và hằng ngày vẫn có nhiều người đến đây lấy nước về chữa bệnh và cầu may. Bảo Bình * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 11, 2011 Đền Hùng Ba quả núi Nghĩa Lĩnh, núi Trọc và núi Vặn được gọi là vùng “Tam sơn cấm địa”, trong đó núi Nghĩa Lĩnh có đền Hùng tọa lạc. Ít ai biết rằng, các ngọn núi khu vực đền Hùng đã bị trấn yểm hết sức nặng nền. Các ngọn núi chính như núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo... đã bị đục đường hầm xuyên vào trung tâm lòng mỗi quả núi, đồng thời đục thêm một đường hầm đứng từ tâm quả núi xuyên đứng lên đỉnh các ngọn núi này. Theo dân gian, thì trung Quốc đã thực hiện công việc này, thông qua giúp Việt Nam làm hầm chống Mỹ và chứa vũ khí, lương thực thời chiến. Chắc chắn, trong mỗi đường hầm đều có hệ thống trấn yểm ngay trong lòng núi. Hiện nay, đền thờ Mẫu Âu Cơ và Vua Lạc Long Quân đều nằm trên những ngọn núi bị đang trấn yểm. Đền thờ Mẫu Âu Cơ Đền thờ Tổ mẫu Âu Cơ được xây dựng trong thời gian từ năm 2001 đến năm 2004 trên núi Ốc Sơn (núi Vặn) với độ cao 171m so với mặt biển. Núi Vặn là một trong ba ngọn núi hợp thành “Tam sơn cấm địa”, những nơi lưu giữ những dấu tích của tổ tiên ta. Đền Mẫu Âu Cơ được xây dựng theo kiểu kiến trúc truyền thống với cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái lợp ngói, mũi hài, tường bằng gạch Bát. Đều xây theo kiểu chữ Đinh, quay theo hướng Đông - Nam; bao gồm: đền chính, nhà tả vu, hữu vu, nhà bia, trụ biểu và tam quan. Đền chính có diện tích 137m2 gồm 2 tòa: tiền tế và hậu cung (Tiền đường 5 gian, hậu cung chuôi vồ 3 gian). Hậu cung là nơi đặt khám thờ, được sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh xảo. Bên trong đặt tượng Mẫu Âu Cơ được đúc bằng Đồng, thể hiện được vẻ đẹp truyền thống của người Phụ nữ Việt Nam: thông minh, hiền dịu, phúc hậu, đoan trang; bên dưới tượng Mẫu có tượng cung nữ theo hầu. Trong hậu cung có bức đại tự “Vạn cổ anh linh“ (Muôn thuở anh linh). Hai bên đề hai câu đối, dịch nghĩa là: “Xa chàng nuôi trẻ linh thiêng tự cổ vẫn còn Hạnh phúc do dân công đức lưu truyền bất hủ”. Hàng năm, vào ngày mồng 7 tháng giêng âm lịch là ngày “Tiên giáng”; ngày 25 tháng Chạp là ngày “Tiên Thăng”, nhân dân tổ chức nghi lễ tưởng nhớ Tổ Mẫu Âu Cơ. Về thăm viếng Đền Hùng, thắp nén tâm nhang tri ân công đức các Vua Hùng, mỗi người chúng ta không thể không đến thăm viếng đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và Đền Tổ Mẫu Âu Cơ với tâm thức và đạo hiếu của những người con dân đất Việt; để cha Rồng, mẹ Tiên mãi mãi là huyền thoại thiêng liêng, bất diệt trong tâm thức của mọi thế hệ người dân Việt Nam. Đền thờ Lạc Long Quân (Phú Thọ): Điểm mới nơi thờ tự tổ tiên của dân tộc Ngày 29/3/2009, tại Khu di tích lịch sử đền Hùng, UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ khánh thành đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân. Đền được xây dựng nhằm tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân có công dựng nước và giữ nước. Đền thờ cha Lạc Long Quân nằm trong quần thể di tích lịch sử đền Hùng được khởi công xây dựng ngày 26/3/2007 tại đồi Sim, xã Chu Hóa, Việt Trì, Phú Thọ và khánh thành ngày 29/3/2009 đúng dịp lễ giỗ Tổ Hùng Vương năm Kỷ Sửu 2009. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên viết: “Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, là tổ tiên của Bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp thật khó, bèn từ biệt nhau chia 50 người con theo cha xuống biển, 49 người theo mẹ lên núi, suy tôn người con cả làm vua nối nghiệp là Hùng Vương. Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước làm 15 bộ. Nơi vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quan gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo. Tương truyền đã truyền cho nhau 18 đời đều gọi là “Hùng Vương”... Đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đầu tư xây dựng mới đồng bộ, các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết mô phỏng hoa văn trên trống đồng Đông Sơn. Kiến trúc đền Lạc Long Quân bao gồm: đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, nhà tả vu, hữu vu, lầu hoá vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật được xây dựng trên diện tích 13,9ha, trong đó đền chính hình chữ đinh, rộng 210m2. Nội thất của đền bao gồm: cửa võng, hương án, giá chiêng, bát bửu, hoành phi, câu đối... được chạm khắc tinh xảo, sơn son thiếp vàng. Tượng Đức Tổ Lạc Long Quân bằng đồng nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá chạm khắc hoa văn theo mô-típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là hai pho tượng tướng lĩnh hầu cận (Lạc hầu, Lạc tướng) có chiều cao 1,80m ở tư thế đứng, mỗi pho nặng 0,5 tấn. Đến đền Hùng hôm nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ mẫu Âu Cơ - một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa, thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt. * PHÚC LỘC THỌ MÃN ĐƯỜNG * Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 4, 2012 Theo phân tích của tác giả Bách Việt trùng Cửu về Huyền Thiên Trấn Vũ bổ sung cho dữ liệu Thăng Long thành có từ thời Hùng Vương. Bài thơ của Phạm Sư Mạnh thời Lý cũng nói là Thăng Long là kinh đô Văn Lang (hàm ý). Ta có thể xem lại Chiếu đời đô: "(Nhà vua) tự tay viết Chiếu rằng: "Xưa kia nhà Thương đến đời Bàn Canh ([1] năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ( [2]) ba lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại [3]) liều vì riêng mình, tự ý bậy bạ chuyển đi nơi khác, mà bởi họ mưu tính lớn lao, chọn ở nơi trung tâm, làm kế muôn vạn đời cho con cháu về sau. Trên cung kính mệnh trời, dưới dựa theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi, cho nên phúc nước dài lâu, phong tục giầu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê mới vì riêng mình, quên mệnh trời, bước đạp bừa lên dấu tích Thương, Chu, cứ yên ở mãi ấp ( [4]) nhỏ của mình nơi ấy, để đến nỗi đời chẳng được dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không thích hợp, Trẫm rất thương xót, không thể không di dời khỏi đó. Huống chi địa thế thành Đại La ( [5]), là dấu đô ( [6]) cũ của các bậc Tiền Vương Cao Vương ( [7]) ở khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuộn, hổ ngồi; chính vị Đông, Tây, Nam, Bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi. Ngắm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất, thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất kinh sư của ( [8]) muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định đô ở đó, các khanh nghĩ thế nào?". Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 4, 2012 Có nhiều tình huống lịch sử thật là đơn giàn chứ không quá phức tạp như ta nghĩ. Truyền thuyết vua Lý Ông Uẩn thấy rồng vàng mà đặt tên thành Thăng Long còn mang ý nghĩa lịch sử: dẫu cũ của đô thành của vua Lạc Long Quân - Rồng hiện lên. Dĩ nhiên Thăng Long tứ trấn chính là mốc lịch sử tuyệt vời nhất định vị nơi này lở một thời gian lâu xa hơn nữa. Trước Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan đã thấy Hoàng thành Thăng Long lộng lẫy khi chưa bị phá và cảnh tang thương sau khi bị phá hủy, đã làm bài thơ bất hủ “Thăng Long Hoài Cổ” trong đó có 4 vần thơ tuyệt tác như sau : Lối xưa xe ngựa, hồn thu thảo, Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương. Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, Nước còn cau mặt với tang thương. Share this post Link to post Share on other sites