Thiên Sứ

Nét Việt

153 bài viết trong chủ đề này

Chuyện lạ ở xứ nuôi gà khổng lồ

Cập nhật lúc16/06/2011 01:30:00 PM (GMT+7)

Bịch, bịch… những bước chân nặng nề, lịch bịch nện thồm thộp trên nền đất ngỡ như con trẻ chạy nhẩy lò cò hay đánh bi đánh đáo khiến tôi giật mình ngoảnh lại.

Lũ gà trống con nào con nấy to cỡ dăm cân rưỡi đến trên sáu cân, mào đỏ cục, thân mình trùng trục những thịt là thịt đang lật đật chạy về đón những hạt ngô, thóc vừa tãi ra từ tay ông chủ… Có lẽ chúng là những con gà khổng lồ của xứ Việt này.

Khắp đất Việt Nam có lẽ gà Hồ xứng đáng với danh hiệu đệ nhất đô vật bởi trọng lượng đáng kinh ngạc của chúng. Giống gà này do dân làng Hồ (Lạc Thổ, thị trấn Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) nuôi gắn liền với tục lệ thi gà luộc vào ngày mồng bốn tháng giêng, trong lễ “khao trầu”.

Lệ làng, dân Lạc Thổ được chia ra các giáp. Trong mỗi giáp sẽ họp bàn, quyết định chấm xem bao nhiêu người được nuôi gà trống thờ khao trầu. Người được chọn phải rất mát tay chăn nuôi, tính tình cẩn thận đến tỉ mỉ và quan trọng là đạo đức thuộc hàng sáng không một tì vết.

Posted Image

Gà khổng lồ ở Đông Hồ.

Thế nên ai được làng giáp “chấm” để nuôi gà lễ đều coi đó là một vinh dự cực lớn. Lễ khao trầu diễn ra tưng bừng, sáng mồng bốn người người nô nức vòng trong, vòng ngoài đen đặc xem cảnh những cụ ông phơ phơ râu bạc, cân gà đã luộc chín xem gà giáp nào nặng nhất để mà lĩnh thưởng. Phần thưởng nhỏ thôi nhưng ý nghĩa tinh thần của nó cực lớn khiến cho giáp nào giáp nấy đều háo hức, bộn rộn cả năm trời chăm sóc đàn gà cưng của mình theo những phương cách bí mật nhất.

Tương truyền có những con gà Hồ khi còn sống nặng tới 7-8 kg, tức bằng hai con ngỗng lớn. Không chỉ nổi tiếng là giống vật to, đẹp một cách thanh nhã đã đi vào dòng tranh Đông Hồ mà gà Hồ thịt còn rất thơm, ngon, đậm, thường dùng làm quà biếu cho những nơi ân tình.

Ông Nguyễn Đăng Chung - Hội trưởng Hội gà Hồ kể chuyện ngày xưa, các cụ nuôi gà Hồ bằng bí kíp cơm nóng nghiền cùng cám xay, nặn cỡ ngón tay rồi nhồi cho gà như các bà phe phẩy vẫn nhồi ngan, nhồi vịt ăn bánh đúc trước khi đến cổng chợ vậy. Loại hỗn hợp nóng sốt và giàu dinh dưỡng trên sẽ giúp cho gà tiêu hóa rất nhanh, cái mề chẳng mất mấy thời gian co bóp đồng hóa thức ăn, khiến cho trọng lượng gà chẳng mấy chốc hóa khổng lồ đến ngoại cỡ trong họ hàng nhà hai chân.

Posted Image

Giờ đây, chẳng biết do giống gà đã thoái hóa hay không còn ai nhồi kiểu này nên con gà kỷ lục mà ông Nguyễn Đăng Chung nuôi được cũng chỉ cỡ 6,5kg. Để vỗ đạt đến trọng lượng lý tưởng ấy, ông phải mất cỡ 2-3 năm nuôi theo dạng thả vườn và nhất là chỉ cho ăn thóc, ngô chứ tuyệt nhiên không dùng cám công nghiệp thì thịt mới thơm, ngon, giòn sật đúng chất gà Hồ.

Ông Chung kể” “Gà Hồ do có trọng lượng khác thường nên cách chế biến cũng cầu kỳ. Chúng được làm lông, mổ moi và giàng (tạo dáng bằng các thanh tre buộc lại) theo thế quỳ, bay, phục… luộc trong nồi trăm lít dễ đến hơn nửa giờ mới sôi. Khi nồi luộc sôi được một chốc phải tắt bếp ngâm đến khi gà tự chín để khỏi bị nứt da, xấu dáng, thịt giữ nguyên vị ngọt đậm đà. Con gà lúc ấy đem bày lên bàn thờ gia tiên nom bệ vệ, uy nghi như một con đại bàng đang xòe cánh.

Ngoài món luộc, gà Hồ còn chế biến được rất nhiều món mà đặc sắc nhất phải kể đến món nem… da gà vô tiền khoáng hậu. Gà Hồ vốn có lớp da rất dày tựa bì lợn, một con gà cỡ trên 5kg lột cũng phải được 1kg da. Da ấy được đem luộc chín, thái con chì nhỏ rồi bóp với thính làm bằng đỗ tương rang, muối, gia vị, lá chanh… làm thành món nem ăn sậm sựt, thơm ngon, rất khoái khẩu và vô cùng tốn rượu. Thịt gà Hồ xào lăn, nấu đông hay đem nấu xáo đều ngon có tiếng. Ngay cả đến bộ xương cùng cổ cánh đem hầm đỗ đen, ngải cứu ăn cũng đặc vị Đông Hồ”.

Posted Image

Gà Đông Hồ lớn hơn hẳn so với giống gà bình thường.

Trong sân nhà ông Nguyễn Thế Trà - một người cả đời đắm đuối bên những con vật hai chân ngoại cỡ quê mình, tôi mê mải nhìn những con gà khổng lồ, đi đứng lộc ngộc, thỉnh thoảng lại cất cao chiếc cần cổ vĩ đại gáy giọng ồ ồ vang vọng từ đầu làng, cuối xóm. Tiếng gáy có thể làm co rúm những con gà mái hoa mơ đang tuổi ghẹ trống ở nhà hàng xóm.

Ông Trà bảo, giống gà này 3,8-4kg còn chưa mọc đủ lông, chưa biết ghẹ mái, thịt chưa ngọt nên luộc hãy còn nát. Cứ phải đến cỡ 4,5-5kg mới đúng chất gà Hồ. Nói rồi ông vào chuồng bắt cho tôi xem con gà trống giống nặng trên 5,5kg. Đang bị nhốt chồn chân, mỏi cẳng, lại thấy người lạ đến gần lãnh địa nên nó cứ bươi bả trong tay ông lão chực chạy khiến ông mấy phen suýt ngã nhào phải gọi cả con trai xắn tay áo lại phụ giúp.

Kỷ lục về gà của ông Trà từng nuôi là con đã cắt tiết, làm lông, mổ moi sạch sẽ lòng mề cân móc hàm lên cũng được 5kg tương đương khi cân hơi cỡ gần 7kg.

Hiện nay, do thị trường của những người sành điệu, lắm tiền, nhiều của rất chuộng chất lượng gà Hồ nên ngay cả chính dân trong vùng cũng ít khi được thưởng thức đặc sản quê mình mà toàn bóp mồm, nhịn miệng để bán cho giới nhà giàu ở Hà Nội.

Một con gà Hồ bóc trứng giá cỡ 50-60.000đ, một kg gà thịt khoảng năm rưỡi, hai năm tuổi giá từ 200-250.000đ/kg nên một con gà cũng xêm xêm 1,2-1,5 triệu đồng. Ấy vậy mà muốn ăn được thưởng thức một miếng thịt gà Hồ phải đặt từ lúc giêng, hai bởi không có nhiều, có sẵn mà bán. Mỗi con gà, đã có cả “chồng gạch” đặt sẵn từ khi chúng còn chưa nhổ giò, bốc dáng.

Do thời gian nuôi lâu, cần không gian rộng để cho chúng vẫy vùng cứng gân, chắc thịt nên nuôi một lứa gà Hồ người ta nuôi được tới 3-4 lứa gà thường. Hiệu quả kinh tế thấp, chậm lớn, chỉ có ai máu mê lắm, hoài cổ lắm mới nuôi gà Hồ. Vậy nên, có câu thơ: “Mến yêu Lạc Thổ thì về/ Làng em làm mã có nghề chăn nuôi/ Đất vui nhiều lợi thảnh thơi/ Gà chăn, chim thả, chờ thời mỗi niên”…

Giờ gà Hồ được liệt vào hàng quý hiếm đến mức Viện Chăn nuôi quốc gia phải cử cả chuyên gia bảo tồn về đánh số từng con gà quý để đưa vào dự án bảo tồn duy trì quỹ gen. Buồn thay, tình thế cho con gà gắn liền với dòng tranh dân gian một thời cực thịnh vẫn không sáng sủa lên là mấy.

Hội gà Hồ năm nào đông vui vài chục người giờ bỏ cuộc chơi gần hết, chỉ còn rơi rớt mươi người quyết giữ nghề tổ. Mỗi hộ có chừng hai, ba chục con giống, dịp Tết cung ứng kịch trần khoảng 100-150 con ra thị trường nên ai không quen, không biết mối không thể có cơ hội tự khoản đãi hay được khoản đãi giống gà biếu cực kỳ quý này.

Bớt cao cấp hơn gà Hồ là gà Đông Cảo (Đông Tảo, Khoái Châu, Hưng Yên). Giống gà này cũng nổi tiếng là to nhưng dáng thô hơn hẳn gà Hồ với đặc điểm cực kỳ dễ nhận dạng là chân chúng thấp hơn, vảy xù xì, góc cạnh, riêng cái cẳng chân đã to cỡ bắp tay người lớn. Tuy dáng xấu nhưng thịt gà Đông Cảo cũng thơm ngon, săn chắc không kém gà Hồ là mấy. Thịt gà Đông Cảo vang danh thiên hạ với hai món tủ là xào lăn với ớt và món thịt nấu đông với những miếng da dày mà giòn, sậm sựt chẳng kém bóng bì.

Posted Image

Những chú gà Đông Hồ được những người sành ăn đặt từ khi còn nhỏ xíu.

Một câu chuyện mà dân ở đây vẫn râm ran truyền tụng đầy tự hào về kích thước con gà của mình rằng vào thời điểm giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc ác liệt nhất, làng xóm đào hầm chữ A trú ẩn hết lượt, mọi hoạt động rút vào bí mật. Bỗng một sáng, có ông khách lạ công tác qua đêm ở Đông Cảo chợt nghe thấy tiếng những bước chân rầm rập như duyệt binh.

“Quái lạ, sao đội dân quân xã nhà tập tành gì mà sớm thế?”. Ông tự hỏi và cố dụi đôi mắt cò cử, kèm nhèm đầy dử, ngóng ra hướng có tiếng động với một lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Thốt nhiên, chỉ thấy một bầy gà Đông Cảo nhà nào quên cài then chuồng, lộc ngộc đang “hành quân” trên con ngõ nhỏ. Chuyện trở thành huyền thoại cho cả làng từ bấy…

Những con gà như thế nhắc nhớ đến lời của Tả tướng quân Lê Văn Duyệt nói rằng gà có năm cái đức: Văn, Vũ, Dũng, Nghĩa, Tín. Cũng gần thật vậy, nhìn những con gà trống Đông Cảo sải bước trong các khu vườn hay lối xóm một cách bệ vệ , uy nghi đầy hào khí quan võ lại có nét kính lễ của quan văn, nét thư thái của bậc đồ nho tín nghĩa.

Cùng là giống gà có kích thước ngoại hạng nhưng Đông Cảo khác gà Hồ ở chỗ chúng bớt “quý tộc” hơn, chịu cái tính của con nhà khó, mắn đẻ và có thể nuôi bỗ bã, tốc độ xuất chuồng cũng rút ngắn chỉ bằng phân nửa thậm chí phần ba gà Hồ. Nghề nuôi gà cổ truyền do đó trở nên rất thịnh.

Ở Đông Tảo luôn có chừng dăm, bảy chục hộ nuôi với quy mô từ ba chục đến cả vài trăm gà trong chuồng, sẵn sàng tung ra một lượng gà đến cả tấn.

Ông Tạ Đình Hiệu - một hộ nuôi gà gia truyền nghiệm rằng gà mái to quá, đẻ không nhiều, vào ổ dễ vỡ trứng, nuôi con không khéo, gà trống to quá đạp mái cũng yếu nên dân làng có xu hướng chọn tạo gà ngày một… nhỏ hơn. Đời ông của ông Hiệu cỡ gà 7kg không lạ, đời bố ông cỡ gà 6kg rất phổ biến còn bây giờ gà chỉ đạt trung bình loại 5kg.

Anh Đào Đức Thuận - một hộ chuyên nuôi gà thịt dạng thả rông vừa xuất chuồng 100 con cho biết một năm gia đình mình cung ứng cỡ 500 gà thịt ra thị trường. Anh Thuận kể: “Gà nuôi khoảng 6 tháng là đạt cỡ 3,5 kg/con dù chỉ cho ăn toàn ngô, thóc. Mùa cưới hễ có bao nhiêu bị vét hết bấy nhiêu với giá 80.000đ/kg, còn ngày lễ tết mua biếu cỡ 90-100.000đ/kg. Tính ra mỗi con cũng lãi được dăm chục ngàn. Tết này tôi chỉ còn 50-60 con bán thôi”.

Khác với cách nuôi truyền thống của anh Thuận, nhà anh Nguyễn Trọng Hoan lại nuôi gà Đông Cảo theo phương pháp bán công nghiệp: quây chuồng, cho ăn cám công nghiệp giai đoạn nhỏ rồi sau đó cho ăn ngô, thóc. Mỗi năm nhà anh Hoan xuất bán Tết cỡ 1 tấn gà thịt. Năm ngoái gà được giá, nông sản rẻ nên anh lãi được 30.000đ/kg, năm nay theo trù bị anh chỉ còn lãi cỡ 17.000đ/kg, vị chi một cái Tết anh cũng bỏ túi được ba bốn chục triệu nhờ giống gà độc đáo quê mình.

Hầu như tất cả số gà Đông Cảo được lái đến cất tại chuồng rồi bán ra chợ huyện, chợ tỉnh hay bán cho những người làm quà biếu ở mạn Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội…

(Theo VTC News)

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những bích họa bí ẩn trên núi Cửa Chùa

Cập nhật lúc 28/06/2011 10:27:47 AM (GMT+7)

Từ vách đá sần sùi, trắng xóa dần hiện lên những vệt đỏ ối. Nước chảy đến đâu, sắc đỏ xuất hiện đến đó và theo thời gian màu đậm dần lên. Khi dòng nước chảy hết một khoảnh trên phiến đá, thì hình ảnh một người đàn ông to lớn, dũng mãnh, dữ dằn hiện lên đỏ rực.

Sau khi hứa lên bờ xuống ruộng rằng không tiết lộ cụ thể địa điểm có hình vẽ bí ẩn trên vách đá, tôi được Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Luyên giới thiệu tới ông Trần Xuân Quang, Trạm trưởng trạm du lịch Vân Long. Theo Thạc sĩ Luyên, ông Quang là một trong số ít người biết rõ vách đá có hình vẽ bí ẩn, độc nhất được biết đến ở Việt Nam.

Sau phút ngần ngừ, rồi ông Quang cũng gọi anh Nguyễn Văn Nhàn, là cộng tác viên của khu du lịch, có nhiệm vụ tuần tra kiểm soát người ra vào, trông nom đàn voọc trong những dãy núi của khu ngập nước Vân Long.

Posted Image

Mái đá chứa những bích họa bí ẩn.

Anh Nguyễn Văn Nhàn chống sào đẩy con thuyền nhỏ lướt nhẹ trên đầm Vân Long. Cảnh tượng núi đá mọc lên giữa khu ngập nước, soi bóng lung linh, với sen tỏa ngát hương, chả khác nào bồng lai dưới hạ giới.

Dãy núi Cửa Chùa dài gần cây số, là một trong số cả chục dãy núi thuộc khu ngập nước Vân Long, vắt qua hai tỉnh Ninh Bình và Hòa Bình, rộng vài ngàn héc-ta. Toàn bộ các dãy núi đều là núi đá vôi, với vô vàn vách đá phản ánh mặt trời trắng xóa. Nếu không có sự chỉ dẫn, tự lần mò đi tìm, chắc cả năm cũng thấy hình vẽ ở đâu.

Con đường từ bến thuyền đến núi Cửa Chùa chỉ dài chưa đầy 1km, song Nhàn phải chèo thuyền ngót 30 phút mới tới nơi. Lâu ngày không có người ra vào dãy núi này, sen mọc bít lối đi. Nhàn phải đẩy thuyền cật lực mới đè bẹp được những lá sen to như cái ô để thuyền lướt đi.

Posted Image

Bích họa người đàn ông dữ tợn.

Toàn bộ dãy núi Cửa Chùa cỏ mọc rậm rịt, dây leo chằng chịt. Thi thoảng có những vách đá trống trơn, phải chiếu ánh mặt trời trắng xóa, không có cây cỏ nào bám lên được. Chúng tôi chỉ trỏ hết vách đá này đến vách đá kia để phán đoán nơi có những bích họa lạ lùng, song Nhàn chỉ cười tủm tỉm.

Rồi con thuyền cũng cập chân núi. Nơi đây, có một bãi đất khá bằng phẳng, khô ráo, rộng rãi và sạch sẽ. Vách đá như một bức tường thành khổng lồ, nghiêng chừng 70 độ, như thể sắp đổ ụp xuống.

Nhàn chỉ tay lên vách đá rộng vài trăm mét vuông bảo: “Anh đi tìm xem hình vẽ ở chỗ nào”. Tôi lần mò khắp vách đá, ngửa mỏi cổ nhìn lên cao, vạch từng bụi cỏ song tuyệt nhiên chả thấy có hình vẽ, hình khắc nào cả. Có chăng, chỉ thấy vài vết vạch nguệch ngoạc như ai đó dùng dao chém vào.

Posted Image

Không thể nhìn thấy hình vẽ khi chưa dội nước vào vách đá.

Nhàn chẳng nói chẳng rằng ra mép đầm hái một lá sen to tướng rồi vục đầy nước. Nước đầm trong đến nỗi nhìn rõ cả con cá bé xíu bằng cọng tăm bơi lội. Nhàn bê bịch nước đứng dưới chân vách đá bảo: “Anh nhìn kỹ nhé, toàn bộ vách đá màu trắng, sần sùi tự nhiên, không có tranh vẽ gì cả”. Thì đúng là vách đá chẳng có gì, bởi tôi đã lần mò tìm kiếm kỹ lưỡng một lượt.

Nhàn ráng sức té bịch nước lên vách đá. Một cảnh tượng như ma thuật hiện ra trước mắt tôi: Từ vách đá sần sùi, trắng xóa dần hiện lên những vệt đỏ ối. Nước chảy đến đâu, sắc đỏ xuất hiện đến đó và theo thời gian màu đậm dần lên. Khi dòng nước chảy hết một khoảnh trên phiến đá, thì hình ảnh một người đàn ông to lớn, dũng mãnh, dữ dằn hiện lên đỏ rực.

Posted Image

Không rõ đây có phải là chữ tượng hình cổ không?

Người đàn ông này có khuôn mặt tròn xoe, hai mắt là hình vẽ tròn như hai hòn bi ve, đôi tai rất lớn và mái tóc trông như ngọn lửa đang cháy. Nhìn toàn bộ khuôn mặt, thì có thể thấy người vẽ muốn biểu đạt đây là người kỳ quái, hung tợn.

Lạ nhất là phần khắc họa bụng. Những nét vẽ ở bụng như kiểu giải phẫu, với xương sườn và nội tạng. Tuy nhiên, vì nét vẽ không chi tiết, rõ ràng, nên cũng có thể hiểu đó là áo giáp.

Posted Image

Đây là người, khỉ hay mèo?

Riêng hình vẽ phần chân thì mang tính cách điệu nhiều hơn là tả thực. Đôi chân khá nhỏ, đứng trong tư thế… xiêu vẹo. Bàn chân thì không có, nhưng các ngón chân thì dài và ngoằn ngoèo như thể rễ cây. Không rõ phần chân của người đàn ông này muốn biểu thị điều gì, hay là sự ngô nghê của con trẻ khi đặt bút? Khả năng ngô nghê ít xảy ra, bởi hai điều, thứ nhất là địa điểm vẽ khá cao, trên vách đá, mà người lớn phải kiễng chân mới với tới được, thứ hai, chất liệu vẽ trên đá không phải là sơn hay mực tầm thường (điều này sẽ nói sau). Như vậy, đôi chân kỳ quái của người đàn ông này phải biểu thị một ý tưởng nào đó, cần sự giải mã của các nhà khoa học.

Hai tay người đàn ông này cầm hai thứ vũ khí khác nhau. Tay phải cầm quả chùy cán dài, tay trái cầm thanh đao và giương ra hai bên như thể đe dọa. Xét về mặt tổng thể, có thể tưởng tượng đây là một chiến binh.

Posted Image

Bích họa hình người cực kỳ đơn giản.

Sau khi quan sát kỹ lưỡng bức họa người đàn ông kỳ dị, tôi dùng chai nước khoáng bằng nhựa múc nước dưới đầm rồi phụt bừa lên vách đá. Nước chảy đến đâu, các nét đỏ ối hiện lên đến đó. Chỗ nào nhiều nước thì màu đậm, chỗ nào ít nước thì màu hiện lên mờ nhạt. Chỉ dội qua một lượt, tôi đếm được tới vài chục hình vẽ. Các hình vẽ khác đều có tiết diện nhỏ hơn so với hình vẽ người đàn ông dữ tợn.

Những hình vẽ trên mái đá không theo một thể thống nhất, xuất hiện lộn xộn và rải rác khắp mọi nơi. Có chỗ các hình vẽ tập trung dày đặc, có chỗ lưa thưa vài hình, có chỗ chẳng có hình vẽ nào.

Có hai nội dung mà các hình vẽ biểu thị, gồm hình người và ký tự lạ. Các ký tự xuất hiện rất nhiều, có chữ hơi giống chữ Nho, song có chữ như thể tượng hình tả một con vật nào đó. Liệu đây có phải là một loại chữ cổ thời xa xưa? Nếu đây là hệ thống chữ cổ, thì quả là một thông tin vô cùng quý giá.

Posted Image

Cậu bé ngồi trên ngai vàng?

Về hình người thì có vô số hình vẽ khác nhau, có hình cầu kỳ phức tạp, với đầy đủ tay chân, đầu tóc, vũ khí, song có hình rất đơn giản, chỉ gồm cái đầu tròn xoe và thân hình bầu, thêm mỗi cái tay nữa.

Có hình tôi nhìn mãi mà không biết chủ nhân vẽ người, khỉ hay mèo. Nhìn ở một cách toàn diện, thì vừa giống khỉ vừa giống người, nhưng nhìn riêng khuôn mặt thì lại rõ là con mèo.

Phổ biến nhất có lẽ là hình người, gồm cả trai lẫn gái nhảy múa bên nhau, rồi hình người tay cầm dao kiếm.

Posted Image

Hình vẽ nhiều nhất là cảnh nhảy múa.

Lạ nhất là một khu vực dày đặc người, nhảy múa có hàng có lối. Phía trên cùng là một người đang ngồi không rõ trên ghế hay ngai vàng. Hình nhìn vẽ này, có thể liên tưởng người ngồi trên ghế là ông chủ, vua chúa, đấng tối cao. Tuy nhiên, người ngồi trên ghế lại giống một đứa trẻ, đầu đội mũ, miệng cười rất tươi.

Nhìn các hình vẽ, có thể thấy nhiều sắc thái, nhiều khung cảnh hiện lên. Đó có thể là mô tả về chiến tranh, về đời sống thường nhật, về các lễ hội… Tôi cứ vục nước té lên khắp mái đá, để rồi ngắm nhìn không chán mắt những bích họa ma quái, kỳ lạ, lúc ẩn, lúc hiện trên vách đá.

(Theo VTC News)

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tắm tiên ở giếng thần Ngọc Lâu

Cập nhật lúc 29/06/2011 08:00:00 PM (GMT+7)

Bản Khộp (xã Ngọc Lâu, Lạc Sơn, Hòa Bình) có một cái "giếng thần". Tất cả già trẻ trai gái có tục tắm tiên ngay bên miệng giếng.

'Hòn ngọc xanh' ở lưng chừng núi

Ngắm phụ nữ với thổ cẩm Dao đỏ

Khám phá "du lịch bay"

10 nơi ở kỳ lạ nhất

Kỳ nghỉ tuyệt vời tại hòn đảo tình yêu

Giếng không bao giờ cạn

Ông Bùi Văn Chấn - Chủ tịch UBND xã Ngọc Lâu - tự hào: "Xã chúng tôi có cái "giếng thần" thì dù trời hạn hán đồng ruộng cũng không sợ hết nước". Nói xong, ông dẫn chúng tôi đến bản Khộp cao chót vót trên đỉnh núi để mục sở thị "giếng thần" kỳ lạ này.

Đó là một mó nước khá sạch sẽ. Bốn bên xây bằng bê tông vuông vức nhưng nước không lúc nào cạn. Một số thanh niên nghịch ngợm ở bản Khộp đã thử tát nước ra ngoài suốt đêm nhưng giếng không cạn một chút nào. Điều này được kiểm nghiệm qua anh Bùi Văn Hanh, nhà ngay cạnh "giếng thần". Anh Hanh cho hay: "Không biết mạch nước ở đâu nhưng dùng máy bơm cỡ lớn để tát cả đêm vẫn không thể hết nước trong giếng".

Posted Image

Người dân bản Khộp giặt giũ, tắm rửa bên giếng

Ông Bùi Văn Huy - Trưởng ban Văn hóa xã Ngọc Lâu - cho hay: "Trước đây, "giếng thần" nhìn rất hoang dã như một mó nước tự nhiên. Vì sợ bị mai một nên chúng tôi cho xây dựng tường bao để bảo vệ. Tuy nhiên, tính linh thiêng và mực nước trong giếng vẫn không hề thay đổi".

Cụ Bùi Văn Én đã hơn 90 tuổi nhưng vẫn còn nhớ rất rõ câu chuyện cha ông kể lại rằng, "giếng thần" có từ thời đẻ đất, đẻ nước. Trời sinh ra "giếng thần" để nuôi sống muôn loài trên vùng núi đá cao này. Trước đây, bản Khộp là vùng rừng rậm có nhiều thú dữ. Ngay cụ Én thời trẻ cũng phải thường xuyên chạy vào các hang núi để trốn hùm beo.

Thú dữ cũng đã làm hại nhiều người dân bản khi họ dùng nước tại "giếng thần" này. Tuy nhiên, theo quan niệm địa phương, muông thú bình đẳng với con người nên không ai được phép đánh đuổi thú dữ khi đến với "giếng thần". Vì thế, một thời "giếng thần" Ngọc Lâu là tài sản chung của tất cả người Mường sống dọc ven núi Hòa Bình và các muông thú trong rừng rậm.

Cụ Én cho hay: "Sống gần hết đời người và ăn ở với "giếng thần" nên tôi biết nó thiêng lắm. Các anh có vứt chất bẩn gì xuống đó thì nước vẫn trong vắt và người làm bẩn giếng chắc chắn sẽ bị trừng phạt".

Cụ Én kể câu chuyện, có người đến giếng chửi thề và ngay lập tức bị méo mồm. Gia đình đưa nạn nhân đi các thầy lang nhưng không ai chữa khỏi, cuối cùng phải về thắp hương xin lỗi thần giếng và múc nước cho uống thì bệnh tình mới thuyên giảm.

Không biết những câu chuyện ấy thực hư đến đâu nhưng tất cả người Mường ở bản Khộp nói riêng và người dân xã Ngọc Lâu nói chung đều rất kính cẩn trước "giếng thần". Họ coi đó là biểu tượng linh thiêng nhất của người Mường bản địa và là nguồn sống của người dân vùng núi đá này.

Tục tắm tiên

"Giếng thần" Ngọc Lâu linh thiêng còn là nơi làm đẹp của người Mường ở bản Khộp đầy bí ẩn. Hầu hết con gái bản Khộp đều có làn da rất trắng và mịn màng. Họ bảo, đó là do tắm rửa bằng nước "giếng thần".

Cũng không biết từ khi nào, người dân nơi đây có tục tắm tiên ngay bên miệng giếng. Tất cả già trẻ trai gái đều tắm tiên với nhau mà không mảy may có một ý nghĩ xấu nào. Họ tắm tiên tại giếng với mong ước được gột rửa những tội lỗi, phàm tục trong cá nhân mỗi con người để trở nên trong sạch hơn.

Theo ông Huy, người bản Khộp ngày nào cũng tắm tiên. Họ tập trung vào khoảng 11 giờ trưa và từ 5 giờ chiều cho đến lúc tối mịt. Giờ cao điểm có đến hàng trăm người xếp hàng lũ lượt chờ đợi để được tắm.

Posted Image

Nước giếng trong vắt

Theo cụ Én, tục tắm tiên của người bản Khộp có liên quan đến lời đồn ma quái cách đây hàng trăm năm: "Thời ấy, có con ma rừng hay đi bắt người về hang trên núi. Con ma rừng đã hại rất nhiều người bản Khộp mà không có cách nào ngăn chặn được. Thế rồi, có một pháp sư người Mường Bi từ dưới sông Mã đạp nước cưỡi mây dùng bùa phép trấn yểm con ma này. Pháp sư căn dặn dân làng phải tắm ở nước giếng thần thì con ma mới không dám bắt. Thế rồi, từ đó đến nay người bản Khộp có tục tắm tiên nổi tiếng khắp tỉnh Hòa Bình".

Giếng 2 màu nước

Theo lời ông Bùi Văn Lơ - Trưởng bản Khộp - thì giếng có hai màu nước là sự kỳ lạ chưa từng có. Sau khi làm xong tất cả các "thủ tục", bỏ lại giầy dép, máy ảnh... ông Lơ mới dẫn chúng tôi vào xem hai tia nước kỳ lạ dưới đáy giếng.

Quan sát kỹ, phần đáy giếng có hai tia nước bắn rất mạnh. Một tia nước màu trắng tinh, một tia màu hồng nhạt. Hai tia nước này được bắn lên từ một khe nhỏ của khúc gỗ dưới đáy giếng.

"Giếng thần" Ngọc Lâu là kho báu quý giá của người Mường bản Khộp. Chuyện thần thánh hóa khu "giếng thần" đã có từ xa xưa. Người bản Khộp quan niệm, "giếng thần" là nguồn sống của cả loài người nên họ rất có ý thức để bảo vệ, không ai có thểxâm phạm đến khu giếng nếu có ý đồ đen tối.

Ông Bùi Văn Chấn - Chủ tịch UBND xã Ngọc Lâu

Chuyện "giếng thần" Ngọc Lâu không bao giờ cạn nước là có thật. Dù có bơm suốt ngày đêm thì mực nước vẫn cứ giữ nguyên. Người bản Khộp mùa đông không phải nấu nước tắm vì nước giếng rất ấm, không phải nấu nước uống vì nước giếng rất đảm bảo vệ sinh. Thậm chí, người bản Khộp bị đau bụng, sau khi uống nước giếng vào thì khỏi bệnh.

Ông Bùi Văn Lơ (trưởng bản Khộp)

Theo Bee.net.vn

'Hòn ngọc xanh' ở lưng chừng núi

Ngắm phụ nữ với thổ cẩm Dao đỏ

Khám phá "du lịch bay"

10 nơi ở kỳ lạ nhất

Những luật lệ lạ đời nhất thế giới

Kỳ nghỉ tuyệt vời tại hòn đảo tình yêu

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

5 cây thị cổ được trả giá 7 tỷ đồng

Thứ bảy, 9/7/2011, 09:49 GMT+7

Gốc cây lớn, nhiều người ôm không xuể, thân xù xì với những hốc rỗng vài người ngồi lọt, quả thị to nặng tới một kg. Có đại gia đã trả giá 7 tỷ đồng cho cả 5 cây, nhưng chủ nhân nhất quyết không bán.

Rừng lộc vừng 500 tuổi ở Huế

Ông Lê Minh Thưởng, hậu duệ đời thứ 16 của họ Lê ở xã Nghi Thịnh (Nghi Lộc, Nghệ An), chủ nhân của 5 cây thị cho biết, theo gia phả, cách đây hơn 600 năm, một trận đại hồng thủy cuốn phăng các làng mạc, biến vùng đất ven biển xứ Nghệ này thành một bãi cát trắng. Trên bãi cát bạc màu ấy, 5 cây thị vẫn tươi tốt.

Vào thế kỷ 15, một lần dẫn quân đi đánh giặc ngoại xâm, đô đốc Lê Văn Hoan dừng chân ở vùng đất trên, buộc voi vào 5 cây thị vừa để tuyển quân, vừa nghỉ ngơi. Đô đốc Lê Văn Hoan ăn thử một quả thị thấy rất ngọt. Sau lần đó, đoàn quân của đô đốc thắng lớn, Lê Văn Hoan được phong chức Đại nguyên soái Lê Quý Công.

Mỗi lần vào thăm 5 cây thị ở vùng đất này, đoàn quân đánh giặc đều giành chiến thắng. Thấy lạ, nguyên soái đã để một số con cháu ở lại để sinh cơ lập nghiệp rồi lập miếu thờ 5 cây thị. Từ đó, con cháu họ Lê sinh sôi, phát triển và trở thành một trong những dòng họ lớn trong vùng.

Posted Image

Cây thị Nu nằm ở góc vườn nhà ông Thưởng. Ảnh: Nguyên Khoa.

Cũng theo gia phả và nhiều bậc cao niên trong làng kể lại, 5 cây thị cổ này chính là nơi mà đoàn quân của vua Quang Trung đã cột voi trong lần hội quân trước khi ra Thăng Long đánh tan quân Thanh năm 1789.

Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, 5 cây thị cũng là chứng tích lịch sử. Cụ Nguyễn Văn Nam, 80 tuổi ở xã Nghi Thịnh cho biết, từ nhỏ cụ và các bạn đồng lứa đã ngồi chơi dưới những gốc thị khổng lồ. Đến mùa quả chín, khắp làng trên, xóm dưới đều đến hái quả ở cây thị này. “Nạn đói quay quắt năm 1945 đã khiến nhiều người chết, tuy nhiên nhiều người dân vùng biển đã sống nhờ vào quả của những cây thị già này”, cụ Nam khẳng định.

Khi giặc Mỹ ném bom bắn phá, vùng biển Nghệ An là một trong những vùng trọng điểm. Khi đó, một đơn vị phòng không của quân khu 4 đã đóng trong vườn nhà ông Thưởng. Ở dưới mỗi gốc thị là một căn hầm lớn, có giao thông hào thông nhau. Một số cây thị lớn được người dân và bộ đội khoét rỗng để làm bếp nấu và trú bom.

“Chỉ huy phòng không của quân khu 4 từng ngồi trong hầm cây thị này để chỉ huy bắn hạ nhiều máy bay địch. Hàng chục đoàn quân khi vào Nam chiến đấu đã đi qua những hầm hào của 5 cây thị già”, một cựu chiến binh ở xã Nghi Thịnh cho biết.

Trong suốt những năm chiến tranh gian khổ và cả sau đổi mới, 5 cây thị già bị nhiều người quên lãng. Năm 2006, một đoàn khách du lịch khi đi nghỉ ở Cửa Lò đã vào thăm 5 cây thị cổ của dòng họ Lê. Sau một hồi xem xét những khối u sần sùi, những cái hốc đen ngòm của 5 cây thị, một đại gia đã trả giá cây nhỏ nhất 30.000 USD, cây to giá cao hơn.

“Tính ra tiền Việt lúc đó hơn 3 tỷ đồng, nếu tôi bán thì họ sẽ mang tàu biển vào cập cảng Cửa Lò rồi chở cây đi. Đến lúc đó, con cháu họ Lê mới biết dòng họ mình đang giữ bảo vật”, ông Thưởng cho biết.

Sau nhiều lần tìm đến mua cây thị, nhưng không có kết quả, vị đại gia nọ đã nâng giá lên 7 tỷ đồng cho 5 cây nhưng ông Lê Minh Thưởng kiên quyết không bán vì “đây là báu vật của tổ tiên, là nguồn mạch phát triển của cả dòng họ”.

Posted Image

Ông Thưởng bên cạnh gốc của một cây thị cổ. Ảnh: Nguyên Khoa.

Năm 2007, những cây thị già của ông Thưởng được đưa vào chương trình “Chuyện lạ Việt Nam”, từ đó nhiều đoàn khách đã tới thăm, nhiều đại gia ở Nam Định, Quảng Ninh, Hà Nội đã tìm vào đòi mua nhưng ông cũng không bán. Năm 2010, một đoàn nghiên cứu về cây của Hội Bảo vệ thiên nhiên Việt Nam đến phân tích, thu mẫu và kết luận những cây thị này có tuổi đời gần 600 năm.

Trong số 5 cây thị ở 5 góc vườn nhà ông Thưởng, cây lớn nhất được gọi là thị Nu. Gốc thị lớn 9-10 người ôm mới xuể, rễ thị cắm sâu vào lòng đất, chạy khắp cả khu vườn. Cũng như những cây khác, thân của cây thị này chi chít những hốc, những khối u sần sùi, da mốc meo với nhiều loại cây tầm gửi trong đó có cả hoa phong lan sinh sống.

Mặc dù đều là những cây thị cổ nhưng mỗi cây lại có đặc điểm riêng. Cây thị Nu có quả rất lớn đến gần một kg. Sở dĩ được gọi là thị Nu bởi khi hái xuống thì chưa thể ăn ngay mà phải dấm đến vài ngày mới ăn được. Cây thị lớn thứ hai trong vườn gọi là thị Hồng, có quả chín màu hồng. Một cây khác gọi là thị bần, quả nhỏ, không có hạt và ăn rất thơm. Cây khác được gọi là thị Chàm…

Cả 5 cây thị đều bị khoét rỗng ở phía trong với những vết cháy đen ngòm do việc nấu bếp bí mật và những căn hầm dã chiến trong chiến tranh, nhưng ở ngoài vỏ, những cành non mơn mởn cứ tiếp tục đâm chồi mạnh mẽ.

“Dù đã rất già cỗi nhưng 5 cây thị là bảo vật thiêng liêng vô giá, là mạch sống của tổ tiên. Một số năm, các cây thị khác trong vùng có thể mất mùa nhưng cả 5 cây thị này đều trĩu quả. Ở tuổi gần đất, xa trời, ước mong lớn nhất của tôi và của nhân dân trong vùng là những cây thị này sẽ sớm trở thành cây di sản Việt Nam, con cháu sau này sẽ tiếp nối truyền thống cha ông, tiếp tục gìn giữ”, ông Lê Minh Thường vừa ôm lấy hốc cây thị già vừa nói.

Đại diện chương trình Cây di sản Việt Nam thuộc Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường Việt Nam cho biết, mặc dù các chuyên gia của hội đã biết đến 5 cây thị hiếm có này, tuy nhiên hội vẫn chưa nhận được đơn đăng ký cây di sản của ông Thưởng. Sau khi nhận được đơn, Hội sẽ lập đoàn kiểm tra, thẩm định để công nhận 5 cây thị là cây di sản Việt Nam.

Hà Nguyên Khoa

5 cây thị cổ

Posted Image

Cả 5 cây đều có đường kính lớn, được xác định tuổi thọ 600 năm với nhiều thế đứng nằm ở 5 góc vườn.

Posted Image

Gốc những cây thị sần sùi, vỏ mốc trắng.

Posted Image

Trên mỗi cây thị có rất nhiều hốc rỗng.

Posted Image

Phía dưới gốc các cây thị đều bị khoét rỗng từ thời chiến tranh để làm bếp nấu và hầm tránh bom.

Posted Image

Có những hốc cây rất rộng, đến vài người chui lọt.

Posted Image

Phía trong những hốc cây thị đều bị đốt cháy đen vì khói bếp.

Posted Image

Mỗi cây có một tư thế khác nhau nhưng cây nào cũng có nhiều cành, nhiều u sần sùi.

Posted Image

Nhiều rễ nổi trên mặt đất được những lớp rêu xanh bao bọc, chạy khắp các góc vườn.

Posted Image

Trên thân cây thị có rất nhiều loài tầm gửi sinh sống trong đó có cả hoa phong lan.

Posted Image

Những cành thị lớn mọc trên các gốc cây khổng lồ vươn lên che bóng khắp khu vườn.

Posted Image

Trận bão năm 2010 khiến một số cành thị bị gãy…

Posted Image

Nhưng ngay dưới cành bị gãy và hốc cây sần sùi là những chồi thị non đang mọc.

Nguyên Khoa

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Vua duối" Kinh Bắc kể chuyện "bắt rồng"

14/09/2011 07:09:00

Posted Image - Kiệt tác "lưỡng long chầu nguyệt" trưng bày dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đã đưa "vua duối" Nguyễn Thế Vững thành người nổi tiếng. Nhưng sự nổi tiếng ấy phải đánh đổi bằng 30 năm và cả cuộc đời "bắt bóng luyện rồng".

"Thằng hâm mới đi trồng duối"

Ngôi nhà mới xây của "vua duối" Nguyễn Thế Vững nằm khuất sâu trong một con ngõ nhỏ thuộc thôn Thiểm Xuyên, xã Thụy Hòa (Yên Phong, Bắc Ninh) đầy ắp những chậu duối cảnh đủ thế dáng chen chúc nhau trong một mảnh đất nhỏ trước nhà.

Người đàn ông đen nhẻm gầy như thanh củi khô trễ kính xuống mũi nhìn những chậu cảnh chưa được "an cư" và suy nghĩ một điều gì đó xa xôi lắm. Tôi hỏi, sao không trồng duối ra vườn cho an tâm? Ông buồn phiền: "Trồng ra vườn thì xa mình quá, duối là phải ở gần người mới xanh tốt có hồn được".

Posted Image

Cây duối rất khó để tạo dáng.

Và câu chuyện bắt đầu từ 30 năm trước khi Nguyễn Thế Vững tròn 30 tuổi là anh nông dân lực điền của Hợp tác xã Thụy Hòa. Một ngày đầu năm 1980, anh nông dân ấy từ bỏ ruộng đồng vác dao đi khắp nơi. Không ai biết anh đi đâu, làm gì nên chỉ có người phán đoán là "thằng này vác dao đi chém người".

Lúc đó, Vững gần như trầm cảm, cả ngày không nói lời nào. Người nhà thấy vậy phát hoảng hò nhau, người kéo chân kẻ kéo áo khi thấy Vững vác dao ra đường vào lúc trời nhá nhem tối. "Vững ơi, tao xin mày Vững ơi. Mày chém ai ở cái làng này thì mày chém chết mẹ mày trước đi con ơi", ông Vững nhớ lại lời bà cụ thân sinh khi ra giằng co kéo đứa con "thần kinh" của mình về.

Vào sáng hôm sau, cả nhà Vững lại hốt hoảng khi thấy trước sân nhà la liệt cây duối dại. Sau một hồi giải thích, cả nhà mới hiểu và bò lăn ra cười vì "nó vác dao đi đào cây duối". Cuộc đời của anh nông dân bắt đầu "kết duyên" với những cây duối vô giá trị mọc hoang hóa đầy những gò đất ở cánh đồng ngoài nghĩa địa.

Posted Image

Ông "vua duối" Nguyễn Thế Vững

Nhiều người thấy Vững bỗng dưng bỏ ruộng đi làm cái việc vô công rồi nghề thì toạc miệng: "Thằng hâm mới đi trồng duối". "Mà đúng là mình hâm thật. Cây duối chẳng khác nào củi khô, không thể làm cảnh, không thể lấy quả, không sinh ích lợi... mà mình đi trồng, thế mới dở", ông Vững tâm sự và chính bản thân ông cũng không giải thích được tại sao lúc ấy mình lại đi trồng duối.

30 năm luyện... rồng

Cũng từ ngày dở chứng đi trồng duối, Vững bắt đầu lang thang tại các chùa chiền để ngắm cảnh lấy cảm hứng. Trong một lần lên chùa Hàm Long - một ngôi chùa cổ nổi tiếng của Bắc Ninh, Vững phát hiện đôi rồng đá tuyệt đẹp.

Từ đó, trong đầu lúc nào Vững cũng nghĩ về rồng và ngày ngày đi lang thang, lân la đến các bãi đất hoang, những bụi cây rậm, thậm chí nửa đêm xách đèn ra bãi tha ma cách nhà ba cây số tìm cây duối có thể uốn hình rồng.

Posted Image

Mỗi cây, từ to đến nhỏ đều có riêng một "nhật ký" ghi rõ ngày trồng, chiều cao...

Vận may đến vào mùa thu năm 1980 khi Vững đuổi theo đôi rắn hổ mang ở gò đất hoang làng bên. Đôi rắn chui tọt vào hang nhưng phía bên trên lại xuất hiện một "con rồng" kỳ lạ. Đó là cây duối nhỏ có dáng uốn lượn như rồng tuyệt đẹp. Vui mừng, Vững đánh ngay cây duối về nhà trồng vào một cái ang lớn và chăm sóc rất cẩn thận.

Như có duyên, vào năm sau khi đi dự đám cưới ở huyện Quế Võ, Vững lại thấy một cây duối hình rồng bên ngay vệ sông Cầu. Bỏ đám, Vững lọc cọc chở duối về nhà. Đủ một đôi rồng tí hon đã quá mừng nhưng công cuộc "luyện rồng" mới đầy gian khổ.

Tròn chẵn 30 năm, đôi rồng ấy đã vắt kiệt sức lực của một thanh niên lực điền thành một ông già gầy yếu. "Nhưng đấy là niềm vui, 30 năm tôi ăn ở với duối. Dạy con từ thuở còn thơ, tôi từng ngày mầy mò uốn cho duối thành rồng", ông Vững thỏa nguyện.

Có một điều tôi nhận ra ở ông "vua duối dở hơi" là luôn nhận duối là "con" của mình. Suốt 30 năm, những đứa con bằng xương bằng thịt của ông nheo nhóc đều do một tay vợ chăm sóc vì ông bù đầu vào những cuộc kiếm tìm, tạo dáng cho duối và ông cũng thành thật rằng: "Tôi chưa kiếm một xu nào từ duối", đó là lời tâm sự rất thật, vì toàn bộ tài sản duối của ông hiện đều có mặt ở trước nhà. Mỗi cây, từ to đến nhỏ đều có riêng một "nhật ký" ghi rõ ngày trồng, chiều cao...

Posted Image

Ông Vững bên tác phẩm "lưỡng long chầu nguyệt".

Nhìn đôi "lưỡng long chầu nguyệt" của ông Vững mà không ai không... thèm. Đã có nhiều đại gia đánh xe con về trả ông tiền tỷ để đổi lấy đôi rồng ấy nhưng ông không bán. "Chẳng người cha nào tham tiền đến độ phải bán đứa con mình đi cả", ông Vững cho hay.

Khi Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội sắp đến, ông Vững lại mất ăn mất ngủ chăm sóc và hoàn thành những công đoạn cuối cho đôi rồng đi triển lãm. Ngày đưa "rồng" ra xe, cả thôn Thiểm Xuyên hò nhau ra khênh vui như hội. UBND tỉnh Bắc Ninh cũng chi 1.200.000đ giúp ông Vững vận chuyển "rồng"ra Hà Nội.

"Tú vườn" và triết lý... bào thai

"Thằng hâm mới đi trồng duối" ngày nào giờ đã được dân làng và giới sinh vật cảnh phong cho là "tú vườn" - một chức danh không chính chức nhưng có vẻ chính danh. Ông Vững vốn cũng đã từng tự nhận mình như vậy và ông còn có cả một mớ những triết lý khác lạ về nghệ thuật trồng cảnh mà tôi đồ rằng, từ trước tới nay chưa ai có.

Từ cây duối, các thế cây được ông Vững đặt tên rất mỹ miều, ngoài "lưỡng long chầu nguyệt" còn có: Bạt phong hồi cố, huynh đệ đồng khoa, lão giả an chi, phu phụ nhất tử... Những cái tên ấy đều rất hợp với thế cây và tạo cho người thưởng lãm một thú vị về nghệ thuật và văn hóa gia đình người Việt.

Ông Vững bảo, trồng duối phải "trong tĩnh ngoài động" tức là bề ngoài phải luôn sôi động, luôn hào hứng và dứt khoát nhưng bên trong tâm hồn phải sau lắng, tạo cho mình một cảm hứng và trí tưởng tượng thì mới có thể tạo thế cho duối như các loài cây khác.

Đêm xuống là thời gian ông Vững "sáng tác" ra những thế cây mới cho duối. Ông có triết lý bào thai, muốn có tâm hồn trong trẻo thì phải "tĩnh như bào thai nuôi con nhỏ". Đó có lẽ là lý do mà các con ông không thể chịu được khi thấy bố cứ nửa đêm là lục tục dậy "nói chuyện với cây".

"Đôi khi tôi cũng nghĩ, hay là mình "yêu duối quá hóa tâm thần" nhưng không phải. Cái "anh" duối này khó tính lắm. Đấy chú xem cả nước Việt Nam và thế giới có ai trồng và tạo được thế cho duối chưa. Tôi khẳng định là chưa có ai đâu. Duối không đơn giản như cây sanh mà ngược lại, nó có duyên với ai thì nó mới chịu cho tạo dáng, không thì chết ngay", ông Vững tiết lộ.

Hiện nay, tổng tài sản của "vua duối" đã lên tới tròn chẵn 100 cây không hơn không kém. Trong đó có nhiều cây rất giá trị với thế dáng độc nhất vô nhị. Hằng ngày, vẫn có những đoàn khách tham quan và có cả những nghệ nhân đến học hỏi cách trồng duối.

"Duối của "tú vườn" Nguyễn Thế Vững là những kiệt tác nghệ thuật mang cả ý nghĩa văn hóa, lịch sử và tâm linh. Duối rất dễ trồng nhưng cũng rất dễ chết. Người tài hoa cần cù mới có thể tạo thế dáng cho duối. Như đôi "lưỡng long chầu nguyệt" là một điển hình cho tài trí và sự khéo léo của nghệ nhân sinh vật cảnh Việt Nam".

PGS.TS Dương Văn Tiển (trường Đại học Thủy Lợi)

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kỳ nhân uống thuốc độc để tìm cách giải độc

16/08/2011 15:58:56

Posted Image- Đến xã Đồng Thắng, hỏi ai cũng biết gã Chu Văn Làu ở thôn Nà Xong, xã Đồng Thắng, Đình Lập, Lạng Sơn. Gã được mệnh danh là "kỳ nhân" giải độc với những chiêu thức rất kỳ quái, rùng rợn. Gã chưa chịu khuất phục trước loại kịch độc nào.

Học nghề bằng cách uống thuốc độc

Gặp gã, cảm giác rùng rợn lấn át, đôi mắt thẳm sâu đầy bí hiểm của người thầy thuốc Tày. Trông gã có vẻ già hơn so với năm sinh 1950. Biết chúng tôi tìm hiểu viết bài, gã cũng "dè chừng". Cũng may tôi đi cùng với một người dân bản địa có họ hàng với gã, gã mới cho viết.

Gã lớn lên ở "vựa thuốc nam" xứ Lạng. Gia đình lão cũng dòng dõi thầy lang, gã thường cùng gia đình đi miệt rừng kiếm tìm thuốc thang và niềm đam mê với cây thuốc Nam đã ngấm sâu vào xương tủy lão. Hồi nhỏ, thấy nhiều người đi rừng bị rắn cắn chết, bị trúng thuốc độc không ai cứu nổi.

"Thương họ quá! Tự nghĩ mình phải tìm cách cứu chữa cho dân bản". Thế rồi, gã khăn gói lên đường tìm thầy để học nghề giải độc.

Gã nghe có ai nói ông Hà A Si ở ẩn dật nơi xó núi thôn Khe Luồng (xã Lâm Ca, Đình Lập, Lạng Sơn) thạo về món giải độc nên đã tìm đến học. "Lần đầu đến cầu học, ông Si không nhận. Lần thứ hai tôi đã quỳ 3 ngày 3 đêm, đến khi ngất tại cửa nhà ông Si, cũng bị từ chối, nhiều lần đến quỳ nữa cũng không thuyết phục được". Gã vẫn không chịu bỏ cuộc.

Posted Image

Chân dung kỳ nhân giải độc Chu Văn Làu

Gã dùng đến hạ sách "uống thuốc độc ăn vạ", biết lông con sâu róm có độc, gã cắt nhỏ và đem đến cửa nhà ông Si, rình lúc nào ông Si đi hái thuốc về mới nuốt vào mồm để thể hiện nhiệt tâm của mình. Hứng chịu cảm giác ngứa ngáy, rát khô cổ họng, đau đớn, khạc không ra đờm, đau vật vã, đau hơn người ăn bả chó tự tử, cuối cùng gã đã được thầy Si dạy giải độc. Gã mừng lắm! Gã kể một cách mạnh mẽ, như khoe chiến tích chứ không tỏ vẻ ghê sợ.

Gã kể: Tôi tự nghiên cứu và phát triển các bài thuốc giải độc của thầy Si: "Nghiên cứu biểu hiện của độc dược ở mọi vị trí và giác quan, cơ quan, tìm loại thảo dược khắc chế từng chất độc một".

Cách giải độc kỳ quái

Cách giải độc của gã cũng không hẳn là dựa vào thần ma, quỷ quái như một số thầy thuốc khác. Gã vận dụng Tây y, Đông y, dựa trên những kinh nghiệm, thử nghiệm với các bài thuốc một cách bài bản, có khi còn biến mình thành vật thí nghiệm.

Chỉ cần nhìn qua gã biết ai trúng độc. Nước da nhợt nhạt, người xanh tái, lưỡi bị thâm tím lại, khi bấm vào ngón tay thấy vết bấm trắng ra và máu không thể lưu thông được là bị trúng độc. Ngoài ra, còn những biểu hiện như bị ngứa cổ họng, khạc nhổ không ra đờm.

Posted Image

Thuốc giải độc đã được sắc nhỏ, phơi khô chờ pha chế

Với những loại độc dược nào lạ, gã thí nghiệm trên chuột, nghiên cứu đặc tính, tìm cách hóa giải. Đôi khi, gã tự mình uống thử thuốc độc rồi tự giải.

"Gia đình thấy tôi nôn thốc, nôn tháo, nôn cả máu, nên hốt hoảng, nhưng tôi lại cười vì mình đã "vận công" ép được chất độc ra khỏi người". Dân bản có người gọi gã là "quái nhân giải độc" là vậy.

Gã lý giải rằng, mấy loại chất độc như rắn cắn, ngộ độc thức ăn và loại độc do thả thuốc, yểm bùa... đều có cách hóa giải riêng: "Với nọc độc rắn, bọ cạp cắn... cần buộc ngăn chặn viết thương lây lan, rồi hút máu độc ra ngoài. Nếu đã bị lây lan toàn thân, cần dùng kim đã tẩm thuốc giải độc châm vào các huyết mạch, sau đó lại lấy cây thuốc giải độc để ngâm tắm, đồng thời uống thuốc để phân hủy chất độc. Còn khi đã bị ngộ độc thức ăn cần dùng các chất thật đắng, mùi thật khó chịu như lá mơ (lá mơ để nấu với thịt chó), cạo lớp sơn ở vỏ cây tre... cho bệnh nhân nôn hết chất độc trong người. Sau đó uống thuốc giải để phân tán những chất độc đã ngấm vào các cơ quan khác của cơ thể".

Theo Lương y, BS Phạm Văn Thanh, nhà thuốc Hoàng Liên Sơn, thành phố Lào Cai, người từng có nhiều năm nghiên cứu trong lĩnh vực y học cổ truyền thì những bài thuốc giải độc như vậy vẫn thấy ở một số nơi của bà con dân tộc Tày, Mường, Thái... Những bài thuốc này thường lưu truyền rải rác trong nhân dân nên rất khó kiểm soát.

Một số vị thuốc độc có thể gây tổn hại cho ngũ tạng ngay lập tức hoặc dần dần, như lá ngón hay cà độc dược chẳng hạn. Trong y học, những loại cây này được xếp vào loại độc bảng A, tức là kịch độc. Những trường hợp lục phủ ngũ tạng bị đầu độc đến mức thối rữa ra rồi mà vẫn cứu được quả đó là những bài thuốc giải thần kỳ. Tôi cho rằng chúng ta cần phải ghi chép lại những bài thuốc độc và thuốc giải tương ứng với nó. Điều này chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho công tác nghiên cứu trong y học cổ truyền, và chữa bệnh cho nhân dân.

Người ta lưu truyền rằng bài thuốc "phối tam kịch độc": Lấy con sâu róm bỏ vào gốc măng và niệm chú, một thời gian nó thối rữa ra tạo thành "đé" (phần chất thối rữa bị cứng lại) là khó giải nhất nhưng gã cũng không chịu bó tay. Khi bệnh nhân trúng loại kịch độc này, người sẽ yếu ớt, cổ họng khô cứng, khạc không ra. Không được chữa kịp thời sẽ chết. Đối với loại độc này, gã dùng một số cây thảo dược có chứa chất thật nóng ngâm với rượu thật nặng (khoảng 60o) để sao cho khi uống vào sẽ làm phân hủy độc, cộng thêm một số cây thảo dược làm tiêu độc.

Gã bộc bạch: "Chữa độc dược cũng không khó lắm, quan trọng là mình biết đấy là loại độc nào, chất gây độc và cách thức phát bệnh để chọn cách chữa. Lúc giải độc cũng cần phải xem cơ thể người đang trúng độc có thể chịu được và không gây phản ứng".

Anh Đàm Văn Hiện ở thôn Nà Quan, xã Đồng Thắng kể lại với lòng đầy biết ơn: "Có lần tôi bị trúng độc, đau đớn, người yếu ớt, chân tay rã rời, ngứa rát cổ họng, đau vật vã, lăn lộn, tưởng không qua khỏi. Gã lấy thuốc ngâm rượu thật nặng cho tôi uống, rượu vào đến đâu là nóng ran đến đó, tưởng như cháy ruột gan, lúc đó gã châm cứu các huyết mạch rồi lấy thuốc để tắm. Mấy ngày sau cổ họng đỡ rát, người đã khoẻ dần. Nếu không có gã, tôi đã chết lâu rồi".

Gã tâm sự: "Giải độc cần đến sự kết hợp giữa Đông y và Tây y. Cho nên việc chữa bệnh cũng cần rất cẩn thận và tỉ mỉ, người chữa thuốc độc cũng cần rất tâm huyết, đôi khi phải hy sinh cả tính mạng cho nghề".

Hoàng Tào

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chiếc thống “độc” cứu gia đình "quý tộc" một thời

Chiếc thống “độc” vừa mang bi kịch, vừa cứu gia đình “quý tộc" một thời, sống qua ngày bần hàn

Gia đình giàu có đến mức cha mẹ từng bỏ ra số tiền ngang giá cả căn nhà mặt phố để mua lấy một chiếc thống cổ, thế nhưng trong dòng đời chẳng ai học được chữ ngờ, bảo vật của gia đình cuối cùng lại được đổi lấy đồ ăn thức uống hàng ngày khi gia đình lụn bại. Ông Lê Quang Bích (ngụ phố Cầu Gỗ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) nay đã gần tuổi thất thập vẫn đau đớn thực hiện ước nguyện của mẹ là tích cóp tiền tìm chuộc lại chiếc thống “độc địa” ngày xưa gia đình ông đã từng gắn bó – ước nguyện mà đời ông chẳng biết có còn có thể thực hiện?

Đập nát… nửa căn nhà mặt phố

Sinh năm 1943 tại một căn nhà cổ trên phố Cầu Gỗ, ông Bích còn nhớ như in khung cảnh của phố cổ, những nếp sinh hoạt của người Hà Nội xưa. Ấn tượng sâu đậm nhất trong ông chính là hình ảnh người cha, một công chức của sở Kiến trúc và Thủy lợi (sau này thành công chức lưu dung, phục vụ chính quyền cách mạng) có thú chơi đồ cổ.

Posted Image

Câu chuyện được giới sành đồ cổ Hà Nội lưu truyền như một giai thoại, cũng là câu chuyện gắn bó với gia đình ông, đó là khoảng năm 1949, ông cụ nghe người mách có một gia đình ở Thanh Trì muốn bán một đôi thống (một loại chậu thấp, miệng rộng, dùng trồng hoa hoặc trang trí nhà cửa).

Những năm loạn lạc, người Hà Nội thường ít người dám bỏ tiền ra để mua những món cổ vật có giá trị vì điều kiện chiến tranh, nay đi, mai ở… Nhưng ông đã bỏ ra tới 60 ngàn đồng tiền Đông Dương để mua đôi thống cổ, trong khi lúc đó cả ngôi nhà giữa phố Cầu Gỗ của ông cũng chỉ có giá khoảng 70 ngàn đồng.

Ông Bích nghe kể lại, người bán đôi thống cũng là người vì không còn sự lựa chọn nào nên mới “dứt ruột” bán đi, bán rồi vẫn hi vọng sau này có điều kiện sẽ chuộc lại “cố nhân”. Nhưng, trước ánh mắt còn ngơ ngẩn vì tiếc nuối của người chủ cũ, cha ông đã thẳng tay giơ cao và “choang”, một trong hai chiếc thống quý giá vỡ tan. Người chủ cũ và những người chứng kiến tiếc đứt ruột, trợn tròn mắt, không hiểu sao ông cụ lại cư xử lạ lùng như thế.

Lúc đó, ông cụ mới thong thả nói với chủ cũ: “Ông bỏ lỗi cho tôi. Ông đã dành cho tôi ưu ái được sở hữu vật quý này thì cũng cho tôi cái quyền được định đoạt số phận của nó. Mỗi người có một thú chơi. Ông giữ một đôi thì rất đáng quý, nhưng tôi muốn tôi là người độc nhất giữ một chiếc thống. Nếu để có đôi thì sợ khó giữ hơn có một. Chỉ mình tôi có được cổ vật này thôi, không có người khác có cơ hội nữa”. Như vậy, chỉ với một cái giơ tay, ông cụ đã đập nát nửa căn nhà mặt phố Hà thành.

Ông cụ mất năm 1957, để lại một gia tài khổng lồ với những cổ vật như thống cổ, đĩa sứ, sập gụ, lộc bình, trong đó quý nhất là chiếc thống “lẻ đôi”… Người trụ cột trong gia đình qua đời, bà mẹ thì yếu đuối, trước đây chỉ quen việc nội trợ, giờ phải bươn chải buôn rau từ chợ Đồng Xuân về phố Cầu Gỗ để nuôi 8 người con.

Những cổ vật trong gia đình cứ lần lượt “đội nón ra đi”… Mùa đông năm 1972, gia sản nhà ông Bích chỉ còn duy nhất chiếc thống cổ. Trong cái giá rét của những ngày cuối đông và nỗi túng quẫn của cảnh góa bụa nuôi con, bà cụ đã quyết định bán cái thống để có tiền trang trải nợ nần và lo một cái Tết đầm ấm cho các con.

Số phận lận đận của chiếc thống cổ

Ngày 23 tháng Chạp năm ấy, ông Bích – người con trai duy nhất trong nhà được mẹ gọi lên bàn chuyện bán chiếc thống cổ. Kỷ vật cuối cùng của người cha đã được một vị khách vào hỏi mua. Bà cụ Tạo vẫn ngần ngừ, không muốn chia tay với kỷ vật gắn liền với giai thoại về người chồng đã khuất… Người khách năn nỉ mãi, bà cụ đành chấp nhận để lại cho ông khách lạ với giá 10 cây vàng, đặt trước 5 cây.

Người khách hẹn hai ngày sau quay lại sẽ trả nốt số vàng rồi mang chiếc thống về. Bà cụ cẩn thận gói kỹ số vàng trong một vuông lụa, cất đi rồi đợi người khách quay lại. Hai ngày sau không thấy ông khách quay lại. Qua Tết, sang Giêng cũng không thấy tăm hơi ông khách lạ. Một năm, hai năm… người khách vẫn bặt vô âm tín.

Gia đình ông Bích vẫn trong cảnh chạy ăn từng bữa, nhưng số vàng kia mẹ ông tuyệt đối không tơ hào. “Mình đã bán cho người ta đâu mà dám tiêu?”, bà cụ cứ đinh ninh một điều như thế và chờ đợi.

Đến Tết năm thứ ba, lại có một người khách sang trọng đến đặt vấn đề mua chiếc thống. Lần này, cảnh nhà đã túng thiếu lắm, ông Bích quyết định để lại chiếc thống cho khách với giá 15 cây vàng có thể đảm bảo đời sống sung túc cho cả đại gia đình. “Tiền trao, cháo múc”, cổ vật được khách mang đi. Cả gia đình ông mắt rưng rưng lệ như khi chia tay một “thành viên” hàng chục năm găn bó trong nhà.

Mùng bốn Tết, chỉ vài ngày sau khi chiếc thống được bán đi, gia đình ông Bích đón một người khách quen. Chính là người năm xưa đã đặt 5 cây vàng chỉ để … ngắm chiếc thống một lần. Bà cụ mang đúng vuông khăn gói 5 cây vàng năm xưa ra trả lại, nhưng người khách nhất quyết … không nhận. “Số con bạc phận không có duyên để dùng cái thống. Con không gom đủ tiền, không quay lại trả tiền cụ đúng hẹn thì nay con không dám nhận lại số tiền này nữa.

Con chỉ quay lại để xin ngắm chiếc thống một lần nhưng cụ đã bán rồi thì thôi”, ông Bích thuật lại lời vị khách. Bà mẹ ông dứt khoát không nghe, khăng khăng trả lại số tiền. Hai bên giằng co hơn nửa tiếng đồng hồ, ông khách mở gói lụa ra nói: “Cụ đã nói vậy thì con xin nhận”. Ông khách nhón lấy một chiếc nhẫn đeo vào tay, rồi lại bọc lại gói vàng: “Cụ đã cho thì con nhận vậy thôi.

Còn tiền này không phải của con, vì con đã không giữ chữ tín nên đây là của cụ”. Người khách lạ ăn mặc xuềnh xoàng đứng lên, bước vội ra cửa, bỏ lại 49 chỉ vàng.

Số tiền 19,9 cây vàng, trong đó có 4,9 cây vàng “trên trời rơi xuống” đã giúp cho cả gia đình ông sống qua được giai đoạn khó khăn, các anh chị em ông đều được học hành đến nơi đến chốn.

Hàng chục năm sau khi chia tay chiếc thống, nay ông ngẫm lại mới thấy nhiều biến cố lớn xảy đến với gia đìnhông từ đó và chẳng biết chuyện bán chiếc thống có liên quan gì không. Chuyện con trai độc đinh của ông – cháu đích tôn của dòng họ qua đời là biến cố lớn nhất. “Con trai tôi khi đó vừa lên năm, con gái lên ba tuổi. Tôi là con trai duy nhất của một gia đình có 7 chị em gái, cháu lại là con trai đầu của tôi, nên cả nhà ai cũng cưng chiều nó”, ông Bích kể lại.

Hè năm 1977, hai người con của ông Bích từ nhà lên chơi ở cơ quan với bố. Ông lên bệnh xá cơ quan xin thuốc tẩy giun cho hai con, nhưng người y sĩ ở đó đã sơ ý đưa cho ông thuốc Nivakin – một loại thuốc chống sốt rét ác tính. Thuốc này người lớn chỉ được dùng một viên một lần, nhưng hai con ông Bích đã uống tới ba viên, tương ứng với một liều thuốc cực độc.

Đứa con trai độc nhất của ông đã ra đi ngay sau khi uống thuốc. Đứa con gái may mắn được bệnh viện cứu thoát chết.

Ông Bích như người phát điên phát rồi, phải xin chuyển từ Vĩnh Phúc về Hà Nội làm việc. Nhưng những ngày tháng đi dạy, cùng những bảng đen phấn trắng, cảnh cũ đập vào mắt, ông như sống lại thời điểm ông đứng trên bục giảng mà nhận tin con trai mất, con gái nhập viện cấp cứu. Ông tâm sự đau đớn không chịu được nên xin chuyển ngành rồi vùi đầu vào học thêm, làm thêm đủ thứ việc để gượng dậy sau nỗi đau riêng.

Hàng chục năm sau, khi cuộc sống đã khá hơn những ngày xưa lụn bại, ông Bích vẫn cố công tìm lại người đã mua chiếc thống có quá nhiều duyên nợ với gia đình. Chiếc thống quý giá và “độc địa” đã trở thành một ám ảnh với ông. Ông bảo: “Mẹ tôi mất năm 2004, bà dặn tôi cố gắng đi tìm lại xem cái thống đó còn hay mất. Gia đình tôi nhờ thứ bảo vật đó mà sống được qua giai đoạn khó khăn, cũng vì chia tay nó mà gặp biến cố nên tôi sẽ cố tìm. Nếu nó còn ở Hà Nội này, không chóng thì chày, tôi sẽ tìm được.

Theo Pháp luật và Thời đại

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ngôi chùa chứa nhiều hiện vật quý thời Lý

Thứ bảy, 12/11/2011, 10:18 GMT+7

Nhiều hiện vật, dấu tích quan trọng phản ánh quần thể kiến trúc đồ sộ, mang đậm phong cách kiến trúc, nghệ thuật triều Lý được phát hiện ở chùa Dạm, xã Nam Sơn (Quế Võ, Bắc Ninh).

Posted Image

Chùa Dạm (hay còn gọi là chùa Rạm) là đại danh lam từ thời Lý, một di tích quan trọng của tỉnh Bắc Ninh với lịch sử gần 1.000 năm.

Posted Image

Để tạo điều kiện cho quá trình nghiên cứu, thiết kế trùng tu, phục dựng chùa Dạm, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam và Hội Phật giáo tỉnh đã khởi công khai quật ngôi chùa trên tổng diện tích 300 m2.

Posted Image

Sau một tháng khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện hàng trăm hiện vật quý thuộc 4 lớp kiến trúc, mỗi lớp có nhiều công trình.

Posted Image

Lớp nền được kè đá 3 lớp vững chãi.

Posted Image

Khu khai quật được cho là rộng nhất nằm trên diện tích khoảng 50 m2. Ở nền đất này có dựng một tấm bia trên lưng rùa.

Posted Image

Nền đất xung quanh có nhiều viên gạch được trạm trổ tinh xảo.

Posted Image

Các chân cột của chùa được phát lộ trong quá trình khai quật.

Posted Image

Một cột đá lớn nguyên khối được chôn sâu chìm xuống nằm đối mặt với chùa Dạm có nhiều hoạ tiết độc đáo, biểu hiện sinh thực khí trời. Cột đá cao gần 5 m, được đặt trên khối vuông bằng đá, đường kính khoảng 1,3 m.

Posted Image

Trên cột đá chạm nổi đôi rồng phong cách thời Lý đầu vươn cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng, thân quấn quanh cột, đuôi ngoắc vào nhau.

Posted Image

Trong quá trình khai quật, hàng trăm hiện vật quý như kiến trúc tháp đá, cột đá, các trụ sỏi hay gạch, đá, gốm, sứ, sành, đất nung, ngói mũi sen... được phát hiện và đều mang đậm kỹ thuật thời Lý.

Posted Image

Các hiện vật được các nhà khảo cổ học phân loại.

Posted Image

Gạch lát nền phát hiện được chôn sâu dưới lòng đất.

Posted Image

Quá trình khai quật vẫn tiếp tục, các nhà khảo cổ hy vọng sẽ khám phá được nhiều điều thú vị và mới mẻ về một giai đoạn lịch sử.

Chùa Dạm (hay còn gọi là Đại Phúc Tự) được khởi dựng năm 1086 dưới triều Lý. 8 năm sau ngôi chùa được hoàn thành với quy mô rộng lớn gồm: 3 cây tháp đá lớn được trạm khắc rồng tinh xảo và 12 tòa nhà (còn được gọi là Nhị thập lâu đài).

Đến thời Lê, chùa được trùng tu với quy mô trên 100 gian. Tuy nhiên, tất cả đã bị phá huỷ do thời gian và chiến tranh. Các bậc đá, cột đá chạm hình rồng tinh xảo, hai pho tượng Hoàng thái hậu Ỷ Lan và vua Lý Thánh Tông là tài sản duy nhất còn lại của ngôi chùa.

Lê Hiếu

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vẻ đẹp huyền ảo của Hạ Long đầu thế kỷ 20

12/11/2011 18:26:44

Posted Image - Cuối thế kỷ 19, tên vịnh Hạ Long mới xuất hiện trên các bản đồ hàng hải của Pháp. Khi đó, tờ “Tin tức Hải Phòng” xuất bản bằng tiếng Pháp có đăng một bài báo nhan đề: “Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long”. Bài báo đề cập đến việc một sĩ quan trên tàu Avalanche tên là Lagresille đã bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ trên vịnh.

Ngay từ thời kỳ này, người Pháp đã coi vịnh Hạ Long đã là một báu vật tự nhiên vô giá. Cảnh đẹp của Hạ Long đã xuất hiện trên khá nhiều bưu thiếp và ảnh chụp đầu thế kỷ 20, trong đó có cả một số bức ảnh màu được chụp từ những năm 1915-1920.

Hãy cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Hạ Long trong những tác phẩm này:

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Posted ImagePosted ImagePosted ImagePosted Image Posted Image

Thu Thủy (tổng hợp)

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bộ nghiên mực quý của vua Khải Định

VnExpress

Thứ hai, 14/11/2011, 09:34 GMT+7

Bộ nghiên mực vua Khải Định ban tặng cho một vị quan triều Nguyễn được coi là độc nhất vô nhị với hình ảnh lưỡng long tranh châu khắc nổi đang được lão thợ thêu Lê Văn Kinh ở Huế lưu giữ.

Posted Image

Bộ nghiên mực còn nguyên vẹn với nghiên mực lưỡng long tranh châu, đi kèm theo là 5 thỏi mực tàu, bút viết và giá đỡ bằng gỗ mun được chạm khắc tinh xảo.

Posted Image

Chiếc nghiên mực lưỡng long tranh châu bằng đá huyền đen, được chạm khắc rồng 5 móng, vật dụng của hoàng đế triều Nguyễn.

Posted Image

Theo ông Kinh, bộ nghiên mực này do chính vua Khải Định ân sủng ban tặng cho ông ngoại của ông là Tham tri Bộ lễ Nguyễn Văn Giáo (hiệu Chí Thành, một vị quan triều Nguyễn) có kèm theo bản sắc chỉ. Sau này do chiến tranh loạn lạc, lũ lụt và mối mọt nên tờ sắc chỉ đã bị hư hỏng không còn.

Posted Image

Được tặng bộ nghiên mực quý, ông ngoại của ông Kinh rất ít dùng mà thường đem ra lau chùi, ngắm nghía. Khi ông ngoại qua đời, gia đình ông Kinh đã cất giữ bộ nghiên mực trong tủ kính và chỉ có những người thực sự muốn tìm hiểu về bộ nghiên mực này mới đem ra giới thiệu.

Posted Image

Ba thỏi mực tàu còn nguyên vẹn được vua Khải Định tặng kèm theo nghiên mực.

Posted Image

Hình long quận nổi bật trên ba thỏi mực tàu.

Posted Image

Nổi bật hơn cả là thỏi mực lục giác dài gần 30 cm. Ông Kinh cho biết, do ông ngoại không có con trai nên ông là cháu ngoại được truyền lại những cổ vật này.

Posted Image

Thỏi mực vuông được viết chữ Hán lên trên.

Posted Image

Cây bút lông có khắc chữ Hán.

Posted Image

Đồng bộ với nó còn có thỏi mực cổ hiện xuất hiện nhiều vết nứt.

Posted Image

Chiếc nghiên mực đựng trong khay gỗ mun được chạm khắc tinh xảo. Theo ông Kinh, năm Năm 1975, ông cùng gia đình ở Huế chạy vào Nam. Riêng bộ nghiên mực cùng những cổ vật quý khác được ông cất giấu trong chiếc sập cũ kỹ. Khi trở về, đồ đạc trong nhà bị kẻ gian khoắng sạch, riêng chiếc sập cũ và các đồ vật quý vẫn nguyên vẹn.

Posted Image

Bộ nghiên và các thỏi mực được gia đình ông Kinh bảo quản rất lỹ lưỡng.

Posted Image

Nhiều người muốn hỏi mua bộ nghiên mực quý này nhưng ông Kinh kiên quyết không bán mà muốn giữ lại cho con cháu biết truyền thống của gia đình.

Nguyễn Đông

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Vua duối" Kinh Bắc kể chuyện "bắt rồng"

14/09/2011 07:09:00

Posted Image - Kiệt tác "lưỡng long chầu nguyệt" trưng bày dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội đã đưa "vua duối" Nguyễn Thế Vững thành người nổi tiếng. Nhưng sự nổi tiếng ấy phải đánh đổi bằng 30 năm và cả cuộc đời "bắt bóng luyện rồng".

"Thằng hâm mới đi trồng duối"

Ngôi nhà mới xây của "vua duối" Nguyễn Thế Vững nằm khuất sâu trong một con ngõ nhỏ thuộc thôn Thiểm Xuyên, xã Thụy Hòa (Yên Phong, Bắc Ninh) đầy ắp những chậu duối cảnh đủ thế dáng chen chúc nhau trong một mảnh đất nhỏ trước nhà.

Người đàn ông đen nhẻm gầy như thanh củi khô trễ kính xuống mũi nhìn những chậu cảnh chưa được "an cư" và suy nghĩ một điều gì đó xa xôi lắm. Tôi hỏi, sao không trồng duối ra vườn cho an tâm? Ông buồn phiền: "Trồng ra vườn thì xa mình quá, duối là phải ở gần người mới xanh tốt có hồn được".

Posted Image

Cây duối rất khó để tạo dáng.

Và câu chuyện bắt đầu từ 30 năm trước khi Nguyễn Thế Vững tròn 30 tuổi là anh nông dân lực điền của Hợp tác xã Thụy Hòa. Một ngày đầu năm 1980, anh nông dân ấy từ bỏ ruộng đồng vác dao đi khắp nơi. Không ai biết anh đi đâu, làm gì nên chỉ có người phán đoán là "thằng này vác dao đi chém người".

Lúc đó, Vững gần như trầm cảm, cả ngày không nói lời nào. Người nhà thấy vậy phát hoảng hò nhau, người kéo chân kẻ kéo áo khi thấy Vững vác dao ra đường vào lúc trời nhá nhem tối. "Vững ơi, tao xin mày Vững ơi. Mày chém ai ở cái làng này thì mày chém chết mẹ mày trước đi con ơi", ông Vững nhớ lại lời bà cụ thân sinh khi ra giằng co kéo đứa con "thần kinh" của mình về.

Vào sáng hôm sau, cả nhà Vững lại hốt hoảng khi thấy trước sân nhà la liệt cây duối dại. Sau một hồi giải thích, cả nhà mới hiểu và bò lăn ra cười vì "nó vác dao đi đào cây duối". Cuộc đời của anh nông dân bắt đầu "kết duyên" với những cây duối vô giá trị mọc hoang hóa đầy những gò đất ở cánh đồng ngoài nghĩa địa.

Posted Image

Ông "vua duối" Nguyễn Thế Vững

Nhiều người thấy Vững bỗng dưng bỏ ruộng đi làm cái việc vô công rồi nghề thì toạc miệng: "Thằng hâm mới đi trồng duối". "Mà đúng là mình hâm thật. Cây duối chẳng khác nào củi khô, không thể làm cảnh, không thể lấy quả, không sinh ích lợi... mà mình đi trồng, thế mới dở", ông Vững tâm sự và chính bản thân ông cũng không giải thích được tại sao lúc ấy mình lại đi trồng duối.

30 năm luyện... rồng

Cũng từ ngày dở chứng đi trồng duối, Vững bắt đầu lang thang tại các chùa chiền để ngắm cảnh lấy cảm hứng. Trong một lần lên chùa Hàm Long - một ngôi chùa cổ nổi tiếng của Bắc Ninh, Vững phát hiện đôi rồng đá tuyệt đẹp.

Từ đó, trong đầu lúc nào Vững cũng nghĩ về rồng và ngày ngày đi lang thang, lân la đến các bãi đất hoang, những bụi cây rậm, thậm chí nửa đêm xách đèn ra bãi tha ma cách nhà ba cây số tìm cây duối có thể uốn hình rồng.

Posted Image

Mỗi cây, từ to đến nhỏ đều có riêng một "nhật ký" ghi rõ ngày trồng, chiều cao...

Vận may đến vào mùa thu năm 1980 khi Vững đuổi theo đôi rắn hổ mang ở gò đất hoang làng bên. Đôi rắn chui tọt vào hang nhưng phía bên trên lại xuất hiện một "con rồng" kỳ lạ. Đó là cây duối nhỏ có dáng uốn lượn như rồng tuyệt đẹp. Vui mừng, Vững đánh ngay cây duối về nhà trồng vào một cái ang lớn và chăm sóc rất cẩn thận.

Như có duyên, vào năm sau khi đi dự đám cưới ở huyện Quế Võ, Vững lại thấy một cây duối hình rồng bên ngay vệ sông Cầu. Bỏ đám, Vững lọc cọc chở duối về nhà. Đủ một đôi rồng tí hon đã quá mừng nhưng công cuộc "luyện rồng" mới đầy gian khổ.

Tròn chẵn 30 năm, đôi rồng ấy đã vắt kiệt sức lực của một thanh niên lực điền thành một ông già gầy yếu. "Nhưng đấy là niềm vui, 30 năm tôi ăn ở với duối. Dạy con từ thuở còn thơ, tôi từng ngày mầy mò uốn cho duối thành rồng", ông Vững thỏa nguyện.

Có một điều tôi nhận ra ở ông "vua duối dở hơi" là luôn nhận duối là "con" của mình. Suốt 30 năm, những đứa con bằng xương bằng thịt của ông nheo nhóc đều do một tay vợ chăm sóc vì ông bù đầu vào những cuộc kiếm tìm, tạo dáng cho duối và ông cũng thành thật rằng: "Tôi chưa kiếm một xu nào từ duối", đó là lời tâm sự rất thật, vì toàn bộ tài sản duối của ông hiện đều có mặt ở trước nhà. Mỗi cây, từ to đến nhỏ đều có riêng một "nhật ký" ghi rõ ngày trồng, chiều cao...

Posted Image

Ông Vững bên tác phẩm "lưỡng long chầu nguyệt".

Nhìn đôi "lưỡng long chầu nguyệt" của ông Vững mà không ai không... thèm. Đã có nhiều đại gia đánh xe con về trả ông tiền tỷ để đổi lấy đôi rồng ấy nhưng ông không bán. "Chẳng người cha nào tham tiền đến độ phải bán đứa con mình đi cả", ông Vững cho hay.

Khi Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội sắp đến, ông Vững lại mất ăn mất ngủ chăm sóc và hoàn thành những công đoạn cuối cho đôi rồng đi triển lãm. Ngày đưa "rồng" ra xe, cả thôn Thiểm Xuyên hò nhau ra khênh vui như hội. UBND tỉnh Bắc Ninh cũng chi 1.200.000đ giúp ông Vững vận chuyển "rồng"ra Hà Nội.

"Tú vườn" và triết lý... bào thai

"Thằng hâm mới đi trồng duối" ngày nào giờ đã được dân làng và giới sinh vật cảnh phong cho là "tú vườn" - một chức danh không chính chức nhưng có vẻ chính danh. Ông Vững vốn cũng đã từng tự nhận mình như vậy và ông còn có cả một mớ những triết lý khác lạ về nghệ thuật trồng cảnh mà tôi đồ rằng, từ trước tới nay chưa ai có.

Từ cây duối, các thế cây được ông Vững đặt tên rất mỹ miều, ngoài "lưỡng long chầu nguyệt" còn có: Bạt phong hồi cố, huynh đệ đồng khoa, lão giả an chi, phu phụ nhất tử... Những cái tên ấy đều rất hợp với thế cây và tạo cho người thưởng lãm một thú vị về nghệ thuật và văn hóa gia đình người Việt.

Ông Vững bảo, trồng duối phải "trong tĩnh ngoài động" tức là bề ngoài phải luôn sôi động, luôn hào hứng và dứt khoát nhưng bên trong tâm hồn phải sau lắng, tạo cho mình một cảm hứng và trí tưởng tượng thì mới có thể tạo thế cho duối như các loài cây khác.

Đêm xuống là thời gian ông Vững "sáng tác" ra những thế cây mới cho duối. Ông có triết lý bào thai, muốn có tâm hồn trong trẻo thì phải "tĩnh như bào thai nuôi con nhỏ". Đó có lẽ là lý do mà các con ông không thể chịu được khi thấy bố cứ nửa đêm là lục tục dậy "nói chuyện với cây".

"Đôi khi tôi cũng nghĩ, hay là mình "yêu duối quá hóa tâm thần" nhưng không phải. Cái "anh" duối này khó tính lắm. Đấy chú xem cả nước Việt Nam và thế giới có ai trồng và tạo được thế cho duối chưa. Tôi khẳng định là chưa có ai đâu. Duối không đơn giản như cây sanh mà ngược lại, nó có duyên với ai thì nó mới chịu cho tạo dáng, không thì chết ngay", ông Vững tiết lộ.

Hiện nay, tổng tài sản của "vua duối" đã lên tới tròn chẵn 100 cây không hơn không kém. Trong đó có nhiều cây rất giá trị với thế dáng độc nhất vô nhị. Hằng ngày, vẫn có những đoàn khách tham quan và có cả những nghệ nhân đến học hỏi cách trồng duối.

Là người có tập tọe chơi cây, chịu khó đi xem triển lãm và đặc biệt dịp 1000 năm Thăng Long cũng được thưởng lãm tất cả các tác phẩm sinh vật cảnh và cổ vật trưng bày tại 2 địa điểm: Hoàng Thành Thăng Long và Bảo tàng Hà Nội, tôi cũng nhớ tác phẩm của ông Vững cùng với mấy tác phẩm cây sanh hình Khuê Văn Các. Tuy nhiên, thành thật mà nói giống như đại đa số các tác phẩm trưng bày khác, tác phẩm này chỉ thiên về chủ đề, ý nghĩa và đáng ghi nhận tâm huyết của tác giả. Về tính nghệ thuật của tác phẩm thì còn phải bàn nhiều, đặc biệt là cái cây được đưa lên trong cùng bài viết. Đành rằng vẻ đẹp không ở cặp má hồng thiếu nữ mà trong con mắt kẻ si tình, nhưng cái đẹp ở đâu cũng có chuẩn mực chung. Chả thế mà các cụ ta ngày xưa đề ra tiêu chuẩn phụ nữ đẹp phải mặt trái xoan, mũi dọc dừa, lông mày lá liễu, cổ kiêu ba ngấn, thắt đáy lưng ong ...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện phố cổ, ẩn ý 'đổi gái lấy cà phê'

VnExpress

Cập nhật 20/11/2011 06:25:00 AM (GMT+7)

Chuyện này nhiều người trong giới cầm cọ biết, và đến nay giới “nghiền” cà phê cũng có người biết đến.

Sự tri ân phố và người

t hẳn nhiều người biết rõ quán cà phê Lâm ở 60 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội. Bởi đó từng là nơi “tao nhân mặc khách” thường lui tới một thuở. Giờ thời gian tuy đã xa, nhưng còn đâu đó vương vấn những câu chuyện của những họa sỹ tài danh như Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng…

Posted Image

Khung cửa phố cổ đậm màu thời gian

Chuyện có thể chỉ là chuyện phiếm vỉa hè, song có nhiều chuyện được người trước kể cho người sau nghe về chuyện thường nhật một thời của người họa sỹ tài danh Bùi Xuân Phái. Xưa kia, cụ Phái thường lui tới nơi này để nhâm nhi ly cà phê thì nhiều người biết rõ. Giờ trong quán vẫn còn đó những bức tranh cũ kỹ, nhưng mang dáng vẻ của một nhịp sống phố cổ Hà Nội trầm lắng mà do những hoa sỹ tài danh nào đó vẽ lại. “Trong số tranh treo trên tường có cả tranh của cụ Phái, cụ Vân(*)” - thấy khách ngắm kỹ càng một cách lạ thường, bà chủ quán cà phê Lâm liền giới thiệu.

Câu chuyện được mở ra từ đây. Đại để là xưa kia cụ Phái hay uống cà phê nhà bà. Rồi thì có những lần, ông vẽ chân dung các thiếu nữ, những cô gái Hà thành để tặng. Vì là người nổi tiếng, nên ai nhìn cụ Phái cũng nhận ra, khách uống cà phê ai cũng muốn được ông vẽ chân dung mình, để làm kỷ niệm. Những nét phác họa đơn giản về chân dung những cô gái, những thiếu nữ của Hà thành có hồn chất như chính cái đẹp toát ra từ dung nhan nhân vật. Đã tài danh, thì luôn được nể trọng, kính phục. Ông được những cô gái đề nghị xin được phác họa chân dung, rồi xin được mời những ly cà phê thơm nồng tại quán…

Bà chủ quán cà phê Lâm khẳng định, không phải vì thiếu tiền mà vì cụ tài hoa nên nhiều người mê, muốn mời cụ. Mãi sau này, nhiều người biết chuyện, hay tếu táo rằng “đổi gái lấy cà phê” đó là những tình cảm mà người ta quý trọng dành cho cụ mà thôi.

Bức tranh đựng cả thành phố thật

Nhiều người nói rằng phố cổ Hà Nội là người bạn tri ân của họa sĩ tài danh Bùi Xuân Phái, và Bùi Xuân Phái là một phần của phố cổ Hà Nội. Điều này quả không sai chút nào. Những mái nhà rêu phong của 36 phố phường vẫn còn đó như sự lưu giữ lắng đọng trong từng nét vẽ của bậc tài danh. Người họa sỹ của phố cổ Hà Nội đã gửi cho người sau, giữ cho phố cổ Hà Nội hôm nay một giá trị đặc biệt từ những bức họa dung dị mà đậm chất nghệ thuật.

Posted Image

Có nhiều con ngõ vẫn chứa chất bụi thời gian

Ông tạo nên hàng trăm bức vẽ khác nhau về phố cổ. Người ta vẫn đùa nhau rằng những bức tranh phố cổ của ông đủ để dựng một thành phố thật. Người ta gọi phố cổ là "Phố Phái" (**) cũng là vì thế.

Những con ngõ sâu hun hút của phố cổ Hà Nội hay những mái ngói mốc rêu giờ vẫn còn sự trầm lắng trong thế giới ồn ào, tập nập của nhịp sống vội vã. Chỉ có điều người ta mải mê với cuộc chạy đua với tiền tài mà để lãng quên, rồi lãng quên mà thôi. Đã là người Hà Nội thứ thiệt, thì những con ngõ đối với họ không còn là con ngõ, mà nó là cầu nối tình cảm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Là câu chuyện của tuổi thơ một thời gian khó.

Nhịp sống hiện đại có thể làm cho người ta quên đi quá khứ ở một lúc nào đó, những nếp nhà bê tông tân tiến có thể làm mất đi không gian của phố cổ... Nhưng không thể xóa nhòa được lớp bụi thời gian của từng con ngõ, bởi ở đó đã bao phủ tất cả nhưng tình cảm của những con người sinh sống ở ngõ nhỏ, phố nhỏ bao đời gắn bó với phố cổ. Và chỉ có sự trầm lắng ấy mới giữ vẫn nguyên vẹn và làm nên một Hà Nội khác mà thôi.

Theo An ninh thủ đô

================================

Chú thích của Thiên Sứ:

* Cụ Tô Ngọc Vân đi kháng chiến và mất trong chiến dịch Điện Biên Phủ, làm sao đến Cafe Lâm để đưa tranh được. Đây là do những người có tranh của cụ Vân đưa đến thôi.

** Câu này bản quyền của cụ Nguyễn Tuân. Cụ gọi phong cách vẽ của cụ Phái là "Phái phố". Ngày xưa tôi ở số 5 phố Hàng Phèn, Cụ Phái ở khoảng 81 phố Thuốc Bắc. Tuy khác phố, nhưng nhà cách nhau một ngã ba. Nhà cụ Phái trong hẻm và là nghệ sĩ nghèo. Cụ bà làm nghề y tá (Tôi cũng bị chích mấy mũi). Con trưởng của cụ là Kỳ Anh nhỏ tuổi hơn tôi. Ít ra chơi với trẻ con ngoài phố. Thuộc dạng "con nhà gia giáo".

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kỳ lạ kiệu rước 'bay' và cổ vật 'không thể bị mất trộm'

Cập nhật lúc :2:48 PM, 17/12/2011

Người làng Xuân Đỗ (phường Cự Khối, quận Long Biên, Hà Nội) từ nhiều năm nay vẫn truyền tai nhau những câu chuyện lạ lùng về ngôi đình làng “nổi tiếng thiêng nhất vùng”. Nhiều vụ trộm đã xảy ra tại đây nhưng kỳ lạ thay, cứ vài bữa sau khi mất thì đồ bị trộm thế nào cũng được những đối tượng hành nghề “hai ngón” trả lại vì sợ hãi.

Lại xôn xao chuyện yểm long mạch ở giếng chợ Bà Cô

Vườn quả bí ẩn trên núi Đen

Lạ lùng “kiệu bay”

Sử làng còn chép, cách đây đã 2.000 năm, thưở xưa làng Xuân Đỗ có sáu giáp nhỏ heo hắt nằm dọc bờ sông Hồng. Năm ấy có vị tướng giỏi của Hai Bà Trưng là Đào Khỏa Ba Sơn (SN 27 sau công nguyên) chỉ huy 500 binh sĩ trên đường tiến đánh thành Luy Lâu (tỉnh Hà Bắc cũ nay là tỉnh Bắc Ninh) đã dừng chân nghỉ lại bên miếu thờ công chúa con gái Lạc Long Quân) Đêm đó, điềm lạ đã đến khi công chúa hiển linh báo mộng với vị tướng rằng: “Nếu đánh thắng quân giặc thì sẽ cùng cho về trời”. Sớm ngày hôm sau, vị tướng tài xuất quân đầy khí thế và chẳng mấy chốc thành giặc đã “tan tành xác pháo”.

Nhớ lời báo mộng của công chúa đêm hôm trước, vị tướng lệnh lui quân về bên miếu báo tin vui cho dân làng và mở tiệc khao quân tại một cánh đồng. Liền đêm hôm đó, trước sự chứng kiến của mọi người, vị tướng từ từ biến thành đám mây màu hồng thác lên trời. Từ đó cánh đồng xưa có tên gọi là “vườn hồng”, còn nhớ ơn công lao vị tướng tài đã có công diệt giặc, dân làng đã xây đình Xuân Đỗ, tôn ngài làm Thành hoàng làng.

Hàng ngàn năm, ngôi đình thờ vị tướng năm nào vẫn sừng sững dù đã trải qua bao thăng trầm biến cố. Ghé chân quán ven đường trước cửa đình, người phụ nữ bán quán không chút ngần ngại khẳng định chắc chắn: "Đã 50 tuổi đời, cũng đi nhiều nơi nhưng tôi không thấy đâu có ngôi đình thiêng như làng tôi". Trước tiên, chị chứng minh sự linh thiêng của đình bằng dẫn chứng “kiệu bay” trong hội làng mùng 9-10/2 âm lịch hằng năm.

Theo sự mô tả của người phụ nữ này, chiếc kiệu bát cống nặng cả ngàn cân, thế mà chỉ cần "ngài" nhập vào thì sẽ nhẹ chẳng khác như kiệu giấy, bốn thanh niên lúc đó chân tay cứ dẻo như kẹo, “múa may xoay tít như ngựa phi trên đường làng”. “Khối lần cả người cả kiệu xoay xuống ao đình; thế nhưng dù trời lạnh cắt da cắt thịt, nước ngập tới cổ mà bỗng chốc cả người cả kiệu lại nhảy phốc từ dưới ao qua bức tường bao cao cả hai mét lên đường mà không ai hề hấn gì, cũng không đồ cúng lễ nào rơi vãi”, chị cho biết.

Posted Image

Ngôi đình “không thể bị mất trộm”.

Người dân trong làng cho biết, sợ nhất là ai trong đoàn lễ vô tình hoặc cố ý báng bổ sẽ cũng đều bị “thánh vật”, bị "ngài hành” làm chiếc kiệu bỗng nặng cả ngàn cân, trĩu người không lê chân được trong khi người bên cạnh thì vẫn… chạy như bay.

Kiểm chứng câu chuyện, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Khắc Chứ (60 tuổi, Trưởng tiểu ban quản lý di tích đình) thì cũng được khẳng định “đó là câu chuyện thật”. Ông Chứ cho biết, từ xưa tục làng đã vậy, mỗi năm một lần trước ngày hội 10 ngày, làng sẽ lựa chọn những thanh niên ưu tú để tham gia rước kiệu "ngài". Trong thời gian này, tất cả những người rước kiệu đều không được ăn tỏi, hành, đồ ăn mặn và tuyệt nhiên kiêng kị chuyện "tình cảm".

Ngôi đình “bất khả xâm phạm”

Thế nhưng những câu chuyện đặc sắc nhất về ngôi đình, theo ông Chứ phải là chuyện những món đồ tại đây không thể bị mất, dù tương đối quý hiếm và đình cũng không canh phòng cẩn mật.

Thời xưa, đình làng có đôi quạt ngà một không ai rất quý giá, được xem là “bảo vật” của cả làng nhưng không may một lần đạo chích viếng thăm đã cuỗm đi khiến cả dân làng tiếc ngẩn ngơ. Bẵng đi một thời gian, tự dưng người từ một ngôi chùa cách làng 5-6 cây số bắn tin về báo đến nhận lại đôi quạt ngà của đình làng đang thất lạc ở đó. Tin lạ loang nhanh cả làng, các cụ bô lão liền tất tưởi tới xem thì được sư thầy ở chùa đó cho biết có người tự dưng mang đôi quạt ngà đến để ở chùa nhờ trả hộ.

Rồi vào những năm 1970, trong một lần tu sửa đình có một kẻ gian tự mang nộp chiếc đỉnh đồng mà hắn đã ăn trộm trước đó. Ông Chứ cười khà: "Tôi đoán chắc do kẻ gian đã lấy trộm nhưng rồi rốt cuộc cũng gặp không ít những chuyện chẳng lành nên sợ quá mà đem trả lại thôi. Thành làng tôi “thiêng” lắm, không để kẻ gian toại ý đâu".

Rồi lần mất trộm gần đây nhất cách đây 3 năm, ông Chứ vẫn nhớ buổi sáng hôm đó khi cụ từ trông đình mở cửa đền thờ thì phát hiện toàn bộ đồ đồng gồm đỉnh đồng, chuông, khánh... “không cánh mà bay”. Tin động trời ấy chẳng chốc loang khắp cả làng xóm, ai cũng hoang mang nhưng rồi lại một lần nữa chuyện đồ đạc bị mất “tự nhiên quay lại” lại xảy ra: Gần một năm sau cụ từ bỗng phát hiện một bao tải lạ được đặt ngay ngắn ở sân đình. Gọi các cụ trong làng đến xem thì quả thực toàn bộ đồ lễ đã mất nay được trả lại đầy đủ trước sự vui mừng khôn tả của cả làng. Ông Chứ tự hào: “Trong đình cũng còn rất nhiều vật dụng quý giá, thậm chí có cả dát vàng nhưng mảy may chẳng kẻ trộm nào đủ gan để lấy đi”.

Theo dân làng, "ngài hiển linh” còn… xua đuổi được quân thù. Những năm giặc Pháp xâm lược, một ngày cuối năm 1946 một nhóm giặc Pháp kéo đến chiếm đóng trong đình bất chấp sự phản đối của dân làng. Đêm hôm đó, trong đình không biết đã xảy ra điều lạ gì người trong làng chỉ thấy đám lính cứ nhộn nhạo, kẻ thì la hét, người ngã méo xẹo mồm miệng, đến sáng hôm sau ra thì đã thấy chúng cuốn xéo đi hết không còn một tên. Thấy vậy, người trong làng khấp khởi mừng đồn đại ““ngài” đã hiển linh đuổi lũ giặc bảo vệ dân làng”.

Nói về sự lạ của đình làng, ông Chứ cũng không thể nhớ hết có bao nhiêu chuyện nữa. Mới đây, chẳng hiểu sao có cháu bé người làng khác đến chơi, xuống ao trước đình nghịch ngợm rồi không hiểu sao thằng bé khốn khổ cứ nổi bồng bềnh ở giữa ao không tài nào bơi được vào bờ. Hoảng quá, người nhà cháu bé đến phải vào đình làm lễ vái van xin thì đứa bé mới bơi vào bờ được. Còn có những chuyện cách đây ít năm, có người trong làng trèo cây doi trong đình hái quả không may làm gãy cành, thế là người cứ dính tịt trên cây không thể xuống được, người nhà lại phải vào đình vái xin "ngài" tha cho.

Kể là vậy, nhưng ông Chứ cười xòa cho biết thêm: “Thánh thiêng” là vậy nhưng từ trước đến nay cũng không hành ai đến mức thập tử nhất sinh bao giờ, biết mà vào xin khấn tội thì ngài ắt sẽ xá cho".

Điều lạ là dù những câu chuyện nhuốm màu tâm linh ly kỳ đến mấy thì từ hàng trăm năm nay, không ai bảo ai người làng Xuân Đỗ cứ truyền từ đời này sang đời khác. Dân làng Xuân Đỗ vẫn tin đó là chuyện có thực, người ta cho rằng những câu chuyện đó trước tiên để thể hiện lòng tôn kính với thành hoàng, sau nữa để cảm hóa, giáo dục con cháu phải biết thờ tụng tôn kính những bậc cha ông ngày xưa đã dựng làng giữ nước để con cháu có những miền quê bình yên, trù phú như ngày nay.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Niềm tin vào con người Việt

Trong dòng đời, đối diện những thử thách khó khăn, chính con người lì như tôi cũng nhiều lúc muốn buông thả. Nhưng nhìn những tấm gương như chị Gấm, tôi thấy mình không có quyền bỏ cuộc.

Năm 1983, trong một dịp về thăm nhà ở California, tôi đang loay hoay sửa lại hệ thống tưới nước cho khu vườn trước nhà, áo quần mặt mày lem luốc như một anh lao công Mỹ chính hiệu; thì một người phụ nữ lạ mặt xuất hiện ngoài cổng, cao tiếng, “Ông Tổng; Ông Tổng”. Đã lâu lắm tôi mới nghe lại danh từ này.

Ngạc nhiên, tôi ra mở cửa mời khách vào nhà. Chị giải thích, “Con là nhân viên cắt thịt của nhà máy Dona Foods ở Biên Hòa ngày xưa. Chắc ông không nhớ?” Tôi lắc đầu. Nhà máy có hơn 3.000 nhân viên, ngoài các cán bộ trong ban quản lý, tôi thực sự không biết ai. Chị đưa ra tấm thẻ ID cũ của công ty, đã bạc màu, nhưng vẫn còn nhận rõ tên Dương Thị Gấm, với tấm hình đen trắng ngày xưa rất quê mùa, có cả tên và chức vụ của anh quản lý trong khu vực sản xuất.

Chị tiếp tục kể, “Sau khi chính quyền tiếp thu, con làm thêm 4 tháng rồi bị cho nghỉ vì nhà máy không đủ nguyên liệu để điều hành. Con lên thành phố làm ô sin cho một gia đình vừa ở ngoài Bắc vô. Sau 1 năm, ông chủ được thăng chức điều về Hà Nội. Vì con làm việc tốt, ông đem con đi luôn và con ở ngoài đó đến 2 năm. Trong thời gian làm thuê, có ông nhân viên ngoại giao người Đức cạnh nhà. Ông ta lớn tuổi, nhưng ngỏ ý muốn cưới con và đem về Đức khi mãn nhiệm. Muốn giúp gia đình nên con đồng ý, dù con chỉ mới 22 tuổi trong khi ông ta đã hơn 60.” Tôi nhìn chị kỹ hơn. Năm 1975, chị mới 19, thì năm nay, có lẽ chị chỉ mới 27, nhưng xem chị già và phong trần nhiều. Chị thuộc loại đàn bà xấu, dưới trung bình, lại thêm đôi chân bị khập khễnh. Có lẽ những bệnh tật, bất hạnh và mặc cảm đã làm chị già trước tuổi?

“Con theo chồng về Đức được 3 năm thì phải bỏ trốn, rồi ly hôn, vì ông này mỗi lần say rượu là đánh đập con tàn nhẫn. Con phải vào nhà thương cả chục lần mỗi năm. Không có tiền bạc hay của cải, làm bồi bàn khổ cực, nên con nghe lời rủ rê của bạn bè chạy qua Mỹ tìm đường sống. Con đến Los Angeles được 6 tháng nay.” Đại khái, chị đang làm nhân viên thoa bóp (masseuse) cho một tiệm trên San Bernadino. Thu nhập cũng tạm đủ sống, nhưng có cơ hội, người chủ muốn sang tiệm, nên chị tìm cách mua lại.

“Con dành dụm được hơn 12 ngàn đô la, nhưng còn thiếu 5 ngàn nữa. Nghe tin ông Tổng ở đây, con hy vọng ông giúp cho con số tiền này để con có cơ hội vươn lên”.

Tôi đính chính với chị, tôi đã hết là ông Tổng, hiện nay chỉ là một nhân viên xoàng của một ngân hàng nhỏ ở Wal Street, sống đời trung lưu bình dị như triệu người Mỹ khác. Nhưng may cho chị là hôm ấy, gần ngày Giáng Sinh, tôi thấy rộng lượng và nhất là vừa nhận được tấm chi phiếu khá lớn của ngân hàng cho tiền thưởng cuối năm. Tôi cho chị mượn 5 ngàn và thực sự, không nghĩ rằng mình sẽ thấy lại số tiền này, như nhiều trường hợp vẫn luôn xảy ra với bà con bạn bè.

Nhưng chỉ 6 tháng sau, chị lại tìm đến nhà trả lại số tiền 5 ngàn và còn muốn đưa thêm 3 ngàn tiền lãi. Tôi không có nhà, vợ tôi chỉ nhận lại 5 ngàn không lấy lãi và chúng tôi đều đồng ý là số tiến 5 ngàn khứ hồi này quả là chuyện thần thoại của Hollywood. Chị còn khoe với vợ tôi là đã mua thêm 1 tiệm massage khác.

Bẵng đi 5 năm, tôi không gặp lại chị và cũng không liên lạc gì. Tình cờ, tôi và bạn bè vào một quán ăn khá sang trọng ở Bolsa (quận Cam) và người chủ tiệm đứng đón tiếp chúng tôi là chị Gấm ngày nào. Chị huyên thuyên câu chuyện, “Làm massage có tiền nhưng nhức đầu với nhân viên, khách hàng và cơ quan công lực, nên con bán hết 5 tiệm và quay ra kinh doanh nhà hàng. Ngoài tiệm này, con còn 2 tiệm nữa ở khu phố Tàu và khu đại học UCLA.” Chị cũng khác hẳn lúc xưa. Áo quần thời trang bảnh bao, ăn nói lịch thiệp hơn, cư xử đúng như một bà chủ, và chiếc xe Mercedes đời mới đậu ngay cạnh cửa nói lên sự “thành công” của chị.

Sau bữa ăn miễn phí, tôi cũng không liên lạc gì với chị, vì công việc làm ăn của tôi lúc này đem tôi đi khắp thế giới, không mấy khi về lại California. Cho đến năm 1997, khi tôi đi dự một hội thảo và triển lãm về ngành ngân hàng ở Chicago, chị lại xuất hiện. Tôi đang nghiêm túc ngồi trên bàn làm phối hợp viên (moderator), còn chị thì tươi cười chào tôi trong bộ âu phục của một nhân viên cao cấp (executive), với một thẻ bài đeo trên người có tên rất Mỹ là Christina Spencer. Trong bữa ăn chiều sau hội thảo, chị đưa tấm hình chồng chị và đứa con đã lên 3, rồi tiếp tục, “Trong khi kinh doanh, con đi học thêm vào buổi tối và cuối tuần, cuối cùng cũng lấy được mảnh bằng Cử nhân (Bachelor) về Tài chính (Finance). Sau đó con đi làm cho Wells Fargo (ngân hàng lớn ở California), gặp chồng con là Phó Giám Đốc R&D cho Xerox nên đời sống hai đứa cũng tốt đẹp. Chúng con đang sống ở Palo Alto (một khu giàu của Bắc California cạnh đại học Stanford)”. Một nhân công nghèo hèn, thất học với một nhan sắc kém cỏi, lại gặp nhiều gian truân, chị đã lên tới đỉnh sung túc của một xã hội có sự cạnh tranh khắc nghiệt giữa nhiều loại dân tứ xứ. Tôi nhìn lại chị thêm lần nữa, một biểu tượng đáng khâm phục cho ý chí cầu tiến và sự hy sinh vô bờ để đạt đến giấc mộng của mình.

Dĩ nhiên là chị không nói ra, nhưng tôi tin là trong cuộc hành trình 22 năm vừa qua của chị, đã không thiếu những tình huống hiểm nghèo, cay đắng và tuyệt vọng chị phải đối diện. Sức mạnh nội tại nào đã giúp chị vượt qua và bay cao mới thực sự là “cú đấm thép” mà cộng động chúng ta hay bàn luận.

Không thiếu những trường hợp như chị trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Rời quê hương với hai bàn tay trắng, thiếu sót mọi kiến thức, kinh nghiệm và quan hệ trên xứ người, những người Việt như chị đã vượt lên mọi rào cản, trở ngại để dành cho mình một chỗ đứng dưới ánh mặt trời (a place in the sun).

Tôi cũng còn nhớ một buổi sáng mùa đông nào, khoảng 1990, mấy người bạn đưa tôi đi thăm Chợ Vòm ở Moscow nơi phần lớn người Việt tụ tập mua hàng sỉ để đem về các tỉnh thành xa xôi ở Nga để bán lẻ lại. Tôi đã ái ngại nhìn những thùng đồ nặng trĩu trên đôi vai gầy yếu mỏng manh của vài thiếu nữ Việt Nam, quẩy gánh đi đến các trạm xe lửa, để tải hàng về những nơi như Siberia, Kazakhstan…chỉ nghe tên là đã lạnh run người. Họ là những biểu tượng đẹp nhất của tinh thần và sức sống Việt.

Dĩ nhiên là tôi cũng đã từng gặp những người Việt “xấu xí” trên các nẻo đường thế giới. Những anh chị dốt nát nhờ chút quyền lực, có chút tiền, ra nước ngoài coi trời bằng vung, hành xử với tất cả ấu trĩ của một bậc “đại quê mùa”. Hay những cậu ấm cô chiêu, nhờ tiền rừng bạc biển của cha mẹ cung cấp, ăn chơi đua đòi, nhiễm mọi thói hư tật xấu của bọn sinh viên hoang đàng. Nhưng các người này chỉ là thiếu số giữa một đám đông người Việt thầm lặng, kiên nhẫn, cần cù xây dựng cho mình một tương lai xứng đáng với mọi lời vinh danh cao cả nhất.

Khi nói về sự hãnh diện của dân tộc, tôi nghĩ phần lớn những người Việt tha phương không cho hình ảnh các đại gia với máy bay riêng hay xe siêu sang là sự tiến bộ của xã hội. Hay các chân dài với đủ nhãn hiệu “hoa hậu”, “siêu sao” là biểu tượng của thành công. Hay vài trận bóng đá với các nước láng giềng hoặc những xếp hạng rất vô nghĩa của các nhóm truyền thống quốc tế. Vả lại, ở lâu trên xứ người, chúng tôi đã chứng kiến những sự giàu sang hay tiếng tăm cả triệu lần các nhân vật hay sự kiện này.

Niềm hãnh diện thực sự của chúng tôi là những Dương Thị Gấm, những cô gái buôn hàng lẻ ở Moscow, những em trẻ đứng đầu bảng ở các trường trung học, những khoa học gia đồng hành cùng các nhân tài thế giới ở rất nhiều viện nghiên cứu, những doanh nhân cạnh tranh ngang ngửa trên sân chơi bằng phẳng của các nền kinh tế tân tiến… Những người Việt đó là động lực khiến chúng tôi phải gắng đi thêm bước nữa trong những giờ phút đen tối khó khăn nhất, phải vượt qua cái kỹ năng hạn hẹp của mình để tỏa sáng.

Trong dòng đời, đối diện những thử thách khó khăn, chính con người “lỳ” như tôi cũng nhiều lúc muốn buông thả. Muốn quay về một góc tối nào đó, an phận với cuộc sống an nhàn, cho qua kiếp người dâu bể. Nhưng nhìn những tấm gương như chị Gấm, tôi thấy mình không có quyền bỏ cuộc. Tôi tự nhủ mình đã quá may mắn, được nuôi dưỡng trong một môi trường lành mạnh, phong lưu, với đủ lợi thế cạnh tranh. Sự thất bại của mình sẽ là một vết nhơ gấp đôi những con người Việt kém may mắn khác. Do đó, mình phải vươn vai đứng dậy để tiếp tục, vì đây là bổn phận và danh dự của mình trước những người bạn đồng hành.

Trước bối cảnh khó khăn hiện tại của kinh tế thế giới, và dự đoán là tình hình sẽ tệ hại hơn (theo nhận định chủ quan của tôi), tôi muốn nói với các doanh nhân trẻ và nhỏ của Việt Nam, trong hay ngoài nước, là nếu những con người như chị Gấm đã làm được, chúng ta cũng sẽ làm được. Điều thú vị nhất là lần ăn tối ở Chicago với chị Gấm, tôi bốc được một lời khuyên trong chiếc bánh may mắn (gọi là fortune cookies mà các nhà hàng Tàu ở Mỹ thường mời khách free. Bánh kèm bên trong một lời bói toán hay một câu nói của doanh nhân). Tôi còn giữ tờ giấy này, “Thua cuộc chỉ là một tình trạng tạm thời. Bỏ cuộc biến nó thành một sự kiện thường trực“. (Being defeated is often a temporary condition. Giving up is what makes it permanent Marlene vos Savant). Chúng ta không tiên đoán về tương lai, chúng ta đang tạo dựng nó hàng ngày.

Alan Phan

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chiêm ngưỡng tuyệt tác kiến trúc xứ Kinh Bắc

Cập nhật lúc :2:50 PM, 29/12/2011

(ĐVO) Nói về sự hoành tráng của những ngôi đình, người xưa có câu: “Thứ nhất đình Đông Khang/Thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm”...

Trong tiềm thức của người Việt, khi nói về một ngôi làng thì không thể nhắc đến ngôi đình của làng đó, bởi công trình này là sự kết tinh trí tuệ, công sức và thể diện của người dân cả làng. Có thể nói ngôi đình chính là biểu tượng thiêng liêng của một ngôi làng.

Ngôi đình càng to, đẹp thì người dân trong làng lại càng tự hào. Nói về sự hoành tráng của những ngôi đình, người xưa có câu: “Thứ nhất là đình Đông Khang/Thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm”.

Ngày nay, Đình Đông khang đã không còn do chiến tranh tàn phá, đình Diềm cũng đã biến đổi nhiều, không còn bề thế như xưa. Chỉ còn Đình Bảng vẫn giữ được nguyên vẹn quy mô kiến trúc của mình. Giới kiến trúc cũng đánh giá đây là ngôi đình đẹp nhất của người Việt còn tồn tại cho đến nay:

Dưới đây là những hình ảnh Đất Việt về ngôi đình:

Posted Image

Đình Bảng nằm ở làng Đình Bảng, xưa là làng Cổ Pháp hay tên Nôm là làng Báng, nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đình được xây dựng từ năm 1700-1736. Đây là nơi thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) và sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15.

Kiến trúc ngôi đình gồm tòa đại đình (Bái đường) đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ, còn gọi là kiểu "chữ đinh". Toà đại đình dài 20m, rộng 14m, cao 8m, phần mái rủ xuốngchiếm tới 5,5m.

Posted Image

Điểm nhấn trong kiến trúc ngôi đình là sự tỏa rộng trong không gian của mái đình với những đầu đao đồ sộ. Các các đầu đao của Đình Bảng vươn xa nhất trong các các công trình kiến trúc gỗ cổ tại Việt Nam.

Đình có kết cấu theo hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Đặc biệt, đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ bề thế cao 0,7 mét so với mặt nền, sáu hàng cột ngang và mười hàng cột dọc bằng gỗ lim có đường kính từ 0,55m (cột con) đến 0,65m (với cột mẹ) được kê trên các tảng đá xanh.

Posted Image

Mái đình được lợp ngói mũi hài.

Posted Image

Các đầu bẩy hiên dưới mái được điêu khắc hoa văn hình mây, rồng cách điệu.

Posted Image

Hoa văn trang trí phía trên gầm sàn.

Posted Image

Bộ khung đình rất vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ".

Posted Image

Nội thất đình được trang trí với những tác phẩm điêu khắc rất công phu trên rường, cột, xà, thể hiện sự tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ 18.

Posted Image

Các bức chạm khắc thể hiện nhiều chủ đề phong phú như các loài linh thú, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm...

Posted Image

Mỗi bức chạm khắc là một tác phẩm độc nhất vô nhị, không có sự lặp lại.

Posted Image

Đặc biệt, hình tượng rồng chiếm một tỷ lệ lớn với số lượng khoảng 500 bản khắc.

Posted Image

Gian chính điện có sàn thấp, lát gạch lá nem. Gian này có bức cửa Võng lớn, phủ kín một diện rộng, kéo dài từ Thượng lương xuống Hạ xà và mở ngang hết một gian.

Posted Image

Bức cửa võng được chạm lộng kết hợp chạm nổi tinh xảo trên cả 7 lớp, 9 ô.

Posted Image

Các đề tài điêu khắc chủ yếu ở cửa Võng là tứ linh, tứ quí....

Posted Image

Vách gỗ ngăn gian chính điện với hai gian bên cạnh.

Posted Image

Một chú chó đá trấn giữ bên ngoài tòa đại đình.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ngôi đình này có nét đặc biệt là hở chân. Kiểu kiến trúc này cùng với khe hở ở hai đầu vỉ và mở cửa sẽ khiến gió bão lùa qua mà không làm tốc mái. Không hiểu kiểu kiến trúc này có phải là đặc trưng 1 thời hay không, nhưng những ngôi đình vùng cao có xu hướng hở chân, dưới đồng bằng thấy ít hơn. Ai biết sâu về lĩnh vực này xin kiến giải giùm!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vẻ đẹp Rồng trên những cổ vật 1.000 tuổi

Cập nhật lúc :9:02 AM, 22/01/2012

(ĐVO) Xuyên suốt lịch sử của các triều đại phong kiến Đông Á, con rồng luôn là hình ảnh tượng trưng cho quyền lực của vua chúa…

Choáng váng với 'kho báu rồng' vàng khối

Tuy vậy, hình tượng con rồng thời Lý – thời đại lập quốc của Việt Nam có những đặc điểm cấu tạo khác hẳn với rồng thời trước hoặc cùng thời ở Trung Quốc.

Nhìn chung, rồng thời Lý được thể hiện trong dáng dấp hiền hòa mềm mại, có mình dài như rắn, thường không có vẩy, thon nhỏ dần về phía đuôi, bụng phân thành nhiều đốt ngắn như bụng rắn. Dọc sống lưng rồng có một hàng vây thấp tỉa riêng ra từng cái, đầu vây trước tựa vào vây sau.

Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba ngón. Vị trí của chân bao giờ cũng đặt ở một nơi nhất định. Một chân trước mọc gần giữa khúc uốn thứ nhất, chân kia nằm gần cuối khúc uốn này. Hai chân sau bao giờ cũng ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba. Cả bốn chân đều có dải lông dài mọc từ khuỷu hất ra phía sau và móng cong nhọn giống chân loài chim.

Đầu rồng không có sừng, thường ngẩng cao, miệng há rộng với hai hàm răng nhỏ đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi rồng thoát ra mào có dạng ngọn lửa, được gọi là mào lửa. Trên trán rồng có một hoa văn giống hình chữ "S", cổ tự của chữ "lôi", tượng trưng cho sấm sét, mây mưa, yếu tố rất quan trọng trong nền nông nghiệp lúa nước...

Dưới đây là một số hình ảnh của rồng qua những cổ vật có từ thời Lý, Đất Việt ghi nhận tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia:

Posted Image

Rồng trang trí trên lá đề có niên đại từ năm 1057, được tìm thấy tại chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh.

Posted Image

Bệ kê chân cột trang trí rồng, sen, vũ công tại chùa Phật Tích thời Lý.

Posted Image

Đầu rồng trang trí kiến trúc làm bằng đất nung, niên đại thế kỷ 11 - 13.

Posted Image

Gạch khắc hình rồng trang trí trên kiến trúc triều Lý.

Posted Image

Gạch lá đề trang trí hình rồng, niên đại khoảng thế kỷ 11 - 14.

Posted Image

Gạch đất nung khắc hình rồng trang trí trên kiến trúc thời Lý.

Posted Image

Rồng trang trí trên đố cửa của chùa Phật Tích, có từ năm 1057.

Posted Image

Rồng trang trí trên gạch thời Lý.

Posted Image

Gạch xây tháp trang trí rồng, vũ công làm bằng gốm men thời Lý.

Posted Image

Rồng trang trí trên cột đá thời Lý, được tìm thấy ở Hoàng thành Thăng Long.

Posted Image

Bệ kê chân cột trang trí "Lưỡng long tranh châu" (cặp rồng chầu ngọc), có niên đại từ thế kỷ 11 - 13, xuất xứ tại chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯỢNG RỒNG ĐỘC ĐÁO Ở VIỆT NAM

Tượng con bò sát ở Bắc Ninh: thực tế ko ai rõ đây là con gì, người cho là con rồng, người gọi là con rắn, có thuyết lại nói đây chính là tượng trưng cho thái sư Lê Văn Thịnh (ông hóa hổ). Đầu thì thấy giống khủng long, thân giống rồng. Tượng miêu tả 1 con bò sát lớn, đang quằn quại cắn xé thân mình trong cơn giận dữ

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯỢNG RỒNG ĐỘC ĐÁO Ở VIỆT NAM

Tượng con bò sát ở Bắc Ninh: thực tế ko ai rõ đây là con gì, người cho là con rồng, người gọi là con rắn, có thuyết lại nói đây chính là tượng trưng cho thái sư Lê Văn Thịnh (ông hóa hổ). Đầu thì thấy giống khủng long, thân giống rồng. Tượng miêu tả 1 con bò sát lớn, đang quằn quại cắn xé thân mình trong cơn giận dữ

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Posted Image

Xem chú Thiên Sứ bình luận, kết hợp với phần hình ảnh, cháu nhớ đến lời của Hoà thượng Tuyên Hoá nói về Rồng, và rồi cháu thấy thế này:

Rồng khi giao cấu thì đau đớn và biến thành rắn. Hình trên có nét Rồng hoá Rắn và có sự Đau đớn.

(Độc giả tham khảo thêm bài đã có trên diễn đàn: "Khai ngũ nhãn mới thấy được Rồng thật")

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khám phá Việt Nam qua 'biến thể' Rồng thiêng
Cập nhật lúc :6:30 AM, 23/01/2012

(ĐVO) Hình tượng rồng của Việt Nam mang bản sắc riêng, thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt.
Kiệt tác rồng bạc tỷ lớn nhất Việt Nam
Khám phá hình tượng rồng và lá bồ đề trong điêu khắc thời Lý
Độc đáo bức chạm ‘Mèo ngoạm cá’ ở đình Đại Phùng

Trong văn hóa, tín ngưỡng của nhiều dân tộc châu Á, con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt, được xếp vào hàng bậc nhất trong tứ linh "long, lân, quy, phụng", là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các bậc vua chúa.
Đối với người Việt Nam nói riêng, con rồng còn là biểu tượng linh thiêng liên quan đến truyền thuyết con rồng cháu tiên, đồng thời còn thể hiện khát vọng mưa thuận gió hòa của người nông dân trong một nền nông nghiệp lúa nước.
Bởi vậy, dù có phần chịu ảnh hưởng từ văn hóa ngoại lai, hình tượng rồng Việt Nam vẫn mang bản sắc riêng, thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt. Dù trải qua nhiều thay đổi trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, rồng Việt nhưng vẫn giữ những đặc trưng không thể nhầm lẫn với rồng trong các nền văn hóa khác.

Dưới đây là sự biến đổi của hình tượng rồng qua các triều đại phong kiến chủ chốt trong lịch sử Việt Nam:
cdv-ly.jpg
Rồng thời Lý có mình dài như rắn, thường không có vẩy, uống cong nhiều vòng uyển chuyển, mềm mại và thoải nhỏ dần về phía đuôi, bụng phân thành nhiều đốt ngắn như bụng rắn. Dọc sống lưng rồng có một hàng vây thấp tỉa riêng ra từng cái, đầu vây trước tựa vào vây sau.

cdv-ly2.jpg
Rồng có bốn chân, mỗi chân có ba ngón. Vị trí của chân bao giờ cũng đặt ở một nơi nhất định. Một chân trước mọc gần giữa khúc uốn thứ nhất, chân kia nằm gần cuối khúc uốn này. Hai chân sau bao giờ cũng ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba. Cả bốn chân đều có dải lông dài mọc từ khuỷu hất ra phía sau và móng cong nhọn giống chân loài chim.
cdv-ly3.jpg
Đầu rồng ngẩng cao, miệng há rộng với hai hàm răng nhỏ đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi thoát ra mào rồng có dạng ngọn lửa, được gọi là mào lửa. Trên trán rồng có một hoa văn giống hình chữ "S", cổ tự của chữ "lôi", tượng trưng cho sấm sét, mây mưa, yếu tố rất quan trọng trong nền nông nghiệp lúa nước.

cdv-tran.jpg
Rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như đuôi rắn. Vẩy lưng vẫn thể hiện từng chiếc, nhưng không tựa vào nhau như rồng thời Lý.

cdv-tran3.jpg
Chân rồng thường ngắn hơn, những túm lông ở khuỷu chân không bay ra theo một chiều nhất định như rồng thời Lý mà lại bay lên phía trước hay phía sau tùy thuộc vào khoảng trống trong không gian thể hiện. Nhìn chung, rồng thời Trần có tạo hình uốn lượn khá thoải mái với động tác dứt khoát, mạnh mẽ. Ảnh: gạch đất nung có hình rồng thời Trần (Tiền phong).


cdv-tran2.jpg
Đầu rồng không có nhiều chi tiết phức tạp như rồng thời Lý, vẫn có mào vươn lên trên nhưng không uốn nhiều khúc. Chiếc răng nanh phía trước khá lớn, vắt qua sóng vòi. Miệng rồng há to nhưng nhiều khi không đớp quả cầu. Ảnh: Đầu rồng đá thời Trần (hoangphaphanoi.com).

cdv-le.jpg
Rồng thời Lê có tạo hình thay đổi hẳn so với các triều đại trước đó. Không còn là một con vật mình rắn uốn lượn đều đặn, rồng được thể hiện trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn.
cdv-le2.jpg
Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như thẳng ra, bao quanh có một hàng răng cưa kết lại như hình chiếc lá. Răng nanh cũng được kéo dài lên phía trên và uốn xoăn thừng ở gốc. Lông mày vẫn giữ hình dáng uốn lượn, nhưng được kéo dài ra và đuôi vuốt chếch lên phía sau. Trên lông mày là chiếc sừng hai chạc, đầu sừng cuộn tròn. Ảnh: Rồng đá ở điện Kính Thiên - Hoàng thành Thăng Long (Non nước Việt Nam).
cdv-le3.jpg
Một số đặc điểm khác của rồng thời Lê: rồng có mắt to, sừng lớn, râu ngắn, chân rồng có 8 móng, một chân trước thường đưa lên đỡ râu, cổ rồng thường nhỏ hơn thân - một hiện tượng ít thấy ở những con rồng thời trước. Ảnh: Các bức chạm rồng thời Lê tại chùa Bút Tháp, Bắc Ninh.

cdv-nguyen.jpg
Nếu như vào thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, hình tượng rồng được nhân cách hóa và đưa vào đời thường thì từ thời Nguyễn, con rồng đã trở lại vẻ uy nghi, tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng của vua chúa. Rồng thời kỳ này được thể hiện ở nhiều tư thế phong phú. Ảnh: tượng rồng thời Nguyễn ở lăng Khải Định.
cdv-nguyen2.jpg
Mình rồng khá ngắn, uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng to, mũi như mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vậy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng. Ảnh: Hình tượng rồng trên ấn "Sắc Mệnh Chi Bảo" của triều Nguyễn.

cdv-nguyen3.jpg
Nhìn chung Rồng thời Nguyễn toát lên vẻ mạnh mẽ, uy nghi, có pha chút vẻ dữ tợn. Ảnh: Hình tượng rồng trên áo bào của hoàng tử triều Nguyễn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xem chú Thiên Sứ bình luận, kết hợp với phần hình ảnh, cháu nhớ đến lời của Hoà thượng Tuyên Hoá nói về Rồng, và rồi cháu thấy thế này:

Rồng khi giao cấu thì đau đớn và biến thành rắn. Hình trên có nét Rồng hoá Rắn và có sự Đau đớn.

(Độc giả tham khảo thêm bài đã có trên diễn đàn: "Khai ngũ nhãn mới thấy được Rồng thật")

Hi! Không phải chú bình luận mà là tác giả bài báo nói thế. Nhìn chung các nhà nghiên cứu cho rằng hình tượng trên nói về vị vua giết trung thần là tự cắn mình. Nhưng ý kiến của Hòa Thượng Tuyên Hóa rất cần suy ngẫm. Trong văn hóa Ấn Độ cũng có hình ảnh một con rắn tự quay đầu nuốt cái đuối của mình (Tự ăn thịt chính nó). Mọi suy luận, giải mã một hình tượng đều cần có sự hợp lý với chính nó và phải hợp lý với những hiện tượng liên quan.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giếng Hàm Long với truyền thuyết chế ngự rồng dữ

Tại thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế) có 1 giếng rất độc đáo mang tên Hàm Long (miệng của con rồng) trên quốc tự Báo Quốc với truyền thuyết gắn liền lịch sử của các vua triều Nguyễn (1802-1945).

Theo truyền thuyết nhiều người xưa kể lại, khi vua Nguyễn từ Bắc vào Huế (xứ Thuận Hóa) định đô thì nhiều đêm liên tiếp có 1 con rồng gây ra mưa gió quấy nhiễu, vua bèn sai thầy địa xem phong thủy thì thấy trước mặt Kinh thành có 1 dãy núi thiêng với nhiều long mạch.

Để chế ngự con rồng này cần phải mời bậc cao nhân về yểm long mạch. Sau khi mời các thầy về yểm tại nhiều điểm, quả nhiên sau đó không còn rồng quấy phá vua nữa. Từ đó, dãy núi đó được đặt tên là Bình An Sơn.

Hiện vẫn còn hàng chục ngôi chùa được tại núi này. Điểm khởi đầu của các chùa là quốc tự Báo Quốc do thiền sư Giác Phong dựng lên vào cuối thế kỷ XVII. Khi thiền sư đến lập chùa đã có đào 1 cái giếng để lấy nước ngay dưới chân núi. Bỗng từ dưới giếng có mạch nước ngọt tỏa mùi thơm ngát phun ra liên tục như miệng con rồng phun nước nên đặt là giếng Hàm Long. Một sự tích khác là khi đào đúng viên đá dẫn lộ xuống mạch nước ngầm, vì đá quá giống miệng con rồng nên đặt tên Hàm Long.

Posted Image

Giếng Hàm Long

Bia đá của chùa và xóm Báo Quốc ghi sát giếng: “Giếng Hàm Long có tên chữ Hán là Hàm Long Tĩnh. Theo bộ Hàm Long Sơn Chí thì Giếng xuất hiện cùng thời với việc khai sơn chùa Báo Quốc khoảng năm 1674.

Đáy giếng có đá như hàm rồng. Nước trong đá tuôn ra mát lạnh có vị ngọt nên ngạn ngữ có câu: Giếng Hàm Long trong lại ngọt. Anh thương em rày có Bụt chứng tri.

Theo Đại Nam Nhất Thống chí: Buổi đầu khai quốc, các quan lại triều đình thường lấy nước giếng này để Vua dùng nên lại có tên nữa là Giếng Cấm”.

Nhiều người dân ở xung quanh chùa Báo Quốc cho biết hiện nước giếng không có ai đến lấy uống nữa vì sợ là giếng cấm cho vua. Giếng chỉ được phục vụ cho mục đích thăm quan. Ngày xuân, nếu lên dạo cảnh, thắp hương tại chùa Báo Quốc, du khách hãy đến giếng “miệng rồng” để cầu nguyện cho những điều may mắn, sức khỏe, bình an cho gia đình.

Dưới đây là chùm ảnh về giếng Hàm Long:

Posted Image

Quốc tự Báo Quốc

Posted Image

Giếng Hàm Long nằm ngay dưới chân núi dẫn lên chùa Báo Quốc

Posted Image

Một đầu rồng dữ tợn được đắp nổi trước giếng

Posted Image

Giếng có mực nước đầy quanh năm

Posted Image

Nước giếng xanh vắt

Posted Image

Có cá chép vàng bơi lội tung tăng dưới giếng

Hàm Long.

Liệu cá có hóa rồng trong vài trăm năm tới khi được sống tại giếng thiêng?

Posted Image

Tương truyền các viên đá dưới đáy giếng có hình dạng giống miệng con rồng

Posted Image

Người dân quanh vùng hay đến thắp hương trước giếng trong ngày lễ

Posted Image

Phía sau giếng lúc xưa có 1 cây cổ thụ rất to nhưng giờ không còn nữa vì bị mối mọt ăn chết

Posted Image

Du khách cầu nguyện nhiều may mắn, sức khỏe trong năm Nhâm Thìn ở giếng Hàm Long

Posted Image

Vùng đất xung quanh giếng vẫn còn rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh năm

Posted Image

Màu thời gian của giếng

Posted Image

Không ai dám dùng nước giếng Hàm Long kể từ khi nước tại đây được tiến vua dùng vì độ ngọt và thơm kỳ lạ không giếng nào sánh bằng. Giếng đã được đậy lại kín bởi 1 tấm lưới sắt đan

Posted Image

Hình tượng rồng rất nhiều gần giếng Hàm Long, trên các mái chùa ở dãy núi xưa nơi truyền thuyết kể từng có rồng dữ quấy phá nhà vu.

Đại Dương(Dân trí)
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

“Qua đình ngả nón trông đình”

Tác giả: Tương Lai

Bài đã được xuất bản.: 5 giờ trước

Trong sâu thẳm tâm thức người Việt, hình ảnh mái đình cây đa luôn ở vào cung bậc nhạy cảm nhất và có sức gợi nhớ mãnh liệt. Bất cứ người Việt nào cũng có, và cần có, một vùng quê để thương để nhớ. Thật bất hạnh cho ai đó không có được một “vùng thương nhớ” ấy trong hoài niệm tuổi thơ. Mà đã là hoài niệm, thì cho dù nơi ấy có cơ cực tủi nhục đến đâu, có xơ xác lam lũ thế nào, có để lại những dấu ấn buồn đau đến mấy, thì vẫn có sức gọi dậy những vang bóng một thời đầy ắp những kỷ niệm mông lung, ấm áp.

Posted Image

Về làng, ta về làng, hai tiếng ấy giục giã đến nao lòng những người vì cuộc mưu sinh, vì một sự nghiệp phải xa quê. "Ai về làng cũ hôm nay, Thư này đưa hộ cho thày mẹ tôi. Con đi mười mấy năm trời, Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương... Con đi năm ấy tháng tư, Lúa chiêm xấp xỉ giỗ từ tháng ba. Con đi quạnh cửa quạnh nhà, Cha già đập lúa, mẹ già giũ rơm. Cha dậm gạo, mẹ vần cơm, Có con, con vắng, ai làm thay cho" (Nguyễn Bính).

Mà đã về làng thì làm sao có thể không nhớ, không thăm cái đình. "Trúc xinh trúc mọc bên đình, em xinh..." đấy là cái hồn cốt của làng đã thăng hoa trong cảm thức thẩm mỹ dân tộc với những hình tượng độc đáo xao động lòng người, chứ cái đình thường giữ một vị trí trang trọng trong ý thức dân làng. "Cái đình là trung tâm của làng. Làng nào cũng có đền thờ ông thần hoàng. Đình được cất cao ráo khang trang, thế tất theo phong thủy, nơi phong quang nhất làng", Tô Hoài luận về "cái đình làng" trong Chuyện cũ Hà Nội như vậy. Hãy nghe người kể chuyện cũ rất có duyên ấy nói về cái đình làng: "Ở đình... có ngai thờ ông thần hoàng thiêng liêng, uy nghi. Ông thần trông coi làng sáng soi trên đầu mọi người. Thần hoàng đã xuất hiện từ nghìn xưa, mọi triều đại thay đổi, nhưng vua đời nào cũng phong sắc cho thần hoàng làng. Các vị thượng đẳng phúc thần được tế lễ thờ phụng là nhân vật tiền sử như Thánh Gióng, có khi là những anh hùng có thật. Lý Thường Kiệt, đức thánh Trần, Phạm Ngũ Lão, bà Ỷ Lan. Có khi là người vô danh chết vào giờ linh được hiển thánh...".

Trong Việt Nam văn hóa sử cương xuất bản năm 1938, học giả Đào Duy Anh chỉ rõ: "Đối với dân làng, thần Thành hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hy vọng chung của cả làng, lại cũng là một thứ quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho hương thôn thành một đoàn thể có hệ thống và tổ chức chặt chịa". Chỉ riêng tục "hèm" ở khá nhiều làng quê cũng cho thấy nét độc đáo của tín ngưỡng dân gian có một sức bền vững kỳ lạ, càng thần bí, kỳ quặc bao nhiêu càng bảo lưu được những nét dáng nguyên sơ trong việc thờ thành hoàng.

Cụ Đào miêu tả hiện tượng ấy như sau: "Trong lễ vào đám hay vào hội của ít nhiều làng, có một nghi tiết đặc biệt gọi là hèm, người ta thường bày một trò để nhắc lại tình sự nghiệp hoặc sinh bình của vị thần làng thờ. Ví dụ khi vào đám lễ thần ăn trộm thì ban đêm con trai con gái trong làng đốt đuốc đi xung quanh đình giả tìm kẻ trộm, trong khi ấy người thủ từ lấy tượng thần đưa qua lỗ ngạch, có ông tiên chỉ đứng chực sẵn ở phía ngoài nắm lấy cổ tượng thần đấm ba đấm rồi bỏ lên kiệu rước lại vào đình". "Hèm" nhằm trình diễn một biểu tượng đặc trưng về cuộc đời, một nét tính cách đặc biệt của vị thành hoàng làng, vị thần bảo trợ cho cộng đồng làng, khẳng định tính riêng biệt độc đáo của cộng đồng ấy. Ẩn chìm trong màn sương hư ảo của tín ngưỡng mang tính huyền bí là bóng dáng của sức cố kết cộng đồng trong tâm lý làng xã được thăng hoa, bụi thời gian dần dà phong kín cái cốt lõi hiện thực của cuộc sống làng quê.

Trong dòng chảy thời gian ấy, với bao biến thiên của lịch sử và những đảo lộn xã hội, cái làng quê đã bị xáo động dữ dội, những lễ tục ấy rồi cũng đã nhạt nhòa, may lắm chỉ còn được gợi lại trong hồi ức của một lớp người nay đã ngày càng hiếm. Tuy nhiên, dù có chìm vào quên lãng, rồi đây lớp người "cổ lai hy" hôm nay không còn nữa, thì hồi ức ấy vẫn còn đọng lại trong nền văn hóa làng vốn là nguồn sinh khí nuôi dưỡng bản sắc văn hóa dân tộc. "Cái đình làng", dù có "trúc xinh mọc bên đình" hay không, thì "mỗi cái cây ở thôn xóm cũng như con người đều mang sự tích cuộc đời và cái hồn cốt của nó" (Tô Hoài) cho nên nói chuyện về cái đình, thật ra là để nói về chuyện nền "văn hóa làng" ấy.

"Ngày qua ngày lại qua ngày. Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Bảo rằng cách trở đò giang. Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình. Có xa xôi mấy cho tình xa xôi"! Có người cho rằng, cái quy luật tất yếu và phũ phàng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa "ngày qua ngày lại qua ngày" dường như đã vùi dập không thương tiếc nền văn hóa làng ấy. Cho dù có muốn cưỡng lại cũng chỉ là những khát khao vô vọng: "Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa, Như hôm em đi lễ chùa, Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh".

Giờ đây không chỉ là "Hôm qua em đi tỉnh về, Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều" mà là văn minh đô thị, đúng hơn, những cặn bã của nền văn minh đó đang tràn về đầu độc các chàng trai cô gái làng cho dù họ biết "thày u mình với chúng mình chân quê" (Nguyễn Bính). Lối sống "chân quê" đó đã phần nào bớt đi sự tăm tối bùn lầy nước đọng với lũy tre làng khép kín bịt che tầm mắt, chặn hết lối ra với cơ may tìm được lối thoát và sự thăng tiến xã hội. Nhưng rồi cái thứ cặn bã văn minh đô thị nói trên lại đầu độc làng quê ta theo một kiểu khác không kém phần thảm thương để rồi, một nhà thơ thảng thốt kêu lên: "Những nền tảng của văn hóa truyền thống ở các làng quê đã biến dạng và bị phá vỡ. Cái quan hệ hàng xóm láng giềng có được trong truyền thống tốt đẹp lâu đời của văn hóa làng Việt Nam mỗi ngày một mất đi những vẻ đẹp và tính nhân văn của nó. Làng quê Việt Nam bây giờ "ông chẳng ra ông thằng chẳng ra thằng". Phố cũng không phải phố mà làng cũng không phải là làng" (Nguyễn Quang Thiều).

Một câu hỏi đặt ra: liệu có nhất thiết buộc phải đánh đổi một nông thôn xanh tươi và hài hòa với thiên nhiên, nơi ấp ủ nền văn hóa truyền thống dân tộc để đổi lấy một nông thôn tàn tạ, nham nhở, phố không ra phố, làng chẳng ra làng không? Câu hỏi đó như một điệp khúc buồn day dứt, cứ trở đi trở lại mãi khi bàn về vấn nạn nông thôn, đặc biệt khi nói về nền văn hóa làng.

Những tổn thương nặng nề trong chiến tranh, nhất là những vết thương trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức ở miền Bắc cuối những năm 50 thế kỷ XX chưa kịp kín miệng, lên da non, thì những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều duy ý chí trong việc áp đặt mô hình kế hoạch hóa tập trung bao cấp, cùng với việc hối hả thúc đẩy quá trình tập thể hóa nông nghiệp với hợp tác xã bậc thấp rồi hợp tác xã bậc cao, tiếp tục làm cho nó lở loét thêm, thúc đẩy sự biến dạng và tàn tạ của nền văn hóa làng. Và rồi, với tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa chưa có một định hướng hợp lý đã đẩy nhanh thêm quá trình tan rã và biến dạng của nền văn hóa làng đó. Không khéo lần công phá dữ dội của làn sóng đô thị hóa và công nghiệp hóa kỳ này, nếu không có một chuyển đổi về nhận thức và đường lối, sẽ là đòn trí mạng làm sụp đổ hẳn nền văn hóa làng. Mà cần nhớ rằng, làm sụp đổ nền văn hóa làng, tức là nhổ bật cái gốc của văn hóa Việt Nam với cấu trúc chặt chẽ của ba nhân tố: văn hóa nhà, văn hóa làng và văn hóa nước, cái làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Để cảm nhận được đầy đủ điều ấy, phải ngược dòng lịch sử mà hiểu ra rằng trong cái thế kẹt của vị thế địa chính trị "trứng nằm dưới đá" Việt Nam muốn tồn tại và phát triển phải rèn cho mình bản lĩnh có cứng mới đứng được đầu gió, dám tự khẳng định mình, sớm rèn luyện bản lĩnh "dám là mình". Không có phẩm chất đó thì dân tộc này đã không thể tồn tại chứ chưa nói đến phát triển. Biết bao lần ngoại bang đã muốn biến nước ta thành quận huyện của chúng, thậm chí chỉ là một xứ thuộc mẫu quốc ở tít tắp bên kia đại dương, xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết phải tiêu diệt ý chí đề kháng được hun đúc trong nền văn hóa vốn là nguồn sức mạnh bất tận của dân tộc Việt Nam. Ngoại bang không sao đồng hóa được dân tộc này vì chúng có thể chiếm giữ được nước (thủ đô, huyết mạch giao thông) song không sao chiếm được làng, không làm băng hoại được nền văn hóa làng. Còn làng thì còn nước, sự gắn kết làng - nước là sức sống bất tận của dân tộc ta. Cốt lõi của sức sống đó là gì, chất xi măng gắn kết mọi con người trong cộng đồng dân tộc này là gì, nếu không phải là văn hóa - sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được để không ngừng phát triển và lớn mạnh. (Phạm Văn Đồng)

Ấy thế mà thật oái oăm, những cơn binh lửa tàn phá thành tựu của nền văn hóa dân tộc "...Lửa đốt sạch, than ôi vận nước, sách vở đi đời. Muốn tìm sự tích sau cơn khói lạnh tro tàn, thật rất khổ tâm về nỗi nét sai, chữ sót..." mà sử gia Ngô Sĩ Liên từng xót xa. Nhưng nếu nghiêm khắc phân tích kỹ, chiến tranh chỉ có thể thiêu hủy những thành tựu văn hóa vật thể, khi cơn binh lửa qua đi vẫn có thể trùng tu, xây dựng lại, còn những hủy hoại đã diễn ra từ sau những năm 50 thế kỷ XX trở lại đây như đã trình bày, thì không chỉ những di sản văn hóa vật thể mà cùng với chúng, những di sản văn hóa phi vật thể, đời sống tâm linh, nơi sâu thẳm của tâm hồn con người, có ý nghĩa khơi động, dẫn dắt ý nghĩ và hành động hướng thiện của con người đã bị xúc phạm dữ dội.

Trùng tu, đúng, phải trùng tu ngôi đình. Nhưng trước hết có lẽ phải "trùng tu" cái đầu còn hời hợt trong suy nghĩ về di sản của ông cha để lại.

Hãy nhìn vào ngôi đình làng, ngôi chùa làng, trừ một số ít được giữ gìn hoặc đang được trùng tu, còn lại thì đang tàn tạ, tiêu điều! Bằng nhận thức ấy mới thấy cần phải trả lại cho chúng cái chức năng văn hóa trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Liệu có thể đánh thức cảm quan thẩm mỹ "Qua đình ngả nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu" và biết xao động với hình ảnh "Sư già quét lá sau chùa, Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông". Hoài cổ ư? Có thể.

Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dấu xưa nón ngựa

27/01/2012 13:59:03

Posted Image - Ông Đỗ Văn Lan ở thôn Phú Gia, Cát Tường, Phù Cát, Bình Định đem chiếc nón ngựa của mẹ ông đã dùng trong suốt hơn 45 năm cho khách xem.

Chiếc nón đặt trên bàn thờ chỉ cũ chứ không hề hư hỏng, lớp lá lợp nón bóng loáng, ánh màu thời gian. Ông Lan cho biết: "Dùng lá kè mỡ để lợp nón thì càng đi mưa, đi nắng lại càng thêm bền chắc, lạ kỳ là thế".

Điểm độc đáo của quy trình làm nón ngựa là người thợ không dùng khuôn để dựng nón, do vậy mỗi chiếc nón được làm ra là một sản phẩm độc bản. Có hơn mười công đoạn để làm ra một chiếc nón ngựa trong đó phần dựng khung là công phu nhất.

Posted Image

Chiếc nón có đường kính 0,9m được ông Lan làm để trưng bày cho du khách đến tham quan.

Nón ngựa được đan bởi 3 lớp nang chồng lên nhau, bằng những sợi giang chuốt nhỏ như sợi chỉ. Đan lớp nang thứ nhất gọi là đan sườn mê, tạo thành những hình lục giác. Lớp nang thứ hai được đan theo chiều dọc, chạy thẳng từ chóp xuống vành. Lớp nang thứ ba được đan vòng tròn quanh nón. "Người thợ giỏi cũng phải mất hai ngày để dựng một khung nón", ông Lan khẳng định.

Cả xã Cát Tường hiện có khoảng 400 hộ làm nón nhưng chỉ khoảng 1/3 số này là làm nón ngựa. Một chiếc nón ngựa làm mất một tuần công và mỗi công đoạn do một người đảm nhiệm. Người dựng khung, người thêu, người chằm nón... mỗi công đoạn đều đòi hỏi sự khéo tay, tỉ mỉ và phải rất tài hoa. "Ngày xưa chỉ có người có chức tước hay nhà giàu, phong lưu cưỡi ngựa mới đội nón có chóp bịt bằng bạc chạm trổ công phu nên gọi là nón ngựa", người già ở Phú Gia đều giải thích như thế.

Posted Image

Lá kè mỡ là loại lá đặc biệt để chằm trên nón ngựa.

Posted Image

Rất tỉ mỉ, người làm nón ngựa chằm lớp lá lên phần khung nón.

Posted ImagePosted Image

Mỗi chiếc nón ngựa có giá bán từ vài trăm đến hàng triệu đồng.

Posted ImagePosted Image

Chiếc nón ngựa do ông Lan làm theo đơn đặt hàng của khách đúng theo nguyên mẫu chiếc nón ngựa mà quan lại xưa vẫn đội.

Posted Image a Posted Image

Ông Đỗ Văn Lan vẽ lại những chi tiết chạm trên chóp nón bằng bạc cổ để giữ cho thế hệ tương lai.

Lê Anh Tuấn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xem chú Thiên Sứ bình luận, kết hợp với phần hình ảnh, cháu nhớ đến lời của Hoà thượng Tuyên Hoá nói về Rồng, và rồi cháu thấy thế này:

Rồng khi giao cấu thì đau đớn và biến thành rắn. Hình trên có nét Rồng hoá Rắn và có sự Đau đớn.

(Độc giả tham khảo thêm bài đã có trên diễn đàn: "Khai ngũ nhãn mới thấy được Rồng thật")

Nhìn vào mỗi sự vật, hiện tượng, cần liên hệ với xuất xứ của nó. Pho tượng này tại nơi thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, trạng nguyên nổi tiếng đất Kinh Bắc. Khi quyền lực tột đỉnh, ông bị kỳ án hóa hổ giết vua trên hồ Dâm Đàm. Việc này cũng chả khác gì Nguyễn Trãi với huyết án Lệ Chi Viên. Chân giả giả chân, các cụ nhà ta vẫn nhắn gửi con cháu câu "được làm vua, thua làm giặc" Vài trăm năm sau, dân lập đền thờ, tạc 1 pho tượng nhắn gửi cho hậu thế sự thật lịch sử đó, cũng là câu nhắn gửi cho đế vương muôn đời:

Không có râu tóc, sừng mỏ, Rồng chỉ là con rắn thảm hại, không biết làm gì ngoài việc tự cắn mình;

Con Rắn mới mọc được tí vuốt đã định xưng là Rồng, nhưng còn lâu nó mới có râu, bờm, sừng nên định làm Rồng chả khác gì tự cắn vào thân mình.

Kẻ làm Rồng hay làm Rắn, hãy nhớ câu dạy vua muôn đời của Nguyễn Trãi:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo!

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay