Thiên Sứ

Nét Việt

153 bài viết trong chủ đề này

Hội “Lấy Đỏ” hiếm gặp ở Hà Nội

Thực chất đây là buổi lễ “giã hội”, tức là kết thúc toàn bộ các lễ hội của làng trong dịp đầu năm mới.

Theo sử sách ghi lại, các lễ hội của làng An Định (Hà Đông, Hà Nội) bắt đầu từ ngày mùng 7 Tết, chính hội từ ngày mùng 8 Tết. Sau khi tất cả các lễ hội diễn ra, vào ngày 11 Tết, chức sắc trong làng sẽ tổ chức “giã hội”. Tất cả người dân trong làng sẽ tập trung tại đình làng để chia lộc làng, “lấy đỏ”. Theo đó, toàn bộ vàng mã, hương, hoa quả... được phúng lên đình trong dịp Tết sẽ được đem đốt và phân phát cho người dân.

Chỉ đợi các nghi thức lễ kết thúc, người lớn, trẻ con, thanh niên, người già lao vào đống lửa. Ai cũng muốn lấy được nhiều nhất sự may mắn về cho gia đình bằng cách châm lửa lộc của đình làng.

Chùm ảnh về hội “lấy đỏ” độc đáo diễn ra đêm 11 tháng Giêng do PV ghi nhận.

Posted Image

Posted Image

Ngay từ đầu giờ tối, tại sân đình làng An Định, Hà Đông, hàng trăm người đã tụ tập chờ các cụ tế lễ và sẵn sàng "lấy đỏ". Bất kể lớn bé, khỏe yếu, tất cả đều sẵn sàng. Thường thì nhiều người sẽ mang hương từ nhà để đến xin lộc Thành Hoàng làng.

Posted Image

Bên trong đình làng, các bô lão đã bày biện toàn bộ vàng mã trước ban thờ Thành Hoàng làng và làm lễ trước khi hóa vàng toàn bộ số lễ này.

Posted Image

Tiếp đó, toàn bộ vàng mã mà người dân trong làng phúng đình từ đầu năm tới nay sẽ được mang ra để hóa vàng.

Posted Image

Ngay cả khi các cụ bô lão chưa hóa vàng, tất cả đã vây xung quanh với hi vọng sớm có được lộc làng.

Posted Image

Và khi đã có lửa thì ai cũng muốn mình là người được hưởng lộc đầu tiên.

Posted Image

Tuy nhiên, khi lửa bốc lớn, nhiệt độ tăng cao, mọi người bắt đầu tản ra.

Posted Image

Lúc này nhiệt độ là rất lớn, nhiều người không chịu nổi nên cứ châm lúc được lúc không.

Posted Image

Những cụ già có kinh nghiệm thì thường chỉ châm lửa ven vòng ngoài.

Posted Image

Đôi khi họ châm xong lại đem chia sẻ với mọi người.

Posted Image

Khi nhiệt độ đã quá lớn thì số lượng người xung quanh cũng vãn hẳn.

Posted ImagePosted Image

Tất cả mọi người dân làng An Định cũng như quanh đó ai cũng cố xin 1 chút đỏ để về cắm lên bàn thờ với hi vọng cả năm có nhiều đỏ.

Theo Thể thao & Văn hóa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bí ẩn trong ngôi chùa không có... hòm công đức

22/02/2012 09:07:04

Posted Image - Tọa lạc trên lưng chừng núi, chùa Tiêu (Bắc Ninh) từ lâu không chỉ nổi tiếng là danh lam cổ tự mà ở đây còn có nhiều bí ẩn thú vị, có giá trị đối với việc nghiên cứu khảo cổ.

Nơi tìm thấy pho tượng táng gần... 300 tuổi

Theo Ni trưởng Thích Đàm Chính trụ trì chùa Tiêu thì cách đây hơn 60 năm, ở ngôi tháp trước tòa Tam Bảo có cốt một nhà sư. Ngày ấy, qua khe gạch nứt vỡ người ta đã nhìn rõ hình hài pho tượng táng (người viên tịch nhưng vẫn còn giữ nguyên hình thể - PV). Sau do chiến tranh và sợ bị động, nhà chùa đã xây bịt cửa tháp.

Posted Image

Pho tượng thiền sư Như Trí hiện được bảo quản trong hòm kính và được đặt ở nhà Tổ.

Cho đến ngày 5/3/2004, được sự đồng ý của chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn, cửa tháp đã được mở ra. Thông qua riềm bức họa gắn tại cửa chính có đắp nổi các chữ Hán (viết theo lối Triện) xác định được nhục thân trong ngôi tháp này là Hòa thượng Như Trí (sống cách đây 300 năm).

Hòa thượng Như Trí là người có công trùng san và in nhiều bộ sách Phật học, trong đó có “Thiền uyển tập anh” - cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam ghi lại các tông phái Thiền học và sự tích các vị thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Đây là tác phẩm không những có giá trị về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian.

“Giống như nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu (Thường Tín, Hà Nội), thiền sư Như Trí cũng tịch trong tư thế ngồi thiền kiết già và được các đệ tử phết bên ngoài bằng một lớp bồi gồm đất tổ mối, sơn ta, mùn cưa” - PGS. TS khoa học Nguyễn Lân Cường cho hay.

Cũng theo PGS. TS Cường thì điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc mà lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân ngài qua nhiều năm không bị gục xuống. Từ các phát hiện này, chứng tỏ phương thức táng tượng của Việt Nam rất độc đáo và đạt trình độ rất cao.

Trước hiện tượng này, Hòa thượng Thích Gia Quang - Phó Tổng Thư ký Hội đồng trị sự GHPGVN nhận định: “Để có thể tượng táng được như thế cần nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất là các Ngài biết được quy luật (nhà Phật gọi là tu chứng), có nhân duyên nhiều công quả và những công phu khác thường. Đồng thời phải hiểu rõ thời điểm nào mình sẽ viên tịch để mà có chế độ ăn thích hợp”.

Theo truyền thuyết, Đức Phật sau khi tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc, ngay cả cho vào nhiệt độ rất cao cũng không thiêu huỷ được. Còn như thiền sư Như Trí là toàn thân xá lợi.

Gần 7 tháng sau khi được rước ra khỏi ngôi tháp cổ, ngày 26/9/2004 nhục thân thiền sư Như Trí đã được tu bổ và khôi phục xong. Tượng Thiền sư trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục "ngồi kiết già" trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản vô cùng kỹ lưỡng của khoa học hiện đại.

Và ngôi chùa chưa bao giờ có... hòm công đức

Đến chùa Tiêu, khách thập phương không chỉ chiêm bái pho tượng thiền sư Như Trí đầy bí ẩn và cực kỳ quý giá ở Việt Nam mà còn không khỏi “ngỡ ngàng” trước ngôi chùa chưa bao giờ có hòm công đức.

Posted Image

Các ban thờ ở chùa Tiêu không có một hòm công đức nào.

Điều đó trái với việc phổ biến hiện nay ở miền Bắc trong nhiều ngôi chùa, hầu như ban thờ nào cũng có hòm công đức lớn, nhỏ nhưng ở chùa Tiêu thì không. Các ban thờ khá “đơn giản” bởi hoa quả, bánh kẹo, đèn nhang...

Riêng “văn hóa giọt dầu” được tôn nghiêm và đúng mực hơn khi trên ban thờ chỉ có mấy đồng tiền lẻ 500 đồng, 1.000 đồng được đặt ngay ngắn trên đĩa nhựa.

Về trụ trì chùa Tiêu được hơn 60 năm, Ni trưởng Thích Đàm Chính cho hay: “Từ lúc Sư cụ về đây trụ trì đã không thấy có hòm công đức nào rồi. Ngay lúc đó, Sư cụ đã phát nguyện trước ban thờ Tam Bảo là không đặt hòm công đức ở bất cứ chỗ nào trong chùa”.

Sư cụ Đàm Chính chia sẻ thêm là “hình thức” công đức ở đây là nhà chùa chỉ nhận tiền công đức khi đang xây dựng cơ sở hạ tầng cho chùa. Còn khi xây dựng xong hoặc không xây dựng gì thì nhà chùa không nhận bất kỳ tiền công đức nào, của ai.

“Việc nhà chùa không có hòm công đức không biết có từ khi nào và không ai lý giải nổi vì sao chùa lại không có hòm công đức? Nhưng khi xây dựng bất cứ cái gì, nhà chùa đều hoàn thiện và xây dựng khang trang. Tất cả là do chư Phật, chư Tổ gia hộ cho nhà chùa” - Một bà vãi ở chùa vui vẻ tâm sự.

Chùa Tiêu (Tiêu Sơn tự) nằm trên lưng chừng núi Tiêu, xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ðây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh - người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn - vị vua đầu tiên của triều Lý. Mặt khác, chùa Tiêu còn được biết đến là chốn tu thiền huyền bí của người xưa và là một trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

Bùi Hiền

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giật mình pho tượng cử động trong ngôi miếu cổ

Chủ nhật 11/03/2012 06:38

GDVN) - Bức tượng trong tư thế ngồi trên ngai, tay cầm văn tự bỗng dưng đứng lên nhẹ nhàng, khoan thai, rồi lại từ từ ngồi xuống.

Bức tượng đứng lên, ngồi xuống

Bảo Hà là ngôi miếu thuộc ba thôn: Bảo Động, Hà Cầu và Mai An của xã Đồng Minh huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng, miếu còn có tên là Tam xã thượng đẳng từ. Du khách thập phương sẽ không khỏi ngạc nhiên khi đến thăm ngôi miếu cổ này bởi một pho tượng kỳ lạ có thể ngồi xuống đứng lên như người thật.

Không giống như các pho tượng tại nhiều đền đài, miếu mạo, bức tượng thờ Đức Linh Lang Đại vương ở miếu Bảo Hà trong tư thế ngồi trên ngai, tay cầm văn tự có thể chuyển động, bỗng dưng đứng lên một cách nhẹ nhàng, khoan thai, rồi lại từ từ ngồi xuống.

Posted Image

Bức tượng Đức Linh Lang Đại vương là một sự sáng tạo độc đáo của những người thợ tạc tượng làng Bảo Hà. Ảnh: Ngọc Khánh

Theo thần phả, Linh Lang là con vua Lý Thánh Tông sinh nhằm ngày 13, tháng Chạp, năm Giáp Thìn (1064), được đặt tên là Hoằng Chân, mẹ là cung phi thứ 9, quê ở Bồng Lai, Đan Phượng, trấn Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội). Linh Lang được sinh ra tại làng ở Trị Chợ, Thủ Lệ (quận Ba Đình ngày nay).

Khi giặc Tống xâm lược nước ta, hoàng tử đã cầm quân chống giặc. Trong một đợt hành quân, ngài đã tới trang Linh Động (làng Bảo Hà ngày nay) dựng đồn binh, luyện tập binh sĩ, tuyển mộ quân. Khi ngài mất, dân làng xây miếu thờ ngay trên nền đồn binh xưa.

Posted Image

Bí mật về sự chuyển động của bức tượng nằm ở cánh cửa ngay điện thờ. Ảnh: Ngọc Khánh

Các triều đại sau như Cảnh Thịnh (1796), Tự Đức, Duy Tân và Khải Định đều phong sắc cho ngài là thượng đẳng thần, còn dân làng tôn ngài là thành hoàng và tạc tượng thờ.

Tượng Linh Lang Đại vương trong hậu cung của Tam xã thượng đẳng từ là một bức tượng độc đáo, hiếm gặp trong số những bức tượng hiện có ở Việt Nam. Cụ Nguyễn Văn Nghĩa – Trưởng Ban quản lý di tích miếu Bảo Hà cho biết “Miếu Bảo Hà có không gian kiến trúc không lớn nhưng ở đây, dân làng còn lưu giữ được nhiều di tích quý tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc qua nhiều thế hệ của người Linh Động, Hà Cầu xưa. Bức tượng gần 700 tuổi này là sự sáng tạo “độc nhất vô nhị” của tổ tiên, là sự kết hợp tài tình giữa nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật múa rối. Những nghệ nhân xưa đã sử dụng cách chuyển động trong múa rối để “thổi hồn” vào bức tượng để trở nên kỳ lạ, huyền bí. Người dân ở vùng này coi đây là một báu vật, biểu tượng của một ngôi làng truyền thống”.

Posted Image

Ngôi miếu cổ Bảo Hà là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa làng nghề chạm khắc truyền thống. Ảnh: Ngọc Khánh

Bí mật về sự chuyển động của bức tượng Đức Linh Lang Đại vương nằm ở cánh cửa ngay điện thờ, khi mở dần cánh cửa thì bức tượng dần đứng lên nhưng khi khép lại thì bức tượng lại trở về tư thế ngồi ban đầu. Sự chuyển động của bức tượng đã khiến cho những người đến đây trầm trồ khen ngợi về sự tài hoa của người thợ làng Bảo Hà và làm cho ngôi miếu này trở nên linh thiêng.

Đàn voi được tạc từ... 7 hạt gạo nếp

Nhắc đến làng Bảo Hà xã Đồng Minh là nhắc đến một địa danh nổi tiếng ở đất Hải Phòng về nghề truyền thống như tạc tượng, múa rối. Múa rối nay đã trở thành bộ môn nghệ thuật độc đáo.

Người có công sáng lập truyền dạy nghề cho dân làng Đồng Minh – Vĩnh Bảo đó chính là cụ Nguyễn Công Huệ. Tương truyền, khi giặc Minh đô hộ nước ta, cụ Nguyễn Công Huệ cùng một số thanh niên trai tráng bị bắt đi phục dịch và bị đưa sang Quan Xưởng ở Trung Quốc làm việc. Trong thời gian đó, cụ đã chú tâm học nghề chạm khắc, sơn mài và châm cứu. Đến đời Lê Nhân Tông (1443- 1459), cụ Huệ trở về và dạy nghề tạc tượng cho dân làng. Mọi người suy tôn cụ là Tổ nghề tạc tượng và được phối thờ tại miếu Bảo Hà. Tượng Nguyễn Công Huệ được bày ở vị trí cao nhất trên bàn thờ tả gian của nhà tiền đường.

Posted Image

Tượng thờ Tổ nghề tạc tượng làng Bảo Hà Nguyễn Công Huệ. Ảnh: Ngọc Khánh

Một trong những học trò nổi tiếng của cụ Nguyễn Công Huệ là người thợ tạc tượng tài ba tên Tô Phú Vượng. Nhân dân trong làng có truyền tụng giai thoại “7 hạt gạo nếp tạc thành đàn voi” để ca ngợi sự tài hoa trong đôi tay người thợ tạc tượng Bảo Hà.

Cụ Vượng rất vui mừng khi được vua Lê Cảnh Hưng vời vào cung tạc ngai vàng. Sau khi tạc xong một kiệt tác, cụ đã ngồi thử ngai vàng. Bị thái giám phát hiện, cụ khép tội “khi quân phạm thượng”, phải ngồi trong ngục chờ ngày xử trảm.

Posted Image

Nghề tạc tượng truyền thống vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Ảnh: Internet.

Cụ Vượng ngồi trong ngục mấy hôm cảm thấy “ngứa nghề” không chịu nổi. Nhìn những cọng rơm nếp còn sót một vài hạt thóc, bằng bàn tay khéo léo và trí tưởng tượng tuyệt vời của mình, một đàn voi 7 con với các tư thế khác nhau đã ra đời từ 7 hạt gạo nếp. Chuyện này truyền đến tai nhà vua, cảm phục tài của cụ, vua Lê đã quyết định tha bổng và phong cụ tước “Kỳ tài hầu” cho về quê mở mang, lưu truyền nghề nghiệp.

Nghề tạc tượng và múa rối là nghề truyền thống biểu hiện sinh động cho tinh thần đoàn kết trong cộng đồng cư dân trồng lúa nước, là điển hình của một làng quê yêu nghệ thuật của huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Rất nhiều những bức tượng đẹp trong các chùa như chùa Mía, chùa Thầy tương truyền là do những người thợ tài ba làng Bảo Hà sáng tạo ra.

Posted Image

Một nghệ nhân múa rối bên cạnh chú Tễu. Ảnh: Ngọc Khánh

Được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991, miếu Bảo Hà được coi là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa làng nghề. Ngôi miếu do chính bàn tay của những người thợ tài hoa thế kỷ XIII chạm trổ hoa văn tinh xảo, đẽo tạc những bức tượng đẹp lưu giữ cho tới muôn đời sau đã trở thành một địa điểm thăm quan thú vị trong tuyến du lịch du khảo đồng quê của Hải Phòng.

http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Giat-minh-pho-tuong-cu-dong-trong-ngoi-mieu-co/125149.gd

Ngọc Khánh

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Chuyện đời dưới tán cây" - Bảo vật ngàn năm tỏa hương

10/03/2012 9:57

Sừng sững và uy nghi ngự trên một khu đất cao (vốn là sườn đồi) bên cạnh đình Viễn Sơn, cây dã hương nhìn từ xa như một cây bonsai khổng lồ nằm trong chậu đất. Bóng mát của cây đại thụ cao gần 30m này che rợp cả khu đất bán kính chừng 15m.

Ông Nguyễn Văn Đề - nhân viên Ban quản lý cụm di tích đình Viễn Sơn, chùa Tiên Phúc và cây dã hương (xóm Giữa, xã Tiên Lục, H.Lạng Giang, Bắc Giang) - bảo: “Ngày trước khi cây chưa bị cháy, toàn bộ phần rễ nổi lên khỏi mặt đất đến 70cm, phần tán có chỗ rộng hơn 30m. Sau mấy lần cành gãy, cây không còn cao và vươn xa như trước”.

Chuyện lạ bên cây dã hương

Từ nhỏ, ông Đề đã được nghe các cụ già kể chuyện vào thế kỷ thứ 18, vua Lê Cảnh Hưng khi vi hành về đây thấy loài cây lạ tỏa mùi hương đã sắc phong cây là Quốc chúa đô mộc dã đại vương. Ông Chu Bá Nam - phó chủ tịch UBND xã Tiên Lục - khẳng định: “Trong cuộc hội thảo về cây dã hương của Trung tâm Nghiên cứu và phát triển đa dạng sinh học tổ chức năm 2011, các nhà khoa học trong và ngoài nước khẳng định cây dã hương này đã tồn tại khoảng 1.000 năm và trên thế giới chỉ có hai cây dã hương quý như thế: một ở châu Phi đã chết và một cây ở VN”.

Posted Image

Tuổi thơ của biết bao em nhỏ nơi Xóm Giữa này đã gắn với cây dã hương đại thụ cùng những trò chơi mộc mạc của miền quê - Ảnh: My Lăng

“Nhiều lần tôi thắc mắc hỏi các cụ già trong làng về cái tên dã hương, các cụ đều lắc đầu. Tôi thì nghĩ dã hương có nghĩa là mùi thơm dân dã. Khi hoa dã hương nở, mùi hoa thơm nồng nàn, thơm tận ra bãi giữ xe cách xa mấy chục mét” - ông Đề lý giải về tên loài cây được coi là báu vật độc nhất vô nhị của Bắc Giang. Ông kể thêm chuyện những cành dã hương to bị gãy được dùng để chắn thành bậc đường làng bị xói lở, mấy chục năm sau khi bóc ra khỏi lớp đất đá và chịu dãi dầu mưa nắng, người ta vẫn ngửi thấy mùi thơm nồng của gỗ dã hương.

Chỉ vào khoanh tròn trên một nhánh dã hương rất to bị cụt, ông Đề kể vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, do thấy gỗ có mùi thơm nồng kỳ lạ, toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã cưa một cành dã hương. Vết cưa ấy giờ vẫn còn rõ mồn một sau bao năm tháng dâu bể, dầm mình với mưa nắng. Vị quan toàn quyền kia đã mang cành dã hương ấy về Pháp làm một số cây thánh giá và tấm phản khuôn tranh. “Một cán bộ ở Viện Di truyền nông nghiệp VN khi về thăm cây dã hương nói với tôi rằng từng đọc thấy chi tiết này trong tài liệu của Trường Viễn Đông Bác Cổ” - ông Đề cho biết.

Một điều lạ là các cành lớn của cây dã hương chưa bao giờ gãy vì dông bão, vì mưa to gió lớn “mà cứ tự nhiên đang yên lành lại gãy” - như xác nhận của phó chủ tịch UBND xã Tiên Lục. Và mỗi lần cây dã hương đại thụ gãy một cành là một lần trùng với những dịp trọng đại của đất nước.

Ông Đề đưa ra hàng loạt dẫn chứng: Năm 1945, cành dã hương lớn phía đông bắc gãy là lúc Cách mạng Tháng Tám thành công và Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước VN dân chủ cộng hòa. Năm 1954, cành phía tây bên dưới gãy là năm miền Bắc hòa bình. Mười năm sau (năm 1964), khi sự kiện vịnh Bắc Bộ xảy ra thì một cành dã hương phía nam cũng gãy. Khi đất nước thống nhất vào năm 1975, cành phía tây bên trên gãy... Đặc biệt, đúng 3g05 chiều 22-10-2005, cành phía nam ở đỉnh ngọn gãy thì 16 ngày sau, ngày 7-11, VN gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Trong quyển sổ ghi chép những sự kiện liên quan đến cây dã hương, người ta ghi sự kiện này là “cành hội nhập”.

Linh hồn của làng

Đối với người dân Tiên Lục, cây dã hương đã trở thành biểu tượng của vùng quê. Người ta ít gọi xóm Giữa, thôn Giữa nữa mà gọi xóm Cây Dã hay thôn Cây Dã tự lúc nào. “Nếu cô gửi thư cho tôi, chỉ cần ghi họ tên tôi rồi viết địa chỉ là xóm Cây Dã cũng đến tận tay chứ không trật đâu được” - ông Đề dí dỏm nói. Ông kể rằng giữa lúc đất nước còn lo đánh giặc, phải chật vật lo cái ăn cái mặc, người dân thôn Giữa và cả xã Tiên Lục vẫn gìn giữ, bảo vệ cây dã hương. Với họ, cây dã hương ngàn năm ấy như cây đa làng - biểu tượng thân thuộc, gần gũi và biết bao yêu thương, gắn bó ở làng quê miền Bắc.

Ông Chu Bá Nam kể năm 1970 đổ về trước, dân chưa nhiều, cây dã hương như một sân chim. Ngày nào cũng 5g chiều, nhiều loài chim lạ rất đẹp về đua nhau hót râm ran, kêu xào xạc cả một vùng. Thời chiến tranh bom đạn, chim vẫn hót líu lo ríu rít trên đầu bộ đội. Cậu bé Nam, Đề ngày ấy và đám bạn mình còn trèo lên ngọn cây dã hương bắt chim sáo về nuôi. Rồi suốt buổi trưa cứ dãi nắng ra đồng bắt cào cào cho chim ăn. Nóng quá lại nhảy xuống ao làng tắm. “Ngày đó trên cây dã hương còn có chim cú mèo. Cứ chập choạng tối là chúng kêu nghe rất lạnh lùng, đáng sợ. Bọn trẻ con chúng tôi nghĩ đến ma, ù té chạy về nhà ngay” - ông Đề tủm tỉm cười khi kể lại.

Thế nhưng buổi trưa, bộ rễ khổng lồ gân guốc của “cụ” dã hương ngàn tuổi như một tấm phản nâng niu những đứa trẻ thôn quê và vỗ về cho giấc ngủ của chúng. Ngủ xong bọn trẻ lại rủ nhau lấy vỏ sò đục xuống phần lõi, lấy lá đậy vào khoảng một phút sau lấy ống rơm hút nhựa. Mỗi lỗ chỉ hút được 2 - 3 lần là hết, lại đục lỗ khác. “Nhựa cây dã hương ngọt thơm như mật hoa. Hồi đó chỉ có mấy đứa trẻ chứ nhiều như bây giờ chắc chết cây” - ông Đề bật cười bảo.

Năm 1977, dân về đây ở đông hơn. Ba năm sau rộ lên phong trào mua súng thể thao bắn chim và mua thuốc chuột Trung Quốc đánh chuột. Người dân không ngờ chuyện chim ra đồng ăn rồi cắp mồi về cho con bị ngộ độc thuốc, chết hết. Từ đó, cây dã hương không còn chim về nữa. Cây trở nên cô độc hơn, trầm lắng đi rất nhiều. Tháng 3-2006, cây dã hương bị sâu cước tấn công đến suýt chết. Sâu ăn hết cả lá. Cành cũng bị sâu cắn nham nhở. Chính quyền xã phải gấp rút cho người phun thuốc, quét được ... 20kg sâu. Năm 2008, tình trạng cây càng già yếu. Chính quyền xã lại cho làm hai cột chống cao gần 20m và dựng vòng xích bảo vệ cây.

Từ khi cây dã hương trở thành sản phẩm du lịch độc đáo của xã Tiên Lục và cả tỉnh Bắc Giang, ông Đề - người được dân Tiên Lục gọi trìu mến là “ông Đề dã hương” - với tình cảm khó diễn tả bằng lời với cây dã hương đã âm thầm nhặt những cành gỗ nhỏ bị gãy mang vào nhà cất. Mỗi khi có khách đến, ông lại cắt một lát nhỏ tặng làm quà để quảng bá cho cây dã hương quê mình. Người đàn ông ấy luôn trăn trở với ý nghĩ: làm sao kéo dài tuổi thọ của cây dã hương quý hiếm để làm du lịch sinh thái cho nhiều người biết hơn về vùng đất này và báu vật của làng.

Ông Đề trăn trở kể lại chuyện bốn năm trước, một người khách ở Vĩnh Phúc đến tham quan xong đã nói với ông: cây dã hương là bảo vật của quốc gia, phải có ban bảo vệ sức khỏe cho cây, phải có bác sĩ theo dõi sức khỏe cây hằng quý. Mỗi khi cây bị bệnh phải có một hội đồng khoa học cứu ngay, không để xảy ra tình trạng mất luôn như nhiều cây cổ thụ quý khác. “Tôi cũng rất muốn làm được như thế cho cây dã hương. Nhưng chỉ riêng cá nhân mình thì khó mà thực hiện được ý tưởng ấy” - ông Đề trầm ngâm nói.

Theo Tuổi Trẻ

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Chuyện đời dưới tán cây" - Cây nhãn tổ Đại Thành

09/03/2012 15:06

Con đường dẫn vào xã Đại Thành (huyện Quốc Oai, Hà Nội) hai bên xanh mướt mắt với ngút ngàn những vườn nhãn trải dài rộng.

Anh Lý Đình Quang - phó chủ tịch xã Đại Thành - cho biết: “Xã tôi trước đây từng là đất hoa quả với sự “thống trị” của ổi, bưởi, sấu và vải. Nhưng 15 năm gần đây, giống nhãn muộn Đại Thành phát triển mạnh và chiếm lĩnh toàn bộ. Hầu như nhà nào cũng có cây nhãn muộn Đại Thành”.

Ấy là khi cuối năm 1998, người dân bắt đầu quan tâm đến giống nhãn muộn của một gia đình ở thôn Đại Tảo. Từ lúc đó gia đình nọ bắt đầu nhân giống cây rầm rộ hơn và phát triển thành thương hiệu “nhãn muộn Đại Thành”. Dần dần người dân ở các xã lân cận và các địa bàn các tỉnh phía Bắc: Hòa Bình, Hưng Yên, Hà Giang, Bắc Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ... cũng tìm đến mua cây giống.

Posted Image

Cây nhãn tổ Đại Thành nay vẫn còn xanh tốt - Ảnh: M.L

Thương hiệu “nhãn muộn”

Anh Quang tự hào bảo: “Khi nhãn thường chỉ 15.000 đồng/kg thì nhãn muộn Đại Thành là 30.000 đồng/kg! Đó là lý do tại sao xã có 115ha trồng nhãn thì 80% là giống nhãn được ghép từ cây nhãn tổ ở thôn Đại Tảo mà bà con hay gọi là nhãn muộn Đại Thành. Cây nhãn tổ ấy đã được tỉnh Hà Tây cũ công nhận là nhãn đầu dòng. Cơm nhãn có màu vàng đặc trưng, cùi dày, nước rất thơm”. Hỏi điều gì tạo nên sự đặc biệt của nhãn muộn Đại Thành, anh Quang nháy mắt bảo: “Cứ đến thôn Đại Tảo gặp anh Đoàn - người có cây nhãn tổ...”.

Tìm nhà anh Đoàn, từ xa đã thấy những tàn lá của cây nhãn rất cao vượt khỏi bờ tường vươn ra tận lề đường. Chiều cao của cây nhãn đã đi qua hai thế hệ và đang sống cùng đời thứ ba, thứ tư của họ Nguyễn Văn ở thôn Đại Tảo này phải đến gần 25m. Anh Đoàn chính là cháu nội của cụ Nguyễn Văn Mỹ (hay gọi là cụ Diếp theo tên con gái đầu của cụ) - người đã trồng cây nhãn tổ. Anh bảo cây nhãn tổ này do ông nội anh trồng và giữ gìn, chăm sóc rất kỹ cho đến năm cụ mất (1984), con cháu không ai dám đụng chạm đến cây. “Quả nhãn tổ méo chứ không tròn. Hạt nhỏ, màu son hồng như hạt vải tu hú chứ không đen láy. Cùi dày, ăn là mùi thơm bốc vào hốc mũi” - anh Đoàn tự hào nói.

Giữa tháng 6, khi nhãn các tỉnh bạn đã chín thì nhãn muộn Đại Thành chưa chín. Khi nhãn khác đã hết mùa (giữa tháng 7) thì nhãn Đại Thành mới bắt đầu vào nước chín và đến giữa tháng 9 mới chín hết. Đặc biệt, độ xuống nước của cây nhãn tổ rất chậm. Chất lượng đường, độ hãm của cây nhãn tổ tốt đến mức khi nhãn xuống nước, người ăn vẫn không biết. Khi nhãn lên nước ba (đỉnh cao về độ ngọt, vị thơm), quả vẫn để trên cây được nửa tháng mà không mất nước, mất vị. “Đặc biệt, nhãn muộn Đại Thành tự treo quả trên cây chứ không phải dùng thuốc để giữ quả” - anh Đoàn nói.

Cây nhãn tổ gia truyền

Cây nhãn tổ ấy đã cùng con cháu dòng họ Nguyễn Văn ở thôn Đại Tảo này đi qua biết bao thăng trầm, khốn khó của cuộc sống. “Những năm đói kém, khó khăn, hoa quả thì ít mà ngày ấy nhiều dơi nhiều chuột, cứ chập tối là ông cụ bảo tôi và thằng em họ leo lên gõ dơi gõ chuột” - anh Đoàn bật cười khi kể lại chuyện xưa khốn khó.

Mùa nhãn chín, cả ngày lẫn đêm cậu bé Đoàn phải ngủ trên tấm phản kê bên dưới gốc cây nhãn tổ canh chừng trẻ con. Có những buổi trưa, đám trẻ con rủ nhau ném đá, nhãn rụng ào ào. Suốt ba tháng hè, mấy anh em của anh Đoàn lại quét lá, kê phản nằm ngủ trưa và cả tối. “Anh em tôi chỉ thích nằm ngủ ngoài gốc nhãn vì rất mát - anh Đoàn bảo - Nhiều đêm đùa giỡn rồi mệt quá thiếp đi, bố mẹ tôi phải ra mắc màn. Thỉnh thoảng có mưa rào, chạy không kịp”.

Đâu những năm 1970, đất nước chưa giải phóng. Khi ấy anh Đoàn mới 13, 14 tuổi, hay theo bố và các chú đi chợ Bắc Qua (sát sau chợ Đồng Xuân) bán hoa quả. Ngày ấy chợ Bắc Qua còn rất ít trái cây và chỉ hay bán ở phía đông chợ. Rồi những năm 1983-1985, bán nhãn bị bắt thuế. Bố và các chú của anh Đoàn phải đóng giả nhãn thành... ổi, đóng rổ nhỏ, nhãn dưới ổi trên. Mới 1-2g đêm cả nhà đã phải dậy đi chợ. Họ gánh bộ ra bến xe Hà Đông mất cả tiếng rưỡi rồi phải đi qua đoạn đường 2km lởm chởm đá. Anh Đoàn kể: “Tôi đi chân đất nên những ngày lạnh thì tê tái và nhức buốt cả lòng bàn chân. Cho nên cứ mỗi lần đi hết đoạn đường ấy là sướng. Nhưng sợ nhất là bị trấn lột vì đoạn đường ấy có những bụi dứa um tùm, các cụ nhà tôi phải đợi đông người mới dám đi. Rồi mấy ông cháu lại nhảy tàu điện ra bờ hồ”.

Ngày ấy tàu điện đường sắt leng keng chỉ năm xu một lần rồi tăng lên ba hào, năm hào. Tang tảng sáng độ 4-5g mới đến Hà Nội rồi lại gánh bộ qua Hàng Bè đến chợ Bắc Qua. Anh Đoàn bảo: “Ngày đó bố và các chú tôi bán ổi là chính vì nhãn muộn chưa nhiều. Cả vụ chỉ thu được 3-4 tạ. Mỗi lần đi một người gánh hơn 30kg và đi vài phiên chợ là hết nhãn. Người Hà thành mua quen cứ hỏi “nhãn cụ Diếp”. Các cụ bán sỉ xong dẫn tôi đi ăn “phở không người lái”, tức phở không thịt chỉ 2-3 hào một bát. Rồi lại đưa tôi đi ăn kem Tràng Tiền 1-2 hào một que. Sau đó nhảy tàu điện về”.

Khi nhãn muộn Đại Thành đã có tiếng, lái buôn tự tìm đến. Thời ông nội anh Đoàn còn sống, nhãn mới gần kết trái người ta đã vào hỏi dạm dân làng: “Nhãn cụ Diếp ra chưa? Năm nay nhiều hay ít?”... Khi trẩy là lái buôn đã hẹn ngày đến mua chứ không phải mang ra chợ nữa. Anh Đoàn bảo: “Cụ tổ nhà tôi giữ cây nhãn này như báu vật. Ông không cho ai chiết cành, kể cả anh em ruột. Ai mua quả rồi về tự làm giống hoặc mua ăn cụ mới bán”.

Năm 1981, người con trai cả của cụ Diếp vào Nam làm kinh tế mới. Lúc này cụ Diếp mới cho chiết khoảng 20 cành để con mang vào Lâm Đồng lập nghiệp. Khi xếp đồ đạc và cây lên xe, người con trai của cụ Diếp đã cho người anh họ một cành bị vỡ vòng. Người anh họ ấy mang về dựng bừa dưới gốc bưởi. Một thời gian sau cây bưởi chết còn cành nhãn chiết thì mọc xanh tốt. 16 năm sau thời điểm hoàng kim của giống nhãn muộn Đại Thành với giá 60.000 đồng/kg, chỉ riêng cây nhãn ấy đã mang về 20 triệu đồng một vụ!

Người em út của anh Đoàn là Nguyễn Văn Thành - hiện là người có kỹ thuật ghép nhãn giỏi nhất xã - đã đăng ký bản quyền, thương hiệu nhãn muộn Đại Thành cách đây bốn năm. Anh Thành hiện là chủ nhiệm Hợp tác xã nhãn lồng chín muộn Đại Thành với ước mơ sẽ phát triển giống nhãn muộn của quê hương thành một thương hiệu nổi danh khắp cả nước.

Bây giờ, cây nhãn tổ không còn ra quả nhiều như trước nhưng sự tồn tại của nó như một hình ảnh thân thương, quen thuộc từ quá khứ và không thể thiếu trong cuộc sống của gia đình bao thế hệ nhà Nguyễn Văn thôn Đại Tảo này. Mỗi năm sau khi thu hoạch hết quả, vợ chồng anh Đoàn lại dành hai tuần để cắt tỉa, chăm sóc để cây dễ “thở” hơn nhằm kéo dài tuổi thọ cho cây. Anh Đoàn chia sẻ dự định: “Tới đây chúng tôi sẽ trẻ hóa cây nhãn tổ bằng cách cắt ngọn để mọc phần ngọn khác khỏe hơn. Chúng tôi chưa dám làm ngay vì cây đã quá già, không làm liều được, phải xử lý dần dần. Năm nay cây lại sai quả, làm ngay sợ cây kiệt sức. Cây đã già cỗi quá rồi, không còn sung sức mà đèo bòng nữa. Chúng tôi đã được nhiều từ cây nhãn này. Đã đến lúc phải cho cây được nghỉ ngơi”.

Theo Tuổi Trẻ

"Chuyện đời dưới tán cây" - Huyền tích 18 cây duối ngàn tuổi

07/03/2012 15:27

Thôn Cam Lâm (Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội) trong buổi chiều nắng trong veo và thanh khiết. Chỉ về phía con đường trải dài ngút ngàn sắc xanh nhuộm nắng vàng, nơi có 18 cây duối được công nhận Cây di sản VN (tháng 4-2011) trước khu đền - lăng vua Ngô, ông Dương Hữu Số - hậu duệ đời thứ hơn 70 của dòng họ Dương (họ của bố vợ vua Ngô Quyền) - bảo: "Duối là giống cây lớn chậm, không nhanh như nhiều loài cây khác. 18 cây duối còn lại mà cô thấy bây giờ thật ra trước đây là cả trăm cây mọc dài hàng kilômet.

Posted Image

Rặng duối ngàn năm còn là nơi hẹn hò của những chàng trai cô gái Đường Lâm - Ảnh: M.L.

Đây là nơi vua Ngô Quyền từng làm chỗ buộc voi chiến, ngựa chiến sau các cuộc tập trận để chuẩn bị tiến về vùng cửa sông Bạch Đằng đánh quân Nam Hán, chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc. Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường VN khẳng định: rặng duối 18 cây ấy đã có hàng ngàn năm tuổi.

Nơi buộc voi chiến

Rặng duối ấy còn là biên giới ngăn cách đất của tướng Ngô Quyền (khi chưa lên ngôi vua) với các họ khác. Từ rặng duối quay vào khu vực trong đền hiện giờ là đất của tướng Ngô Quyền. Quy ước ấy thực hiện từ năm 944 (năm vua Ngô Quyền mất) đến tận bây giờ.

Đất của vua không ai được làm nhà ở, không được để mồ mả. Chỉ có một ít đất được chia cho người nghèo để trồng cây lương thực lấy cái ăn cho con người. Đó là cách thể hiện lòng tôn sùng, sự tưởng nhớ công lao trời biển của vua Ngô Quyền trong lòng người dân tự bao đời nay.

Ông Số nói rằng Đường Lâm xưa kia là vùng đất gò đồi và rừng cây rậm rạp. Sáng ra thấy dấu chân voi, đêm nghe tiếng hổ gầm. Từ rặng duối đến đồi Gầm (đó là nơi hổ từng về gầm gừ suốt ngày đêm), tướng Ngô Quyền đã cho phát quang làm bãi huấn luyện quân lính. Rừng rú hết dần, thú dữ cũng không bén mảng đến nữa.

"Từ bao đời nay người dân chúng tôi tôn kính rặng duối cổ này như tôn kính một vị thần. Không ai dám thất kính, chặt phá. Vì đó là nơi vua Ngô từng buộc voi chiến, ngựa chiến khi chuẩn bị ra trận. Tôn trọng vua, dân làng chúng tôi gìn giữ cả những gì thuộc về ngài, thuộc về lịch sử", ông Số cho hay.

Ông bảo lá duối có tác dụng chữa một số bệnh. Người mới ốm dậy muốn lấy lá duối xông giải cảm, giải tan độc cũng phải xin phép làng chứ không được tự ý cầm dao cầm liềm cắt lá chặt cành, dù là cành nhỏ. Và người xin cũng chỉ dám lấy liềm cắt một nắm lá nhỏ vừa đủ nấu.

Có lần người làng khác đến chặt cả cành về xông, người làng Cam Lâm bắt phạt tiền cảnh cáo. "Người trong làng không ai dám vi phạm - ông Số khẳng định - Chúng tôi được người lớn giáo dục từ nhỏ nên ai cũng rất có ý thức. Tuyệt không ai dám chặt cành lấy làm củi".

Trong tâm thức mỗi người dân Đường Lâm, rặng duối cổ đã trở thành hình ảnh thân thương, gắn bó như máu thịt của họ. Tự bao đời nay, người Đường Lâm vẫn giữ tục lệ cho người chết "chào vĩnh biệt" rặng duối cổ trước khi nằm dưới ba tấc đất.

Khi đưa người quá cố ra nghĩa địa, lúc đi qua rặng duối này, người ta đều dừng lại chừng một tiếng để làm thủ tục cho người mất vĩnh biệt thế giới này đến thế giới khác. Các cụ già sẽ "chèo đò" hát làm lễ tiễn biệt linh hồn tại khu đồng Hồ - từng là dòng sông Hồ chảy ra sông Hồng, sau này khi sông tiến ra xa, quá trình bồi đắp thành đồng. Đó là nghi thức để người quá cố một lần nữa tưởng nhớ công lao của vua Ngô Quyền trước khi về cõi vĩnh hằng. Và đó cũng là cách để người ra đi "nhìn" thấy hình ảnh quê hương thân yêu của mình lần cuối cùng.

Và cũng tại rặng duối cổ ngàn năm tuổi này, những đêm mùa hè trăng sáng, trai gái rủ nhau ra đây hát dân ca quan họ, hò, trò chuyện... đến tận khuya. Như bao người Đường Lâm khác, tuổi thơ và cả quãng thời gian trưởng thành của ông Số thấm đẫm hình ảnh của rặng duối cổ.

"Lúc tôi mới 9, 10 tuổi, ngày đi chăn trâu, tụ tập ở rặng duối, thả trâu ăn cỏ rồi tìm chỗ cây duối mát nhất chơi đánh khăng đánh đáo, bắn bi" - ông Số kể. Người lớn bảo rặng duối thiêng lắm, nhưng ngày ấy trẻ chăn trâu nghịch không biết sợ ma quỷ gì sất. Với chúng, rặng duối cổ lành như bóng mát bình yên mỗi trưa nắng oi ả.

Mối tình thơ

Khi lên cái tuổi biết yêu, những trò chơi trẻ con bên rặng duối ngày ấy đã mang đến cho cậu bé Dương Hữu Số mối tình đầu. Nguyên nhân tương tư của cậu là cô bé cùng làng tên Bích. Bích dong dỏng cao. Da trắng. Tóc đen xanh dài ngang lưng. Bích vui tính, nói nhiều, chơi đánh khăng rất giỏi. Cô bé làm bọn con trai thán phục khi thường xuyên giành giải trong nhiều trò chơi.

"Từ hồi để ý Bích, mỗi buổi chăn trâu tôi đến rặng duối rất sớm. 12g30 đang nắng cũng đi cốt để được chơi nhiều hơn", ông Số mỉm cười kể.

Tình cảm trẻ thơ ấy cứ lớn lên, lặng lẽ sau những trò chơi dưới rặng duối cổ. 19 tuổi, chàng trai đi học trung cấp thủy lợi. Còn cô gái học hành chính - kế toán ở Việt Trì. Những năm 1961-1964, thanh niên làng Đường Lâm nhập ngũ theo lời động viên rất đông.

Trước khi lên đường, các cụ đưa thanh niên lên đền - lăng làm lễ để tiếp thêm chí khí khi ra trận và xin vua Ngô phù hộ cho con cháu được bình an, chiến thắng. Rặng duối cổ là nơi các cụ lại dẫn đám trẻ ra tổ chức liên hoan chia tay từ chiều đến tối mịt.

Giữa tháng 9-1965, chưa học hết khóa nhưng chàng sinh viên Dương Hữu Số cũng lên đường theo tiếng gọi của thế hệ hừng hực hào khí Đông A. Buổi sáng khi gặp nhau ở chỗ tập trung dân làng, Số hẹn Bích buổi tối đó sau khi liên hoan xong sẽ gặp nhau lần cuối ở rặng duối. Đợt Số đi có năm người. Ai cũng hẹn người yêu ở rặng duối cổ. Bích mang tặng người thương khăn mùi xoa thêu chữ S và B lồng vào nhau. Cuộc chia ly không có lời thề thốt, chỉ hẹn ngày về.

Cô gái nghẹn ngào khóc, còn chàng trai thì cố nén tình cảm. Anh chỉ dám nắm tay và quàng tay lên bờ vai run rẩy của người thương đang khóc về một cuộc chia ly khó nói trước tương lai. Họ thủ thỉ tới gần 11g30 đêm mới về. Đó là lần đầu tiên Số mới dám nắm tay người yêu.

Và đó cũng là buổi tối cuối cùng họ được ngồi bên nhau. Rồi người yêu sau đó đã lấy chồng xa để rồi khi trở về từ chiến trường, có người bộ đội biết bao lần ngậm ngùi đứng lặng lẽ hàng giờ dưới rặng duối cổ này...

Người bộ đội ấy bây giờ là "ông từ" trông coi lăng - đền vua Ngô, mang trong mình niềm tự hào về mảnh đất hai vua nơi sinh ra Phùng Hưng và Ngô Quyền, về rặng duối cổ chất chứa cả một trời kỷ niệm...

Mỗi lần khách đến viếng thăm, ông lại nhiệt thành kể về vùng đất địa linh nhân kiệt nơi mình sinh ra, về rặng duối cổ ngàn năm từng buộc voi chiến, ngựa chiến của vua Ngô. Rồi ông kể chuyện ngày nay, những lần làm mương, làm những việc khoán chung gây quỹ như đắp đập, đào giếng chống hạn...thanh niên đều hẹn nhau tập trung ở rặng duối cổ này xuất phát. Rồi các hội thao của làng vào mùa xuân, dân làng mặc thật đẹp, tập trung nơi rặng duối cổ này hẹn hò, trò chuyện và chơi trò chơi dân dã ngày xưa.

Theo Tuổi Trẻ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Làng cổ Phước Tích: “Bảo tàng” đặc sắc của văn hoá làng quê Việt

17/9/2011 10:18

Độc đáo làng cổ Phú Hữu Làng 5 xã, 2 huyện

Trên mảnh đất còn nghèo khó này, vẫn còn lưu giữ nhiều những ngôi nhà rường cổ, tồn tại qua nắng mưa và nghèo khó một cách kỳ diệu.

Nằm giáp ranh giữa hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 40km về phía Bắc, làng cổ Phước Tích nép mình bên bờ sông Ô Lâu rêu phong cổ kính như một bảo tàng sống động của văn hóa làng quê Việt được lưu giữ nguyên vẹn qua hàng trăm năm nay.

Posted Image

Ngôi nhà cổ còn được bảo tồn tại làng Phước Tích

Theo phả hệ của các dòng họ, làng Phước Tích được lập năm 1470, thời Hồng Đức với nghề truyền thống đặc trưng của làng là làm gốm. Từ mấy trăm năm trước, sản phẩm gốm tiến cung của Phước Tích đã nổi tiếng cả nước, đem lại cho người dân Phước Tích cuộc sống sung túc khá giả. Nhờ vậy, các công trình kiến trúc văn hóa, dân sinh của làng từ đình làng, đền, miếu, nhà cửa được xây dựng kiên cố theo lối kiến trúc nhà vườn đặc trưng của vùng đất Thuận Hóa xưa.

Những ngôi nhà cổ

Đến với Phước Tích ngày nay, ta như lạc vào không gian xanh của những khu vườn và những cây cổ thụ nhuốm màu cổ tích. Cây thị đầu làng theo kể lại đã gần 1.000 năm tuổi, chu vi gốc hai người ôm không xuể, hay như cây hoàng lan trên 100 năm tuổi trước ngôi nhà của mẹ Tràng vẫn nở hoa đúng mùa thơm ngát cả vùng quê. Rồi những cây mai, tùng, mít, bồ quân, trần bì, bàng, bẹ… cổ thụ đổ bóng xuống làng đã hàng trăm năm nay vẫn được người dân giữ gìn như tài sản vô giá của cộng đồng dân cư Phước Tích.

Nép mình dưới những bóng cây cổ thụ là một quần thể nhà rường cổ với mật độ dày đặc hơn cả Cố đô Huế. Cả làng có 117 ngôi nhà thì có đến 37 ngôi nhà rường có tuổi trên 100 năm, cùng 12 nhà thờ họ, các đền miếu còn nguyên vẹn. Có 12 ngôi nhà rường thuộc loại đặc biệt quý hiếm, có tuổi thọ từ 150 - 200 năm, cột gỗ đen bóng thời gian, vì kèo, xuyên, trếng, hoành phi, bản khoa, cửa đố… chạm trổ tinh xảo không thua kém các công trình kiến trúc gỗ trong Hoàng cung triều Nguyễn.

Posted Image

Tại Phước Tích, những cây cổ thụ như thế này vẫn được bảo tồn

Tiêu biểu trong số những ngôi nhà cổ như ngôi nhà rường của ông Hồ Đình Lan, xưa từng làm tri huyện. Từ cổng vào là bình phong, bể cạn thiết kế theo lối trấn phong. Hơn 100 năm tuổi mà hàng cửa cột bằng gỗ mít còn bóng loáng. Giữa nhà còn bức hoành phi của vua Duy Tân (1909 - 1916) ghi công vị quan thanh liêm. Nhà ông Hồ Văn Tế liền đó cũng đã có tuổi thọ 150 năm, qua mấy đời người vẫn giữ nguyên vẹn nếp xưa nhà cũ, tường ngói rêu phong. Hay như ngôi nhà của cụ Trương Công Bậc đã 200 tuổi, kiến trúc kiểu ba gian hai trái, mái lợp ngói liệt đã thâm nâu, tường gạch rêu phong. Hàng cửa bản khoa sậm đen. Sân rộng, trước nhà rộng thênh thang lót gạch Bát Tràng…

Hầu hết những ngôi nhà rường ở Phước Tích đều gắn với những khu vườn rộng chừng 1.000 - 1.500m2, xanh um cổ thụ, nhà nhà cách nhau một hàng chè tàu cắt xén thắng tắp, tạo nên một không gian xanh gần gũi mà cổ kính lạ lùng.

Trong những ngôi nhà rường cổ kính ấy, ta như thấy thời gian như lắng đọng trên những vật dụng có từ hàng trăm năm trước. Đó là những chiếc bình vôi mà miệng bình đã dày cao theo tầng nấc thời gian, rồi mâm uống rượu, mâm ăn bằng gỗ, các loại hũ, lọ đựng mắm muối, lu đựng nước do các lò gốm của làng sản xuất cách đây đã vài trăm năm vẫn được giữ gìn và hàng ngày, vẫn đồng hành cùng người dân như là trầm tích của thời gian, nhắc nhớ thời hoàng kim nghề gốm của làng.

Làng khoa bảng

Không chỉ nổi danh với nghề gốm tiến cung từ hàng trăm năm trước, Phước Tích cũng đã nổi tiếng là làng học, con em của làng thế hệ này nối tiếp thế hệ khác học hành tử tế, nhiều người đỗ đạt cao. Chỉ tính trong triều đại nhà Nguyễn(1802 - 1945) ở Kinh đô Huế, làng đã có 19 người đỗ cử nhân, tiến sỹ làm quan trong triều.

Phước Tích cũng là quê độc nhất ở Miền Trung xây Đền thờ Khổng Tử từ mấy trăm năm trước nhằm tôn vinh sự hiếu học, khuyến khích con cháu trong làng chuyên cần theo nghiệp bút nghiên. Chẳng thế mà hầu như ở Phước Tích từ xưa đến nay, hầu như không có ai mù chữ, một điều xưa nay hiếm đối với một làng quê heo hút như Phước Tích.

Posted Image

Nghề gốm đang được phục hồi tại Phước Tích

Nghề rèn, nghề gốm cổ

Ngày nay, nghề gốm của làng chỉ còn là di sản của quá khứ, đời sống kinh tế không còn thời hoàng kim xưa, nhưng nền tảng hiếu học của làng lại được chắp cánh bay xa. Điều này giải thích vì sao, hiện tại ở làng phần đông là người già, con trẻ nhưng ai cũng tường tận lịch sử của làng như bài học đầu tiên trong đời. Chính điều này đã làm ngỡ ngàng các nhà nghiên cứu và du khách khi tận mắt chứng kiến lối ứng xử hết sức văn hóa của người dân Phước Tích đối với di sản của ông cha.

Dấu tích các lò gốm xưa vẫn được giữ gìn, dân làng còn dành riêng một cồn đất gọi là cồn Trèng để cất giữ những mảnh gốm cũ như một Bảo tàng truyền thống của làng.

Địa chỉ du lịch hấp dẫn

Có thể nói, Phước Tích còn giữ gìn gần như nguyên vẹn vẻ đẹp nguyên sơ của đời sống sinh hoạt gắn liền phong cảnh hữu tình thôn quê, không gian kiến trúc cổ nhà rường, đền, chùa, miếu cổ, nghề gốm truyền thống… xứng đáng là một làng văn hóa di sản đặc sắc của Miền Trung và cả nước.

Giáo sư - Kiến trúc sư Hoành Đạo Kính, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam đã phải thốt lên khi về Phước Tích “…Tôi thật sự sửng sốt khi bắt gặp một ngôi làng Việt cổ ở vùng đất không phải là cổ xưa của người Việt. Trên mảnh đất này, có quá nhiều những ngôi nhà rường cổ vẫn tồn tại qua nắng mưa và nghèo khó một cách kỳ diệu. Sự phát hiện này được ví như việc tìm ra một Hội An “bị quên lãng” vào những năm 80 thế kỷ XX…”

Quả thật, từ khi được đánh thức “vén bức màn quên lãng” trong lớp bụi thời gian(từ năm 2003) đến nay, Phước Tích đã trở thành một điểm tham quan du lịch hấp dẫn của đông đảo du khách trong và ngoài nước. Đã góp mặt trong các kỳ Festival Huế với thương hiệu “Hương xưa làng cổ”. Từ đó đến nay rất nhiều dự án nghiên cứu bảo tồn làng cổ Phước Tích đã được thực hiện. Đặc biệt trong hai ngày 17 - 18/8/2011 vừa qua, Dự án “Phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển bền vững thông qua du lịch di sản” do cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hỗ trợ đã được thực hiện tại Phước Tích, với nhiều hoạt động văn hóa, du lịch, tọa đàm… nhằm tìm giải pháp phát triển du lịch, cải thiện đời sống người dân, góp phần bảo tồn và phát triển bền vững làng cổ.

Với những nỗ lực bảo tồn gìn giữ của người dân Phước Tích, cũng như các cấp ngành chức năng ở TT - Huế và bạn bè quốc tế, làng cổ Phước Tích đang trở thành một địa chỉ văn hóa du lịch hấp dẫn, một bảo tàng sống động của lịch sử văn hóa làng quê đặc sắc của Việt Nam./.

Theo: VOV

---------------------------------------------------

Các bác trong diễn đàn mến, các thành viên TTLHĐP,

Bác nào có dịp đến Huế và muốn thăm làng cổ Phước Tích, em sẽ làm người dẫn đường miễn phí.

Các bác có thể liên lạc với em qua email : cuchantrau@gmail.com

Thân ái,

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bí ẩn về kho báu của dòng họ Mạc VN

Cập nhật lúc :10:41 AM, 16/03/2012

Câu phán xanh rờn của pháp sư như sét đánh ngang đầu Đô đốc khiến ngài bần thần, chóng váng ngây người ra rất lâu. Là một danh tướng trận mạc, quản lý bao dân cơm no áo ấm, thái bình một cõi bấy lâu, nhưng cơ trời đã định làm sao ngài có thể ngờ được...

>> Gia tộc họ Mạc VN có một cô con gái... là yêu quái? (kỳ 1)

Từng bất an về vị thế xây lăng cho cha Mạc Cửu và lo xa cho hậu thế họ Mạc sau này nên Đô đốc mới cho vời 4 vị thầy địa lý, pháp sư từ quê hương Quảng Đông lặn lội ngàn dặm đến đây. Đô đốc vẫn biết chuyện cơ trời : tin là có, không tin là không có. Nhưng nếu trời đã định, đã chừa một lối thoát thì sao sao không chọn lấy điều an lành nhất?

Khi tiễn các thầy phong thủy, pháp sư ra về, còn lại một mình trong thư phòng, Đô đốc Mạc Thiên Tích dằng vặt suy tư: Thật khó mà mở lời nói cho phu nhân biết điều này, vì đứa con gái là ước nguyện bấy lâu của hai vợ chồng.

Nhưng mà không làm theo lời pháp sư thì cơ nghiệp nhà Mạc ngày mai sẽ ra sao? Xưa nay có ai cãi lại ý trời. Lòng đang còn ngổn ngang bao tâm sự rối bời như cuộn tơ vò, muốn gỡ trong một lúc là không thể. Đô đốc giật mình, hình như đã mấy ngày rồi bận bịu việc chung việc riêng không thấy mặt con gái cũng thấy nhớ nhớ.

Cô tiểu thư trông rất kháu khỉnh, xinh xắn làm sao. Ông thả những bước dài trên hành lang đến phòng của phu nhân.

Khi vừa bước đến cửa buồng, đã nghe tiếng trẻ con đang cười the thẻ với phu nhân rất vui vẻ, lòng người cha dậy nên một cảm giác hạnh phúc trào dâng. Phu nhân vui mừng quay qua nói với Tiểu thư Mạc Mi Cô rằng: “cha đến thăm con kìa!”.

Bỗng Tiểu thư Mạc Mi Cô quay mặt khóc thét lên, gương mặt lúc nãy còn hồng hào, bụ bẫm giờ bỗng trở nên trắng bệt, tái mét như một đứa trẻ ốm nặng, liền mở lời nói rành mạch như một người lớn: “Ổng có thương yêu gì tôi đâu mà thăm viếng. Ổng rước bọn họ đến giết tôi mà”.

Đô Đốc và phu nhân nghe con nói như vậy, giật mình kinh hãi tột cùng. Có thể nào một đứa trẻ sơ sinh lại nói bằng giọng của người lớn tuổi?. Vừa kịp trấn an tinh thần, Đô đốc tiếp lời luôn:

“Không….Không…cha không có…họ đến chỉ là…”. Đô đốc chối vội mà quên phắt việc tiểu thư chỉ là một đứa trẻ sơ sinh. Phu nhân sững sờ như một người vừa rơi vào cõi mộng, chưa tỉnh giấc chiêm bao. Trong lúc Đô đốc như một người phạm tội bị bắt quả tang, bị vạch trần mà không thể nào ngờ được.

Nhận diện ra cơ trời bởi đứa bé sơ sinh trong buồng đã biết hết mọi việc bàn kín bên ngoài, càng làm cho Đô đốc nghĩ mãi về lời báo ứng mà mấy vị thầy vừa phán báo.

Thầy địa lý cho rằng không nên tạo nghiệp trong nhà sẽ bình an, thịnh vượng còn vị pháp sư nọ khuyên nên trừ yêu để bảo vệ gia tộc họ Mạc.

Biết nmghe ai bây giờ ? Ngẫm lại những chuyện dị thường của tiểu thư Mạc Mi Cô, Đô đốc thấy sóng lưng rờn rợn…đứa bé mới mấy ngày tuổi mà tóc đã đen dài, biết nói chuyện thiên cơ, mắt nhìn như một người đã trường thành, răng mọc đều đủ nhưng một người đầu thai…

Giữa đêm khuya, ngoài trời tối đen như mực, không sao nhìn rõ được cảnh vật. Nhưng trong tiền sảnh dinh Trấn vẫn sáng rực bởi những ngọn đèn lồng treo lủng lẳng trước hàng hiên bị gió đưa đẩy lung lay chậm chờn huyền ảo. Chim rừng đầu núi thỉnh thoảng buông từng tiếng gọi nhau rời rạc nghe buồn dễ sợ.

Giữa lúc này có hai bóng kẻ ôm gì trong tay, kẻ vác một hộp vuông dài len theo bóng hàng cột tiến sâu vào cửa buồng.

Hai người đang đứng chỉ trỏ bàn cách vào phòng. Bỗng nghe từ trong phòng có tiếng trong trẻo phát ra: “Họ Mạc ta đã hết thời rồi. Các người cứ làm phận sự”.

Nghe thế, hai bên hành thích sợ quá hoảng hồn bỏ chạy bán mạng trong đêm. Phu nhân nghe tiếng động vội đến thăm Tiểu thư, thấy Tiểu thư Mạc Mi Cô nằm bất động không giống như thường nhựt khi gặp bà Tiểu thư cười.

Phu nhân kêu la khóc lóc làm vang động dinh phủ. Đèn đuốc được thấp sáng lên, bóng người tới lui xôn xao trong dinh Trấn. Một lúc sau tiếng đại cổ (trống) trên đầu thành cũng thúc giục liên hồi.

Tiếng chuông trống vang rền làm cho nhân dân trong Trấn giật mình. Tiếng chuông trống lần này khác hơn lần trước mới cách đây mấy bữa. Sau đó họ cũng hiểu ra là Tiểu thư họ Mạc đã qua đời...

Đám Tang Tiểu thư Mạc Mi Cô tuy là trẻ sơ sinh nhưng được tổ chức long trọng như hàng vương tôn công nữ. Ngôi mộ của Tiểu thư nằm ở phía Tây núi Bình San dưới chân mộ ông nội (Mạc Cửu).

Kiến trúc cũng hoành tráng không thua gì mộ của các bậc vương phi. Sau đó, Phu nhân cấm tất cả người trong nội phủ không được nói gì về Tiểu thư. Chỉ nói Tiểu thư chết vì bạo bệnh mà thôi. Nếu ai trái lịnh sẽ bị nghiêm trị.

Riêng bà thì thay đổi tánh tình, rất nghiêm khắc với kẻ hầu trong dinh. Ngay khi mọi việc vừa xong, thì Mạc Đô đốc cũng vừa đi duyệt binh về, và ông chỉ kịp truyền khắc trên mộ chí mấy chữ giản dị: Tiểu thư Mạc Mi cô chi mộ. (thường gọi là mộ Cô Năm)

Theo nữ sĩ Mộng Tuyết, tiểu thư Mạc Mi cô “bất ngờ phát ra tiếng nói”, để đọc một bài Sấm có nội dung như sau :

Bờ tre xanh xanh

Hái lá nấu canh

Canh ăn hết canh

Vị cay thanh thanh

Trời tây bóng ngả chênh chênh

Soi vào hang đá long lanh ngọc vàng.

Vàng trong lòng đá

Vàng chói sáng lòa

Vọng lên lầu các nguy nga

Ao sen nở trắng trước tòa khói hương.

Thực hư về lời sấm về kho báu họ Mạc

Sau khi giới thiệu bài sấm trên trong sách Văn học Hà Tiên, Thi sĩ Đông Hồ viết: “Đọc xong bài sấm ai mà không nghĩ đây là một bài thần chú chỉ dẫn để tìm đến một kho tàng bí mật nào đó của họ Mạc :

“Soi vào hang đá long lanh ngọc vàng.

Vàng trong lòng đá

Vàng chói sáng lòa...”

Nếu đem các đầu mối đứt khúc của câu chuyện chắp nối lại, chúng ta đoán như thế này: Bà phu nhân họ Nguyễn (chánh thất của Mạc Thiên Tứ) có giấu một kho tàng ở đâu đó. Người thợ đá lãnh việc chạm bài chỉ dẫn này trên đá phải tuyệt đối giữ bí mật công việc của mình. Nhưng người thợ đá bỗng chết vì bạo bệnh.

Cho nên những dòng chữ ghi trên mảnh giấy kia, phút chốc biến thành bài sấm thiêng liêng do chính miệng tiểu thư Mạc Mi Cô đọc lên, để đánh lạc hướng sự theo dõi của những người muốn tìm dấu kho vàng.

Nhưng kiểm chứng lịch sử chúng ta thấy có một số sự kiện trùng hợp như lời đồn truyền trong dân gian về bản đồ kho báu qua lời sấm tương truyền do chính miệng tiểu thư kỳ dị Mạc Mi Cô đọc lên.

Kể từ sau ngày tiểu thư qua đời, về sau Trấn Hà Tiên có nhiều biến động, chiến tranh do bọn giặc Xiêm (Thái Lan) và Chân Lạp (Campuchia) tấn công, xâm lấn.

Đến khoảng năm 1780, Đô Đốc Mạc Thiên Tích nuốt vàng tự vận chết ở Xiêm, ba con là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Dung và Mạc Tử Thương cũng bị giặc hành hình.

Đến đời cháu thứ 7 họ Mạc là Mạc Tử Khâm không có con trai nối dõi, xem như tuyệt tự, tuyệt tôn, không thực hiện tròn câu “Thất diệp phiên hàn” (Thiên -Tử - Công -Hầu- Bá -Tử - Nam).

Nhiều người trong dân gian luôn tin rằng, vị thế của họ Mạc ngày xưa ở Hà Tiên như một lãnh Chúa, một tiểu vương quốc, cai trị vùng này gần một thế kỷ, trong đó thời hưng thịnh nhất được lịch sử ghi nhận ngót 80 năm (1708 – 1780). Do những điều suy tưởng, đồn đoán thêu dệt vô căn cứ đó, mà phần mộ của Hiếu Túc phu nhân mới bị đào bới với hy vọng tham lam tìm kho báu chỉ vì một bài “Sấm” truyền đời rất nhiều phi lý về sự ra đời.

Vào một hôm, người ta phát hiện trên đường vào mộ họ Mạc, có một xác người nằm ở vệ đường, mình mẩy đầy máu tươi. Họ liền bổng vào nhà tắm rửa lau chùi sạch sẽ.

Xem đúng là người thợ làm mồ của dòng họ Mạc. trong mình ông có một mảnh giấy ghi những câu thơ bâng quơ vô nghĩa ý tứ không được liên tục giống như những lời huyền cơ của các vị Tiên Thánh.

Sau cùng họ lại quyết là những lời giải mã chỉ dẫn đường vào kho báu. Con cháu họ Mạc cũng có rước các nhà địa lý cao thâm đến lý giải nhưng không ai giải được.

Mảnh giấy trong túi áo người thợ xây hầm mộ chết đột tử với sấm truyền do Tiểu thư Mạc Mi Cô đọc đã trở thành một huyền thoại nhân gian về kho báu họ Mạc.

Tiết Thanh minh năm Tân Hợi (1911), lấy cớ là để mở mang thị trấn Hà Tiên, viên chủ tỉnh người Pháp đã cho đoàn tù khổ sai phá đất đá ở núi Bình San và lẽ dĩ nhiên là hơn 40 ngôi mộ của dòng họ Mạc cũng thuộc diện bị khai quật.

Posted Image

Khu mộ Hiếu Túc phu nhân bị thực dân Pháp khai quật.

Những người hiểu chuyện biết rõ rằng đằng sau việc di dời này là âm mưu truy tìm kho báu mà rất có thể dòng họ đứng đầu “tiểu vương quốc” Hà Tiên đã cất giấu trong các hầm mộ, theo lời một bài thơ được xem như tấm bản đồ chỉ dẫn lối vào kho báu, vốn chỉ lưu truyền trong dòng họ Mạc.

Tên này bày vẽ ra chuyện cần có đất đá để chỉnh trang đường sá trong nội tỉnh Hà Tiên. Tất nhiên nơi tên này chọn lấy đá xây dựng làm cầu đường đầu tiên là ngôi mộ của bà Hiếu Túc phu nhân Nguyễn Thị Thủ, chánh thất của Đô Đốc Mạc Thiên Tích chứ không thể là nơi nào khác được.

Đó là ngôi mộ rất lớn, có tấm bia đề “Hoàng Việt hiếu túc thái phu nhân Mạc phủ Nguyễn tỷ chi oanh - Nhâm thân trọng xuân cốc đán”. Đoàn tù khổ sai đục đến chiều tối ngày thứ 10 mới phá được chỗ bệ thờ trước mộ bia. Lễ bốc mộ có sự chứng kiến của chính quyền và con cháu họ Mạc.

Ông Mạc Tử Khâm, cháu 7 đời của Mạc Cửu, cầm nến soi vào áo quan nhặt từng mảnh xương xếp vào quách đưa về đền thờ họ Mạc chờ làm lễ cải táng. Nhiều lời đồn đại xung quanh cuộc khai quật này. Nghe nói ông Mạc Tử Khâm được chủ tỉnh Hà Tiên chia cho một cái trâm vàng có gắn ngọc quý.

Về sau ông Khâm túng quẫn đem bán chiếc nhẫn này cho một người Pháp tên là Chapuis đang cai quản ngọn hải đăng ở núi Pháo Đài. Từ đó gia đình Chapuis gặp nhiều điều không may...

Sự thật về kho báu dòng họ Mạc không biết thế nào, nhưng sau khi khai quật mộ của Mạc phu nhân thì hơn 40 ngôi mộ họ Mạc còn lại được giữ nguyên, không bị di dời nữa.

Cốt của bà lấy được món nào thì xướng món nấy, rửa sạch rồi đặt vào quách. Món lấy cuối cùng là răng của bà. Xong rồi đóng nắp quách lại chuyển về miếu Tam Công.

Đồ vật mang theo cho bà không gì quí cả. Chỉ có cây trâm vàng cẩn ngọc thạch, hàng nhiễu tẩn liệm và bình nước, ấm trà bằng sứ mà thôi.

Chiếc trâm này tên Chủ tỉnh giao cho Mạc Tử Khâm giữ. Nghe đâu sau này Mạc Tử Khâm túng bấn đã mang đi bán chiếc trâm này cho một người Pháp tên Chapuis, Trưởng đài quan sát hải đăng Pháo Đài. Hài cốt của bà Hiếu túc phu nhân được cải táng trong Tam lăng ở núi Bình San.

Trở lại vấn đề bài Sấm, sau này nhà thơ Đông Hồ (Lâm Tấn Phác) đọc kỹ và nghiệm thấy mấy việc như: “Gạt bỏ hết những điều chôn ngọc dấu vàng, gạt bỏ hết những chuyện về nàng Tiểu thư huyền bí. Bài thơ đó quả là một bài tiên đoán sự nghiệp của họ Mạc. mỗi câu, mỗi chữ đúng như y, phân minh từng chi tiết. Thật là lạ lùng”.

Theo cách lý giải của nhà thơ Đông Hồ - Mộng Tuyết về bài sấm truyền trên thì vận số họ Mạc tuy chỉ huy hoàng trong 72 năm, không là vương là bá, nhưng thực tế không thua gì một vương quốc độc lập. Câu:

“Bờ tre xanh xanh

Hái lá nấu canh

Canh ăn hết canh

Vị cay thanh thanh”.

Vận vào thức tế, thấy ứng vào điềm bờ tre bọc quanh núi Bình San bị phá hủy. Chữ “hết canh” tức là ám chỉ đến hết năm Canh Tuất (1910). Vị cay tức là tân, nghĩa là tiết Thanh minh năm Tân Hợi (1911) khu lăng mộ họ Mạc sẽ bị phá hủy. Hay như câu:

“Trời Tây ngả bóng chênh chênh

Soi vào hang đá long lanh ngọc vàng”

Là điềm ứng với việc mở được cửa mộ thì trời đã về chiều, phải soi đuốc mới tìm được chiếc trâm vàng cẩn ngọc. Trời Tây cũng ứng vào việc người Tây khai quật mộ chứ không phải người Việt.

Một câu hỏi đặt ra: Nguyên gốc bài sấm kia từ đâu ? Liệu có phải đã được mọi người biết từ bản dịch, viết của vợ chồng nữ sĩ Mộng Tuyết- Đông Hồ? Trong kho sách nhà lưu niệm Đông Hồ, nơi ở cuối đời của nữ sĩ Mộng Tuyết, bà Lâm Thị Hoa (cháu nhà thơ Đông Hồ) trông giữ.

Bà Hoa đã cho chúng tôi biết “tác phẩm này do bà Mộng Tuyết viết tại Sài Gòn (cũ) vào khoảng 1959-1960, chứ không phải viết ở Hà Tiên, do NXB Bốn Phương, Viện văn nghệ- Hiên sáng tác ấn hành năm 1960.

Ngay từ lúc tác phẩm ra đời, đã gây ra sự hiểu nhầm tai hại nhiều lần vợ chồng Mộng Tuyết- Đông Hồ phải đính chính, thật khó tin khi Mạc Cửu vào khai mở đất Hà Tiên từ năm 1700, thì lời sấm vang đến tai viên quan Pháp khai quật mộ Hiếu Túc phu nhân vào tháng 3 năm 1911, cả sấm truyền lẫn bản đồ kho báu cả hai đều không đáng tin cậy. Vậy mà, đã có không ít người luôn ôm mộng đào bới tìm kho báu từ những lời truyền vu vơ.

Kho báu họ Mạc vẫn là một bí ẩn

Họ Mạc là một dòng họ có công giữ bờ cõi, khai khẩn đất phương Nam, có những đóng góp to lớn trong lịch sử buổi đầu mở cõi.

Đánh giá về dòng họ Mạc, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu từng cho biết: “Cũng từ thời Mạc Thiên Tích, đất nước bao phen nổi phong ba, thù trong và giặc ngoài liên tục đe dọa vận mệnh của dân tộc.

Hành trạng và phép ứng xử của phần lớn các thành viên họ Mạc ở Hà Tiên có không ít những điều khiến cho hậu thế chẳng dễ gì tán thành. Nhưng họ Mạc là họ Mạc, giữa thế thái riêng ấy họ có lập trường riêng và có cách nhìn thời cuộc cũng rất riêng...”.

Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần thì có suy nghĩ: “Dấu tích của Phương Thành xưa còn đó, những vần thơ của các bậc tao nhân mặc khách trong Chiêu Anh Các còn ngân vang đâu đó, mười cảnh đẹp của Hà Tiên cũng đang còn đó...

Posted Image

Mộ Hiếu Túc phu nhân.

Việc họ Mạc theo phò chúa Nguyễn là điều có thật, nhưng những gì họ Mạc đã cống hiến cho Hà Tiên, cho giang sơn một thuở cũng là điều có thật. Không ai có thể xóa bỏ quá khứ mà họ Mạc chính là một phần của quá khứ đó”.

Kể về Miếu thờ Tam Công (thờ Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và Mạc Tử Sanh) là ba vị có công đầu mở mang và xây dựng Trấn Hà Tiên. Ngoài bàn thờ còn có nhiều linh vị các vị thê thiếp, con cháu cùng với những tùy tướng thân thuộc họ Mạc. Cửa cổng kiến trúc hình thức Tam Quan (một chánh hai phụ).

Nhưng cửa phụ bên phải bị bịt kín từ lâu được kể lại từ chuyện về viên quan người Pháp xúc phạm đến oai linh của lăng mộ đã bị sét đánh chết nên từ đó cửa phụ bên trái được xây bịt kín. Bàn thờ của Mạc Mi Cô nằm ở phía tay mặt (từ trong nhìn ra). Tương truyền ngày xưa khách tham quan đến viếng Miếu.

Người nào có tánh tình hiểm sâu độc ác, tham gian, dối trá đi ngang qua bàn thờ cô điều bị cô bắt cho hộc máu mà chết. Nên từ đó, du khách không dám đến Miếu cúng bái nữa. Thấy vậy, ban tế lễ xin cô khóa cổng phụ bên đó lại, vì thế khách tham quan mới dám vào Miếu. Hiện nay hình thức này vẫn còn.

Lời đồn đãi và truyền tụng trong nhân gian về kho báu dòng họ Mạc ở Hà Tiên không phải là không có cơ sở, xét ở một góc độ nào đó.

Trong thời gian khai phá phương Nam ngót 80 năm, họ Mạc đã xây dựng Hà Tiên thành thủ phủ súng túc và trù phú.

Tuy vẫn chịu thần phục dưới quyền của triều đình nhà Nguyễn, nhưng dòng họ Mạc vẫn có những quyền tự trị, tự chủ nhất định, trong điều kiện biên ải, xa kinh kỳ vạn dặm. Họ Mạc có quân đội, tài chính, ngoại giao riêng.

Giai đoạn cực thịnh của “vương quốc họ Mạc” khi Mạc Thiên Tích làm Tổng binh trấn, đặc biệt là các hoạt động giao thương buôn bán rất phát triển trên các thương cảng.

Theo các tư liệu lịch sử, họ Mạc ở Hà Tiên có quân đội riêng, được phép in tiền riêng, chủ trương mở rộng giao thương với cả một số nước Bắc Á và những nước Đông Nam Á, họ Mạc có đội tàu buôn hùng hậu và tàu buôn các nước dập dìu cập cảng Hà Tiên.

Do đó, khối tài sản họ Mạc rất lớn là chuyện bình thường, nên suy đoán trong dân gian họ sẽ chôn cất đâu đó theo tục lệ của người dân Quảng Đông-Trung Quốc.

Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ và hậu duệ họ Mạc hoàn toàn có thể tiên đoán chiến tranh xảy ra, sự thay đổi của thời thế nên có thể đã sắp đặt cho đời sau việc này.

Lời sấm kia, nếu bỏ qua yếu tố huyền thoại, kỳ bí của tiểu thư Mạc Mi Cô có thể hiểu ở một góc độ khác. Hiện nay, quanh chân núi Bình San ở thị xã Hà Tiên vẫn còn tồn tại một hệ thống lăng mộ tương đối lớn và chắc chắn có nhiều bí ẩn trong đó chưa có lời giải.

Theo những tư liệu của họ Mạc ghi lại từ lời kể của cụ Thiềm Văn Tường, con rể ông Mạc Tử Khâm (mất tháng 7 năm 1988) rằng: Đầu thế kỷ XX, Việt Nam dưới quyền cai trị của chế độ thực dân Pháp.

Đứng đầu tỉnh Hà Tiên là viên Chánh Tham Biện Roux Serret, sau khi nghiên cứu kỹ về dòng họ Mạc cho rằng có kho báu cất giấu trong khu lăng mộ dòng họ này.

Từ đó hắn lấy cớ đắp đường, xây lộ trong tỉnh lỵ Hà Tiên, rồi đào ao lấy đất và phá núi (núi Bình San ngày nay) lấy đá làm đường. Từ đó có nguyên cớ lật những ngôi mộ trong lăng họ Mạc tìm kho báu.

Những ngày đào đất đá ở núi Bình San, khi đào đến lăng mộ bà Hiếu Túc Thái Phu Nhân (vợ cả Mạc Thiên Tích), viên tỉnh trưởng huy động nhiều đoàn tù khổ sai làm cật lực, 10 ngày sau thì phá được nắp quan tài ra.

Nhưng không như hắn nghĩ, số “kho báu” mà tên tham quan này có được cũng chỉ là một vài cái trâm, vòng trang sức đeo tai, cổ của nhà Phật... ít giá trị. Thế là hắn tức tốc đem trả lại cho con cháu họ Mạc, ra lệnh di chuyển mộ bà Hiếu Túc Thái Phu Nhân về khuôn viên khu mộ dòng Mạc (nay nhìn từ trên xuống cách mộ Mạc Cửu khoảng 20 m, nằm bên phải).

Nhà nghiên cứu Hà Tiên, ông Trương Minh Đạt, Phó ban quản lý di tích lịch sử núi Bình San cười xòa nói, “tất cả chỉ là sự hiểu nhầm của lịch sử mà thôi”.

Theo ông, đoạn thơ sấm truyền là một tác phẩm văn học mang tên “Nàng ái Cơ trong chậu úp” của tác giả Mộng Tuyết, vợ của tác gia lớn Đông Hồ ở Hà Tiên.

Đây là tác phẩm bà viết theo thể loại Ngoại ký sự tiểu thuyết, có tính chất văn học. Đoạn thơ người ta gọi là “sấm truyền” trên nằm trong chương X mang tên Tiểu Thư Mạc Minh cô. Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt khẳng định: “Tất cả nội dung hai đoạn thơ đó do bà Mộng Tuyết hư cấu mà ra, hoàn toàn không liên quan gì đến kho báu”.

Nữ sĩ Mộng Tuyết, người còn lại của “Hà Tiên tứ tuyệt” (gồm Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê, Trúc Hà) đã ra đi vào 8g05 sáng 1-7-2007 tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang sau một thời gian lâm bệnh nặng.

Bà đã được đưa về tại khu Nhà lưu niệm Đông Hồ, là nền cũ của Trí Đức học xá do thi sĩ Đông Hồ sáng lập năm 1926 mà nữ sĩ Mộng Tuyết chính là người học trò xuất sắc. Nữ sĩ Mộng Tuyết tên thật là Thái Thị Sửu, các bút danh Hà Tiên Cô, Thất Tiểu Muội, Nàng Út, Bách Thảo Sương…

Bà sinh ngày 9/1/1914 ở làng Mỹ Đức, Hà Tiên, nay là tỉnh Kiên Giang. Ngoài nhiều truyện ngắn, thơ, kịch, tùy bút đăng trên các báo, bà còn dịch thơ và viết khảo cứu văn học.

Sau tập thơ Phấn hương rừng (1939, được tặng giải “Khen tặng” của Tự Lực văn đoàn), Đường vào Hà Tiên (tùy bút, 1960), Nàng Ái Cơ trong chậu úp (tiểu thuyết lịch sử, 1961), Truyện cổ Đông Tây (1969), Dưới mái trăng non (thơ, 1969)…

Năm 1998, Mộng Tuyết xuất bản cuốn hồi ký Núi mộng gương Hồ ghi lại cuộc đời, sự nghiệp, những hoạt động văn học, văn hóa của bà và chồng là thi sĩ Đông Hồ, cùng nhiều văn nghệ sĩ thân thiết khác.

Cùng với chồng là thi sĩ Đông Hồ, bà là một trong những nhà thơ mới tiêu biểu của miền Nam, là báu vật không chỉ của Hà Tiên, Kiên Giang mà còn của cả Nam bộ.

Như vậy, tiểu thuyết hư cấu “Nàng Ái Cơ trong chậu úp” được nữ sĩ Mộng Tuyết viết năm 1961, và lời sấm truyền cũng nằm trong tác phẩm năm 1961 thế kỷ 20, thử hỏi nào ai biết thực hư ra sao. Nay thì tác giả đã về cõi vĩnh hằng càng không có cơ hội để nghe một sự thật về lời sấm được bà lấy từ đâu.

Đến xứ Hà Tiên, du khách ngẩn ngơ vì cảnh đẹp như mơ của biển trời sông núi với những tên gọi thơ mộng, lãng mạn từng in trong tâm khảm con người.

Rồi thì ai cũng muốn một lần đến viếng lăng mộ họ Mạc nằm dưới chân núi Bình San, một nơi chứa đầy những giá trị lịch sử, văn hóa và huyền thoại về 7 đời con cháu họ Mạc trấn giữ đất Hà Tiên.

Hiện nay, hơn 40 ngôi mộ của dòng họ Mạc vẫn yên vị trên núi Bình San thơ mộng và thanh tịnh và ẩn chứa trong nó bao nhiêu bí ẩn của một dòng họ nổi tiếng đất Hà Tiên xưa. Con người luôn khám phá, tìm hiểu, còn lịch sử luôn chứa đầy những bí ẩn…

Share this post


Link to post
Share on other sites

5 cây thị bạc tỷ được gắn biển 'di sản'

Sáng nay, những cây thị cổ của dòng họ Lê, từng được trả giá 7 tỷ đồng, đã được Hội Bảo vệ Thiên nhiên Môi trường Việt Nam gắn biển "Cây di sản Việt Nam".

5 cây thị cổ được trả giá 7 tỷ đồng

Posted Image

Lễ gắn biển 5 cây thị cổ sáng 16/3. Ảnh: Nguyên Khoa.

Theo Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường, 5 cây thị có niên đại 670 tuổi, từng gắn với nhiều sự kiện lịch sử, văn hóa xã hội của vùng đất ven biển Nghệ An. Đây là nơi nghỉ chân của tướng Lê Văn Hoan; nơi buộc voi của vua Quang Trung trước khi tiến ra Thăng Long đại phá quân Thanh năm 1789. Quả của 5 cây thị này cũng là lương thực chủ yếu, cứu sống nhiều người dân trong nạn đói năm 1945.

Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, 5 cây thị cũng là nơi nghỉ chân của những đoàn thanh niên xung phong, nơi trú chân của các đoàn quân vào giải phóng miền Nam và chứng kiến nhiều trận đánh thắng máy bay địch bắn phá miền Bắc...

Posted Image

5 cây thị cổ thu hút nhiều du khách. Ảnh: Nguyên Khoa.

Chủ nhân 5 cây thị cổ là ông Lê Minh Thưởng, hậu duệ đời thứ 16 của họ Lê ở xã Nghi Thịnh (Nghi Lộc, Nghệ An). "Việc 5 cây thị được công nhận và vinh danh khiến gia đình, dòng họ chúng tôi rất tự hào. Các thế hệ con cháu họ Lê sau này sẽ tiếp nối truyền thống, bảo vệ và gìn giữ cây quý cho muôn đời sau", ông Thưởng chia sẻ.

Trước khi được công nhận là "Cây di sản Việt Nam", 5 cây thị cổ đã được nhiều đại gia đến hỏi mua với giá hơn 7 tỷ đồng nhưng ông Thưởng kiên quyết không bán. Nhiều đoàn khách đến Nghệ An cũng tới chiêm ngưỡng 5 cây thị cổ. Tháng 9/2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng về đây thăm.

Nguyên Khoa

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài 1:

Bí ẩn về ngôi đình 'xe tăng kéo không đổ'

Posted Image - Hơn 2 giờ đồng hồ, 4 chiếc xe tăng quần thảo gầm rú kéo nhưng ngôi đình vẫn đứng trơ trơ. Thấy ngôi đình không sập, bọn lính đi càn cứ tưởng ngôi đình quá thiêng nên sì sụp lạy trước khi lên xe kéo quân chạy ra khỏi làng...

Huyền thoại về ngôi đình cổ ẩn chứa bao điều bí ẩn cũng như cây rõi hàng trăm năm tuổi sừng sứng giữa trời xanh với bao chuyện hoang đường về cây cổ thụ biết tránh bom đạn để bảo vệ dân làng qua những biến cố đau thương những năm chiến tranh ác liệt vẫn là bí ẩn chưa có lời giải thích...Huyền thoại ngôi đình cổ

Ngôi đình làng cổ Thạch Tân (xã Tam Thăng, TP. Tam Kỳ, Quảng Nam) xây dựng từ năm nào chẳng ai nhớ nổi. Trong ký ức của mình, những bậc cao niên nơi vùng cát này chỉ biết một điều rằng đình làng Thạch Tân xây cùng lúc với đình Chiên Đàn nổi tiếng chỉ cách làng Thạch Tân khoảng 1 km đường chim bay.

Posted ImageÔng Lê Khắc Phiến chỉ nơi dấu tích dây xích sắt xe tăng Mỹ kéo vẫn còn in dấu trên cột đình cổ Thạch Tân.

Ông Lê Khắc Phiến, nguyên Trưởng An ninh Thạch Tân, người bám trụ tại làng Thạch Tân suốt những năm chiến tranh ác liệt nhớ lại cảnh đạn bom cày xới và những trận càn kinh hoàng của lính Mỹ biến vùng đất cát này thành hoang mạc không một bóng cây."Đến mãi bây giờ tui vẫn không thể nào lý giải được vì sao ngôi đình cổ vẫn tồn tại. Tui không nói là mê tín, nhưng có những điều khó mà lý giải được vì sao...?” - ông Phiến kể.

Những kỳ tích nơi đình làng này dẫu lịch sử được ghi lại rõ ràng, nhưng vẫn còn đó nhiều bí ẩn mà rất ít người biết. Nơi ngôi đình cổ toạ lạc chỉ cách tỉnh đường Quảng Tín (nay là trụ sở UBND tỉnh Quảng Nam) chưa đầy 1,5 km đường chim bay.

Cách quốc lộ 1A và các cứ điểm chốt chặn của lính Mỹ khoảng hơn 800 m. Thế nhưng, ngay dưới đình làng này là kho chứa lương thực cùng trạm xá dã chiến của quân giải phóng và là cửa chính của hệ thống địa đạo dài hơn 38 km kéo dài qua nhiều làng xóm xuống tận sát biển.

Mặc dù nằm sát nách các đồn bốt, các cứ điểm chốt chặn và trung tâm đầu não của chế độ cũ, nhưng suốt nhiều năm dài, quân địch không hề hay biết dưới lòng đất đình làng Thạch Tân là cứ điểm quan trọng của lực lượng quân giải phóng và du kích địa phương bám trụ nơi vùng ven biển bị cày trắng này.

Sức mạnh kỳ bí từ ngôi đình cổ

Lục trong trí nhớ tuổi tác già nua của mình, ông Phiến cùng những cụ già nơi làng Thạch Tân này bắt đầu kể lại buổi chiều kinh hoàng mà mãi mãi ông không thể nào quên.

Đó là vào một buổi chiều tháng 2 sau tết Mậu thân 1968, trong số chiến sĩ của Huyện đội Bắc Tam Kỳ bất ngờ có một người tên Cẩm ra hàng giặc và khai báo toàn bộ cơ sở và hệ thống địa đạo dưới lòng đất đình làng Thạch Tân.

Posted ImageĐình làng cổ Thạch Tân với bao huyền thoại vẫn trường tồn qua hơn 300 năm

Ngay sau đó, một lực lượng lính Mỹ hùng hậu bắt đầu càn quét với mục tiêu san phẳng ngôi đình cổ và đánh bật khu địa đạo dưới lòng cát trắng để tiêu diệt quân giải phóng.Nhiều bậc cao niên nơi làng Thạch Tân vẫn còn nhớ như in trận càn quét kinh hoàng vào làng trong buổi sáng tháng 2 sau tết Mậu thân 1968.

Trên trời có máy bay yểm trợ, dưới đất thì chia thành 4 cánh quân, mỗi cánh có 6 xe bọc thép M113 dẫn đầu, hùng hổ tiến vào làng.

Trước khi càn quét, pháo từ căn cứ Chu Lai, Tuần Dưỡng cách đó hơn 10 km đường chim bay bắn cấp tập dọn đường. Cả làng Thạch Tân bé nhỏ bị cày xới.

Tên Cẩm dẫn lính Mỹ và một số lính Sài Gòn đi theo làm phiên dịch, xông thẳng tới nhà ông Tân nằm cạnh đình làng. Lúc này, ông Tân đã ngoài 68 tuổi, điềm nhiên ngồi chẻ tre đan rổ trước hiên nhà.

Toán lính Mỹ xông vào bắt trói ông Tân và cô con gái 12 tuổi lôi ra miệng địa đạo đánh đập dã man và bắt hai cha con ông phải gọi bộ đội dưới địa đạo lên hàng.

Bọn lính Mỹ đánh đập tra khảo cha con ông Tân từ sáng đến chiều khiến ông Tân như chết đi sống lại nhiều lần nhưng vẫn không khai thác được thông tin.

Cuối cùng, bọn chúng dùng dây dù trói giật cánh khuỷu và dòng dây buộc ông bò xuống địa đạo bảo du kích, bộ đội ra hàng.

Trên miệng hầm, chúng giữ dây dù và thả dần xuống; đồng thời cũng lăm lăm súng đe dọa, nếu ông Tân không nghe lời sẽ bắn tan xác cô con gái.

Còn ông Phiến nhớ lại: Lúc đó tui cùng ông Nguyễn Đinh ngồi ngoài gần miệng hầm nên nghe rõ bọn Mỹ tra tấn và yêu cầu cha con ông Tân 'kêu gọi Việt Cộng lên đầu hàng'.

Lúc đó tui bàn tính với anh Đinh là bằng mọi giá phải giải cứu cha con ông Tân. Nhưng bằng cách nào thì chưa nghĩ ra.

"Khi đối mặt với chuyện sinh tử của hai cha con ông Tân trên miệng hầm địa đạo, anh em tụi tui cũng đang cận kề với cái chết thế mà bình tĩnh đến lạ lùng. Đúng là trong cái khó ló cái khôn anh ạ...” - ông Phiến bồi hồi nhớ lại.

“Lúc đó tui và anh Đinh nhanh chóng hội ý phương án: Khi ông Tân xuống hầm, hai anh em sẽ đón ông Tân và bảo ông Tân quay lại lên, giả vờ khóc nói với bọn chúng là ở dưới hầm tối quá, mắt mờ không nhìn thấy nên cần có con gái bò trước dẫn đường để kêu gọi 'Việt cộng ra đầu hàng'... - ông Phiến kể.

Khi cha con ông Tân xuống địa đạo, ông giữ chặt dây trói ông Tân mà lần tới như thể ông Tân đang bò để giặc khỏi nghi ngờ, còn ông Đinh nhanh chóng dùng dao cắt dây trói cho ông Tân.

Sau đó ông Đinh đưa cha con ông Tân sang ngách hầm khác, dùng bao đất lấp lại.

“Khi miệng ngách thông chỉ còn vừa lọt người qua, tui cột dây dù vào rễ cây dưới địa đạo, rồi tuồn qua lỗ ngách lấy bao đất lấp kín lại kiên cố hơn. Sau đó, mọi người di chuyển trong địa đạo đi chỗ khác".

Posted ImageMột góc đình làng cổ Thạch Tân

Ở bên trên, giật dây một hồi không thấy cha con ông Tân quay lên, bọn giặc tập trung súng phun lửa bắn xuống, ném theo hàng trăm quả lựu đạn. Rồi đổ xuống mấy thùng chất độc hòng giết chết người dưới địa đạo.Nhưng, ngách thông đã lấp kín nên hàng nghìn người dưới địa đạo không hề ảnh hưởng.

Tức tối vì để thoát cha con ông Tân, cũng chẳng bắt được tên Việt cộng nào, bọn lính Mỹ đi càn bắt đầu dùng mìn dây và dây xích cột vào hai hàng cột gian giữa đình làng Thạch Tân rồi cho 4 xe bọc thép đồng loạt nổ máy kéo đánh sập đình làng.

Nhưng hơn 2 giờ đồng hồ 4 chiếc xe tăng quần thảo gầm rú kéo nhưng ngôi đình vẫn đứng trơ trơ giữa cát trắng.

Thấy ngôi đình không sập, bọn lính đi càn cứ tưởng ngôi đình quá thiêng nên sì sụp lạy trước khi lên xe kéo quân chạy ra khỏi làng...

Vũ Trung

(Còn tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những câu chuyện "rợn tóc gáy" ở chùa Bà Đanh (Hà Nam)

Chủ nhật 25/03/2012 07:00

(GDVN) - Lâu nay, dân gian vẫn có câu cửa miệng: “Vắng như chùa Bà Đanh”. Phải chăng ngôi chùa này không có ai đặt chân đến hay bởi sự thiêng liêng, kỳ bí...?

Kì bí ngôi chùa cổ

Chùa Bà Đanh còn được gọi là Bảo Sơn tự, cạnh hòn núi Ngọc nổi tiếng thơ mộng và linh thiêng. Từ bao đời nay, chùa Bà Đanh được thêu dệt bằng những câu chuyện lạ mà tâm điểm là tượng Bà Đanh. Người dân nơi đây bảo rằng, người đi đường trót cười cợt bình phẩm dù chỉ một câu bất kính cũng sẽ bị bà trừng phạt cho hộc máu hoặc mất mạng. Nhiều người lo lắng mà không dám qua chùa vì sợ không giữ được mồm miệng…

Cụ Chuyên, một cao niên làng Đanh Xá cho biết: “Ngôi chùa trở nên linh thiêng từ khi làng tổ chức rước vong phật Pháp Vũ về thờ. Phật Pháp Vũ thuộc hệ Tứ Pháp chùa Dâu (Bắc Ninh) gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Lịch sử còn ghi lại sự linh ứng mỗi khi các vua thời Lý đến chùa Dâu cầu khấn, từ đó chùa các nơi xin rước Tứ Pháp về thờ”.

Posted Image

Không gian ngôi chùa khá đẹp và tĩnh lặng

>>Chùm ảnh: Chiêm ngưỡng vẻ đẹp tĩnh tại của chùa Bà Đanh

“Trước đây làng này yên ổn lắm, nhưng mấy năm trở lại đây đã có nhiều người bị điên. Nhiều người còn bảo, đất Hà Nam đang bị chùa bà Đanh ám. Tôi thì cho rằng đó là chuyện phi lý, không có thật. Có thể đó là lời đồn đâu đó…” - Cụ Chuyên, một người có uy tín trong làng cho hay.

Làng Đanh Xá cũng là một địa phương xin rước Pháp Vũ về chùa làng để thờ. Như linh ứng, năm làng Đanh Xá rước vong Pháp Vũ có mưa to gió lớn làm đổ cây mít cổ thụ trong chùa. Người làng thấy lạ nên thuê thợ giỏi tạc tượng Pháp Vũ, sau đó hô thần nhập tượng và đặt trong điện thờ. Người thợ tạc tượng ấy sau một đêm nằm mơ thấy thần đến mách bảo dung nhan Pháp Vũ nên đã tạc lại theo giấc mộng kỳ lạ.

Chưa hết, sau khi nhập hồn cho tượng thì dưới bến nước trước chùa có vật lạ nửa nổi nửa chìm. Người dân cứ đẩy ra thì vật lạ ấy lại dạt vào dù cho dòng nước có xoáy mạnh. Thấy lạ, dân làng bàn nhau vớt lên xem thì thấy đó là một cái ngai bằng gỗ. Họ đưa vào chùa và thật lạ, tượng vừa khít khi đặt vào ngai như được đo đạc trước.

Từ đó, trong vùng mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, lời đồn Thánh Bà Bảo Sơn linh ứng lan truyền khắp nơi, khách thập phương đổ về đông như đi hội, thuyền bè qua lại tấp nập hương khói và những câu chuyện thần bí bắt đầu được thêu dệt từ ngôi chùa này.

Posted Image

Sư thầy Thích Đàm Đam - Trụ trì chùa Bà Đanh

>>Chùm ảnh: Chiêm ngưỡng vẻ đẹp tĩnh tại của chùa Bà Đanh

Sư thầy Thích Đàm Đam - Trụ trì chùa Bà Đanh cho hay: “Nhiều vị khách cố chụp tượng Pháp Vũ nhưng không tài nào chụp nổi. Hình ảnh đều bị nhòa hoặc bị cháy phim không lý giải được… Tôi cho rằng, tượng Pháp Vũ rất thiêng, ngôi chùa bà Đanh càng thiêng hơn nữa”?.

“Chùa Bà Đanh có rất nhiều giai thoại huyền bí mà các cụ ngày trước thường hay kể lại cho con cháu nghe. Tuy nhiên, thời gian đã khiến các giai thoại ấy thất truyền gần hết và câu hỏi vì sao chùa bà Đanh vắng khách hầu như không thể giải mã. Nếu giải mã được thì cũng chỉ mang tính tương đối do có nhiều dị bản khác nhau” - Ông Trương Văn Đô, Chủ tịch UBND xã Ngọc Sơn.

Ngày hô thần nhập tượng cũng là ngày hội của cả làng Đanh Xá. Thời trước, ngày hội được tổ chức rất long trọng nhưng rồi ngày một nhạt phai, khách thập phương ít qua lại và chùa trở nên vắng vẻ cho đến ngày nay dù cho tỉnh Hà Nam cố gắng tổ chức các “tua” du lịch thu hút khách nhưng tình hình vẫn không được cải thiện.

Hiện nay, chùa Bà Đanh được đầu tư tôn tạo rất tỉ mỉ với quần thể liên hoàn gồm tam quan, tả vu, hữu vu, phủ Mẫu… Chùa Bà Đanh lưu giữ nhiều cổ vật, cổ thư quý hiếm, nhất là tượng Phật, Bồ Tát, khánh đá, đại tự, câu đối và nhang án…

Danh hiệu "đệ nhất vắng"

Để lý giải vì sao chùa Bà Đanh lại có danh hiệu “đệ nhất”… vắng kèm theo câu cửa cửa miệng “vắng như chùa Bà Đanh” để ám chỉ sự thưa vắng đến cô tịch của ngôi chùa một thời linh thiêng này. Chúng tôi gặp nhiều cao niên, nhiều người dân để hiểu hơn về sự việc. Từ đó, chúng tôi nghe được nhiều câu chuyện ly kỳ, hiếm có. Có lẽ, đây cũng là những câu chuyện xưa nay ít người biết đến ngôi chùa vắng khách này.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trương Tiến Ban - Chánh văn phòng UBND huyện Kim Bảng, Hà Nam lắc đầu không biết vì sao chùa Bà Đanh lại vắng khách. Chỉ biết rằng, thời xưa nghe các cụ kể lại, khu vực chùa Bà Đanh là rừng rậm, có nhiều thú dữ nên không ai dám vào. Muốn vào đó an toàn chỉ có cách đi thuyền qua sông Đáy để tránh thú dữ, vì bất tiện nên khách thập phương muốn đến lễ bái cũng không có điều kiện.

Posted Image

Ngôi chùa đẹp, cổ kính nhưng đặc biệt ít khách viếng thăm

Đồng tình với ý kiến ấy, sư thầy Thích Đàm Đam cho biết: “Đừng đổ lỗi cho chùa không thiêng hay cách đối xử của nhà chùa với khách. Chùa vắng khách cũng có cái lý riêng, vừa xa khu dân cư, đường vào lại hiểm trở, ngày trước là rừng rậm nhiều hổ báo nên người ta sợ… Bây giờ chùa đã được trang trí với không gian rộng, đường đi lại thuận lợi, rất tốt cho khách đến cầu lễ”.

Lại có câu chuyện khác nói rằng, Bà Đanh có tên nôm là Bà Đậu - một người bình thường trong làng. Từ khi dân làng Đanh Xá rước vong phật Pháp Vũ về và hô thần nhập tượng nên mới yên ổn làm ăn. Chuyện đến tai Trạng Quỳnh, Trạng bất bình nên đến chùa trách bà, đã là Phật thì chớ hại sinh linh. Là Phật không được thờ cũng phải phù hộ chứ chưa được thờ lại nổi mưa to gió lớn hại trăm họ…?

"Phải khẳng định là chùa Bà Đanh rất linh thiêng, tuy nhiên chuyện vắng khách đã có từ lâu. Ngày xưa, vùng này có nhiều thú dữ hại người nên người dân sợ hãi mà không dám đến chùa. Chính quyền tỉnh Hà Nam cũng đã có những phương cách thu hút khách du lịch về chùa nhưng không biết bao giờ chùa Bà Đanh mới… hết vắng” - Sư thầy Thích Đàm Đam, Trụ trì chùa Bà Đanh tâm sự.

Posted Image

Chùa Bà Đanh luôn rộng cửa đón du khách thập phương

“Có lẽ truyền thuyết cũng chỉ là truyền thuyết, lời đồn thì vô cùng, vô tận. Nhiều người bảo chùa bà Đanh không linh, không ai đến là sai. Mặt khác làng Đanh Xá hy vọng rằng, cái tên ngôi chùa vắng sẽ được nhiều người biết đến bằng cái tên ngôi chùa đệ nhất khách. Hiện tại, chùa được đầu tư xây dựng với kiến trúc rất đẹp. Bên cạnh chùa, có nhiều di tích danh thắng như Núi Ngọc, Núi Cấm, Ngũ Động Sơn… mang ý nghĩa lớn lao” - Một người dân cho biết.

Chùa Bà Đanh tuy vắng vẻ, tĩnh mịch nhưng chính sự vắng vẻ, tĩnh mịch này lại tạo nên vẻ đẹp bình yên và thanh khiết cho ngôi chùa mà không phải nơi nào cũng có được.

=========================

Tôi đang ở Hanoi. Hôm nào chúng ta tổ chức kéo nhau đến chùa Bà Đanh xem thế nào? Tất nhiên nhìn dưới góc độ phoengshui Zduê Nản.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xem cách mưu sinh của người Việt cuối thế kỉ 19

Nghề hớt tóc dạo, bán hàng rong, nghề thêu, làm gốm, làm giấy, thợ rèn…

Thời gian trôi đi, đất nước, xã hội đã phát triển rất nhiều so với trước đây. Nhưng con người và vòng xoáy mưu sinh thì vẫn thế. Cha ông ta cũng như chúng ta ngày nay đã và đang bươn trải để kiếm sống từng ngày bằng những nghề khác nhau. Những bức ảnh dưới đây được chụp vào cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20 chắc hẳn sẽ khiến người xem hồi hồi bởi nét đơn sơ, tinh tế nhưng bình dị của từng công việc xưa kia.

Posted Image

Nghề hớt tóc dạo.

Posted Image

Nghề gánh hàng thuê(Bán đồ ăn dạo/Thiên Sứ)

Posted Image

Cô gánh hàng rong.(Thực ra đây là bà bán vỏ ăn trầu/Thiên Sứ)

Posted Image

Nghề thêu.

Posted Image

Nghề làm gốm

Posted Image

Nghề làm giấy.

Posted Image

Nghề thợ rèn.

Posted Image

Nghề dệt lụa.

Posted Image

Nghề điêu khắc, chạm trổ.

Posted Image

Nghề mộc.

theo kenh14

=====================

Các phim cổ trang có thể lấy những hình ảnh này làm cảnh nền. Có điều trước thế kỷ XIX thì có khác một chút.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cây sanh 100 tuổi giá 1 triệu USD

25/03/2012 | 11:36

Nhiều cây sanh được định giá từ vài tỷ đồng đến hàng triệu USD đã có mặt trong Festival Sinh vật cảnh tại Ninh Bình.

Trong các ngày từ 23/3 đến 1/4, tại Trung tâm thi đấu thể dục thể thao tỉnh Ninh Bình, Hội sinh vật cảnh Ninh Bình và UBND TP Ninh Bình tổ chức Festival Sinh vật cảnh. Tại đây, xuất hiện nhiều cây cảnh thuộc loại “độc”, như cây sanh “Đại thụ vân tùng” của nghệ nhân Lê Xuân Kỳ (Ninh Bình) được định giá lên tới 10 tỉ đồng.

Đặc biệt cây sanh cổ có thế “Quần long phượng vũ”, với tuổi thọ trên 100 năm của Công ty xây dựng Cường Thịnh Thi (Ninh Bình), được giới sành chơi đánh giá là “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam hiện nay.

Posted Image

Cây sanh "Đại thụ vân tùng" được định giá 10 tỉ đồng

Posted Image

Cây dưới cổ được xem là loại quý hiếm ở Ninh Bình

Posted Image

Cây sanh cổ có thế “Quần long phượng vũ” được định giá lên tới 1 triệu USD và được liệt vào hàng “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam hiện nay

Posted Image

Cây dưới cổ có thế “Huynh đệ” được định giá lên tới 3 tỉ đồng

Posted Image

Cây sanh dáng cổ thụ cũng được định giá lên tới 5 - 7 tỉ đồng

Posted Image

Cây sanh thế “Trực” thể hiện khí phách của người quân tử được định giá khoảng 4 tỉ đồng

(Theo Thanh niên Online)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hương bưởi thơm, cho lòng bối rối…

02/04/2012 10:17:15

(Kienthuc.net.vn) - Tháng ba về, từng chùm hoa bưởi trắng muốt nhẹ nhàng đu đưa trong nắng như gợi nhớ chút gì mộc mạc, dân dã xưa. Hình ảnh của hoa bưởi có lẽ đã trở nên quá quen thuộc trong tâm thức của mỗi người Hà Nội, một vẻ đẹp mong manh mà đôi khi người ta chỉ dám khe khẽ chạm vào như sợ nó tan biến mất.

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Thu Hiền

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Bức tượng Phật bằng đồng cổ nhất Việt Nam

Cụ Nguyễn Văn Dũng (80 tuổi) là nghệ nhân còn sống duy nhất trong số những người trực tiếp làm pho tượng này. Cụ Dũng bảo, cái đặc biệt của pho tượng Phật ở chỗ nó hội tụ rất nhiều pho tượng quý của thời Pháp, trong đó có cả bức tượng Nữ thần Tự Do.

Pho tượng phật A Di Đà hiện đặt tại chùa Ngũ Xã (Ba Đình, Hà Nội) được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác nhận là bức tượng Phật làm bằng đồng lâu đời nhất Việt Nam.

Cụ Dũng kể, người có chủ trương làm bức tượng Phật A Di Đà là Thượng tọa Thích Vĩnh Tường, Trụ trì chùa Ngũ Xã lúc đó. Ngày đó đạo Phật rất thịnh, cụ Dũng từng nghe Thượng tọa Tường nói với dân làng rằng: Dù bất cứ thời đại nào, dù đế quốc hay dân chủ thì nền văn hóa của đạo Phật hay Thiên chúa giáo không bao giờ mất đi. Vì thế, ông muốn làm một pho tượng lớn để thờ trong chùa, nó sẽ trường tồn vĩnh hằng ở mọi thời đại.

Cả làng nấu đồng đúc tượng

Biết nhà chùa có ý định làm bức tượng đó, dân làng Ngũ Xã rất hứng khởi. Ban trị sự của làng đã họp và cử ra những người có tay nghề cao nhất để đảm đương từng phần công việc.

Posted Image

Pho tượng Phật A Di Đà có chứa một phần đồng của tượng Nữ thần Tự Do

Mọi người trong làng dù nhiều người có tay nghề cao nhưng không ai đứng ra nhận làm. Nguyên nhân của việc này là do bức tượng vô cùng lớn, lại làm hoàn toàn bằng thủ công nên ai cũng nghĩ sẽ gặp nhiều rủi ro khi thực hiện. Cuối cùng, các cụ trong làng quyết định bầu kiến trúc sư Nguyễn Văn Tùy làm tổng chỉ huy công trình.

Cụ Dũng bảo, lúc đó ông Tùy là người có trình độ cao, từng học bên Nhật, bên Tàu. Nhiều thầy nước ngoài dạy nên tay nghề ông ấy rất giỏi. Và chỉ ông ấy mới có thể cáng đáng được công trình này.

"Lúc đó tôi cũng khoảng 20 tuổi. Tuy còn trẻ so với nhiều thợ trong làng, nhưng từ nhỏ tôi đã theo các chú, các bác học nghề. Tôi được mọi người đánh giá là thợ trẻ tài hoa, nhanh nhẹn nên được chọn trong số 5 người làm chính bức tượng", cụ Dũng tự hào nói.

Cụ Dũng tiết lộ thêm: "Thời điểm đó, để đúc bức tượng như vậy rất phức tạp. Máy móc điện đóm đều không có. Tất cả các công đoạn hoàn toàn làm bằng thủ công. Khâu nặn tượng để đúc là quan trọng nhất, các nghệ nhân trong làng phải nặn đi nặn lại cho thật ưng ý thì thôi. Và phải mất nửa năm mới hoàn thành khâu nặn tượng bằng đất. Sau đó mới chuyển sang làm tượng bằng xi măng. Cuối cùng mới làm khuôn để đổ đồng".

"Trước khi đổ đồng vào khuôn, chúng tôi phải nung đất chín. Nhất là phần bên trong tượng phải xây lò đốt ở dưới chân đế đốt lên để tượng chín như gạch", cụ Dũng nhớ lại.

Theo lý giải của cụ Dũng, nếu để bề mặt đất vẫn còn ướt, khi ta đổ nước đồng có nhiệt độ khoảng 1.400 độ C, giữa nóng và lạnh sẽ sôi và tạo hơi. Khi đó bức tượng sẽ bị khuyết tật. Và khuôn có thể bị phá.

Hôm nấu đồng đổ tượng, nhà chùa phải huy động rất nhiều thợ trong làng ra hỗ trợ việc nấu đồng. Tất cả chia ra thành 10 lò để nấu đồng. Cụ Dũng bảo, lúc đó cả làng như một đại công trường, làm việc cả ngày liên tục. Như thế đồng mới được đổ đều, bức tượng mới tạo ra một khối thống nhất.

Posted Image

Chùa Ngũ Xã.

Nhờ kích, cẩu của quân đội Pháp

Cụ Dũng cho hay, trước đây pho tượng được làm tại nền đất trước cổng chùa bây giờ. Lúc đúc xong, nhiều người dân trong làng nghi ngại không thể chuyển pho tượng lên trên chùa được. Bởi kích thước của pho tượng tới cao gần 4m, với trọng lượng hơn 10 tấn đồng thì cả làng ra khiêng cũng không nhúc nhích. Huống hồ lại phải đặt tượng lên cao.

"Năm 2010, kỷ lục Việt Nam xác nhận tượng Phật A Di Đà là pho tượng bằng đồng lâu đời nhất Việt Nam. Tượng đúc từ năm 1949 - 1952, cao 3,95m, khoảng cách giữa hai đầu gối là 3,60m, nặng 10 tấn. Pho tượng đặt trên tòa sen cao 1,45m, nặng 3,9 tấn và do các nghệ nhân làng đúc đồng Ngũ Xã làm ra".

Đại đức Thích Chính Tín (Trụ trì chùa Ngũ Xã) "Lúc làm pho tượng này tôi mới 10 tuổi, nhưng tôi còn nhớ rõ, người trong làng từ trẻ con đến người lớn đều vui sướng lắm. Dân làng tự hào vì đúc thành công bức tượng bằng đồng lớn vào bậc nhất Đông Dương vào lúc bấy giờ". Nghệ nhân Ngô Thị Đan (70 tuổi) May thay lúc bấy giờ nhà chùa có quan hệ với quân đội Pháp, nên đã nhờ họ mang kích thủy lực đến để di chuyển pho tượng. "Tôi cũng trực tiếp xem quân đội Pháp kích pho tượng, họ mang những khúc gỗ đến xếp chồng lên nhau đặt sát pho tượng, gỗ đặt đến đâu, kích đến đó. Sau đó dùng tời nâng pho tượng lên cao mới đặt tượng vào bệ được" - cụ Dũng nhớ lại.

Tượng Nữ thần Tự Do nằm trong tượng đồng

Cụ Dũng cho hay, khi đó ông Trần Văn Lai làm Thị trưởng Hà Nội, cho lực lượng phá bỏ nhiều bức tượng được coi là tàn dư của thực dân Pháp. Chúng ta quyết không để tàn dư đó tồn tại được, không để bọn chúng ngự trị mãi con người mình được.

Chính vì thế nhà chùa đã nhận được nhiều bức tượng đồng quý giá như tượng Sĩ Nông Công Thương ở Vườn hoa Canh Nông (nay là Vườn hoa Lê-nin), tượng Toàn quyền Pôn Be ở Vườn hoa Pôn Be (nay là Vườn hoa Lý Thái Tổ). Trong số những bức tượng quý đó có cả bức tượng Nữ thần Tự Do hay còn gọi là bà Đầm xòe, một phiên bản của tượng Nữ thần Tự Do của nước Mỹ cũng bị phá dỡ và chuyển đến giúp chùa làm tượng Phật.

"Chính mắt tôi đã nhìn thấy bức tượng bà Đầm xòe được chuyển đến chùa để nấu đồng. Khi đó bức tượng vẫn còn nguyên cả khối, cao khoảng 2,5m làm bằng đồng. Mọi người phải gọi thợ rèn đến để phá từng mảnh mới mang đi nấu", cụ Dũng xác nhận.

Giờ cụ Dũng đã già, chân đã yếu, mắt mờ nhưng cụ vẫn tự hào nói về những năm tháng hào hùng của mình. Mỗi dịp rảnh rỗi cụ thường kể cho con cháu nghe về những điều ít ai biết về bức tượng Phật bằng đồng lâu đời nhất Việt Nam.

Nguồn Báo Đất Việt

Posted Image

Hồ Gươm xưa: chụp vào năm 1890.

Trên tháp Rùa ở giữa hồ có tượng Nữ thần tự do mà người VN lúc ấy gọi là tượng “Bà đầm xòe” ...

BĐG

Edited by Bach Dang Giang

Share this post


Link to post
Share on other sites

Làng gốm Thổ Hà: Ngọn lửa Danko đã tắt

Tác giả: Khắc Giang

Tuanvietnam.vn

Bài đã được xuất bản.: 05/04/2012 05:00 GMT+7

Đã từng là một trong ba trung tâm gốm sứ lâu đời và lớn nhất miền Bắc, làng gốm Thổ Hà bây giờ chỉ còn là hoài niệm. Cố gắng của con cháu khát khao làm sống lại nghề cổ truyền cũng không đủ sức để bảo vệ nó trước sức ép của thời đại.

Người làm gốm cuối cùng

Xưởng làm gốm của ông Trịnh Đắc Tân, người làm gốm cuối cùng của Thổ Hà, nằm ở một góc nhỏ ngay bên cạnh đình làng và phía sau Đoan Minh Tự, ngôi chùa cổ nhất vùng sông Cầu. Mới đến cổng, chẳng ai nghĩ đây là một xưởng gốm, nếu không nhìn thấy dòng chữ "hợp tác xã gốm sành Thổ Hà" đã bị bong tróc hết. Mặt tiền thì bị trưng dụng để làm nơi phơi than, với khung cảnh tiêu điều không hề cho thấy một dấu hiệu nào rằng xưởng gốm vẫn còn hoạt động.

Và buồn thay, nó không còn sản xuất nữa thật.

"Tôi nghỉ làm gốm đã một năm nay rồi," Ông Tân thở dài khi nghe chúng tôi hỏi về xưởng gốm, tay vẫn tỉ mỉ tráng bánh đa nem, cái nghề không được truyền thống lắm nhưng mang lại cuộc sống khá giả cho Thổ Hà. Khắp sân nhà ông Tân cũng chỉ toàn là nguyên liệu làm bánh đa, khác xa với trí tưởng tượng của tôi về những khuôn hình, đất sét, bàn xoay thường thấy ở những nhà làm gốm.

Ông Tân tâm sự, nghỉ làm gốm là do bất khả kháng, chứ ông vẫn muốn khôi phục lại cho bằng được nghề gốm Thổ Hà. Một phần là ông vẫn còn thấy mê, một phần là ông tin gốm Thổ Hà chắc chắn sẽ mang lại "bạc tỷ" cho mình.

"Hồi mới đi bộ đội về, thấy nghề làm gốm của làng chết dần, tôi nảy sinh ý định này, do nhận định gốm Thổ Hà có khả năng sinh lời lớn. Từ đó, tôi bắt đầu mon men đến các nghệ nhân trong làng để học hỏi về kĩ năng làm gốm, "Ông Tân nói.

Ông kể, phải mất đến 5 năm ông mới học được hết các ngón nghề làm gốm từ các cụ cao niên.

"Cái khó nhất là tính chuyên môn hóa của nghề gốm Thổ Hà rất cao, nên mỗi nghệ nhân chỉ nắm được một hoặc vài công đoạn. Thế cho nên tổng hợp lại quy trình sản xuất gốm xưa của làng mất rất nhiều thời gian. Tôi thấy tự hào là người duy nhất ở đây nắm được toàn bộ quy trình sản xuất đó."

Posted Image

Ông Trịnh Đắc Tân-Người làm gốm cuối cùng của làng Thổ Hà. Ảnh: Khắc Giang

Những nỗ lực hết mình đã giúp ông xây dựng được một hợp tác xã làm gốm vào năm 2005. Tuy nhiên, khi đi vào sản xuất thì hợp tác xã lại gặp nhiều vấn đề trúc trắc, khiến sản phẩm ra đời không được như ý muốn: sản phẩm hư hỏng nhiều, chi phí cao, và không có nguồn cầu ổn định. Năm năm làm gốm, cả nhà ông đầu tư đến mấy tỷ đồng, nhưng thu lại thì không được bao nhiêu, thậm chí còn bị lỗ.

"Vẫn còn may là vợ con tôi không phải đi ăn mày," Ông Tân trầm ngâm kể lại.

Năm ngoái, chính quyền xã quyết định thu hồi số đất ông thuê (của nhà chùa) làm xưởng gốm để xây trường học, trong sự bức xúc của ông Tân, bởi ông bảo có chịu lỗ vài năm nữa để mạo hiểm với nghề gốm thì ông vẫn làm, miễn là chính quyền trao cơ hội.

"Làm vậy chẳng khác nào dồn tôi và nghề gốm và bước đường cùng," Ông Tân phàn nàn.

Quá khứ không trở lại

Trao đổi với trưởng thôn của làng, ông Cáp Trọng Việt, ông tỏ ý không bằng lòng với thái độ bất mãn của ông Tân khi chính quyền thu hồi mặt bằng sản xuất của xưởng gốm.

"Thời hạn cho thuê đất đã hết, cho nên việc thu hồi là đúng theo quy định, "Ông Việt nói. Ông còn cho biết thêm, chính quyền thôn và xã đã rất tạo điều kiện để ông Tân khôi phục lại nghề gốm, nhưng trải qua hơn 5 năm sản xuất mà nó vẫn chưa cho thấy hiệu quả.

"Tôi thì không tin ông Tân làm được đâu. Đến con trai ông ấy còn không theo nổi, phải bỏ dở xưởng gốm để làm bánh đa nem nữa là. Nhưng nếu ông quyết tâm, chính quyền vẫn sẽ giúp ông tìm mặt bằng sản xuất ở địa điểm khác,"

Ông bảo, chẳng có người con nào lại muốn cái nghề của làng bị thất truyền, nhưng làm gì cũng phải "thực tế." Bởi với cuộc sống hiện nay thì không có chỗ đứng cho gốm Thổ Hà nữa.

Posted Image

Xưởng gốm hoang tàn của ông Tân hiện nay. Ảnh: Khắc Giang

"Ngày xưa chưa có đồ nhựa, đồ gốm sứ Trung Quốc, với lại đồ kim loại, người ta còn dùng đồ gia dụng bằng sành, sứ, chứ bây giờ nhan nhản như vậy thì sản phẩm làm ra có ai mua,"

Chỉ tay ra mấy cái chum, vại cổ ở ngoài sân, ông Việt chia sẻ rằng đó là gốm Thổ Hà xịn mà ông phải đi mua gom lại ở khắp nơi trong vùng Kinh Bắc, nhằm giữ lại chút gì đó gọi là kỉ niệm của cha ông.

"Trong làng này thì chẳng còn mấy gốm Thổ Hà nữa, mà có thì họ cũng giữ chứ chẳng bán cho ai," Ông Việt phân trần.

Ai làm cho khói lên trời...

Cụ Trịnh Đắc Cường là một trong những người hiếm hoi còn sót lại của lứa nghệ nhân làm gốm cuối cùng của đất Thổ Hà. Dù năm nay đã 86 tuổi và thôi làm gốm hơn hai thập kỉ, cụ vẫn hết sức say sưa khi kể chuyện về nghề gốm.

"Sản phẩm gốm sành của Thổ Hà rất bền, cứng, chum vại khi gõ vào có tiếng kêu như chuông, không bao giờ ngấm nước như đồ gốm của Phù Lãng. Sản phẩm không tráng men và phải có màu cánh gián đặc trưng khi xuất lò. Nhưng thế thì sản xuất cũng lâu công và đòi hỏi sự khéo léo cao hơn nhiều. Ví như đồ gốm tráng men của Bát Tràng thì cần lò nung 1000 độ là đủ, còn của Thổ Hà thì phải 1300 độ, mà phải đun bằng củi và cỏ, nếu không sẽ bị vỡ, méo mó, bọp bẹp ngay," Cụ Cường nói.

Cụ kể rằng ngày xưa làng chỉ sống bằng làm gốm, và cũng chỉ có nhờ có nghề này mà làng xây được ngôi đình "to bậc nhất vùng." Cách đây ngót nghét 60 năm thì gốm Thổ hà vẫn còn được giá, nhà nhà làm gốm, người người làm gốm. Nhà nào giàu thì có hai lò nung, mỗi lò cao xấp xỉ bằng "19 cái tiểu xếp chồng lên nhau," nhà nào nghèo cũng phải có một lò nung của họ hành chung nhau.

Đến khi giải phóng miền Bắc, cải tạo tư sản, cả làng bị gom trong "công tư hợp doanh" để lao động. Phần là do thời thế đổi thay, phần là do quản lý kém, gốm Thổ Hà đi xuống từ giai đoạn đó. "Đến khi đất nước đổi mới thì hợp tác xã làm gốm cũng tự giải thể," Cụ Cường nhớ lại.

Cũng như bác trưởng thôn, cụ Cường cho rằng nghề gốm là không thể khôi phục nổi, do sản phẩm đã lỗi thời với thời đại.

Posted Image

Lò nung của ông Tân được trưng dụng để phơi bánh đa nem. Ảnh: Khắc Giang

"Tôi cũng có cậu con trai đề nghị đầu tư làm lại nghề gốm của gia đình, nhưng tôi không đồng ý," Cụ kể.

"Gốm Thổ Hà chủ yếu là phục vụ sinh hoạt hàng ngày, bây giờ người ta có sẵn các loại tương tự mà bền, rẻ hơn nhiều, sao mà cạnh tranh nổi. Có rổ rá nhựa thì ai dùng rổ tre nữa."

"Mong ước lớn nhất của tôi," Cụ nói. "là làm lại được một cái lò nung để gìn giữ nghề và cho khách du lịch tham quan thôi, chứ còn sản phẩm thương mại thì khó lắm."

Thế nhưng mong ước đó của cụ cũng không phải là dễ thực hiện, bởi hầu hết những người nắm vững kĩ thuật làm gốm xưa đã không còn nữa, hoặc vào độ tuổi không còn đủ minh mẫn.

"Thời thế nó vậy thì cứ phải vậy chứ biết làm sao," Cụ thở dài khi nói đến nguy cơ thất truyền của nghề gốm sành Thổ Hà.

Còn với ông Trịnh Đắc Tân, mặc cho cái tiếng là "gàn", vẫn tuyên bố sẽ trở lại và làm giàu bằng được bằng nghề gốm.

"Bây giờ tôi chỉ như con gấu ngủ đông thôi. Cuối năm nay khỏe thì tôi sẽ lại tiếp tục chiến đấu,"

Ông bộ đội phục viên khẳng định như đinh đóng cột khi chia sẻ về những kế hoạch phát triển trong tương lai, những thị trường mà sản phẩm gốm của ông sẽ hướng đến, và cả những công nghệ ông tự xây dựng để làm cho lò nung hiệu quả hơn.

Thời gian đã làm tàn phai dần nghề gốm, và cũng chỉ có nó mới chứng minh được liệu ông Tân có hồi sinh được nghề gốm từ cõi chết trở về hay không.

======================

Khí mạch thay đổi - vận thay đổi khiến làng gốm lụi tàn. Nếu ông Trịnh Đắc Tân quyết tâm phục hồi nghề gốm Thổ Hà và tin vào môn Phong Thủy Lạc Việt, Thiên Sứ tôi sẽ giúp ông về phong thủy hoàn toàn miễn phí. Nhằm mục đích phục hồi nghề gốm Thổ Hà bắt đầu từ ông - để giữ lại một nét Việt.

Nếu ai quen biết ông Tân thì nhắn giúp tin nhắn này đã công khai ở đây.

======================

PS:Tất cả mọi chi phí đi lại và ăn ở của cá nhân tôi và các học viên Phong thủy Lạc Việt - nếu có - tôi tự lo liệu. Ông Tân chỉ việc bỏ tiền thực hiện.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thiên Đồng ủng hộ Sư Phụ.

Chắc phải liên hệ phóng viên Khắc giang của Tuanvietnam thì mới có thông tin đó SP.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hàn Quốc giúp Việt Nam phục chế nhạc cụ cung đình

Chủ nhật, 8/4/2012, 14:01 GMT+7

Bộ Bác chung Đặc khánh (chuông và khánh lớn), loại nhạc cụ Nhã nhạc Việt Nam, vừa được Hàn Quốc hỗ trợ phục chế thành công, góp phần bảo vệ và phát triển nền văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Sáng 8/4, tại sân Thế Tổ Miếu (Đại nội Huế), Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế và Trung tâm nghệ thuật biểu diễn truyền thống quốc gia Hàn Quốc đã tổ chức lễ bàn giao nhạc cụ Bác chung Đặc khánh được phục chế tại Huế với kinh phí 14.000 USD.

Trong lễ bàn giao, nghệ nhân Lữ Hữu Thi, 102 tuổi, nhạc công cuối cùng của dàn nhạc lễ cung đình thời Nguyễn đã thỉnh âm bộ nhạc cụ và tỏ ra hài lòng khi được nghe lại đúng những âm thanh của nhạc cụ cung đình xưa.

Posted Image

Cụ Lữ Hữu Thi thỉnh ẩm bộ Bác chung Đặc khánh. Ảnh: Nguyễn Đông

Trong suốt 6 tháng, với nguyên liệu và phương thức chế tác truyền thống của Việt Nam, sự hỗ và hướng dẫn kỹ thuật chỉnh âm của chuyên gia Hàn Quốc, nghệ nhân chế tác nhạc cụ Kim Huyon Kon và ông Hoàng Trọng Trọng đã trực tiếp phục chế bộ nhạc cụ này.

Nhã nhạc cung đình Việt Nam được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Thế nhưng một số nhạc cụ trong hệ thống diễn tấu nhã nhạc chỉ còn lại những di vật, cách chế tác cũng như diễn tấu đã bị thất truyền. Trong khi đó Hàn Quốc là quốc gia duy nhất ở châu Á còn lưu giữ được phương cách này. Do đó, hai bên đã đi đến sự liên kết để cùng nhau gìn giữ Nhã nhạc.

Dự kiến, hai bên sẽ tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu, trao đổi, thực hiện phục chế nhạc cụ và giao lưu biểu diễn nghệ thuật truyền thống. Sắp tới, hai bên sẽ phục chế thêm bộ Biên chung Biên khánh của Bộ nhã nhạc cung đình Việt Nam để đưa vào sử dụng thường xuyên trong các lễ tế Xã Tắc và tế Nam Giao.

Trước đó vào tháng 12/2010, phía Hàn Quốc đã tặng Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế một bộ Biên chung Biên Khánh dựa trên một số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế và cung An Định.

Nguyễn Đông

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hàng vạn người vượt sông, leo núi dâng tế Thánh Quý Minh Đại Vương

Thứ Hai, 09/04/2012 - 09:46

(Dân trí) - Hàng vạn người đổ về cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) để dâng tế Thánh Quý Minh Đại Vương trong 2 ngày qua. Để tới được đền Trần thực hiện lễ tế dòng người phải vượt qua 5km dòng sông Sào Khuê, xuyên qua 11 hang động và leo hơn 3km đường núi.

Theo truyền thuyết, Thánh Quý Minh Đại Vương là một trong ba anh em - ba vị tướng đã được phong Thánh ( Đức Thánh Tản Viên, Đức Thánh Cao Sơn, Đức Thánh Quý Minh), là người có công trấn ải Sơn Nam, bảo vệ đất nước thời vua Hùng Duệ Vương (tức vua Hùng thứ 18). Đền Trần (khu du lịch Tràng An) được vua Đinh Tiên Hoàng xây dựng vào thế kỷ thứ X và cũng là nơi vua Trần Thái Tông, sau khi dẹp giặc Mông xâm lược (1258), vào tu hành. Ngôi đền bằng gỗ do Đinh Tiên Hoàng đế xây dựng đã đổ nát và được nhà Trần xây dựng lại bằng các cột đá rất nổi tiếng, còn nguyên vẹn cho đến ngày nay, từ đó được nhân dân quen gọi là đền Trần.

Posted Image

Ngay từ sáng sớm hàng vạn người đã chen chân ở khu vực đền Trần

Posted Image

Khi tiếng trống vang lên...

Posted Image

.... dòng người đổ ra bến đò vượt sông, suối, núi non đến với đền Trần

Posted Image

Posted Image

Những thủ tục được làm trên đường vào đền

Posted Image

Có quá nhiều du khách muốn vào đền Trần nên đường thủy cũng tắc

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Phong cảnh hữu tình cũng là một trong những lý do du khách về đây

Posted Image

Nhiều người chật vật với đồ lễ mang theo

Posted Image

Sơn, thủy hữu tình tại đền Trần được tái hiện qua bàn tay người nghệ sĩ

Quang Phong

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chùm ảnh: Những bức hình "không thể kìm nổi" về thác Bản Giốc

(GDVN) - Thác Bản Giốc, hơn cả một địa danh, hơn cả một thắng cảnh, cái tên ấy đau đáu một phần máu thịt người Việt với bao tháng năm dâu bể cùng nắng mưa miền biên ải... Nơi biên cương địa đầu tổ quốc ấy có ý nghĩa thiêng liêng với mỗi người dân nước Việt

Posted ImageTừ xa nhìn xuống khu vực thác Bản Giốc trong sương mờ như thực như mơ. Ngược về Bắc 300km từ Hà Nội lên thị xã Cao Bằng, thêm gần 100km nữa để vào huyện lỵ Trùng Khánh và ngược về xã Đàm Thủy, thác Bản Giốc hiện ra ngỡ ngàng trong vẻ đẹp nguyên sơ và trinh bạch giữa núi rừng Việt Bắc.

Posted ImageLà con dân nước Việt, hãy đến nơi đây - nơi địa đầu tổ quốc này dù chỉ một lần.

Posted ImageMỗi lần tới đây, đứng trước những dòng thác hiên ngang tung bọt trắng trời kia, hẳn ai cũng chung một cảm xúc rất lạ dâng lên, ấy chính là xúc cảm chủ quyền, là cảm thức đất mẹ, cái cảm thức vừa thiêng liêng như tình mẫu tử, vừa đau đáu nỗi dấu yêu với tấc núi tấc sông trong di huấn tiền nhân!

Posted ImageThác được chia làm 2 thác: thác chính và thác phụ. Trong ảnh là hình ảnh toàn cảnh thác chính nhìn từ phía Việt Nam. Nơi đây, Việt Nam và Trung Quốc đã cùng khai thác du lịch với dịch vụ chèo bè mảng đưa du khách dạo vòng quanh hồ.

Posted ImageDu khách về nơi đất mẹ thiêng liêng này ai nấy cũng đều chụp ảnh lưu lại hình ảnh bên cột mốc biên giới tổ quốc

Posted Image

Posted Image

Những dòng thác nước chảy tung bọt trắng xóa.

Posted ImageToàn cảnh thác chính nhìn từ giữa hồ.

Posted Image

Những dòng thác nước chảy tung bọt trắng xóa.

Posted Image

Posted ImageThác Bản Giốc là cực Bắc của tổ quốc giáp ranh với Trung Quốc.

Posted ImageDu khách hai nước tham quan thắng cảnh nơi đây chỉ được đi thuyền dưới lòng hồ mà không được lên bờ phía bên kia của hồ.

Posted ImageHiện nay là mùa cạn nên nước ở đây không được đầy và nước chảy ít lộ ra những gân bờ đất đá rêu xanh

Posted ImageDo mùa cạn nên khu vực thác phụ không có nước chảy. Tuy nhiên, cảnh nơi đây vẫn được ví như chốn bồng lai tiên cảnh.

Posted ImageMột góc mặt hồ (thác phụ) nước còn lại rất ít nhưng nước rất trong và xanh.

Nam Phong

http://giaoduc.net.vn

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những bức ảnh về Hà Nội xưa

Những bức ảnh về Hà Nội không chỉ đẹp hút hồn với những lối kiến trúc cổ kính, Hà Nội xưa còn được xem là Thành phố sầm uất nhất của nước Việt thời bấy giờ. Cửa hàng, cửa hiệu hay sản xuất hàng thủ công chen vai sát vách nhau tạo thành những dãy phố buôn bán tấp nập.

Đến hết thế kỷ XVI Thăng Long Hà Nội xưa vẫn là đô thị độc nhất của nhà nước Đại Việt lúc ấy. Hà Nội xưa có thành, có thị, có bến, có 36 phường buôn bán và thợ thủ công, có chợ ô ven đô, có các làng nghề chuyên canh và chế biến nông sản. Dân tài tứ xứ kéo về Thăng Long-Hà Nội, họ cọ xát, đua trí, đua tài tạo nên nét tài hoa độc đáo chỉ có ở người Hà Nội, ở đất Hà Nội, đó là cách sành mặc, sành chơi, sành ăn, sành làm.

Tuy nhiều công trình kiến trúc cổ đã mai một theo thời gian, Hà Nội ngày nay vẫn được xem là một trong những thành phố đẹp nhất Việt Nam, còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống.

Posted Image

Chùa Một Cột

Posted Image

Cửa Bắc thành Hà Nội.

Posted Image

Bảo tàng Nông nghiệp và thương mại

Posted Image

Đường Phạm Ngũ Lão.

Posted Image

Đường phố Hà Nội năm 1926.

Posted Image

Phố Hàng Quạt.

Posted Image

Tháp Hòa Phong ở Hồ Gươm.

Posted Image

Tổng đốc Hà Nội.

Posted Image

Thầy đồ “bán chữ” trên phố.

Posted Image

Một đám cưới.

Posted Image

Bữa ăn của một gia đình Hà Nội xưa.

Posted Image

Thợ rèn.

Posted Image

Trang phục vũ công.

Posted Image

Diễn viên Tuồng.

Posted Image

Dân nghèo.

Sưu tầm

Share this post


Link to post
Share on other sites

‘Lửa tam muội bí truyền’ kì bí trong thuật ướp xác của người Việt

Cập nhật lúc :10:25 AM, 04/04/2012

Nhục thân của thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu (Bắc Ninh) mang đậm màu sắc tâm linh, nhưng với nhãn quan khoa học, người đời nay đặt câu hỏi rằng, bằng phương pháp gì và con đường nào mà thi thể của ông không bị thời gian hủy hoại?

Bí ẩn trong am cổ

Cách Hà Nội hơn 20km, trên đường đi Bắc Ninh, có tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn. Ngôi chùa này vốn có tên Thiên Tâm, dựng từ thời Tiền Lê, là nơi thiền sư Vạn Hạnh tu hành, giảng đạo và dạy dỗ Lý Công Uẩn, người khai sinh Thăng Long - Hà Nội.

Ai đã đến chùa Tiêu đều không quên ni sư Đàm Chính, người có vẻ mặt đôn hậu và đôi mắt hiền hòa. Hơn 60 năm về trước, khi là một thiếu nữ 17 tuổi, sư Đàm Chính đã về tu nghiệp ở chùa.

Posted Image

Nhục thân được phục dựng lại của thiền sư Chuyết Chuyết (chùa Phật Tích) là một minh chứng khác cho thấy phương pháp tượng táng đặc biệt của người Việt: sau khi thiền sư tịch, các tín đồ đã lấy dây đồng để dựng khung xương theo thế ngồi thiền rồi tạo tượng phủ bên ngoài xương bằng chất bồi mà chủ yếu là mạt cưa, vải, sơn ta… Pho tượng trước khi phục chế đã bị vỡ thành 342 mảnh, gồm 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi, được phục dựng lại hình hài bằng phương pháp Geraximov.

Năm 1971, cái năm mưa liên miên, cây cối mọc nhiều trong vườn tháp, khiến nhà chùa phải bắc thang lên cắt rễ cây ăn sâu vào tháp. Vén một nhành cây phủ tháp Viên Tuệ, ni sư thấy một viên gạch màu đỏ, trên có ghi tên và năm tịch của người trong tháp. Qua khe nứt, ni sư kinh hãi nhận thấy một người ngồi thiền trong tháp, nhưng ni sư bịt chặt kẽ hở và giữ kín chuyện, mãi tới năm 1996 mới thưa lại với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt, khi tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư ngỏ lời nhờ Hòa thượng giúp đỡ và người của Thiền viện Trúc Lâm ngỏ lời với PGS Nguyễn Lân Cường.

Lần theo văn tự trên viên gạch đính trên tháp, được biết rằng, người ngồi trong tháp có đạo hiệu là Ma ha đại Tỳ kheo Như Trí; tháp được kính cẩn hoàn thành vào ngày lành mùa Xuân niên hiệu Bảo Thái thứ 4 (1723) triều Lê Dục Tông. Thân thế sự nghiệp của Thiền sư Như Trí đến nay chưa tìm thấy sử sách, chỉ xuất hiện trong một vài tác phẩm văn Nôm chưa có dịp kiểm chứng. Những tư liệu đó cho biết, ngài có cùng một số huynh đệ có cùng chữ Như, phụ giúp Thiền sư Chân Nguyên sao lục ấn hành những tác phẩm của thời Trần còn sót lại trong nhân gian như Khóa Hư Lục, Tam Tổ Trúc Lâm, Kiến Tánh Thành Phật và đặc biệt là năm 1715 in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục - một bộ sách rất có giá trị về văn hóa Phật giáo Việt Nam.

Theo Thượng tọa Thích Thông Phương – Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử thì “Thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của Thiền sư Chân Nguyên, một thiền sư thời Hậu Lê có công phục hưng Thiền phái Trúc Lâm, do sư tổ Trúc Lâm – vua Trần Nhân Tông mở ra và từng trụ trì chùa Long Động ở Yên Tử, nay là Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay ở đây còn tháp đá tôn thờ Thiền sư, gọi là tháp Tịch Quang”. Thượng tọa Thích Thông Phương cũng nhận xét rằng, Thiền sư Như Trí đã an nhiên trước sinh tử, thị tịch trong tư thế khiết già và để lại nhục thân cho đến ngày nay, càng làm sáng tỏ dòng Thiền Trúc Lâm trên đất Việt và cho thấy chư Tổ người Việt tu hành rất có kết quả cao sâu, đúng với chân lý bình đẳng mà Phật đã dạy.

Ngày 5/3/2003, nhục thân Thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp, trong tư thế bán già, tay kết ấn tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay, nhiều phần hư hỏng nặng, có nhiều vỏ trứng của các loài côn trùng hoặc bò sát nằm rải rác quanh bệ sen làm bằng gốm non màu đỏ.

Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc, nhưng trong lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân Ngài qua nhiều năm không bị gục xuống. Khi PGS Cường tu bổ pho tượng táng này là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư. Ông khẳng định: “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”.

Posted Image

Đưa nhục thân thiền sư Như Trí vào khám rồng.

Ông Cường và các nhà khoa học lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích bằng phương pháp phổ nhiễu xạ tia X, kết quả cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam chúng ta phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng Thiền sư, tức là thi thể Thiền sư được ướp theo một cách thức riêng, không hề giống với cách ướp xác của người Ai Cập.

Việc tu bổ pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí đã hoàn thành, Ngài đã trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục ngồi “kiết già” trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản cẩn thận của khoa học hiện đại.

Tuy nhiên, câu hỏi lớn đặt ra với các nhà khoa học là, sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn?

Yếu quyết tự ướp xác

Theo nhà Phật, người chết mà để lại những phần không bị thiêu hủy sau khi hỏa táng thì gọi là xá lợi. Xá lợi ấy nhiều khi cũng rất đặc biệt, ví như cái lưỡi của ngày Duy Ca Mật, một vị thuyết pháp người Ấn Độ, hay như quả tim của vị danh tăng Thích Quảng Đức để lại do tự thiêu để phản đối chế độ Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam. Theo truyền thuyết kể lại thì, đức Phật sau khi viên tịch cũng để lại xá lợi là những viên ngọc ngũ sắc mà ngay cả nhiệt độ rất cao cũng không thiêu hủy được.

Nếu là những bậc chân tu, sau khi luyện được tâm thanh tịnh thì họ đạt được ngũ thông hoặc lục thông. Tai họ có thể nghe được âm thanh cực nhỏ hoặc từ rất xa; mắt nhìn được xa những vật rất nhỏ, tâm có thể đọc được ý nghĩ của người khác. Tuy nhiên, các gốc của Phật giáo không phải là để đạt được ngũ thông, lục thông mà là để chuyển hóa cái tham, sân, si trong con người mình đến chỗ an nhiên, thanh tịnh. Để dù mắt thấy sắc, mũi thấy mùi, tai nghe rõ… nhưng trong tâm không nảy sinh bất kỳ một ý niệm nào ưa thích hay ghét bỏ, phiền não. Nếu tu được đến mức độ như vậy thì quá khứ hay hiện tại sẽ không còn ngăn cách nữa. Tất cả những yếu quyết để tự ướp xác này là một phương pháp bí truyền có tên là “lửa tam muội”.

Tương truyền, lửa tam muội nghĩa là một ngọn lửa huyền bí, là thứ năng lượng đặc biệt của con người. Người ta dùng hô hấp để kích động các bí huyệt trong cơ thể, để lúc nào cũng cảm thấy ấm áp như được khoác một bộ áo dày, mà người Tây Tạng gọi là “mặc áo tiên”. Khi đã nhập định, người ngồi thiền cảm thấy thân tâm thoải mái, an lạc, dễ chịu mà người ta hay gọi là “sống trong tiên cảnh”.

Cũng như khinh công, luyện lửa tam muội là một phương pháp bí truyền, phải có thầy chỉ dẫn, chứ không thể học theo sách được. Thầy phải là người đã luyện thành công lửa tam muội mới có thể chỉ dạy được, để biết rõ các nguy hiểm trên đường tập luyện, vì một sai lầm có thể đưa đến điên loạn hay tử vong. Hành giả phải có một thân thể cường tráng, mới có thể khắc phục được những khó khăn bước đầu.

Posted Image

Viên gạch đính trên tháp chứa nhục thân Ngài ghi rõ: Nhục thân ở trong tháp có tên là Ma ha Đại Tỳ kheo Như Trí (theo bản dịch của PGS.TS Đỗ Thị Hảo).

Cũng như mọi phương pháp bí truyền, người ta thường thêu dệt nhiều điều huyền hoặc, khó kiểm chứng. Tuy nhiên, đằng sau những điều khó tin này, vẫn ẩn tàng một cái gì đó cần gạn lọc để tìm ra tinh hoa ở bên trong.

Thông thường, môn sinh ngồi cho thật vững vàng, thoải mái. Cách ngồi phổ biến là kiết già hoặc bán già. Sau khi tập ngồi thuần thục, chân tay hết nhức mỏi thì bắt đầu tập thở cho thật đều, thật sâu trước khi hít thở theo nghi thức. Như vậy, môn sinh ngồi thế kiết già bắt chéo hai chân, bàn tay đặt lên đầu gối, ngón cái, ngón trỏ và ngón út thẳng ra, ngón giữa và ngón áp út thu vào lòng bàn tay. Thoạt đầu, họ thở cho thông hai lỗ mũi, sau đó tập trung tư tưởng vào hơi thở. Khi thở ra, họ tưởng tượng mình đang xả bỏ các tính xấu như tham lam, ích kỷ, ngạo mạn, hận thù. Khi hít vào, họ tưởng tượng mình đang thu vào những tính tốt như từ, bi, hỷ, xả, thanh tịnh. Tiếp theo, họ hít vào, dồn khí xuống bụng, nín thở trong một thời gian ngắn, trước khi từ từ thở ra. Cứ tập như thế, đến khi cơ thể hoàn toàn thả lỏng, tâm trí dứt hết các nỗi lo lắng, ưu phiền, hoàn toàn thoải mái tự tại.

Nếu đạt yêu cầu, môn sinh được chấp nhận cho làm lễ điểm đạo truyền pháp. Họ sẽ bỏ bộ áo dày, chỉ khoác một tấm vải mỏng. Và từ đó, họ không ngồi gần lửa, tìm đến nơi hoang vu, thanh vắng, có độ cao trên bốn ngàn thước để hít thở không khí trong lành. Bí kíp ghi rõ: “Không được tập luyện trong nhà cửa, xóm làng, vì không khí ở đó bị ô nhiễm củi lửa, có những rung động không tốt, ngoại cảnh làm xáo trộn tâm trí của hành giả”. Hành giả sẽ sống cô đơn ở nơi hoang vu, bỏ hết phiền não cõi trần.

Sau khi hợp nhất khí huyết, môn sinh tưởng tượng có một quả cầu lửa to bằng nắm tay sẽ sáng rực ở rốn, mỗi hơi thở sẽ như ống bễ quạt cho ngọn lửa này cháy to hơn, mỗi lần dồn khí xuống sẽ kích thích quả cầu này tỏa nhiệt mạnh mẽ.

Hít hơi vào, giữ hơi lại và thở hơi ra đều nương theo một câu chú để giữ ngọn lửa đó không tắt. Nhờ trước đây đã luyện thành thục cách quán tưởng xả bỏ tham sân si khi thở ra, và thu từ bi hỉ xả khi hít vào nên tâm được thanh tịnh. Nếu đốt cháy giai đoạn, cẩu thả luyện khí mà chưa điều ngự được tâm, thì vọng niệm nảy sinh, luồng hơi nóng sẽ chạy loạn xạ vào các kinh mạch, khiến môn sinh có thể điên loạn và tử vong.

Nếu tâm không còn vọng động, môn sinh có thể dùng tư tưởng hướng dẫn luồng hơi nóng đi thẳng vào các thần mạch.

Đỉnh cao của phương pháp luyện lửa tam muội là tự thiêu đốt đi lớp mỡ trong cơ thể mình và chỉ để lại những phần bất hoại với thời gian. Khi những thiền sư đốt đến giọt năng lượng cuối cùng thì cũng là lúc họ vĩnh biệt cõi trần. Chính vì thế, nhục thân của họ không bị phân hủy và trở nên bất tử.

Người đời vẫn thường kể lại câu chuyện, trước khi qua đời, thiền sư Vũ Khắc Minh đã chuẩn bị sẵn cho mình một am nhỏ trên vách núi. Khi bước vào trong am, thiền sư dặn dò các đệ tử của mình rằng: “Mang cho ta một chum nước uống và một chum dầu để thắp. Khi nào thấy dứt tiếng mõ hãy mở cửa am ra. Nếu thấy thi thể của ta đã hỏng thì dùng đất lấp am đi, còn ngược lại thì dùng sơn ta mà bả lên thi thể”.

Nhiều chuyên gia cho rằng, thiền sư Vũ Khắc Minh đã luyện được lửa tam muội tới mức tối thượng và dùng nó để bước vào cõi hư vô, bất tử. Như lời hòa thượng Thích Thanh Tứ nói lúc sinh thời thì, đây là kết quả của một quá trình rất dài chứng nghiệm trong tu tập, loại bỏ tất cả những tạp niệm của tâm để đạt đến sự giác ngộ viên mãn.

Năng lượng con người là một thế giới còn ẩn chứa vô vàn những bí mật chưa được khám phá. Nhục thân của các vị thiền sư Việt có lẽ đã gợi mở rằng, con người sở hữu một nguồn năng lượng vô hạn và khát vọng bất tử đã tồn tại trong nhiều thế kỷ qua.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bí ẩn tòa tháp khổng lồ ngót ngàn năm tuổi ở Vĩnh Phúc

14/5/2012 16:34 PM

Thật không ngờ, ở huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, lại có một tuyệt tác tháp uy nghi, cổ kính đến vậy. Hỏi cụ bà đang tưới rau dưới ruộng về tháp, cụ đọc hai câu thơ: “Hỡi ai qua bến đò Then/ Dừng chân mà ngắm tháp tiên bên đường”.

Đứng từ xa nhìn lại, cao vọt khỏi ngọn tre là tòa tháp xây gạch đỏ au trong bóng chiều. Sư cô Thích Bửu Đạo cặm cụi nhổ cỏ dưới chân tháp. Thật cám cảnh khi nhìn tòa tháp cổ kính, đẹp đẽ lại lọt giữa một không gian bừa bộn, hoang tàn đến vậy.

Posted Image

Tháp Bình Sơn.

Sư Thích Bửu Đạo vốn tu hành ở một ngôi chùa dưới Hải Phòng. 10 năm trước, qua vùng đất này, đến xã Tam Sơn, thấy tòa tháp đứng cô độc trên một gò đất, chùa Vĩnh Khánh đổ nát hoàn toàn, mà xót xa. Ngoài tòa tháp, thứ còn lại từ ngót ngàn năm nay ở ngôi chùa này chỉ là cây đại, cây duối và cây si già khổng lồ, cổ quái. Trong lòng sư tự dưng thấy rằng, mình phải có trách nhiệm gây dựng lại ngôi chùa cổ, có từ thời Lý này.

10 năm trụ trì, lao động quần quật, tôn tạo từng phần, nhưng chùa Vĩnh Khánh vẫn ngổn ngang. Tòa tháp tuyệt đẹp dường như bị lãng quên, ít người biết đến.

Truyền thuyết kỳ lạ

Theo sư Thích Bửu Đạo, tòa tháp có tên là Bình Sơn, hay còn gọi là tháp Then (chùa Vĩnh Khánh còn có tên là chùa Then). Gần như không có thông tin lịch sử về tòa tháp này, nhưng truyền thuyết dân gian gắn với tòa tháp thì có khá nhiều. Đáng chú ý là truyền thuyết về ông Ngụy Đồ Chiêm.

Posted Image

Chuyện rằng, xưa kia, ở cạnh tháp Bình Sơn có một cái chợ. Người đàn bà lạ dắt con đến, dựng quán nước dưới gốc đa đầu chợ kiếm ăn. Một lần, trên đường đến nhà ông đồ học chữ, cậu bé tên Chiêm nghe thấy tiếng nói: “Cậu sắp sướng rồi”.

Cậu kể với mẹ, nghĩ có thánh thần phù hộ, người mẹ đến chân tháp quỳ lạy. Bỗng 3 hòn đá hình ông đầu rau từ đỉnh tháp rơi xuống. Người mẹ bê 3 hòn đá về kê bếp đun nấu. Đun bếp hết năm này qua năm khác nhưng 3 hòn đá không nứt vỡ, ám khói mà chuyển sang màu đỏ au rất đẹp.

Posted Image

Tòa tháp gồm 11 tầng.

Thời gian sau, có mấy ông thầy địa lý người phương Bắc ghé qua quán nước, thấy 3 hòn đầu rau đẹp liền bảo: “Bà tặng chúng tôi 3 hòn đá kê bếp, chúng tôi sẽ hướng dẫn chỗ đặt mộ chồng cho”.

Bà mẹ đồng ý rồi dẫn thầy địa lý về quê, bới hài cốt, táng lên núi Sáng cách tháp Bình Sơn không xa.

Khi người mẹ biết mình không sống được nữa, liền gọi con trai đến dặn dò: “Thầy địa lý dặn rằng, bao giờ con có cờ, có kiếm thì phải lên tạ mộ cha”. Dặn con xong, bà tắt thở.

Khi đó, trong vùng xuất hiện nhiều nhóm cướp, liên tục vào làng cướp bóc của cải, giết hại dân chúng. Cậu thanh niên tên Chiêm đã tập hợp thanh niên trong làng luyện võ, rồi thay nhau túc trực bảo vệ dân.

Vì là thủ lĩnh, nên có cờ, có kiếm. Chiêm chợt nhớ lời dặn của mẹ liền lên núi tạ mộ cha. Đến mộ, thấy 2 con rắn, nghĩ là bố mẹ mình biến thành, nên khấn vái.

Posted ImagePosted Image

Gạch in hình rồng.

Bọn cướp không làm ăn được gì, bèn tung tin có thanh niên tên Chiêm chiêu mộ quân tính làm phản. Tin ấy lan nhanh về kinh thành. Triều đình cho quân đi đánh dẹp. Nhưng voi, ngựa cứ đến đất Lập Thạch (huyện Sông Lô mới tách ra từ Lập Thạch) thì không chịu đi nữa, nên quân triều đình lại rút về.

Nhiều lần quân triều đình thất bại, thanh thế ông Chiêm ngày càng lớn, quy tụ nhiều nhân tài. Vì thế, triều đình gọi là ông Ngụy Đồ Chiêm.

Mấy thầy địa lý xưa chỉ tính giúp ông Chiêm có một chức quan nhỏ, nhưng không ngờ, thanh thế ông Chiêm lên nhanh quá, có thể làm vua, sẽ tiến lên phương Bắc, nên tìm cách diệt ông.

Posted Image

Tháp rỗng ruột.

Những người này đến gặp ông bảo: “Ngôi mộ của cụ nhà đã phát, nhưng còn thiếu tay long. Ngài phải đào con lạch từ núi Sáng về qua mộ thì mới chóng thành công”.

Ngụy Đồ Chiếm lập tức cho đào ngay. Con lạch đào xong, ông bỗng thấy rã rời thân thể. Giữa lúc đó quân triều đình lại tràn sang, dân binh tan vỡ. Ngụy Đồ Chiêm ôm kiếm chạy vào cây tháp rồi biến mất.

Ông Ngụy Đồ Chiêm là một nhân vật xuất hiện trong nhiều truyền thuyết của vùng đất cổ Lập Thạch và Sông Lô.

Posted Image

Đế tháp hình hoa sen.

Tòa tháp bí ẩn

Tháp Bình Sơn vốn được phát hiện và nghiên cứu từ thời Pháp. Một học giả Pháp cho rằng, tòa tháp mang phong cách nghệ thuật Đại La, thuộc văn hóa Đường, được xây dựng từ thế kỷ thứ 7.

Sư cô Thích Bửu Đạo, hiện trụ trì chùa Vĩnh Khánh thì tin rằng đây chính là tháp do người Chăm xây dựng. Xưa kia, đây có thể là nơi giam giữ tù binh Chiêm Thành. Những người tù được tha lập làng sinh sống, rồi lập chùa và xây dựng tòa tháp này. Theo sư Đạo, bà đã đến nhiều tháp Chăm ở trong Nam và thấy tòa tháp này rất giống!

Posted Image

Những viên gạch ốp có hoa văn rất đẹp.

Tuy nhiên, các nhà khoa học nước ta cho rằng, tòa tháp này xuất hiện vào thời Lý và được tu bổ, tôn tạo vào thời Trần. Dù nó có ảnh hưởng nhiều nét văn hóa Chăm, nhưng nó là do bàn tay, ý tưởng của người Việt thời Lý – Trần sáng tạo ra và xây dựng nên. Thời Lý, nhiều công trình ở miền Bắc cũng có nét ảnh hưởng văn hóa Chăm, chứ không riêng gì tòa tháp này, tiêu biểu là cột rồng đá chùa Dạm (Bắc Ninh), mang hình sinh thực khí.

Theo đó, vào đầu những năm 1960, đê sông Lô vỡ, ngập lụt liên miên, xói lở tận chân tháp, nên tháp Bình Sơn bị nghiêng có nguy cơ bị đổ. Khi chỏm tháp rơi xuống, một số mái vỡ, thì Sở Văn hóa Vĩnh Phú cùng Bộ Văn hóa quyết định phục dựng.

Posted Image

Gạch hình lá đề khá phổ biến.

Cuộc phục dựng tòa tháp diễn ra vào năm 1972, giữa lúc chiến tranh lửa đạn khốc liệt. Từng viên gạch được tháo dỡ, đánh dấu, dập thạch cao để phục dựng y như thật.

Nghệ nhân đất Hương Canh được huy động tạo ra những viên gạch có mộng, hoa văn phức tạp đúng như bản gốc, bổ sung cho những viên bị vỡ nát. Họ phải dùng đất đỏ lấy ở gò Vườn Sui để chống co ngót, dùng đất sét xanh ở Đầm Mát để có sự kết dính và mịn mặt, dùng đất ở Móng Trâu làm nguyên liệu chính, tạo thành một hợp chất chế tác gạch hoa văn cầu kỳ thời Lý.

Posted Image

Theo lịch sử ghi lại, thì cứ trung bình 100 viên gạch mộc, mới chọn được một viên đúng mẫu và nung bằng rơm 48 viên đúng mẫu đó, mới chọn được một viên đạt yêu cầu. Riêng việc làm gạch để bổ sung cho những viên vỡ, cũng phải mất 2 năm và tốn hàng chục vạn viên gạch mộc. Quả là một kỳ công vĩ đại.

Mặc dù, những năm chiến tranh lửa đạn, tòa tháp được các nhà khoa học, sử học quan tâm hết mực, thế nhưng, giờ đây, tòa tháp lại có vẻ đang bị quên lãng. Công trình nghệ thuật có thể nói là cực quý, cực đẹp, có tuổi rất cổ này lại chưa được nghiên cứu, chưa được biết đến nhiều.

Tương truyền tháp có 15 tầng. Hiện chỉ còn 11 tầng tháp và 1 tầng bệ, cao 16,5 mét. Tháp được xây bằng 13.200 viên gạch nung. Ruột tháp rỗng từ chân lên ngọn.

Gạch dùng để xây dựng tháp Bình Sơn được nung với độ lửa cao. Để cho các viên gạch có thể đứng với nhau theo một chiều cao dựng đứng mà không cần vôi vữa, những người xây dựng tháp đã sáng tạo những phương pháp lắp ghép khá độc đáo.

Viên gạch được chế tác có mấu và có gờ chỉ để giữ lấy nhau. Còn có cách khác là mỗi viên gạch có một lỗ hình thang, hai viên gạch xếp sát nhau, tạo thành một mộng cá và người ta đổ chì vào mộng cá đó để giữ 2 viên gạch với nhau.

Mặt ngoài tháp ốp gạch có trang trí hoa văn rất phong phú như hoa chanh, hình lá đề, sư tử vờn cầu, rồng uốn khúc... rất tinh tế, phóng khoáng, mang đầy sinh khí của nghệ thuật dân tộc thời Lý – Trần (thế kỷ XII – XIII).

Chân tháp có nhiều vành đai cánh sen chồng lên nhau khiến người chiêm ngưỡng có cảm tưởng như tòa tháp được mọc lên từ một bông sen lớn.

Hình rồng trang trí ở tháp Bình Sơn là rồng có sừng và cuộn tròn mình, đầu rúc vào giữa, chân đạp ra ngoài, sống lưng có vây như răng cưa, một chân trước đưa lên vuốt tóc.

(Theo VTC News)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay