phamhung

Bí Ẩn Rồng Đá Mất Đầu Ở Thành Nhà Hồ

2 bài viết trong chủ đề này

Bí ẩn rồng đá mất đầu ở thành Nhà Hồ

Posted Image

Đôi rồng đá bị mất đầu nằm song song với đường 217

Thành nhà Hồ (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) đang được đề cử vào danh sách để UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Công trình này không chỉ được xem như biểu tượng của vương triều nhà Hồ, mà còn ẩn chứa nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng, một trong những bí ẩn đó là đôi rồng đá bị mất đầu.

Chạm khắc độc đáo

Nằm trong địa giới hành chính của hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, từ quốc lộ 1A, rẽ phải vào đường 217, đi chừng 30km sẽ thấy cổng Nam ngôi thành đá. Con đường 217 đi xuyên qua Hoàng Thành và chính ở trung tâm có một đôi rồng đá nằm song song hai bên đường. Đây được xem là dấu vết cung đình của vương triều nhà Hồ.

Đôi rồng đá này bị vùi lấp, được dân địa phương phát hiện vào năm 1938 và đặt lên vị trí hiện nay tại nơi tìm thấy chúng. ông Phạm Thế Vinh (92 tuổi) nhớ lại: "Tượng rồng đầu tiên được người dân phát hiện khi làm ruộng trong thành. Rồng phải có cặp nên khi đó các chức dịch trong làng đã cho đào bới khắp vùng nhưng không thấy cho tới khi ông lý trưởng Trịnh Ngọc Lương nằm mộng mới tìm được tượng rồng đá thứ hai. Tuy nhiên, cả đôi rồng đá khi phát hiện đều đã bị chặt đầu".

Cán bộ khu di tích thành nhà Hồ cho biết: Đây là loại rồng chạm khắc trên thềm bậc của các cung điện như hiện thấy ở điện Kính Thiên, Hoàng Thành Thăng Long (Hà Nội); chính điện Lam Kinh (Thanh Hóa). Nhưng do khi dựng lại thành bậc này không đúng độ dốc nên rồng trong tư thế bò từ trên xuống hiện tại gần như nằm ngang. Cả hai thành bậc đều là đá nguyên khối, có kích thước trung bình dài 3,40m, dày 0,30m và cao 0,9m. Phía trên chạm khắc tượng rồng tròn, phía dưới chạm khắc các ô tam giác ghép thành bậc. Cặp rồng được chạm khắc rất tỷ mỷ, trau truốt, thân rồng thể hiện thon nhỏ dần về phía đuôi, uốn bảy khúc, phủ kín vây, vây lưng nhỏ, đều. Rồng có bốn chân, mỗi chân 3 móng với các túm lông lượn mềm mại. Đầu rồng hiện đã bị mất nhưng vẫn còn lại phần bờm dài lượn chín nếp. Các khoảng trống dưới bụng và các ô tam giác ghép thành bậc điều được chạm hoa cúc và các móc hoa lượn mềm.

Ai chặt đầu rồng?

Ai cũng biết rằng, mỗi vương triều trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam đều có con rồng là biểu trưng. Rồng thời Lý, rồng thời Trần, rồng thời Lê... đều có cách nhận biết riêng và rồng nhà Hồ cũng vậy. Theo các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ, đôi rồng đá này thuộc loại tượng rồng lớn nhất và đẹp nhất đương thời hiện còn lại ở nước ta. Nghệ thuật chạm khắc đôi rồng thể hiện những nét hồi tưởng nghệ thuật rồng thời Lý, hay nghệ thuật rồng thời Trần lúc hưng thịnh. Cũng không loại trừ khả năng, đây là cặp tượng rồng ở một kiến trúc nào đó ở kinh thành Thăng Long được Hồ Quý Ly cho chuyển vào xây dựng kinh thành Tây Đô.

Điểm đáng lưu ý là cả hai con rồng đều không có đầu. Cho đến nay có khá nhiều lý giải về việc này. Người thì cho rằng, sau khi xâm lược được nước ta, quân Minh với chính sách tàn phá đã chặt đầu rồng, biểu tượng quyền lực của nhà Hồ để thể hiện sự diệt vong của vương triều này. Lại có ý kiến khác, là do những người bất đồng chính kiến với nhà Hồ gây ra.

Một ý kiến khác thì cho rằng, việc này do người Pháp thời kỳ mới chiếm đóng nước ta gây ra. Người Pháp bắt dân trong vùng hàng tháng, hàng năm phải trải chiếu hoa trên con đường dẫn tới đôi rồng đá. Người dân bức xúc mà chặt đầu rồng? Còn có một cách lý giải lưu truyền trong dân gian khá thú vị là, do làng Xuân Giai (nằm ở cổng Nam, thuộc xã Vĩnh Tiến) thường xuyên bị cháy nhà, người dân cho rằng do rồng quay đầu về làng mình phun lửa gây ra cháy nhà nên đã chặt đầu rồng!?

Posted Image

Những bí ẩn chưa lời giải

TS Đỗ Quang Trọng- Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ cho rằng: Thành nhà Hồ là một công trình kiến trúc bằng đá độc đáo và có giá trị lớn, là biểu tượng vật chất nổi bật về sự hòa hợp của các nền văn hóa trong quá khứ. Dù đã trải qua hơn 600 năm tồn tại nhưng di tích này là kinh đô cổ nhất ở nước ta vẫn còn tương đối nguyên vẹn kiến trúc bề mặt so với các hoàng thành khác ở trong và ngoài nước. Mặt khác vẫn còn nhiều hiện vật, di vật nằm trong lòng đất chưa được khai quật.

Thành nhà Hồ được Hồ Quý Ly xây dựng dựa vào thế sông, thế núi. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí" thì thành nhà Hồ được mô tả "tả hữu đều gần núi đá; phía trước thành là sông Mã". Thành nhà Hồ được xây bên ngoài bằng đá nguyên khối, bên trong chủ yếu được đắp đất. Thành có bình đồ kiến trúc hơi vuông với hai mặt Nam - Bắc dài hơn 900m, hai mặt Đông - Tây dài hơn 700m, độ cao trung bình 7-8m, có nơi như ở cửa phía nam cao tới 10m.

Những phiến đá xanh dùng xây tường thành được đẽo vuông vức, công phu, có tấm rất to (ở cửa Tây): dài 5,1m, rộng 1,59m, cao 1,3m, nặng tới hơn một tấn. Chúng được xếp chồng lên nhau. Các phiến đá ở bốn cổng thành Đông, Tây, Nam, Bắc được xếp theo hình múi cam, tất cả đều có kích thước rất lớn. Điều đặc biệt là hầu hết giữa các phiến đá không cần chất kết dính nhưng vẫn bền vững sau hơn 600 năm tồn tại. Ngày trước cổng thành có hai cánh cửa dày, nặng và chắc, thể hiện qua dấu vết còn lại đến hôm nay là những lỗ đục vào đá và chỗ lắp ngưỡng cửa. ở mặt trên cổng Nam và cổng Bắc trước kia có vọng lâu làm bằng gỗ. Phía mặt trên hai cổng thành vẫn còn bảo lưu các lỗ chôn cột và đá móng.

Điều đáng ngạc nhiên là một công trình kiến trúc đồ sộ, vững chắc như vậy mà theo tương truyền của nhân dân địa phương, thành chỉ được xây trong vòng ba tháng. Đầu thế kỷ 20, nhà nghiên cứu người Pháp L.Bezacier, chuyên nghiên cứu về văn hóa Đông Dương, đã nhận xét về thành nhà Hồ như sau: "Thành cổ này là một mẫu mực độc nhất về việc sử dụng những khối đá vôi to lớn, được đẽo gọt và ghép một cách rất tài tình....

Điều gì đã giúp những người thợ thuở xưa với công cụ thô sơ vận chuyển và xây nên những bức tường thành bằng những phiến đá khổng lồ? Đây là câu hỏi mà đến nay, các nhà khoa học mới chỉ đưa ra các giả thiết. Câu hỏi được làm sáng tỏ phần nào khi người ta tìm thấy hàng trăm viên bi đá lớn (bằng quả bóng đá), nhỏ (bằng quả cầu mây, quả bóng tennis). Việc tìm thấy những viên bi đá này giúp củng cố giả thiết: Người thợ khi xưa đã dùng chúng như những con lăn để tời đá từ vùng khai thác (cách vị trí xây thành từ 5 cho đến hàng chục km). Kết hợp với tời, đắp đất người ta đã đưa những phiến đá này lên cao để xây thành. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng: Những viên bi đá này là những viên đạn đá được dùng cho các máy bắn đá bảo vệ Thành.

Thành nhà Hồ dẫu chỉ giữ vai trò là trung tâm quyền lực trong một thời gian ngắn (1400-1407) nhưng đây là một công trình kiến trúc độc đáo, một di sản quý báu trong số những công trình thành cổ ở Việt Nam.

Giang Hoàng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bí ẩn hạc trắng ở ngôi đền thờ vua An Dương Vương

Posted Image

Đền Cuông (Diễn Châu, Nghệ An).

Sắp đến Lễ hội đền Cuông (Rằm tháng 2 Âm lịch), người xứ Nghệ lại kể cho nhau nghe câu chuyện huyền bí năm xưa, khi hạc trắng bỗng dưng xuất hiện đúng ngày lễ hội rồi chết, và hiện nay xác của nó đang được đặt một nơi trang trọng tại ngôi đền này. Với người xứ Nghệ, hạc trắng không đơn thuần chỉ là một loài chim, mà còn là hiện thân của nàng Mị Châu cùng câu chuyện năm xưa, khi vua An Dương Vương cùng con gái chạy trốn giặc Triệu Đà đến Nghệ An cùng đường, đã phải chấp nhận cái chết một cách đầy bi đát.

Sự kiện lạ

Với người dân Nghệ An từ bao đời nay, đền Cuông (Diễn Châu, Nghệ An) đã trở nên quá quen thuộc. Không phải bởi địa thế cùng kiến trúc độc đáo có một không hai ở Việt Nam, mà còn bởi ngôi đền là nơi duy nhất lưu truyền với câu chuyện cuộc rút lui của An Dương Vương và công chúa Mị Châu sau khi bị giặc Triệu Đà truy đuổi. Ngôi đền đã có từ nhiều thế kỷ nay, nhưng cùng với chiến tranh và những lý do khách quan khác, mãi đến năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tỉnh Nghệ An mới đầu tư tu bổ và khuyến khích nhân dân đến cúng viếng ở ngôi đền này.

Năm năm sau ngày được tu bổ, tỉnh Nghệ An quyết định tổ chức Lễ hội đền Cuông với quy mô toàn tỉnh. Trong Lễ hội này, một điều kỳ lạ đã xảy ra khiến người xứ Nghệ xôn xao và kéo nhau về đền Cuông để được tận mắt chứng kiến. Trong cuộc đua ngựa, một hoạt động nằm trong khuôn khổ lễ hội, thì bất ngờ từ đâu không rõ, một con hạc trắng toát hạ cánh trên tay một nông dân đang chuẩn bị bước vào đường đua. Lúc này, tất cả mọi hoạt động của Lễ hội tạm ngưng, nhiều người thậm chí đã quỳ xuống, khấn vái, vì cho rằng đó là công chúa Mị Châu hiện thân. Hay tin, hàng trăm ngàn người kéo đến ngắm nhìn, và hạc cũng liên tục vẫy cánh khoe sắc.

Ông Cao Ngọc Xuân - Trưởng Ban quản lý Đền Cuông cho biết: Sự việc đó đã trở thành câu chuyện thời sự nóng bóng ở xứ Nghệ lúc bấy giờ. Từng dòng người từ miền ngược, miền xuôi đua nhau kéo về Đền Cuông để ngắm hạc và cầu khấn. Đền Cuông trong những ngày Lễ hội năm đó luôn trong tình trạng quá tải, quốc lộ 1A đoạn qua Đền Cuông luôn ách tắc hàng giờ đồng hồ vì ai hay tin, cũng muốn xuống để được ngắm hạc và cầu khấn.

Theo TS.Hồ Bá Quỳnh, người chuyên nghiên cứu lịch sử, văn hóa ở Nghệ An: Hạc là loại động vật cao cấp, thường bay ở tầm cao và rất sợ tiếp xúc với con người. Việc hạc bỗng dưng xuất hiện đúng vào ngày lễ hội Đền Cuông, nơi có rất đông người là điều xưa nay hiếm, đi ngược với thói quen sinh tồn của loại chim này. Từ đó trong sâu thẳm, xuất phát từ niềm tin vào câu chuyện cổ tích, vốn đã ăn sâu vào tiềm thức người xứ Nghệ, ai cũng nghĩ rằng, đó là Mị Châu hóa thân và mong muốn gửi một thông điệp nào đó tới người dân. Tuy nhiên, dư luận thì vô kể, và thời điểm đó việc hạc về tạo ra những cuộc tranh luận khác nhau trong quần chúng, nhưng có một điều giống nhau, là ai ai cũng muốn hành hương về đền Cuông để xem hạc. Thực tế, bản thân những người tổ chức và chính quyền sở tại khi đối mặt với câu chuyện đó cũng không tránh khỏi sự luống cuống bởi nó gắn liền với câu chuyện xưa và mang nặng tính văn hóa tâm linh.

Sau khi tổ chức một cuộc họp khẩn, có sự tham gia của nhiều quan chức cấp tỉnh, hạc được thống nhất đưa vào đền, cho đậu ở một nơi trang trọng, có không gian thoáng để người người chiêm ngưỡng. Mặc dù vây, đúng một ngày sau khi lễ hội kết thúc, hạc cũng chết và điều đó càng làm cho câu chuyện mang màu sắc huyền thoại. Lúc này việc chôn cất chim hạc lại đặt ra cho ban tổ chức nhiều vấn đề, bởi với niềm tin của người dân, đó không còn là một loại chim đơn thuần, mà còn là ẩn hiện bóng dáng của người xưa. Một số cao niên cho rằng, nên chôn cất và lập miếu thờ ngay tại đền. Nhưng về sau, khi đã tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia trong tỉnh cũng như khắp nơi, hạc đã được trịnh trọng mang ra Hà Nội, tiến hành việc ướp xác, và chuyển trở về Nghệ An. Bây giờ, đến với đền Cuông, chúng ta vẫn có thể thấy xác con hạc còn y nguyên nằm trong lồng kính, nơi trang trọng của đền Cuông. Cũng từ cái ngày đó, Đền Cuông đã linh thiêng càng trở nên huyến bí hơn, và không khó hiểu vì sao, khách cả nước đến với ngôi đền này nườm nượp.

Và câu chuyện năm xưa

Theo câu chuyện truyền thuyết lưu truyền trong dân gian thì sau khi chạy trốn giặc Triệu Đà đến Nghệ An, An Dương Vương cùng đường... Không còn đường thoát, An Dương Vương rút kiếm chém Mị Châu chết rồi phi ngựa chạy thêm một đoạn nữa và gieo mình xuống biển. Tất nhiên, trong hồi kết đầy bi đát của An Dương Vương và con gái, dân gian đã thêu dệt nên rất nhiều câu chuyện, như việc An Dương Vương chạy đến vùng biển Diễn Châu (Nghệ An) thì nghe tiếng giặc. Một cụ già bên đường bảo rằng, có kẻ thù đang ngồi phía sau. Vua vội rút gươm chém chết con gái và gieo mình tự tử. Có rất nhiều giai thoại xung quanh cái chết của hai con người lịch sử này, nhưng có một thực tế được sách sử ghi chép rất rõ ràng, là khi đến bờ biển huyện Diễn Châu (Nghệ An) thì An Dương Vương cụt đường và sau đó cả hai cha con đều chết.

Ngày nay, núi Mộ Da, núi Đầu Cân hay hòn Đá gạo là những địa danh gắn với sự tích năm xưa, nằm ngay bên cạnh ngôi đền Cuông mà người dân vẫn đến thắp hương ngày ngày. Hay đơn cử như tục lệ cúng tế: Nghệ An có loại vàng vó, làm bằng nan tre gập lại thành khối vuông, dán giấy vàng hay đỏ ghép xen kẽ nhau. Mỗi khối là một thỏi. Năm mươi thỏi ghép lại thành hình một khối chữ nhật gọi là một thớt. Tương truyền rằng, quân tướng của An Dương Vương hộ tống nhà vua vào đến đây, sau khi vua chết, họ ở lại và truyền nghề làm vàng vó cho dân. Ngày nay, ở một số vùng, các phường hội làm vàng vó cúng tổ sư là: "Thục An Dương Vương chi Quân tướng (nghĩa là: Quân tướng của vua Thục An Dương Vương). Khi tìm hiểu rộng ra ở miền Bắc, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng, phần lớn các tỉnh miền Bắc chỉ làm vàng giấy, riêng ở Cổ Loa thì có tục làm vàng vó.

Hạc về, cá voi chết vào thời điểm đúng ngày lễ hội đền Cuông càng tăng thêm sự huyền bí về câu chuyện cổ xưa. Sắp đến ngày đại lễ diễn ra tại ngôi đền này, người xứ Nghệ lại nô nức và không ít người muốn đến đây như được một chút tĩnh tâm để hồi ức lại một trong những câu chuyện chính trị, tình yêu, tình phụ tử có cái kết bi đát trong lịch sử dân tộc .

Sự trùng hợp thú vị

Posted Image

Xác con hạc được ướp còn y nguyên

nằm trong lồng kính,nơi trang trọng

của đền Cuông Câu chuyện hạc trắng xuất hiện một cách kỳ lạ chưa kịp lắng xuống, thì tại Lễ hội đền Cuông năm 1996, ở bờ biển Cửa Hiền, phía sau ngôi Đền Cuông huyền thoại, một con cá voi 10 tấn chết dạt vào bờ. Theo nhà sử học Nguyễn Văn Siêu, bờ biển Cửa Hiền cạn, và việc con cá voi 10 tấn chết rồi dạt vào được bờ cũng là chuyện hiếm gặp. Hay tin, người tham gia lễ hội ùn ùn kéo về phía bờ biển để thắp hương cầu khấn. Theo truyền thuyết, biển Cửa Hiền khi xưa là nơi An Dương Vương gieo mình tự vẫn và thực tế hiện tại vẫn còn một đền thờ An Dương Vương tồn tại ở đây. Việc cá voi chết và thỉnh thoảng dạt vào một bờ biển đâu đó thật ra cũng không phải là chuyện hiếm. Tuy nhiên, khi cá voi chết dạt vào tại khu vực này, vốn sẵn đã trở thành một địa điểm linh thiêng trong tâm thức của người dân nên nó trở thành một sự kiện gây được sự chú ý cũng là điều dễ hiểu.

Chính vì vậy, trong năm đó, người dân ở đây đã làm "lễ an táng" cho con cá voi chết khá rầm rộ, với sự tham gia của hàng ngàn người với những nghi thức thành kính. Sau đó, ngôi mộ cá voi được rất nhiều người dân tình nguyện ngày ngày hương khói. Khách ở khắp nơi về tham quan đền Cuông cũng không quản chạy xuôi thêm 3km, đến ngôi mộ nói trên thắp nén nhang.

Có thể khẳng định, việc cá voi chết hay hạc trắng sà xuống chỉ là những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Tuy nhiên, giờ đây câu chuyện và hạc trắng cũng như mộ cá voi lại được lưu giữ trong tâm thức của những người ở đây với một ý nghĩa khác- biểu tượng cho đời sống tinh thần dân gian về lịch sử Thục Phán An Dương Vương.

Lê Giáp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay