Posted 11 Tháng 5, 2011 Địa bàn của người Lạc Việt Trích: “Thòi đại Ngũ Lĩnh: Đời Viêm Đế thứ ba vì sức bành trướng của Hoa tộc Đế Minh truyền ngôi cho con là Đế Nghi rồi đem một số bộ lạc Miêu và Thái đi xuống vùng năm hồ năm núi. đấy là cuộc Nam tiến thứ nhất lập ra nước Xích Quỷ gồm ba hệ: - Hệ Âu Việt (Thái) ở Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Miến Điện. - Hệ Miêu Việt ở giữa thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. - Hệ Lạc Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt, Trung Việt (1). Thời đại Phong Châu: lập ra Văn Lang… tiếp đến là Hán thuộc.” Thử nghe trong tiếng chửi của người Quảng Đông có thấy được gợi ý gì chăng? Người Lạc Việt quan niệm bào thai khi đang lớn dần lên để có đủ các bộ phận của cơ thể là do “bà mụ nặn”. Có “nặn” mới nên “nòi” mà hai vật để tạo nòi là cái “nõn” (âm vật) và cái “nường” (dương vật). Cặp Nõn/Nường=Lồn/Lường=Nồn/Lang, mà Nồn=Dôn=Yoni và Lang=Linga lại là cặp Yoni/Linga của người Chăm. Người Quảng Đông gọi cái “nường” (dương vật) ấy là “nán”, là một từ tục dùng trong câu chửi hoặc nhấn mạnh một cách thô lỗ, cách dùng cũng như trong tiếng Việt vẫn dùng, ví dụ: có “nán” cơm ăn tức là nhấn mạnh: chẳng có cơm ăn. Từ tục luôn là từ gốc của mỗi ngôn ngữ. Từ “nán” này là của riêng tiếng Quảng Đông chứ nó không có trong tiếng Hán, nhưng nó lại có gốc là từ tiếng Việt Nam là cái “nường”, bởi vì người Quảng Đông có gốc từ người Lạc Việt. Từ “nặn” mà Bà Mụ dùng để “nặn” ra người ấy đến cách nay hàng vạn năm người Việt dùng cho động tác làm gốm là “nặn”, chữ nho viết là 撚 hoặc 捏(Hán ngữ phát âm là “nián”). Chữ 撚 được mượn (giả tá) trong tiếng Quảng Đông để gọi cái “nán” (dương vật) trong câu nói tục. Còn cái âm vật trong câu chửi của tiếng Quảng Đông lại là cái “hai” mà nó lại là gốc từ cái “hi” (âm vật) của người Tày-Thái. Cái “hai” là một từ gốc ấy của người Quảng Đông cũng không có chữ viết nên phải mượn chữ Đoài là phía Tây, viết Đoài 西 mà đọc là “hai” để nói cái “hai”, còn để gọi hướng thì đọc là “Sài”. Chỉ nội hai từ trong tiếng chửi, đương nhiên là từ gốc nhất trong ngôn ngữ, là “Nán” (dương vật) và “ Hai” (âm vật) đủ cho thấy thủy tổ của tộc người Quảng Đông là bố Việt mẹ Tày, đó chính là giống Rồng với giống Tiên của người Lạc Việt. Tiếng Quảng Đông cũng dùng từ “câu”, nghĩa là dương vật, có gốc là từ “cặc” của tiếng Việt để chửi. Tiếng chửi “câu” ấy cũng không có chữ nên mượn chữ chim Câu 鳩 để thế. Từ Lẹo=Đéo=Cheo=Gieo (gieo giống)=Giao trong tiếng Việt dùng để nói động tác giao cấu, chọn riêng từ “Đéo” để chửi hoặc nói tục. Từ để chửi “Đéo” ấy sang tiếng Quảng Đông là “Tỉu”, cũng không có chữ nên tiếng Quảng Đông phải tự tác ra chữ để gọi “Tỉu” (giao cấu) bằng cách ghép chữ Thây 尸, bên dưới có chữ Treo 吊 để nói cái vật lủng lẳng ở dưới, là chữ 屌 đọc là “Tỉu”. (Tiếng chửi ví dụ “Tỉu Hai 屌 西” nghĩa là “Đéo Hi”). Cũng vậy, tiếng tục “Đếch” của tiếng Việt khi truyền đến Quảng Đông thì thành “Txách” và phải mượn chữ Thất 七 để mà làm “giả tá”. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites