Mục Đồng

Bí Ẩn Chữ Việt Cổ

7 bài viết trong chủ đề này

Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương

Ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa, phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu.

Để chứng minh thời kỳ Hùng Vương đất nước ta có chữ Viết, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền đã đến hàng trăm đền, đình, miếu để khảo cứu. Càng tìm hiểu, ông càng ngạc nhiên khi thấy khắp đất nước ta, có cả trăm đền, miếu thờ thầy giáo, học trò.

Ông đã đi khắp các tỉnh, từ Đông Bắc sang Tây Bắc, đi hết miền Trung để mục sở thị các di tích, ghi chép lại, lập bản đồ mạng lưới dạy học thời Vua Hùng, trước khi người Hán sang xâm lược.

Trong quá trình khảo cứu, tìm tư liệu, ông Xuyền may mắn tiếp cận được những tài liệu mà người Pháp thu thập trong cuộc tổng kiểm kê các di tích, làng xã vào năm 1938. Rồi các công trình như: Thần linh đất Việt, Các nữ thần Việt Nam, Các nữ tướng của Hai Bà Trưng… Ông Xuyền đã tìm thấy cả trăm di tích nói về thầy, trò, lớp học.

Theo đó, mở đầu của nền giáo dục trước khi Hán xâm lược, là thời Hùng Vương thứ 6 và kết thúc là thời Hai Bà Trưng với thầy Đỗ Nam Tế, cô Tạ Cẩn Nương, thầy Lê Đạo, sư bà chùa Phúc Khánh… Có điều lạ là, vào thời kỳ đó, có rất nhiều cô giáo và học trò nữ, chứng tỏ, thời Hùng Vương, nam nữ rất bình quyền.

Tại đền thờ Lỗ Công ở thôn Bồng Lai (Từ Liêm), còn một tấm bia cổ ghi rõ: Thầy giáo Lỗ Công dạy học ở Kinh Thành (Văn Lang). Học trò của thầy Lỗ Công là Hoàng Trụ, con của công chúa Mỵ Châu Hoa (con gái Hùng Đinh Vương, Vua Hùng 16). Hoàng Trụ biết chữ, về thôn Bồng Lai mở lớp, dạy học. Do có công với dân làng, nên dân làng lập đền thờ phụng.

Posted Image

Bản đồ mạng lưới đền, miếu thờ thầy cô, học trò thời Hùng Vương do ông Xuyền lập.

Sau khi phát hiện hàng trăm thầy, cô, học trò thời Hùng Vương (với ghi chép cụ thể, đầy đủ), thầy giáo Đỗ Văn Xuyền khẳng định rằng, thời Hùng Vương, đất nước ta đã có chữ viết. Nếu không có chữ, chẳng lẽ hệ thống giáo dục của thời kỳ này lại dạy chay?

Có tài liệu của người Hán viết rằng, năm 178, Sĩ Nhiếp làm Thái thú đất Giao Châu, thấy vùng Giao Châu không có chữ viết, nên đưa chữ Hán vào dạy. Tuy nhiên, lịch sử từ nước ta khẳng định rằng, Sĩ Nhiếp đã đốt sạch tài liệu, sách vở, cấm người dân học chữ Việt, bắt buộc phải học chữ Hán. Hàng ngàn năm Bắc thuộc, chữ Việt mai một rồi biến mất cũng là điều dễ hiểu.

Posted Image

Chữ cổ trên trống đồng trưng bày ở Đền Hùng.

Càng tìm hiểu, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền càng tin rằng người Việt từng có chữ viết riêng. Người Lào, người Campuchia, thậm chí các dân tộc thiểu số quanh vùng còn có ngôn ngữ, chữ viết riêng, thì không lẽ gì người Việt lại không có chữ.

Mang công trình ghi chép hành trình đi tìm các lớp học thời Hùng Vương gặp GS. Hà Văn Tấn để trình bày khát vọng muốn đi tìm chữ Việt cổ, ông Xuyền đã bị ấn tượng mạnh. Khi đó, GS. Hà Văn Tấn đã nằm liệt, không cử động được nữa. GS. Tấn cứ nắm tay ông Xuyền khóc không ngừng. GS. Tấn đã dành cả đời để nghiên cứu chữ Việt cổ, song công trình nghiên cứu còn dang dở thì ông đã nằm liệt, không tiếp tục được nữa.

Sau này, ông Xuyền tiếp tục gặp GS. Lê Trọng Khánh, người cũng dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu chữ Việt cổ. Khi đó, GS Khánh đã 86 tuổi, mắt mờ, chân yếu. Ông Khánh khóc to lắm, rồi cứ nắm tay ông Xuyền dặn dò, động viên tiếp tục công việc nghiên cứu còn dang dở của ông.

Posted Image

Chữ cổ trên bãi đá Sapa. Ảnh nhân vật cung cấp.

Sau khi gặp hai vị giáo sư hàng đầu về chữ cổ, niềm khao khát giải mã chữ Việt cổ của thầy giáo Đỗ Văn Xuyền lại càng mãnh liệt. Nhưng trước hết, để giải mã được chữ Việt cổ, thì phải có trong tay nhiều chữ cổ.

Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần quy, bối hữu Khoa đẩu”. Nghĩa là, thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu.

Theo cổ sử Trung Quốc, thời vua Nghiêu (năm 2357 TCN), sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) dâng thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch.

Posted Image

Ông Xuyền viết chữ Việt cổ cho tác giả xem.

Trong tài liệu “Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ”, do Viện Văn hóa in năm 1986, GS. Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy - Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Riêng ở Việt Nam, chữ Khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng.

Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... trước đó là Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng.

Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Tiêu biểu là 28 ký tự cổ được phát hiện trên 4 chiếc qua đồng Đông Sơn. Các nhà khoa học cho rằng, những ký tự này là chữ Việt cổ, nhưng chưa giải mã được.

Hễ nghe thông tin ở đâu phát hiện ký tự lạ, cổ, ông Xuyền lập tức lên đường tìm hiểu, bất kể ở trên rừng hay dưới biển, ở ngoài Bắc hay trong Nam và dù trời mưa nắng hay bão giông.

Posted Image

Bản thảo chữ cổ do ông Vương Duy Trinh phát hiện.

Do các chuyến đi đều dài ngày, đi xa, mà tiền lương hưu ít ỏi, nên ông giáo già Đỗ Văn Xuyền đã thực hiện tiết kiệm tối đa. Mỗi chuyến đi, ông đều chuẩn bị võng, bạt, bi đông đựng nước, mì tôm, bánh mì. Tối ông không vào nhà nghỉ mà mắc võng, dựng bạt ngủ ven rừng, bên đường, rồi nhai bánh mì, mì tôm sống cầm hơi. Hàng chục chuyến hành trình vất vả, kéo dài có khi đến cả tháng, nhưng thứ chữ ông thu thập phần lớn chỉ là chữ Chăm, chữ Lào, chữ Thái cổ.

Đọc tài liệu về ông Phạm Thận Duật, ông Xuyền như bắt được vàng. Phạm Thận Duật là quan triều Nguyễn, từng làm Tri châu ở Tây Bắc, là một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Cuối thế kỷ 19, ông tìm thấy chữ Việt cổ. Theo mô tả, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Thứ chữ này khác với chữ Thái cổ, khác chữ Hán.

Tuy nhiên, công trình nghiên cứu, giải mã chữ Việt cổ của ông Duật còn dang dở, thì bị thực dân Pháp bắt. Ông bị đày đến Tahiti. Ông bị chết trên đường đi và thực dân Pháp ném xác ông xuống biển.

Cùng thời gian đó, ông Xuyền tiếp cận được các tài liệu liên quan đến ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa. Năm 1903, ông này đã phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu.

Ông Vương Duy Trinh khẳng định đây là chữ của tổ tiên thời Vua Hùng, vẫn còn được lưu truyền cho hậu thế, nhưng chỉ ở một bộ phận xã hội nhỏ. Ông viết: “Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Hán".

Nắm được điều đó, ông Xuyền đã chuyển hướng tìm kiếm chữ cổ lên vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Cứ ở đâu có chữ lạ, chữ cổ, chữ không ai biết, không ai đọc được, là ông nghiên cứu, sưu tầm, so sánh.


Theo VTC


Người đọc thông viết thạo chữ Việt cổ!

Sau 50 năm nghiên cứu chữ Việt cổ, thời đại Hùng Vương, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giờ đã đọc thông, viết thạo chữ Việt cổ. Ông có thể nói luôn cả tiếng của người Việt cổ xưa. Ông Xuyền nói vui rằng, nếu có phép thần thông quảng đại, hoặc cỗ máy vượt thời gian, đưa ông về thời Đông Sơn, ông có thể dễ dàng giao tiếp với người Việt thời kỳ đó.

Giờ đây, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền, với bút danh Khánh Hoài, vẫn sáng tác thường xuyên. Bản thảo truyện ngắn, công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa của ông xếp thành chồng. Tuy nhiên, không ai đọc được những bản thảo đó ngoài ông, vì chúng được viết bằng chữ… Việt cổ.

Tôi đưa cuốn sổ cho ông Xuyền, nhờ ông viết mấy chữ tặng tôi. Chẳng cần suy nghĩ, ông cầm bút viết nhanh như viết chữ Quốc ngữ.

Posted Image

Ông Xuyền viết tặng phóng viên bằng chữ Việt cổ.

Cho đến lúc này, một số người vẫn coi việc làm của ông là điên rồ, rỗi hơi, bởi dù thứ chữ Việt cổ đó có được khôi phục lại, cũng chẳng ai dùng nữa, vì đã có chữ Quốc ngữ rồi.

Ông Xuyền thì không nghĩ như vậy. Với ông, chỉ cần trả lời được câu hỏi: Thời kỳ Hùng Vương tổ tiên chúng ta có chữ hay không, đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng của ông rồi. Với việc chứng minh thời kỳ đó có chữ viết, ông Xuyền càng tự hào về tổ tiên mình, là những người có trình độ, tri thức cao, chứ không phải là những người tiền sử, đóng khố, ở trần như sử sách vẫn nói.

Posted Image

Giải mã chữ Việt cổ giúp công tác nghiên cứu lịch sử, khảo cổ thời kỳ Hùng Vương thuận lợi hơn.

Các nhà khoa học phương Tây đã làm được một việc vĩ đại, đó là giải mã được chữ viết đã thất truyền của người Ai Cập cổ đại. Dù xã hội hiện đại không dùng thứ chữ đó phục vụ cuộc sống, nhưng nó là phương tiện cực kỳ thuận lợi để các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử. Có vô vàn những tài liệu bí ẩn thời Ai Cập, mà nếu không giải mã được chữ viết, sẽ bế tắc trong việc nghiên cứu. Nghĩ vậy, nên ông Xuyền đã dày công tìm cách giải mã loại chữ Việt cổ thất truyền này.

Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền bảo rằng, tài năng khảo cổ, lịch sử, nhất là chữ Việt cổ của ông, không thể so với những “núi Thái Sơn” như Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Phạm Thận Duật, Vương Duy Trinh… Thế nhưng, ông lại có may mắn hơn các vị tiền bối, là được tiếp thu những công trình nghiên cứu vĩ đại của người đi trước, vô tình có được nhiều tài liệu quý và may mắn khi tìm ra được phương pháp giải mã loại chữ cổ này.

Posted Image

Rất nhiều tài liệu cổ còn lưu giữ ở vùng sâu, vùng xa chờ các nhà khoa học giải mã.

Sau khi sưu tầm đầy đủ ký tự chữ Việt cổ, nắm được giọng nói, ngôn ngữ của người cổ, ông Xuyền nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết tuần tự theo thời gian từ thời hiện đại trở về trước. Ông đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc được một tài liệu cổ, mà nhà truyền giáo Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”.

Như vậy, rõ ràng một thiếu niên bản xứ đã dạy cho nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha này một loại ngôn ngữ tượng thanh. Ông ta chỉ học có 3 tuần là biết cách đọc các từ, thay vì phải học ít nhất 10 năm như chữ Hán. Ông Xuyền tin rằng, thứ chữ mà người thanh niên đó dạy nhà truyền giáo Bồ Đào Nha là chữ Việt cổ! Điều đó có nghĩa, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công Latin hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ.

Posted Image

Những văn bản Quốc ngữ thời kỳ đầu rất khó đọc, nhưng ông Xuyền có thể đọc dễ dàng.

Ngoài ra, có một tài liệu lưu ở Tòa thánh La Mã. Sau khi chép lại nhiều trang giấy tập viết chữ Quốc ngữ, đoạn cuối, chủ nhân của tập tài liệu viết thế này: “Đây là tài liệu tập chuyển thể từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ (năm 1625 – tài liệu)”.

Nghĩ theo hướng đó, ông Xuyền lục tìm những tài liệu liên quan đến các nhà truyền giáo, đến chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17, 18.

Ông Xuyền giở một đống tài liệu phôtô các văn bản chữ Quốc ngữ từ cách nay vài chục năm, cho đến 350 năm trước cho tôi xem. Những văn bản này còn lưu lại rất nhiều trong các thư viện ở Lisbon, Pari, Roma... Tôi quả thực hết sức ngạc nhiên về những văn bản này. Những văn bản từ đầu thế kỷ 20 còn đọc được khá trôi trảy, nhưng ngược đến thế kỷ 19, tương đối khó đọc, và nhiều chữ không đọc nổi. Lần giở các văn bản chữ Quốc ngữ của thế kỷ 17 thì gần như không đọc được. Tôi chỉ có thể đọc được một vài chữ trong một văn bản cả ngàn chữ vào thời kỳ mà chữ Quốc ngữ mới ra đời.

Posted Image

Giờ đây, ông giáo Xuyền ít sử dụng chữ Quốc ngữ, mà toàn sử dụng chữ Việt cổ vào công việc ghi chép, sáng tác.

Theo ông Xuyền, vì ông đã nghiên cứu chữ Việt cổ rất lâu rồi, 50 năm nay rồi, và đã hiểu được tương đối, nên khi cầm những văn bản chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, trong khi các nhà khoa học chưa chắc đã đọc được, thì ông đọc vanh vách, không bị vấp bất cứ một chữ nào.

Điều ngạc nhiên mà ông Xuyền nhận thấy, đó là nhiều ký tự mà các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha sử dụng trong những buổi đầu tương đối giống với chữ Việt cổ. Càng về sau này, qua cả trăm lần cải tiến, thay đổi, những chữ tương đối giống chữ Việt cổ đã dần biến mất và mất hẳn bóng dáng trong các văn bản Quốc ngữ ngày nay.

Mặc dù, về hình dáng, chữ Việt cổ không còn nét nào giống chữ Quốc ngữ, nhưng lại cùng có cấu trúc ghép vần.

Theo ông Xuyền, bí quyết để giải mã được chữ Việt cổ, là phải hiểu được ngôn ngữ thời xưa và nắm được quy luật thay đổi vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ “trời” nguyên âm đặt phía trên, từ “đất” nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ “cha, con” nguyên âm đặt phía trước hoặc sau…). Khi đã nắm được quy luật ghép vần, hiểu được ngôn ngữ Việt cổ, thì chỉ cần học chưa đầy 10 ngày, có thể đọc, viết được loại chữ này!

Posted Image

Con rùa đá có khắc chữ Việt cổ đặt tại miếu Hai Cô. Ảnh nhân vật cung cấp.

Khi đã giải mã được chữ Việt cổ, ông Xuyền có thể dễ dàng phiên dịch từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ và ngược lại. Chữ Việt cổ không ghi âm được phần lớn ngôn ngữ hiện đại, nhưng khi chuyển ngôn ngữ hiện đại về ngôn ngữ Việt cổ, thì việc dịch diễn ra dễ dàng.

Từ ngày giải mã được loại chữ mà ông Xuyền khẳng định là chữ Việt cổ, chính quyền, nhân dân Việt Trì đã góp công sức, tiền bạc xây dựng lại ngôi miếu Hai Cô. Các hoành phi, câu đối đều được viết bằng thứ chữ Việt cổ do ông Xuyền thực hiện.

Mới đây, Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam đã dâng tặng ngôi miếu một “quy thần” bằng đá, lưng khắc chữ Việt cổ. Rùa đá này biểu thượng cho quy thần mà Hùng Quốc Vương dâng tặng cho Vua Nghiêu vào năm 2357 trước công nguyên.

Có thể nói, sự tồn tại của chữ Việt cổ là một sự thật, đã được các học giả trong và ngoài nước thừa nhận. Đó là niềm tự hào dân tộc. Việc giải mã được chữ Việt cổ, giúp chúng ta và thế hệ sau sẽ có điều kiện tốt hơn trong việc nghiên cứu lịch sử nước nhà.

Công trình giải mã chữ Việt cổ của nhà giáo già Đỗ Văn Xuyền đã đúng hướng hay chưa, đã thành công được mức độ nào, cần có rất nhiều sự đầu tư của các nhà khoa học và các cuộc hội thảo mang tầm quốc gia, thậm chí là quốc tế.


Theo VTC
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted Image

Ông Xuyền thì không nghĩ như vậy. Với ông, chỉ cần trả lời được câu hỏi: Thời kỳ Hùng Vương tổ tiên chúng ta có chữ hay không, đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng của ông rồi. Với việc chứng minh thời kỳ đó có chữ viết, ông Xuyền càng tự hào về tổ tiên mình, là những người có trình độ, tri thức cao, chứ không phải là những người tiền sử, đóng khố, ở trần như sử sách vẫn nói.

Câu hay nhất đấy Bác Xuyền ơi, các nhà khoa học với tư duy "ở trần đóng khố" đâu rồi vào đây mà xem đi này!

Sau khi sưu tầm đầy đủ ký tự chữ Việt cổ, nắm được giọng nói, ngôn ngữ của người cổ, ông Xuyền nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết tuần tự theo thời gian từ thời hiện đại trở về trước. Ông đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc được một tài liệu cổ, mà nhà truyền giáo Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”.

Như vậy, rõ ràng một thiếu niên bản xứ đã dạy cho nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha này một loại ngôn ngữ tượng thanh. Ông ta chỉ học có 3 tuần là biết cách đọc các từ, thay vì phải học ít nhất 10 năm như chữ Hán. Ông Xuyền tin rằng, thứ chữ mà người thanh niên đó dạy nhà truyền giáo Bồ Đào Nha là chữ Việt cổ! Điều đó có nghĩa, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công Latin hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ.

Xem ra ngay cả lịch sử của chữ Quốc ngữ cũng cần phải tư duy lại!

Khi đã nắm được quy luật ghép vần, hiểu được ngôn ngữ Việt cổ, thì chỉ cần học chưa đầy 10 ngày, có thể đọc, viết được loại chữ này!

Mà chữ Việt cổ thực sự dễ học đến thế sao nhỉ? Chỉ học xong trong 10 ngày là đọc thông thạo và viết được thật sao nhỉ?
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Câu hay nhất đấy Bác Xuyền ơi, các nhà khoa học với tư duy "ở trần đóng khố" đâu rồi vào đây mà xem đi này!

Xem ra ngay cả lịch sử của chữ Quốc ngữ cũng cần phải tư duy lại!

Mà chữ Việt cổ thực sự dễ học đến thế sao nhỉ? Chỉ học xong trong 10 ngày là đọc thông thạo và viết được thật sao nhỉ?

A. Rhodles là người công giáo, tính tuần 7 ngày, 3 tuần là 21 ngày nhé! Nếu đã biết nói thạo, lại là người có kiến văn rộng rãi thì khoảng thời gian này có thể tin được.

Bác nào có địa chỉ của bác Xuyền, cho em xin để tranh thủ thời gian rảnh này lên học hỏi lấy 1 ít nhỉ! Nếu Diễn đàn mình mà mời được bác Xuyền cộng tác, chia sẻ trong 1 mục nào đó như các bài nghiên cứu của nhatnguyen52 trong Cổ văn hóa sử thì càng hay. Đó là con đường để minh chứng cho luận điểm dân tộc Việt 5000 năm văn hiến.

Share this post


Link to post
Share on other sites

A. Rhodles là người công giáo, tính tuần 7 ngày, 3 tuần là 21 ngày nhé! Nếu đã biết nói thạo, lại là người có kiến văn rộng rãi thì khoảng thời gian này có thể tin được.

Bác nào có địa chỉ của bác Xuyền, cho em xin để tranh thủ thời gian rảnh này lên học hỏi lấy 1 ít nhỉ! Nếu Diễn đàn mình mà mời được bác Xuyền cộng tác, chia sẻ trong 1 mục nào đó như các bài nghiên cứu của nhatnguyen52 trong Cổ văn hóa sử thì càng hay. Đó là con đường để minh chứng cho luận điểm dân tộc Việt 5000 năm văn hiến.

Liên hệ với sư phụ Thiên Sứ ih. Sư phụ có quen bác Xuyền!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Liên hệ với sư phụ Thiên Sứ ih. Sư phụ có quen bác Xuyền!

Hi hi, có khi nào Sư phụ cùng với Bác Xuyền mở lớp dạy chữ Việt cổ thì cho em theo học với nhé!!

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay