Posted 13 Tháng 10, 2008 Cái bài này của thằng cu nhà cháu nhặt được ở http://blog.360.yahoo.com - blog G-King's. Thấy hay hay nhà cháu chép lên cho mọi người đọc truyện đêm khuya. Cái tay G- King's viết hay như Liêu trai chí dị. Thưởng cho cút riệu nếp này. Hậu cái sự đời! - Cái gì người mua thì biết, người xài thì không biết? - Cái gì mua một cái, nếu có khuyến mại một cái, khách hàng sợ vãi…không dám nhận?Dạo này không biết có phải chán cơm thèm đất hay không mà tự dưng lại có ý định viết bài này. Mà cũng thấy kinh kinh. Ho cũng lâu lâu rồi mà không thấy khỏi. Chắc sắp “thăng” rồi! Sắp “thăng” rồi! Hu hu!Đúng ra là định viết bài này tối qua. Nhưng giời hành. Í! Người hành chứ. Lảng vảng ngoài công trường đến gần 1h đêm mới về. Viết lách gì? Ý tưởng viết thì có từ hôm đại diện công ty đi cái đám ma. Nghe tang gia nói sẽ đưa cụ đi thiêu. Có ông bác cùng đoàn vốn xuất gia từ thợ mộc. Chả biết ngứa nghề thế nào ngồi giới thiệu mấy loại gỗ dùng để đóng áo quan. Trong đó có loại sau khi thiêu sẽ tách cái gì ra cái ấy. Tro đen là gỗ, tro trắng là xương. Gia chủ chỉ việc hốt bỏ bình mang lên chùa. Mà cái ông này cũng hay ngứa nghề. Lôi chuyên môn ra bàn giữa cảnh này... Thế là tự dưng một vài nỗi ám ảnh hiện về. Nên định viết một bài về cái món này để câu page view cái. ****Có nhiều tên gọi. Nhưng có một cái tên mà thấy có ý nghĩa nhưng lại ít dùng. Đó là “cỗ hậu sự”. Cái tên này nghe vậy mà có lý. Nó mô tả đúng với bản chất sử dụng của vật mang tên. Thời cả nước nói chung và nông thôn miền Bắc nói riêng. Khi mọi thứ còn thiếu thốn, nên kinh tế nặng vào việc tự cung tự cấp thì hầu như nhà nào cũng có một cái. Để phòng xa ấy mà. Vì nếu xảy ra chuyện thì khó mua. Vì ít người bán. Hồi còn bé xíu xìu xiu. Gia đình tôi ở với ông nội. Ông làm mộc nên cũng đóng cho mình 1 cái. Thậm chí còn đóng sẵn cả cái hòm nho nhỏ gọi là cái quách để dùng cho cả việc sang cát. Ông tôi có nói 1 câu mà sau này, bác tôi có nói lại : “Tôi sống nhờ gỗ. Nên chết cũng muốn nằm trong gỗ” Khi chưa nhận thức được đó là cái gì. Tôi dường như chả biết sợ. Trèo lên chơi. Thậm chí nghịch còn chui vào trong. Cái thứ ấy, ông bà hay dung để đựng thóc lúa sau mỗi vụ gặt…Tôi chỉ nghĩ đó là cái thùng đựng thóc. Nhưng khi biết được nó là cái gì. Đặc biệt đi theo một số đám ma, chứng kiến cái lúc hạ huyệt, người ta thả cái quan tài xuống hố, rắc cơm trắng và lấp đất dần lên trong tiếng khóc than của con cháu thì tôi hãi lắm. Cũng xin nói luôn là hồi nhỏ, tôi vốn nhát gan. Sau này lớn hơn, cũng đỡ. Thậm chí giờ, khi ra đời rồi thì cũng chả thấy cái gì đáng sợ cả. Có khi nói về cảm giác sợ nhất, là khi sáng tỉnh giấc, mặc quần áo đi làm, thò tay xuống đít thấy cái bóp dẹp lép. Xấp tiền lương mới lĩnh bay đâu mất rồi? Khi đã trải qua nỗi sợ ấy, thì có lẽ chả thấy cái gì đáng sợ cả… Ông tôi đóng sẵn cho mình mà chờ hoài, chẳng thấy mình chết. Thế nên cứ để trong nhà. Hình như cũng có lần họ hàng có người mất, con cháu sang mua,ông lại để lại cho người ta. Cái chỗ để món ấy trống được ít ngày. Nhưng rồi là thợ mộc, ông lại bổ sung luôn cái mới. Cầu kỳ hơn và đẹp hơn. Vì thế mà cũng đáng sợ hơn. Càng ngày, tôi càng cảm thấy kinh hãi, nhất là có lần xem người ta làm lễ nhập quan người chết. Khói hương nghi ngút, mấy người bê cái bọc dài dài, trăng trắng mà bên trong là tử thi bỏ vào, đậy nắp và lấy búa, đinh đóng cành cạch… Rồi những câu chuyện liên quan đến cái món ấy. Như có ông đóng xong cho mình một cái , chui vào nằm thử xem có vừa không. Cái nắp sập xuống, không ra được thế là dùng luôn. .. Tôi sợ đến mức không dám bén mảng lại gần. Hôm nào có việc phải đến gần thì y như rằng rối nằm mơ , toàn giấc mơ kinh dị. Có khi là một mình lạc trong bãi tha ma. Có khi là đứng bên 1 cái hố toàn xác người vàng ệch… Tuổi thơ cứ thế trôi qua. Tôi thoát khỏi nỗi ám ảnh đó khi theo gia đinh chuyển về thành phố. Ông tôi đóng cái đó cho mình. Nhưng đến cả chục năm sau mới phải dùng đến. Khi ấy nó đã hỏng ít nhiều. Và theo đúng tâm nguyện của ông. Khi sang cát, con cháu cũng dùng quách gỗ chứ không dùng đồ sành như người khác… ****Bấy nhiêu chuyện cũng không đủ ám ảnh. Cái đáng sợ hơn là bắt nguồn từ thói quen tái sử dụng của người nông dân miền Bắc. Có lẽ do đời sống khó khăn mang lại. Ở trong Nam, khi nhà có người chết, con cháu thường tậu một chiếc thật xịn. Chắc phải ISO 22000 : 2005 vì tập quán là chôn 1 lần, vĩnh viễn. Hoặc nếu có thiêu, thì dùng loại tốt vừa, trang trí cầu kỳ một chút là đủ. Nhưng ngoài Bắc, có tập quán sang cát hay còn gọi là cải mả. Nghĩa là sau khi chôn được khoảng trên 3 năm, nếu gia đình đang làm ăn khá thì thôi. Làm ăn không tốt thì lôi cụ lên để rửa ráy, sấy khô, ướp hương liệu, cho vào cái bé hơn rồi lại hạ xuống. (Nếu Entry này ăn khách, sẽ có một entry riêng về chuyên đề cải mả. Còn kinh dị hơn) Tất nhiên là thay bằng một cái hòm mới, thì sẽ dư một cái hòm cũ. Đáng lẽ đốt nó đi thì người ta nghĩ ra đủ thứ tận dụng. Và rất nhiều chuyện vừa kinh dị, vùa mất vệ sinh ra đời… Cái cấp độ nhẹ nhất mà người ta sử dụng là dùng kê hố xí, cái bệ để để ngồi làm lớn. Cái đó có 6 tấm ( tụi trẻ con chúng tôi hồi ấy hay gọi là cái tàu ngầm 6 tấm), thì chỉ cần 2 tấm hông kê song song, để hở ra một khoảng độ 10cm là có ngay một cái Bàn cầu hảng “khủng” (khiếp) rồi. Nhà tôi cũng có 1 cái. Đêm nào, mà có buồn…, chỉ nghĩ đến việc ngồi trên hai cái tấm đó đã khiến tôi táo bón rồi. Thường thì nhịn đến hôm sau. Hôm nào lỡ không nhịn được, thì tôi bắt mẹ tôi đốt đèn dẫn ra, rồi đứng ngoài , thỉnh thoảng la lên vài tiếng để tôi đỡ sợ. Tội nghiệp bà, vừa lo đập muỗi, vừa nói dăm câu ba điều cho tôi biết chắc cú là bà còn đứng ở ngoài. Xong rồi chửi “Sư bố mày” Rồi làm chuồng trâu, ngăn chuồng heo… Nhưng tụi gia súc thì không biết sợ. Mà có khi chúng sợ nhưng không nói được. Thế nên cấp độ tiếp theo là làm cầu ao. Hồi xưa chưa có nước máy, các con sông lại chưa ô nhiễm, nên nhà nào cũng có cái cầu nhô ra sông để rửa ráy. Và dung cái đó mà làm cầu ao là tốt nhất. Vì nằm ở dưới đất lâu, giờ gặp nước, nó càng bóng và đẹp. Mỗi sáng, người người ra đánh răng, rửa mặt, chiều chiều, đám đàn ông mặc quần đùi ra tắm, ngồi bệt lên đó mà kỳ cọ. Hàng ngày, các bà nội trợ mang gạo ra vo, rau quả, thực phẩm ra rửa. Có bà quên mang thớt, kê luôn thịt lên đó thái thái thái, kê xương lên chặt chặt chặt…Thật là kinh hãi về tính vệ sinh hình thức. Nhưng làm thế thì cũng chẳng chết ai. Vì dù sao nhìn thì kinh, nghe thì khiếp, nhưng vẫn không độc hại bằng thực phẩm bây giờ… Nhưng đó không phải là kinh dị nhất. Cách tận dụng trong câu chuyện này mới thực sự làm lạnh gáy những người thần kinh vững vàng nhất… ----------- Chuyện ở làng Hạ.Ở làng Hạ, Có một anh nông dân tuổi trạc ngoài 20. Cao lớn, vạm vỡ. Sau mười mấy hai mươi năm nuôi nấng , cha mẹ anh quyết định cắt một miếng đất cho anh ở riêng. Chu đáo hơn, các cụ còn chọn cho anh một thôn nữ trong làng. Không đẹp nhưng cũng thuộc chuẩn “mông to, háng rộng, chân kiềng…”. Anh là con một, nên các cụ cũng kỹ lắm. “Lấy vợ xem mông, lấy chồng xem…con giống” , cứ đúng như dân gian đã dạy.Chuẩn bị cưới vợ, cụ cất cho anh một căn nhà nhỏ. Rồi còn lặn lội sang tận làng Đông , tìm đến một ông thợ mộc có tiếng nhất, đặt đóng cho con trai ông một cái giường thật chắc. Loại gỗ ông đòi phải là gỗ giáng hương Lào. ( Mà không biết tại sao cứ lấy vợ là phải sắm giường nhỉ?) Lễ cưới to lắm. To nhất cái làng Hạ năm đó. Nhưng trong đám cưới, đến phần lễ cúng gia tiên, bát nhang trên bàn thờ bỗng bùng cháy dữ dội. Như báo một điềm chẳng lành. Sau lễ cưới, mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường. Chỉ có điều, hai ông bà chờ hoài mà cô con dâu tốt tướng kia không sinh cho các cụ một đứa cháu nối dõi tông đường. Tìm thầy tìm thuốc, chữa trị đủ các cách cũng không được. Nghe tin bệnh viện Từ Dũ trong tận Sài Gòn có cách, các cụ bán đất đai, đồ gia bảo để hai vợ chồng vào Nam một chuyến. Tốn cả chục lượng vàng mà vẫn chẳng có kết quả. Nghe tin ở một ngôi chùa nọ , người ta đến xin con cầu tự hiệu nghiệm lắm. Cụ ông quyết tâm khăn gói lên đường để xin cháu. Vừa nhìn thấy cụ, sư ông tái mặt, chỉ thẳng : - Nhà ông bị yểm. Không thể có cháu. Hỏi yểm thế nào, ở đâu thì sư không nói, chỉ phẩy tay đi vào trong. Theo gặng hỏi mãi không được, cụ vừa buồn vừa sợ, khăn gói về. Hai tuần sau, cụ nghe tin vị sư ông đó đã viên tịch. Người ta kể lại, sư viên tịch trong đêm, khi một mình lập đàn tràng để phá bùa cho ai đó. Năm tháng trôi qua, hai cụ gia ra đi trong nỗi buồn không người nối dõi. Hai vợ chồng nọ lo tang ma cha mẹ xong, tính chuyển lên nhà trên ở để trông coi và thờ phụng. Một hôm, anh chồng gỡ cái giường ra, thấy trong khe gỗ, có một miếng gì đó ố màu thời gian, anh lấy tay lôi ra. Anh tối sầm mặt mũi, choáng váng. Rồi một làn gió lạnh ngắt nhưng thơm mùi dạ lý hương phả qua mặt. Lúc ấy là khoảng 11h trưa. Anh cũng ngạc nhiên, nhưng do đang tập trung vào vật vừa lấy ra nên không để ý. Đó là một mảnh vải đã mục. Trên mặt chỉ lờ mờ những hình vẽ vằn vện khó hiểu. Nghĩ nó để lâu, có thể chứa nhiều chất bẩn, nên anh lôi bật lửa ra đốt đi. Lại một lần nữa, mùi hương dạ lý lan tỏa ra cả căn phòng… Và từ cái hôm ấy, một chuyện vô cùng kỳ lạ xảy ra đối với riêng anh, nhưng tác động đến cuộc sống của cả gia đình . Cả những người đã khuất… Đêm hôm ấy, sau khi ân ái với vợ xong, Phạn (tên gã trai) lăn ra ngủ như chết. Khuya, hắn bị đánh thức bởi một mùi hương dạ lý thơm ngát. Hắn thắc mắc, chẳng biết đang mơ hay tỉnh. Vì bụi dạ lý hương ông cụ nhà hắn trồng gần nhà xí để cho mùi thơm át đi cái hôi thối của hầm cầu lộ thiên. Mà nhà xí thì ở tít cuối đất, xa tít tắp. Trong trạng thái tỉnh vô thức, hắn nhìn sang bên cạnh, thấy vợ mình đã trở thành một người đàn bà đẹp tuyệt trần với khuôn mặt thanh tú, làn da trắng, một thân hình thanh mảnh và đặc biệt là mái tóc đen, thẳng và dài phảng phất hương hoa dạ lý. Chỉ có điều, trên cái vẻ đẹp ấy, như cảm giác một điều gì đó hơi thiếu sức sống và lạnh lẽo. Không kiềm được long, hắn lao vào cuộc ân ái mà không biết mình mơ hay tỉnh… Ngày qua ngày, chuyện lạ đó cứ diễn ra đều đều. Phạn hơi cũng thấy lạ lùng và hơi sợ. Nhưng cái cám dỗ đó thì hắn lại không thể dứt ra được vì vợ hắn trong hình hài người đàn bà đó rất đỗi ngọt ngào và đầy đam mê, khác hẳn cô thôn nữ sống với hắn cả chục năm nay. Vốn chỉ coi chuyện đó là đáp ứng nhu cầu của chồng và làm cái việc duy trì nòi giống. Ngày hắn sợ hãi, dằn vặt. Đêm lại lao vào những đam mê. Từ một người đàn ông vạm vỡ, hắn trở nên hốc hác, mình hạc, xương mai. Chỉ có cô vợ thì hạnh phúc ra mặt. Sau chục năm sống với nhau mà không có con cái, hương lửa đã nhạt. Việc ân ái nhiều khi chỉ như nghĩa vụ để duy trì mối quan hệ. Giờ chị ta không ngờ chồng mình lại chăm chỉ và yêu mình đến thế. Vốn cũng chẳng phải người sâu sắc gì. Chị ta cũng chẳng để ý đến những thay đổi ở chồng, để ý đến hai lần ân ái trong đêm. Một lần anh ta làm hung hục như trâu rồi lăn ra ngủ, một lần thì như một người tình mà chị có nằm mơ hay xem tất cả phim ảnh cũng không thể tìm ra… Điều lỳ lạ nhất, là sau mười năm “líp mề”, chị vợ mang bầu và sinh được đứa con trai mặt đẹp như hoa. Thân hình nó mang cái dáng vẻ rắn rỏi của cha và khuôn mặt mang vẻ quý phái của một người nào đó mà không ai có thể biết được. Người làng tấm tắc “Đúng là mẹ cú đẻ con tiên” Chỉ có Phạn là người mường tượng được sự việc. Nhưng hắn không nói , mà cũng chẳng dám nói cùng ai. Hắn mơ hồ càm thấy một điều gì rất lạ lùng xảy ra với gia đình hắn từ hôm đốt cái mảnh vải đó… Sau mấy tháng kiêng cữ, “gái một con trông mòn con mắt”, cô thôn nữ kia trở nên đẹp mặn mòi hơn, Phạn bắt đầu có hứng thú và yêu vợ hơn, tình cảm của hắn đối với vợ đã thay đổi, khác với cái tình cảm vợ chồng mai mối. Nhưng hắn không thể thoát ra được sự cám dỗ của người đàn bà kỳ lạ đêm đêm vẫn phủ bóng lên hình hài vợ hắn. Trong Phạn luôn có hai con người , một của đam mê, một của trách nhiệm đấu đá với nhau. Làm hắn càng ngày càng sa sút. Tóc đã bắt đầu có sợi bạc. ****Một ngày mùa hạ oi ả nọ. Có một người đàn ông lớn tuổi đứng trước ngõ nhà Phạn. Ngập ngừng nửa muốn vào, nửa không. Đúng lúc, hắn đi chơi về. Thấy thế, Phạn mời ông ta vào nhà. Sau vài phút ngập ngừng, ông nói : “Hơn chục năm trước, cụ thân sinh cậu có sang đặt tôi làm một cái giường…”. “Đúng! Bác làm tốt lắm. Giờ gia đình cháu vẫn đang dùng”. Phạn hồ hởi ngắt lời. “Thì đó là gỗ Giáng hương mà. Năm đó, loại gỗ này rất hiếm, nên tôi không tìm được gỗ để đóng. Hơn chục năm nay, tôi rất dằn vặt về việc này, nên hôm nay, muốn sang thưa với hương hồn cụ và thú nhận với cậu về một chuyện…”. “ Thế cái giường cháu nằm không phải gỗ giáng hương ạ? Nhưng không sao đâu, gỗ gì thì cũng rất tốt và đẹp nữa, càng để lâu càng bóng” Phạn cũng hơi bực nhưng vẫn vui vẻ vì người đàn ông này đã già, và sang thú nhận với hắn về chuyện này. “Không! Nó đúng là gỗ giáng hương. Nhưng không phải gỗ tôi mua…” Và ông ta bắt đầu kể… Khi cụ thân sinh của Phạn sang đặt giường cưới cho con trai. Đúng vào lúc nguồn gỗ giáng hương khan hiếm. Trong xưởng mộc của ông chỉ còn vài mẩu, không đủ làm cái chân giường. Nhưng vì quá tự tin vào khả năng mua nguyên liệu của mình, ông đồng ý. Nhưng sau thì ông dùng đủ mọi cách, mà không thể mua được, kể cả theo nguồn mua lậu ngoài thị trường đen. Ngày giao hàng thì đến gần, ông chợt nhớ đến mấy tấm gỗ giáng hương hôm trước xin ở đám cải mả trong làng. Về định dựng cái chuồng trâu nhưng chưa có thời gian để làm. Gỗ tốt, lại ngâm dưới bùn lâu nên lên nước đen bóng. Ông ngần ngừ một lúc rồi tặc lưỡi đem ra đóng giường cho khách vì nghĩ cũng chẳng có gì… Nghe đến đây thì mặt Phạn tái nhợt đi. Hắn sụm xuống, vừa sợ, vừa giận. Hắn đã phần nào hiểu ra cơ sự. Hắn muốn chửi thẳng vào mặt ông già kia. Nhưng không dám, và phần nào thì hắn vẫn nhớ đến cái cảm giác ngọt ngào mà mấy năm nay hắn được tận hưởng trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ… Ông thợ mộc ngồi yên, chờ Phạn trút cơn lôi đình. Nhưng một điều kỳ lạ là gã trai kia không hề tỏ vẻ giận dữ như ông mường tượng trước. Hắn thở dài và bắt đầu kể. Như bấy lâu nay, hắn trút được một điều phải giữ kín, không biết kể cùng ai. Nghe đến đâu, ông thợ mộc thần sắc nhợt nhạt đến đấy, lưng ông còng rạp xuống, không nói lên lời. Nhưng đến khi Phạn kể về đứa con đẹp như tranh của mình, thì ông như trút được một gánh nặng. Ông thở dài : “Dù sao thì cũng không khủng khiếp như có người nói với tôi sau này khi biết tôi dùng cái thứ gỗ đó đóng giường cho cậu. Thôi! Đến nước này, tôi cũng xin kể với cậu toàn bộ câu chuyện kỳ lạ này…” ****Hồi những năm còn chiến tranh. Làng Đông có một cô gái rất đẹp tên Phan Dạ Lý Hương. Con gái làng đông vốn đẹp. Nghe nói mấy trăm năm trước, có ông vua chạy loạn qua đây, khi dừng chân ở làng, có trả mấy chục cô cung nữ về dân. Sau, họ lấy chồng và sinh con đẻ cái. Vì thế con gái làng Đông mới đẹp như bây giờ. Người ta còn nói, con gái làng Đông đĩ nhất miền Bắc. Nói đĩ thì cũng không hẳn. Có lẽ người đời nói thế do cái bản năng sinh sản của con gái vùng này mạnh mẽ khác thường. Phan Dạ Lý Hương có thể nói là đẹp nhất làng Đông. Nhưng trời cho cô cái này, lại lấy đi của cô cái khác. Dạ Lý Hương mắc bệnh tim bẩm sinh. Năm cô 15 tuổi, trong một buổi cắm trại, khi một bạn trai nắm tay, cô lăn ra ngất xỉu phải đưa vào bệnh viện. Sau khi hồi sức, bác sĩ nói với cha cô : “Cháu bị hở van tim. Không được lập gia đình, sẽ ảnh hưởng đến tính mạng.” Sau lần suýt chết ấy, cô càng lớn càng đẹp. Biết bao nhiêu con trai làng Đông và các làng bên cạnh ngẩn ngơ và theo đuổi, dù biết cô mang trong mình căn bệnh chết người. Cha cô ngày đêm canh giữ, cấm con gái tiếp xúc với đám con trai đang bu lại như ruồi thấy mật. Có đêm, ông phải lôi khẩu súng CKC ra, bắn chỉ thiên lên trời mấy phát vì tụi con trai làng Đông tụ tập ở ngõ, đánh nhau với con trai các làng khác. Hoa Dạ Lý Hương. Nhưng những gì thuộc về ái tình, thì có tránh cũng không được. Năm 17 tuổi, Dạ Lý Hương yêu một cậu trai làng Thượng. Đúng là trai tài gái sắc. Dân gian thường có câu “Chọn vợ làng Đông, chọn chồng làng Thượng”. Người ta đồn là chim con trai làng thượng to gấp đôi của con trai các làng khác. Có lẽ năm xưa, ông vua kia thả cung nữ ở làng Đông, cũng thả mấy con ngựa sang làng Thượng”… Mối tình này bị cả hai gia đình phản đối quyết liệt. Nhưng ái tình là một cái gì đó bất chấp các ranh giới và lý trí. Mọi biện pháp đều không ngăn nổi hai kẻ say tình. Sau rồi hai gia đình cũng xuôi xuôi vì thấy hai đứa vẫn đi với nhau, thậm chí khá gần gũi mà không có chuyện gì. Nghĩ Dạ Lý Hương đã trưởng thành nên bệnh cũng thuyên giảm. Cuối cùng cả hai bên đồng ý làm đám cưới cho hai trẻ dù ông bác sĩ của trạm y tế làng Đông phản đối gay gắt. Đêm tân hôn của hai người. Khi mọi người đang chìm dần vào giấc ngủ, cả làng Thượng bỗng rúng động bởi tiếng thét thất thanh của chú rể và sau đó là tiếng kêu cứu thảm thiết của cha mẹ. Cả làng đốt đuốc chạy đến. Trong phòng tân hôn, đập vào mắt họ là cảnh chú rể trần trụi quỳ bên xác vợ. Hai ông bà thân sinh chú rể run rẩy đứng bên kẹt cửa… Sau khi đưa vợ về làng Đông chôn cất. Chú rể mang hết chăn công gối phượng cùng các đồ cưới ra ngoài cánh đồng đốt và bỏ đi biệt xứ. Gia đình Dạ lý Hương sau vài năm không chịu được tiếng bấc tiếng chì cũng chuyển đi nơi khác, thỉnh thoảng mới về thắp vài nén hương trên nấm mồ lạnh lẽo của cô. Chuyện tạm dừng ở đấy. Bẵng đi một thời gian dài, có mấy người bảo là cháu, về sang cát cho Dạ Lý Hương. Và ông thợ mộc vì tiếc cỗ quan tài bằng gỗ giáng hương đã đến xin về để làm chuồng trâu và cuối cùng là đem đóng giường cho Phan. Khi xẻ gỗ đóng giường, ông thấy trong khe nứt một lá bùa. Thấy lạ, ông lân la sang hỏi người làm việc tẩm liệm cho cô. Ông ta nói : Cô gái này chết khi ân ái chưa đầy, hồn không siêu thoát, sẽ về quấy phá cho đến khi hưởng trọn ái ân. Vì thế người nhà thuê thầy pháp đến yểm bùa, nhốt linh hồn cô trong súc gỗ. Ông thợ mộc cũng thấy sợ, nhưng yên tâm là đã có bùa, vả lại thời hạn giao hàng đã gần, nên ông vẫn tiến hành công việc. Đến gần đây, trong một lần tình cờ gặp được ông thầy pháp năm xưa, nhân lúc ngà ngà hơi men, ông mới hỏi dò về lá bùa đó có thực sự linh nghiệm không. Ông thầy pháp phán như dinh đóng cột : Bùa rất linh, nhưng hơi độc. Nếu ai dùng cái quách đó làm chuồng trâu, trâu bò sẽ không thể sinh sản… Ông thợ mộc lặng yên, không nói gì. Chuyện vợ chồng kia không có con, ông cũng nghe phong phanh. Vi thế ông rất ân hận. Và hôm nay, ông quyết định sang để nói toàn bộ sự thật. Phạn trầm ngâm nói : “Chuyên qua rồi, con cũng không trách bác nữa. Với lại, trong cái rủi cũng có cái may. Cháu nó sinh ra đẹp đẽ, khỏe mạnh. Giờ con chỉ mong sao làm cách nào để cô ấy siêu thoát, thanh thản cho cô ấy và vợ chồng con cũng yên ổn.” “Truyện này thì cậu không phải lo, hôm trước ông thầy pháp kia có nói nếu nhà có sự gì lạ, ông ấy sẽ giúp” Mấy hôm sau, người làng Hạ thấy có một sự khác thường . Họ thấy Phạn lập một đàn cầu siêu. Điều kỳ quái là chiếc đàn cầu siêu ấy đặt trên một cái giường rất đẹp. Sau khi tế lễ. Đích thân Phạn cầm bó đuốc châm lửa đốt chiếc giường. Vợ Phạn bế con đứng sau. Anh lâm râm khấn vái với một giọng đầy yêu thương. Ngọn lửa bùng lên, giữa trưa hè mà khí trời tự nhiên mát mẻ như độ thu sang. Một mùi hương dại lý nồng nàn quét qua Phạn, qua đứa con rồi từ từ bay lên thinh không. Trên khuôn mặt đứa trẻ, một nụ cười đẹp như thiên thần hé mở. Hết! Vì thế GK ko bao giờ xài giường bằng mấy loại gỗ quý. Cứ xài bằng ván nhân tạo hay gỗ ép cho lành. "Cỗ hậu sự" và các tên gọi 1. Quan tài ( tên phôt thông) 2. Thăng hay Săng ( tên ẩn dụ) 3. Hòm ( tên hình tượng) 4. Lục bản mộc, nhị lạng đinh ( tên theo chất liệu) 5. Tầu ngầm sáu tấm ( tên theo tính năng) 6. Phi thuyền sang bên kia thế giới. ( tên khoa học) 7. Coffin ( tiếng Anh) Share this post Link to post Share on other sites