Thiên Đồng

Đâu Là Bản Sắc Văn Hóa Việt?

9 bài viết trong chủ đề này

Thưa Sư Phụ

Thưa các anh chị em,

Có một người cho Thiên Đồng xem về một bài viết của BS Hồ Hải về câu hỏi "bản văn hóa". Đọc qua một lượt Thiên Đồng thấy có gì đó mơ hồ. Thiên Đồng trích ra đây cùng mọi người thưởng lãm.

.................................................

ĐÂU LÀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT

Bs Hồ Hải

Hôm trước có bạn làmkinh doanh hỏi: "Đâu là bản sắc văn hoá Việt Nam?". Mình suy nghĩhơn một tháng và lục hết tất cả tàng kinh cát để đi tìm bản chất của câu hỏinày. Hôm nay thấy tạm ổn, nên viết bài để trả lời. Một bài trả lời đáng giá vớimột chai XO, như lời hứa của bạn ấy. Là vì kinh doanh mà không nắm rõ bản chấtvăn hoá của một dân tộc, lại đem chuông đi đánh xứ người, khác nào đánh vàokhoảng không vô tận. Nên văn hoá khôngchỉ quyết định sự phát triển, mà văn hoá còn rất quan trọng trongtất cả các mặt của cuộc sống hiện đại.

Đứng về mặt học thuật,văn hoá thế giới chia làm hai loại hình văn hoá du mục và nông nghiệp dựa trêncơ sở phân loại duy lý hay duy tình trong cách tư duy và hành động của cộngđồng dân. Cũng trên cơ sở phân loại ấy, người ta thấy rằng không có một nền vănhoá nào là đồng nhất duy tình hay duy lý. Mà đã có sự pha trộn văn hoá trongquá trình giao lưu văn hoá của các nền văn minh khác nhau thông qua quá trìnhdi dân, chiếm cứ của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Cho nên để nhìn rabản sắc văn hoá của một dân tộc là một điều khó. Dù khó, nhưng nếu dựa trên duyvật luận: "Từ thực tiển khách quan đi vào tư duy trừu tượng. Rồi từ tư duytrừu tượng đem áp dụng vào thực tiển khách quan. Đó là con đường nhận thức chânlý, chân lý khách quan". Chúng ta có thể nhìn thấy được đâu là bản sác vănhoá Việt.

Trên khái niệmvăn hoá là thói ăn, nết ở, thuần phong mỹ tục được hình thành và phát triểnđịnh hình nên tư duy và hành động của một cộng đồng dân sống trong một vùng địalý dưới những hình thái xã hội khác nhau. Có thể nhận ra hai loại bản sắc vănhoá Việt rõ ràng, thứ nhất là bản sắc đặc thù của văn hoá Việt hình thành doquá trình lịch sử. Thứ hai là, bản văn văn hoá Việt do ảnh hưởng của sự giaothoa văn hoá thông qua lịch sử dân tộc Việt. Chúng ta thử đi vào từng phần củabản sắc văn hoá Việt.

Ở phần thứ nhất, nétđặc thù đầu tiên của văn hoá Việt là chiến tranh dựng và giữ nước. Hơn một nửathời gian lịch sử dân tộc Việt là một lịch sử chiến tranh, ngày nay ai cũng rõ.Chiến tranh của người Việt có 2 đặc thù: giữ nước và mở cõi. Từ đó, cách tư duyvà hành động của người Việt trông bề ngoài là vẻ hiền lành, chất phát, có nụcười luôn trên môi đi tiếp xúc. Nhưng trong bản chất là một sự bùng nổ những lềthói có bản chất chiến tranh giữ và cơi nới. Ngày này, từ trong khẩu hiệu củatấm băng rôn trong các lễ hội cũng có không khí chiến tranh, ví dụ như:"Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại". Họccái gì tốt đẹp hơn mà lại phải học chiến đấu? Dĩ nhiên chữ chiến đâu ở đây,không phải ý nói là chiến tranh, mà ý muốn nói sự phấn đấu. Nhưng thay vì sựphấn đấu thì văn hoá bản sắc của chiến tranh làm cho người ta hình tượng hoá sựphấn đấu lên thành từ chiến đấu.

Chúng ta dễ dàng bắtgặp rất nhiều ví dụ cụ thể về bản sắc văn hoá chiến tranh này của dân Việttrong đời sống hằng ngày. Như lái xe ra đường không theo qui định, mà mạnh ainấy lấn đường làm ách tắc giao thông. Như nhà đã có lề, đường đã có lề, nhưngbuôn bán luôn cơi nới ra khỏi lề, xây nhà vẫn thêm hàng rào hay một chút diệntích để lấn lề, v.v...

Đặc biệt, bản chất củachiến tranh mở cõi là thuộc về nền văn hoá du mục, nhưng nó lại được đặt trongmột cộng đồng có số đông sống theo văn hoá nông nghiệp. Nên nó có những mâuthuẩn nội tại xung đột trong cách ứng xử văn hoá sống có tính triệt tiêu hơn làthúc đẩy để phát triển đi lên. Vì duy tình không giải quyết thấu đáo vấn đề, màchỉ theo cảm tính. Trong khi duy lý thì triệt để và sắt máu. Chính vì thế mớicó câu chuyện 3 người Việt cùng làm việc thua 3 người Nhật. Và vì thế mới cócâu chuyện đám đông vô thức của người Việt rất dễ định hướng đi theo một chiềutư tưởng, dù tư tưởng ấy là cực đoan và phi lý.

Nếu các nhà kinh doanhnắm bắt được bản sắc văn hoá này trong tâm hồn người Việt, họ rất dễ dàng giaothương và chiếm thế thượng phong trong công việc, dù mưu đồ của họ là khôngtrong sáng.

Vấn đề thứ hai trongbản sắc đặc thù văn hoá Việt là, thờ cúng tổ tiên. Có lẽ không ở nơi đâu trongvăn hoá nhân loại việc thờ cúng tổ tiên được nâng lên thành một đạo sống làmngười như dân tộc Việt. Đến một gia đình bất kỳ, nếu khéo léo, đối tác xin phépthắp cây nhang lên bàn thờ tổ tiên là đánh đúng vào cái văn hoá duy tình tronggiao tiếp. Qua nhiều thời đại, các chính khách cũng tận dụng nét đặc thù vănhoá này để định hướng lòng dân. Câu chuyện con rùa hồ Gươm, hay lễ hội đềnTrần, v.v... cũng là một biểu hiện cụ thể cho nét văn hoá đặc thù này.

Vấn đề thứ ba của bảnsắc đặc thù văn hoá Việt là, văn hoá ẩm thực. Vì quá trình lịch sử mở cõi, lấyẩm thực làm vị thuốc để chống chọi với bệnh tật ở chốn rừng thiêng nước độc.Nên ẩm thực Việt rấtkhoa học về mặt dinhdưỡng học lâm sàng: "Ăn là thuốc, ăn đúng là trị bệnh, ăn sai là rước bệnhvào mình". Hãy nhìn cách ăn uống của bác nông dân rất khoa học: sáng sớmtrước khi ra đồng ăn thật no, nhưđổ xăng cho xe chuẩn bị đi làm, ăn trưa nhiềuđể làm việc tiếp, ăn tối vừa phải cho một đêm nghỉ ngơi. Trong các mốn ăn Việtcũng nhiều tinh bột, rau xanh và chất đạm, nhưng mỡ thì vừa phải giốngnhư một tháp dinh dưỡng trong y học. Ngoài ra, rau xanh Việt không thiếu các vịthuốc như: giá cường dương, rau răm hãm dương, v.v... Các món ăn cũng phối hợprất khoa học triết lý phương Đông: ăn hột vịt lộn phải ăn với rau răm và muốitiêu. Để liệt kê hết tất cả khoa học ẩm thực Việt thì rất nhiều.

Ở phần còn lại,những bản sắc văn hoá khác, không là đặc thù của người Việt mà là, do sự giaolưu văn hoá mà thành. Trong giao lưu văn hoá ấy có sự giao thoa, sự sao chépnguyên bản rất đa dạng. Ví như, nho giáo với tam cương, ngũ luân một thời giandài nghìn năm sao y bản chính. Phật giáo là giao thoa văn hoá từ nguyên gốc Ấnđộ và nho giáo của Trung Hoa mà thành. Nên phật giáo Việt Nam đỉnh cao được xem làthiền tông, nhưng nhuốm màu mật tông trong thực hành trong cuộc sống.

Tất cả những sự giaothoa và sao y ấy đều có cùng mục đích là phục vụ cho lịch sử hình thành và pháttriển địa lý, giống nòi của dân tộc Việt từ Thuỷ Chân Lạp để có bờ cõi như ngàyhôm nay. Nó giúp cho tránh được sự đồng hoá của người Trung Hoa phương Bắc màtạo ra sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt, không bị mất đi, mà ngày càng pháttriển về phương Nam.

Trong tất cả những ưuđiểm từ giao lưu văn hoá ấy, có một ưu điểm nổi bật của dân Việt là rất biếtsống hợp thời khi lịch sử đòi hỏi. Sự thức thời ấy thể hiện qua 2 lần thay đổichữ viết để thoát Á: lần đầu là thời nhà Tây Sơn, nhờ có La Sơn Phu Tử NguyễnThiếp kế thừa và phát triển chữ Nôm thay thế cho chữ Hán. Và thời thuộc Pháp cócác nhà văn hoá Tự Lực Văn Đoàn đã tiếp sức các vị Linh mục làm ra chữ quốc ngữngày nay theo mẫu tự La Tinh cho một ngôn ngữ đơn âm tiết. Một nét văn hoá hiếmthấy ở Chấu Á.

Trong những nhược điểmcủa giao lưu văn hoá để lại cho dân Việt, thì nhược điểm lớn nhất là sức đấutranh nội tại của văn hoá du mục duy lý không thắng được văn hoá nông nghiệpduy tình. Nên văn hoá sống dân Việt làm lùn đi dân trí khi đứng trước một sựvật hiện tượng, không được nhìn duy lý triệt để mà, mà được nhìn bằng tư duyduy tình cảm tính nửa vời. Cái nửa vời ấy thể hiện từ tư duy đến hành động thôngqua hình thái xã hội qua bao đời.

Để có được mộtdân tộc và đất nước hùng cường, không gì khác hơn người Việt cần hiểu biết vănhoá đặc thù của mình ở đâu, và kết quả của giao lưu văn hoá ở đâu? Đâu là tinhhoa của 2 miền văn hoá và biết sửa mình. Nếu không lịch sử sẽ lập lại nhữngmảng tối cho đất nước và dân tộc lắm khổ nhục này.

Asia Clinic, ngày thứSáu, 14h43', 15/4/2011

nguồn: http://bshohai.blogspot.com/

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài viết hình như lan man quá - coi chừng bị các Trí sĩ đập chết.

Mất đứt một chai XO ngoại chứ không phải Nếp cái hoa vàng nút lá chuối mà dám nói: Mình suy nghĩ hơn một tháng và lục hết tất cả tàng kinh cát để đi tìm bản chất của câu hỏi này.

:

Share this post


Link to post
Share on other sites

@ hoangnt,

Bài viết cũng chả có gì sâu sắc, tuy đọc qua thấy có vẻ hào nhoáng uyên thâm. Nhưng thật ra là cũng dùng chiêu "Lục tủ kiếm" và nêu ra các hiện tượng rồi quy kết.

Trích:

"Mình suy nghĩ hơn một tháng và lục hết tất cả tàng kinh cát để đi tìm bản chất của câu hỏi này."

Suy nghĩ hơn một tháng và lục tìm trong tủ sách mà hiểu hay biết ngay cái "Bản sắc văn hóa" thì thật là hay!!

Lại nữa:

Mà đã có sự pha trộn văn hoá trongquá trình giao lưu văn hoá của các nền văn minh khác nhau thông qua quá trìnhdi dân, chiếm cứ của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Cho nên để nhìn ra bản sắc văn hoá của một dân tộc là một điều khó. Dù khó, nhưng nếu dựa trên duy vật luận: "Từ thực tiển khách quan đi vào tư duy trừu tượng. Rồi từ tư duy trừu tượng đem áp dụng vào thực tiển khách quan. Đó là con đường nhận thức chânlý, chân lý khách quan". Chúng ta có thể nhìn thấy được đâu là bản sác văn hoá Việt.

Tác giả không phân biệt được văn minh, văn hóa và bẳn sắc đến nỗi lầm tưởng sự "pha trộn văn hoá" là...văn hóa hay bản sắc.

Bài viết cho biết tác giả có tra cứu tư liệu để tìm hiểu, nhưng đa phần là liệt kê các hiện tượng trực quan rồi suy diễn, nhưng cuối cùng lại cũng chẳng hiểu được hay ít ra vẽ nên một chân diện của bản sắc là gì.

Thiên Đồng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài viết hình như lan man quá - coi chừng bị các Trí sĩ đập chết.

Mất đứt một chai XO ngoại chứ không phải Nếp cái hoa vàng nút lá chuối mà dám nói: Mình suy nghĩ hơn một tháng và lục hết tất cả tàng kinh cát để đi tìm bản chất của câu hỏi này.

:

Sao lại lan man nhỉ?

Tôi thấy thấp thoáng con người tôi trong đó.

Nhất lá câu kết luận "sự nửa vời" trong cách ứng xử.

Đôi khi... tự cảm thấy chán bản thân mình.

Luôn mâu thuẫn giữa "tình và lý"

Và đa phần... tình thắng thế.

Một bài viết, tôi cho là hay!

01 chai "Gold Label" vậy!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm

1. VĂN HÓA VÀ CẤU TRÚC VĂN HÓA

1.1. Khái niệm văn hóa.

Các đặc trưng và chức năng của văn hóa

1.1.0. Từ "văn hóa” có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn),... “Đề cương về văn hóa Việt Nam” của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1943 đã xếp văn hóa bên cạnh kinh tế, chính trị và xem nó bao gồm cả tư tưởng, học thuật (= khoa học, giáo dục), nghệ thuật. Ủy ban UNESCO của Liên hiệp quốc thì xếp văn hóa bên cạnh khoa học và giáo dục, tức là đặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm văn hóa.

Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise”[1]. Chính với cách hiểu rộng này, VĂN HÓA mới là đối tượng đích thực của VĂN HÓA HỌC.

Trong các công trình nghiên cứu, ngay cả với một cách hiểu cũng đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Thông thường, do phải trình bày một cách rất ngắn gọn (mà đã ngắn gọn thì khó mà có thể đầy đủ được), cho nên các định nghĩa thường là đầu mối của những cuộc tranh luận nhiều khi vô bổ. Bởi vậy, điều quan trọng hơn cả không phải là định nghĩa như thế nào, mà là định nghĩa đó nói lên được những gì. Để có được định nghĩa khái niệm, trước hết cần xác định được những đặc trưng cơ bản của khái niệm.

1.1.1. Văn hóa trước hết phải có tính HỆ THỐNG. Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau. Nhược điểm lớn nhất của nhiều định nghĩa văn hóa lâu nay là ở chỗ coi văn hóa như một phép cộng đơn thuần của những tri thức bộ phận. E.B. Taylor định nghĩa văn hóa như một “phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, cũng như mọi khả năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội tiếp thu được” [xem Lévi-Strauss 1958: 315]. Định nghĩa văn hóa trong các loại từ điển, các công trình nghiên cứu… thường mở đầu bằng câu: “Văn hóa là một tập hợp (hoặc phức hợp) của các giá trị..." Quan niệm cảm tính này là sản phẩm của lịch sử, của thời kỳ chia tách các khoa học – khi mà văn hóa chưa được coi là đối tượng của một khoa học độc lập.

Với tư cách là một khoa học lý luận, VĂN HÓA HỌC có nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa như một đối tượng riêng biệt trên cơ sở những tư liệu do các ngành khác (dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học, tôn giáo học…) cung cấp với mục đích phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển. Nghiên cứu văn hóa dân tộc theo lối này không chỉ là tìm hiểu "Cái gì?", mà chủ yếu là tìm hiểu "Tại sao?" và "Như thế nào?" Nhờ đi vào bề sâu, tìm những mối liên hệ có tính bản chất giữa các sự kiện, văn hóa học sẽ cho phép ta, chẳng hạn, nếu biết được một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, có thể nói được rằng dân tộc đó mặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế nào… Từ đó, người đọc có thể suy ngẫm và lý giải các tư liệu văn hóa mà anh ta bắt gặp.

Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để đối phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

1.1.2. Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính GIÁ TRỊ. Trong từ "văn hóa” thì văn (ở Đông phương đối lập với “võ") có nghĩa là "vẻ đẹp” (= giá trị), hóa là "trở thành", văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.

Các giá trị văn hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần). Theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ (chân, thiện, mỹ). Các giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ đều thuộc phạm trù giá trị tinh thần.

Giá trị tinh thần còn bao gồm các tư tưởng có giá trị sử dụng (khoa học, giáo dục…), trong đó có cả bản thân cách thức sáng tạo ra các giá trị mà qua kinh nghiệm ngàn đời, con người đã tích lũy được. Theo nghĩa này, văn hóa có thể được xem như một dạng hoạt động: Theo L. White [1949], văn hóa là một phạm trù khoa học biểu thị một lĩnh vực hoạt động đặc biệt chỉ có ở riêng xã hội loài người, với những quy luật hành chức và phát triển riêng của mình. Tuy nhiên, tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của nó hoặc những hiện tượng phi văn hóa, loại ra những cách hiểu quá rộng, quy về văn hóa mọi hoạt động của con người. Chẳng hạn, theo L. White [1975: 68-70] thì thậm chí ngay cả những hiện tượng như tội ác có tổ chức (maphia) cũng được xem là một loại "véctơ văn hóa”!

Theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Trong các giá trị nhất thời lại có thể phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện hành và giá trị đang hình thành. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời. Nhờ vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Chẳng hạn, việc chửi nhau hoặc chiến tranh thuộc số những biện pháp giải quyết xung đột (= có phần giá trị!). Ngược lại, ô-tô, máy bay, công trình thủy điện… trong khi đem lại lợi ích rõ rệt cho con người thì đồng thời cũng làm ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái… (= phi giá trị!). Muốn kết luận một hiện tượng, sự vật có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét mối tương quan giữa mức độ "giá trị" và "phi giá trị" của chúng.

Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng vào những thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có thể có hay không có giá trị tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn. Chẳng hạn, chế độ chiếm hữu nô lệ với tính dã man của nó quen được xem là phi giá trị. Song, ngay chính F. Engels trong "Chống Đuyrinh" cũng đã từng nói rằng "nếu không có chế độ nô lệ cổ đại thì không thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại”, bởi lẽ nhờ nó tạo ra sự phân công lao động trên một quy mô rộng lớn mà nền văn minh Hy Lạp được hình thành. Mà – như F. Engels giải thích – "nếu không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không thể có châu Âu hiện đại được”. Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn… đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế. Bởi vậy, không thể áp đặt một quan niệm về phẩm chất của giá trị cho mọi không gian, mọi thời gian, không thể đưa khía cạnh này vào ngay trong định nghĩa như có người đề nghị.

Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát triển.

Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng bộ phận là định hướng các chuẩn mực, điều chỉnh các ứng xử của con người. Từ việc điều chỉnh xã hội, văn hóa có chức năng phái sinh là động lực cho sự phát triển của xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà UNESCO nhấn mạnh rằng văn hóa chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển.

1.1.3. Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính NHÂN SINH. Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Theo nghĩa này, văn hóa đối lập với tự nhiên: nó là cái nhân tạo, trong khi tự nhiên là cái thiên tạo. Nhưng nó không phải là sản phẩm của hư vô, mà có nguồn gốc tự nhiên: văn hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người, là "phần giao" giữa tự nhiên và con người: VĂN HÓA = TỰ NHIÊN Ç CON NGƯỜI.

Đặc trưng này cho phép phân biệt loài người sáng tạo với loài vật bản năng, phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người (như các tài nguyên khoáng sản trong lòng đất). Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, tạo truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành, hòn Vọng Phu…).

Như vậy, "văn hóa học" không đồng nhất với đất nước học như nhiều người quan niệm [Vereschagin - Kostomarov 1983: 40]. Nhiệm vụ của đất nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người, đối tượng của nó bao gồm cả các giá trị tự nhiên. Và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt này thì nó rộng hơn văn hóa học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến các vấn đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học.

Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ ba của văn hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa.

1.1.4. Văn hóa còn có tính LỊCH SỬ. Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.

Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống (truyền = chuyển giao, thống = nối tiếp) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận….

Truyền thống văn hóa tồn tại được nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Một đứa trẻ sau khi ra đời nếu được sống với cha mẹ, nó sẽ được giáo dục theo truyền thống văn hóa nơi nó sinh ra, còn nếu bị rơi vào rừng, nó sẽ mang tính cách của loài thú. Không phải ngẫu nhiên mà trong các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa” (culture, cultura) đều có chứa một nghĩa chung là chăm sóc, giáo dục…

Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử: Nếu gien sinh học di truyền lại cho các thế hệ sau hình thể con người thì văn hóa là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.

1.1.5. Trở lên là những đặc trưng cơ bản. Những đặc trưng khác, nếu có, chỉ là biến dạng của bốn đặc trưng này. Tổng hợp bốn đặc trưng đó, ta sẽ có được khái niệm “văn hóa” như trong bảng 1.1.

HỆ THỐNG

/ \

Hệ thống giá trị

Hệ thống phi giá trị

/

\

HTGT thiên tạo

(tự nhiên)

HTGT nhân tạo

(xã hội)

/

\

HTGTNT

có tính lịch sử

(= VĂN HÓA

HTGTNT không có tính lịch sử

Bảng 1.1: Xác định khái niệm “văn hóa”

Trên cơ sở này, ta có thể nêu ra một định nghĩa về văn hóa như sau:

VĂN HÓA là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

1.2. Văn hóa với các khái niệm

văn minh, văn hiến, văn vật

1.2.1. Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng "văn minh” (civilization, civilisation) như một từ đồng nghĩa với “văn hóa”. Thực ra, như viện sĩ D. Likhachov [1990] có nhận xét, “đây là những khái niệm gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau, song không đồng nhất. Văn hóa giàu tính nhân bản, nó hướng tới những giá trị muôn thuở; trong khi đó thì văn minh hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc sống sao cho tiện lợi”. Nói đến văn minh, người ta chủ yếu nghĩ đến các tiện nghi vật chất. Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau trước hết là ở tính giá trị: trong khi văn hóa là một khái niệm bao trùm, nó chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh thiên về các giá trị vật chất mà thôi.

Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa luôn luôn có bề dày của quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, nó chỉ cho biết trình độ phát triển của văn hóa; từ “văn minh” có thể được định nghĩa khác nhau trong các từ điển khác nhau, song chúng thường có chung một nét nghĩa là nói đến “trình độ phát triển”. Văn minh luôn là đặc trưng của một thời đại: nếu như vào thế kỷ XIX, chiếc đầu máy hơi nước đã từng là biểu tượng của văn minh thì sang thế kỷ XX, nó trở thành biểu tượng của sự lạc hậu, nhường chỗ cho tên lửa vũ trụ và máy vi tính. Một dân tộc có trình độ văn minh cao vẫn có thể có một nền văn hóa rất nghèo nàn, và ngược lại, một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn hóa phong phú.

Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: Văn hóa mang tính dân tộc, bởi lẽ nó có giá trị tinh thần và tính lịch sử, mà cái tinh thần và cái lịch sử là của riêng, không dễ gì mua bán hoặc thay đổi được; còn văn minh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ nó chứa giá trị vật chất, mà cái vật chất thì dễ phổ biến, lây lan.

Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Các nền văn hóa cổ đại hình thành từ trên hai nghìn năm trước công nguyên như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa… đều là sản phẩm của phương Đông. Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là văn hóa Hy Lạp thì cũng sau các nền văn hóa phương Đông cổ đại tới hàng nghìn năm (thế kỷ XI-III trước công nguyên) và được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nền văn hóa phương Đông gần nó nhất là Ai Cập và Lưỡng Hà – từ hệ thống thần thoại, lịch pháp cho đến chữ viết – chỗ nào cũng thấy dấu ấn của ảnh hưởng phương Đông. Về vị trí và đặc điểm kinh tế thì các nền văn hóa phương Đông đều hình thành ở lưu vực các con sông lớn là những nơi sản xuất nông nghiệp. Trong các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa” bắt nguồn từ chữ cultus tiếng La-tinh có nghĩa là "trồng trọt". Từ trồng trọt phát triển ra nghĩa chăm sóc (cây cối), từ “chăm sóc (cây cối)” dẫn đến chăm sóc (con người) = giáo dục. Trong khi đó thì từ "văn minh” trong các ngôn ngữ phương Tây đều bắt nguồn từ chữ civitas tiếng La-tinh có nghĩa là "thành phố". Nghĩa gốc này kéo theo mình hàng loạt từ và nghĩa phái sinh trong các ngôn ngữ châu Âu: "thị dân", "công dân" (civilis)…, từ đó đến civilisation, civilization là "làm cho trở thành đô thị”, đầy đủ tiện nghi như đô thị (= văn minh).

Như vậy, VĂN MINH (văn = vẻ đẹp, minh = sáng) là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.

1.2.2. Ở Việt Nam còn có các khái niệm "văn hiến” và "văn vật”. Từ điển thường định nghĩa văn hiến là "truyền thống văn hóa lâu đời”, còn văn vật là "truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và nhiều di tích lịch sử", "công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử". So sánh các định nghĩa này, ta thấy "văn hiến" và "văn vật" thực ra chỉ là những khái niệm bộ phận của "văn hóa", chúng chỉ khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: Văn hiến là văn hóa thiên về "truyền thống lâu đời”, mà truyền thống lâu đời còn lưu giữ được không bị chiến tranh và thời gian hủy hoại chính là các giá trị tinh thần, còn văn vật là văn hóa thiên về các giá trị vật chất (nhân tài, di tích, công trình, hiện vật). Chính vì vậy mà ông cha ta thường nói đất nước 4000 năm văn hiến (chứ không nói …văn vật, vì trải qua 4000 năm, phần lớn các giá trị vật chất đã bị tàn phá), nhưng lại nói Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn vật (vì trong 1000 năm trở lại đây, từ khi Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long, các giá trị vật chất còn lưu giữ được nhiều).

Phương Tây không có hai khái niệm "văn hiến” và "văn vật”, cho nên hai khái niệm này không thể dịch ra các ngôn ngữ phương Tây được. Văn vật và văn minh tuy cùng thiên về giá trị vật chất, nhưng lại rất khác xa nhau.

Để dễ phân biệt các khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật, những điều nói trên được trình bày trong bảng 1.2.

Bảng 1.2: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật

VĂN HÓA

VĂN HIẾN

VĂN VẬT

VĂN MINH

Chứa cả giá trị vật chất lẫn tinh thần

Thiên về giá trị tinh thần

Thiên về giá trị vật chất

Thiên về giá trị

vật chất - kỹ thuật

Có bề dày lịch sử

Chỉ trình độ phát triển

Có tính dân tộc

Có tính quốc tế

Gắn bó nhiều với

phương Đông nông nghiệp

Gắn bó nhiều với phương Tây đô thị

Baûng 1.2: So saùnh vaên hoùa, vaên minh, vaên hieán, vaên vaät

1.3. Cấu trúc của hệ thống văn hóa

1.3.1. Như đã nói, lâu nay, tính hệ thống của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên cũng chưa có được một mô hình hệ thống văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục.

Theo cách nhìn truyền thống, văn hóa có cấu trúc hai phần rất đơn giản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần [Arnoldov 1985: 31-46]. Cấu trúc này không sai, nhưng nó là cấu trúc cơ sở, rất đơn giản, không thể cho thấy hết được sự phong phú và phức tạp của hệ thống văn hóa.

L. White [1949: 346-366] phân chia văn hóa thành ba tiểu hệ: công nghệ, xã hội và tư tưởng. Đào Duy Anh [1951: 8] dựa theo F. Sartiaux mà chia văn hóa thành ba phần: sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trí thức. Nhóm Văn Tân [1973] thì phân biệt văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần; nhưng văn hóa xã hội (phong tục, tập quán…) đâu có nằm ngoài văn hóa tinh thần? M.S. Kagan cũng chia văn hóa ra ba thành tố, trong đó, bên cạnh văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần là văn hóa nghệ thuật [1974: 188-208]; nhưng có nghệ thuật nào lại không phục vụ các nhu cầu tinh thần?

Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố như văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật [Ngô Đức Thịnh 1987], hoặc hoạt động sinh tồn, hoạt động xã hội, hoạt động tinh thần, hoạt động nghệ thuật [Nguyễn Tấn Đắc 1987].

1.3.2. Để tiếp cận văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính lý thuyết hệ thống.

Theo lý thuyết này [xem, ví dụ: Blauberg... 1969; Sadovskij 1974] thì:

a) Mọi HỆ THỐNG đều bao gồm các YẾU TỐ và các QUAN HỆ giữa chúng; mạng lưới các mối quan hệ tạo thành CẤU TRÚC;

B) Mỗi yếu tố của hệ thống, đến lượt mình, đều có thể là một hệ thống con – một TIỂU HỆ;

c) Mọi hệ thống đều có quan hệ mật thiết với MÔI TRƯỜNG.

Trên cơ sở này, chúng tôi thấy hợp lý hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm bốn thành tố (bốn tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại có hai vi hệ nhỏ hơn như sau: Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng người nhất định – một chủ thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng đồng người - chủ thể văn hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, và do vậy đã tích lũy được một kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và về bản thân con người – đó chính là hai vi hệ của tiểu hệ văn hóa nhận thức.

Tiểu hệ thứ hai liên quan trực tiếp đến những giá trị văn hóa nội tại của cộng đồng người - chủ thể văn hóa: đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm hai vi hệ là văn hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức xã hội trong một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, quốc gia, đô thị), và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống mỗi người như tín ngưỡng, phong tục, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật...).

Cộng đồng người (chủ thể văn hóa) hiển nhiên là tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường – môi trường tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu, v.v.) và môi trường xã hội (hiểu ở đây là các xã hội, dân tộc, quốc gia láng giềng). Cho nên, hệ thống văn hóa còn bao gồm hai tiểu hệ nữa liên quan đến cách thức xử sự của cộng đồng dân tộc với hai loại môi trường ấy. Hai tiểu hệ đó là văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.

Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác động của chúng (tạo nên hai vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực) và đối phó với môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, có thể tận dụng để ăn uống và giữ gìn sức khỏe, để tạo ra các vật dụng hàng ngày...; đồng thời phải đối phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao thông), với khí hậu và thời tiết (quần áo, nhà cửa, kiến trúc). Với môi trường xã hội, bằng các quá trình giao lưu văn hóa, tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng các thành tựu của các dân tộc, quốc gia lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải lo đối phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao…

1.3.3. Cũng như mọi loại ranh giới, ranh giới giữa các bộ phận của hệ thống văn hóa không thể vạch ra một cách quá rạch ròi, nhất thành bất biến. Để xếp sắp một hiện tượng văn hóa vào hệ thống, phải căn cứ vào đặc điểm điển hình của nó. Chẳng hạn, mục đích của nhà cửa là để đối phó với môi trường tự nhiên, nhưng con người lại cũng đã tận dụng chính môi trường tự nhiên để tạo ra nó. Ngoại giao vừa có trách nhiệm đối phó vừa có trách nhiệm tận dụng môi trường xã hội, nhưng trách nhiệm đối phó nặng nề hơn (không phải ngẫu nhiên mà ta có khái niệm mặt trận ngoại giao).

Một hệ thống văn hóa có thể được xem xét dưới góc độ các bình diện đồng đại và lịch đại, khái quát và cụ thể. Môn lịch sử văn hóa lâu nay chủ yếu quan tâm đến bình diện cụ thể và lịch đại, còn môn văn hóa học đang bàn chủ yếu quan tâm đến bình diện khái quát và đồng đại. Tuy nhiên, vì văn hóa vừa có tính hệ thống, lại vừa có tính lịch sử cho nên một miêu tả cụ thể tốt nhất là phải tính tới cả hai bình diện ấy. Nếu lấy diện lịch đại làm cơ sở thì trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ phải lưu ý đến tính đồng đại – VĂN HÓA SỬ (lịch sử văn hóa) phải được xây dựng như thế. Ngược lại, nếu lấy diện đồng đại làm cơ sở thì trong mỗi hệ thống con lại phải chú ý đến mặt lịch đại – VĂN HÓA HỌC phải được xây dựng như thế.

Posted Image

Hình 1.1: Cấu trúc của hệ thống văn hóa.

Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn có thể có những cách phân chia khác. Chẳng hạn, trong quan hệ với địa bàn cư trú, có thể phân biệt văn hóa biển, văn hóa đồng bằng và văn hóa núi. Trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệt văn hóa dân gian và văn hóa chính thống. Cũng vậy, trong quan hệ với chủ thể văn hóa, có thể phân biệt văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc ít người. Những cách phân chia này cần được kết hợp xem xét trong những trường hợp cần thiết. Cả bốn thành tố của hệ thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốc chung là loại hình văn hóa. Nếu mô hình cấu trúc của hệ thống văn hóa cho ta thấy CÁI CHUNG, cái đồng nhất trong tính hệ thống của các nền văn hóa thì loại hình văn hóa sẽ cho ta thấy CÁI RIÊNG, cái khác biệt trong tính hệ thống của chúng.

Cấu trúc của hệ thống văn hóa trong quan hệ với loại hình văn hóa vừa trình bày có thể tóm tắt trong hình 1.1.

Share this post


Link to post
Share on other sites

ÍT NHIỀU CẢM NGHĨ VỀ VĂN HOÁ DÂN TỘC [1]

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ


Cách đây chừng hơn hai tháng cụ Chân Thiện Minh, văn hóa vụ trưởng có ý ngỏ nhờ tôi thuyết trình về VĂN HOÁ DÂN TỘC.

Tôi tuy nhận lời, nhưng thú thật tôi rất ngại nói về đề tài này vì thấy nó khô khan như sa mạc, mơ hồ như sương thu, và hiểm hóc như con đường vào Ba Thục, cho nên, cứ lần lữa «nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng» tôi để ngày tháng qua đi mà vẫn chưa làm được gì cụ thể.

Thế nhưng kiếp tằm rồi ra cũng phải nhả tơ, rút cuộc tôi cũng phải bắt tay vào việc để viết nên bài thuyết trình khiêm tốn này với nhan đề:

ÍT NHIỀU CẢM NGHĨ VỀ VĂN HOÁ DÂN TỘC.

Với nhan đề khiêm tốn đó, quí vị sẽ thấy ngay là tôi không có tham vọng cầu toàn trách bị về văn hoá, nhất là về văn hóa dân tộc, mà chỉ muốn mạn đàm cùng một số thân hữu, mà chỉ muốn dùng những lời lẽ mộc mạc, chân thành đơn giản để trình bày vấn đề.

Tôi sẽ lần lượt trình bày :



1) Thử phân tách hai chữ Văn Hoá và chữ Culture

2) Ít nhiều định nghĩa về Văn Hoá

3) Văn Hoá Dân Tộc là gì

4) Ít nhiều đóng góp tôi vào nền văn hóa dân tộc

5) Người giáo hữu Cao Đài có thể đóng góp gì cho nền văn hoá dân tộc

Tổng kết



I. THỬ PHÂN TÁCH HAI CHỮ VĂN HOÁ VÀ CULTURE.

Có thể nói được rằng khoảng sau thế chiến I, Đông Phương mới dùng hai chữ Văn Hoá để dịch chữ culture của Tây phương. Ở Việt Nam. thì tuy tạp chí Nam Phong mới bắt xuất bản từ 1917, nhưng mãi đến 1924, trong số 84 mới thấy Thượng Chi viết một bài nhan đề là Bàn phiếm về văn hoá Đông Tây (xem các trang 447 - 453 số báo trích dẫn). Trước kia người ta thường chỉ dùng chữ VĂN. Kinh Thư chẳng hạn đã dùng chữ VĂN, chữ Văn Giáo thay vì chữ Văn Hoá, trong các thiên Vũ Cống hạ, Đại Vũ Mô, và Vũ Thành.

Kinh Dịch nơi quẻ Bí đã cắt nghĩa thế nào là Văn và có đề cập đến Thiên Văn và Nhân Văn.

Dịch kinh viết: «Cương nhu giao thác, thiên văn dã. Văn minh dĩ chỉ nhân văn dã.» 剛 柔 交 錯 天 文 也. 文 明 以 止 人 文 也. Nương theo ý đó, chúng ta có thể giải rộng như sau :

Văn là văn vẻ, là vẻ đẹp. Mà văn vẻ là do những cặp mâu thuẫn: cương- nhu, âm- dương pha phách hoà hài với nhau mà sinh ra .

Ví dụ gọi là Thiên Văn, vì trên trời có mặt trăng mặt trời, sao to, sao nhỏ, sao sáng, sao mờ, sao đứng, sao chạy, có mây, có gió, có sấm, có chớp, tất cả những cái đó hoà hài pha trộn với nhau thành Thiên Văn.

Ví dụ gọi là Nhân Văn, vì ở trần gian này, có ngưòi hay, kẻ dở, người đẹp, kẻ xấu, người hướng ngoại, kẻ hướng nội, người ưa văn, kẻ trọng võ, người ưa lý tưởng, kẻ ưa thực tại, lúc sinh, lúc tử, lúc vui, lúc buồn, lúc sướng, lúc khổ, tất cả những cái đó pha trộn với nhau thành nhân văn. Và cảnh đời cứ thăng trầm, rò rẫm, diễn biến như vậy cho đến khi này tới mức huy hoàng, sán lạn mới thôi. Đó là nhân văn.

Ví dụ như một bức vẽ, thì cái vẻ đẹp là do sự khéo léo pha trộn giữa ánh sáng và bóng tối, giữa các màu sắc với nhau

Trước kia, tôi có một con phượng bằng trầm . Thay vì để con phượng đó có một màu đỏ của trầm mà thôi, thợ lại đem đốt nhiều chỗ cho trầm chảy nhựa ra thành ra mình phượng, cánh phượng có chỗ thì đen, có chỗ thì đỏ. Cụ Vương Hồng Sển đến chơi. nhận định rằng: Màu trầm đỏ cũng ví như là Dương, có Dương không chưa đủ, nên thợ lại phải tạo ra những vết đen, vết đen đó là Âm. Có Âm, có Dương, con phượng mới đẹp.

Hoá là gì? Hóa là cảm hóa, là thay đổi, là làm cho biến đổi. Đem cái hay cái đẹp truyền thụ cho người, mong biến đổi con người thành một ngưòi mới. đó chính là Văn Hóa.

Nói rằng trong con nguời có Phật tính, có Thiên tính chưa đủ, phải nói làm sao cho say sưa, cho khẩn thiết, cho mãnh liệt, để người nghe bị ánh mắt mình, bị cử chỉ mình, bị ngôn từ mình, bị tâm thần mình làm cho rung động, để cho họ thấy như có một luồng nhân điện chạy rạt rào trong người họ, để họ cảm kích nước mắt như muốn trào ra, để rồi lập tâm sống một cuộc đời mới hiên ngang hơn, đẹp đẽ hơn, ý nghĩa hơn, hòan hảo hơn, được như vậy mới gọi là làm Văn Hóa, được như vậy mới nói được là đã biết dùng vẻ đẹp của tâm linh , của tư tưởng, của ngôn từ, của điệu bộ mà cảm hóa được người khác.

Đến như chữ Culture thì nguyên có nghĩa là vun trồng, là tu sửa.

Và vì con người có xác, nên phải vun trồng ruộng đất, tu sửa ruộng đất , để có cái mà ăn. Cho nên chữ Agriculture có thể hiểu được là vun trồng ruộng đất, tu sửa ruộng đất, hay nói nôm na hơn là làm ruộng, là làm ăn.

Thứ đến vì con người có Hồn, cho nên lại có chữ animi cultura hay animi cultus tức là trau dồi, mài giũa, tu sửa Tâm Hồn, cho ngày một nên thanh lịch, tế nhị. Sau hết vì con người có Thần, nên lại có chữ dei cultura hay dei cultus. Đó tức là tu sửa Thần Linh của mình.

Nếu sửa sang ruộng đất được gọi là làm ăn, thì sửa sang tâm hồn được gọi là làm người, trau chuốt thần linh được gọi là làm Thần.

Hiểu thế thì Văn Hóa có mục đích giúp con người trở nên toàn thiện về mọi mặt.

Làm Ăn, nhưng không phải thứ làm lam lũ như súc vật, mà thứ làm thông minh nghệ thuật, làm mà vẫn vui, vẫn sướng, vẫn thấy thoải mái. ĂN nhưng không phải thứ ăn bốc bải dần sàng, mà ăn uống với những mâm son, bát sứ, với những món ăn ngon lành, với những kiểu điệu thanh lịch.

Làm Người không phải là làm những hạng người TẦM THƯỜNG, ngu si, dốt nát, cúi đầu cam chịu số phận khốn nạn hẩm hiu, mà làm con người cho sướng đáng, thông minh, tinh tế, lễ độ, nhân từ, khoan quáng…

Làm Thần không phải là làm những thứ thần hạ đẳng, mà là trở nên những con người toàn diện, có tầm kích vũ trụ.



II. ÍT NHIỀU ĐỊNH NGHĨA VỀ VĂN HÓA

Khảo sát chữ văn hóa và culture xong, ta thấy phạm vi Văn Hóa thật là rộng rãi, chính vì vậy mà trên phương diện thực tế, rất có nhiều định nghĩa về văn hóa. Nơi đây chỉ xin đơn cử ít nhiều định nghĩa mà thôi.

1. Có người cho rằng VĂN HÓA là trình độ kiến thức kiến văn của mỗi người . Cho nên nói: Người này có trình độ văn hóa cao, người kia có trình độ văn hóa thấp. Chính vì thế mà mới có những lớp bổ túc văn hóa.

2. Có người cho rằng: Văn hóa là sự đào luyện con người để họ trở nên thanh lịch. Như vậy những người có văn hóa là những con người có tác phong thanh lịch, có giáo dục, có học vấn , nhưng người mà con tim khối óc đã đượ trau chuốt, rũa mài, những tao nhân, mặc khách mà Kinh Thi đã khen tặng như sau

Kìa xem bên khuỷu sông Kỳ,

Tre non mới mọc xanh rì vườn ai,

Người đâu văn vẻ hỡi người,

Nhường như cắt đành rũa mài bấy nay,

Lẫm liệt thay, rực rỡ thay,

Hỡi người quân tử biết ngày nào quên. (Kinh Thi, Tản Đà, tr. 168)

3. Có người cho rằng Văn hóa là công trình giáo hóa con người. Chữ Culture trong tiếng pháp ngoài nghĩa văn hóa còn có nghĩa là dạy dỗ. Chính vì thế mà thường khi hai chữ Văn Hóa, Giáo Dục đã đi kèm với nhau.

4. Cũng có người hiểu Văn hóa là văn chương, nghệ thuật , là văn nghệ. Hiểu như vậy là hết sức thu hẹp phạm vi Văn hóa, coi văn hóa như là một cái thú tiêu khiển trong những lúc trà dư, tửu hậu.

5. Có nhiều người định nghĩa văn hóa là sinh họat tinh thần, đối nghịch với văn minh là sinh họat trên bình diện vật chất. Họ cho rằng cái gì thuộc về đạo đức, văn nghệ là văn hóa, cái gì thuộc về kỹ thuật là văn minh, cái gì hay cái gì đẹp là văn hóa, cái gì ích, cái gì lợi là văn minh.

Nhưng thực tế không giản dị như vậy. Và kỳ quặc nhất là trong cuộc hội thảo về văn minh, văn hóa tại Salzburg, từ 8 đến 15 tháng 10, 1961, gồm rất nhiều học giả trứ danh như Sorokin, Toynbee, Spengher, Northrop… người ta đã dùng hai chữ văn minh và văn hóa lẫn lộn nhau, đồng nghĩa với nhau.

6. Cũng có người cho rằng Văn Hóa là tất cả những gì làm cho đời thêm đẹp, thêm tươi, thêm hương vị, thêm màu sắc, thêm thích thú. Tóm lại tất cả những gì làm cho cuộc trở nên thi vị và đáng sống.

Theo chủ trương này thì những bài dân ca nỉ non trong khóm lúa, những câu hò, thánh thót trên dòng sông, những căn nhà tre trúc chơi vơi, nơi suờn non, giữa những bách tùng, đào liễu, ẩn ước trong khói mây, hoặc rực rỡ dưới ánh tà huy, những lễ tết, những hội hè, đình đám, những tà áo thêu hoa, thêu phượng phất phơ trước gió, đều là những biểu dương văn hóa, chứ không phải riêng gì những lời giáo huấn trang nghiêm nơi giáo đường hay trường học, hay những lâu đài, những kiến trúc hoặc cổ kính hoặc tân kỳ ngạo nghễ vươn mình lên như muốn tranh hùng với phong sương tuế nguyệt mới là những công trình văn hóa.

7. Cũng có người hiểu văn hóa là đà tiến của nhân lọai từ thô đến tinh, là nỗ lực của nhân lọai để tiến tới một đời sống lý tưởng và tất cả những thành quả đã thực hiện được trong công trình hướng thượng ấy.

Cụ Nguyễn Đăng Thục đã gắn liền văn hóa với tiến hóa. Tiên sinh viết: «Văn hóa có nghĩa là tiến hóa, tiến từ trình độ thô sơ đến trình độ văn vẻ, từ thấp đến cao, từ vật chất hữu hình lên tin thần vô hình.» (Xem Văn Hóa Á Châu tập VI 3.3. 1961, tr. 1, nơi bài Văn hóa kinh tế của Nguyễn Đăng Thục).

8. Các nhà xã hội học, nhân chủng học hiện nay thường tránh những chữ tinh thần, những ý niệm chủ quan, những mục đích thâm viễn, nên chỉ định nghĩa văn hóa là lề lối sống của một dân tộc, của một xã hội lòai người.

Malinowski chẳng hạn cho rằng học về văn hóa tức là học về tất cả lề lối sống của một xã hội.

Henri de Man chủ trương «văn hóa» là một lề lối sống dựa trên một niềm tin,công cộng, vào một hệ thống và một tôn ti, trật tự, thứ bực giá trị, làm cho đời sống có một ý nghĩa nhất định. (Heni de Man L’ide’e socialiste, p.35) Linton cũng chủ trương tương tự. Ông viết : «Văn hóa» của một xã hội là lề lối sống của các phần tử trong xã hội ấy. Đó là toàn bộ những ý tưởng và tập tục mà họ đã thâu lượm, chia sẻ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. «Văn hóa» đem lại cho mọi người của mỗi thế hệ những cách giải quyết hữu hiệu và lập thành vê tất cả các vấn đề mà họ sẽ gặp phải. Những vấn đề này được nêu lên vì những nhu cầu của cá nhân sống trong một đoàn thể có tổ chức.

Như vậy văn hóa không phải là một lề lối sống suông. Nó còn là một quan niệm về đời sống (une conception de vie) và một lề lối sống (manière de vie) phù hợp với quan niệm sống ấy…

Để đúc kết lại chúng ta có thể nhận định về Văn Hóa như sau:

Văn Hóa là lề lối sống riêng biệt của cá nhân, đoàn thể, xã hội hay dân tộc đã được phát sinh nhờ những ý niệm tình cảm, khuynh hướng đặc biệt làm nòng cốt và dẫn đạo, đã được phát huy, thể hiện qua những công trình văn chương, nghệ thuật, đạo giáo, chính trị xã hội đã được lồng vào trong nếp sống hằng ngày, nhờ những phong tục, luật lệ, tổ chức, y phục, dụng cụ điển hình, đã được truyền thụ, lưu lai nhờ ngôn ngữ và giáo dục.

Văn hóa là tất cả những cố gắng của con người để cải thiện nội tâm, gia đình, quốc gia, xã hội và hòan cảnh, để con người có thể sống một cuộc đời khác biệt với muôn thú, một cuộc đời thanh cao, đầy đủ nhân cách, nhân vị và nếu có thể, một đời sống tự do, tự tại, khinh khoát, thần tiên.

Văn hóa nảy sinh do những ước mơ về Chân, Thiện, Mỹ và là nỗ lực của con người để vươn lên cho tới Chân Thiện Mỹ, để thực hiện Chân Thiện Mỹ.
III. THẾ NÀO LÀ VĂN HÓA DÂN TỘC

Muốn nhận định cho khách quan và chính xác về vấn đề Văn Hóa Dân tộc Việt Nam, chúng ta phải lưu tâm đến những yếu tố sau đây:

a) Về phương diện lịch sử, nước ta là một nước đã lập quốc từ rất lâu đời. Theo Hòang Việt giáp tý niên biểu , thì Hồng Bàng nguyên niên là năm Nhâm tuất - 2879, như vậy là không thua sút Trung Hoa.

- Nước ta cũng là một nước bị ngoại bang đô hộ hết sức lâu:

* 6 lần Bắc thuộc: 1053 năm.

* 1 lần Pháp thuộc: 1864 - 1945 ngót một thế kỷ.

- Nhưng cũng là một nước luôn luôn triển dương lớn mạnh. Năm III trước Công nguyên nước ta mới vẻn vẹn có miền Bắc việt cho tới Quảng Bình, mà tới thời Nguyên, tức là tới đầu thế kỷ XIX, đã gồm cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc như hiện nay.

B) Về phương diện địa dư văn hóa, nước ta nằm giữa Trung Hoa Ấn Độ, và nằm trong vùng các nước Đông Nam Á, như Nam Dương, Lào, Campuchia, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Đông Ấn, Tích Lan, Phi Luật Tân, Tân Ghi Nê, và Malaysia….

c) Về phương diện tâm lý, dân tộc ta là một dân tộc hết sức cần cù, nhẫn nại, hết sức kiên nhẫn, hết sức anh dũng, hết sừc khoan dung, cởi mở và hết sừc sáng tạo.

Những yếu tố trên cho ta thấy ngay nền văn hóa dân tộc ta là một nền văn hóa đã được cấu tạo nên bằng tinh hoa mọi nền văn minh khác trên thế giới nhưng sâu đậm nhất, quan trọng nhất là ba nguồn văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, và Đông Nam Á. Tuy nhiên tất cả những nguyên liệu văn hóa xa gần ấy một khi đã vào trong lò cừ biến hóa, sáng tạo văn hóa Việt Nam, lập tức nó có một phong thái khác biệt.

Vay mượn lẽ dĩ nhiên là cũng nhiều :

Ví dụ, các vua chúa Việt Nam xưa đã rập khuôn hoàn toàn cơ cấu chính trị, luật pháp và luân lý Trung Quốc.

Về phương diện tôn giáo, thì chúng ta cũng đã nhập cảng các đạo ngoại lai như Phật, Khổng, Lão và Thiên Chúa Giáo …

Về phương diện phong tục, có nhiều phong tục mới xem tưởng chừng là thuần túy Việt Nam, như xâm mình, búi tóc củ hành, ăn trầu, ăn nước mắm, nhuộm răng đen, thả diều, đúc trống đồng, thờ thổ công…. Truy nguyên thì lại là những phong tục chung cho cả vùng Đông Nam Á, từ thủa rất xa xưa.[2]

Nói thế không phải là nói dân tộc ta không có một nền văn hóa riêng biệt đặc thù và phong phú.

Muốn thấy những nét đặc thù dân tộc riêng biệt của nền văn hóa Việt Nam, chúng ta hãy hỏi những người Việt Nam tha hương ở các nước ngoài. Có nhiều người đã nhập các quốc tịch khác nhau nhưng đến ngày tết cũng cố sắm cho được một cành đào, mua được vài chiếc bánh chưng, một ít giò chả lụa để ăn tết, lại cũng cố sắm cho được những bộ quốc phục để trưng diện trong những dịp tiệc tùng cưới hỏi …

Có một lần tôi dạo chơi trong khu Quartier Latin ở Paris, tôi rất ngạc nhiên vì thấy có một hiệu sách nhỏ bán lèo tèo vài ba truyện Việt Nam và ít nhiều tranh lợn tranh gà khắc một bản y thức như ở Việt Nam. Lúc ấy tôi mới thấy thắm thía rằng những gì mang màu sắc quê hương đất nước cũng có thể kích động lòng người, cũng sưởi ấm lòng người. Mà càng xa quê hương lâu ngày thì sự kích động càng mãnh liệt.

Eliot cũng đã viết : Đối với xã hội, văn hóa bao gồm tất cã những hoạt động đặc biệt của một dân tộc, như đối với dân tộc Anh là ngày đua ngựa ở Derby, đua thuyền ở Henley, hoặc du thuyền ở Cowes, cuộc đua chó, trò chơi phóng tên hoặc là ăn phó mát Wnesleydale, ăn bắp cải luộc xắt thành miếng, ăn củ cải đỏ ngâm dấm, đi nhà thờ làm theo kiểu Gothic thế kỷ XIX, nghe âm nhạc của Elgar …[3]

Vả vay mượn nhau thì nước nào trên thế giới mà chẳng đi vay mượn, nhưng cái hay là làm sao cho cái vay mượn trở thành cái độc đáo của mình.

Ví dụ Yoga An Độ với các tư thế vặn vẹo, uốn éo kỳ quái, kinh khủng sang đến Trung Hoa đã trở thành một thứ Thiền giản dị, ngồi thở thầm lặng trong tư thế ngồi kiết già hay bán kiết già.

Thiền Trung Hoa truyền sang Nhật Bản lại khóac thêm màu sắc Phù Tang, thi ca nghệ thuật và tạo nên môn phái ZEN Nhật Bản.

Cái cơ cấu vĩ đại nhất, đồ sộ nhất, lâu đời nhất, mang nhiều đặc tính văn hóa dân tộc nhất chính là tiếng VIỆT.

Thực vậy, sau cả ngàn năm đô hộ giặc Tàu, sau cả ngót thế kỷ đô hộ Pháp, mà tiếng Việt vẫn mãi là tiếng Việt, chẳng những thế lại còn càng ngày càng thêm phong phú, thêm tinh vi, thêm điêu luyện, thêm trong sáng.

Dẫu vay mượn nguyên liệu gì của tiếng nước ngoài chăng nữa, nhưng khi đã đổ vào lò Việt, vào khuôn Việt, nó trở thành hoàn toàn Việt Nam.

Ví như hai chữ Gia Đình là mượn tiếng Trung Hoa, nhưng người Quảng Đông đọc là cá thình, tiếng quan hỏa đọc là chi-a thỉnh, tiếng Phúc Kiến đọc là ca tiểng, tiếng Triều Châu đọc là kê tiếng như vậy là đã:

Anh đi đường anh, tôi đường tôi rồi.

Tiếng Pháp nói: beurre, gare, boulon, saucisse, madame.

Tiếng Việt nói: bơ, ga, bù-loong, súc-xích, bà đầm.

Tiếng Pháp nói café, mình cũng nói cà fê, nhưng đôi khi còn nói càfê cà fáo.

Hơn thế nữa, trong tiếng Việt, có những vần, có những âm mà ngay tiếng Hán Việt cũng không chen được chân vào. Ví dụ như vần G:

- với các chữ gà, gấu, gờ, ghe, gò gẫm, gù ghì, gầm gừ…thì hỏi còn gì là Việt Nam hơn.

- lại như vần E , với các tiếng như e dè, le te, lè nhè, le le thì hỏi còn gì Việt Nam hơn?

Tôi hết sức yêu những tiếng đôi, tiếng kép Việt Nam như: ríu rít, tê mê, thoăn thoắt, liếng thoắng, đủng đỉnh,

Rồi lại có những lọai tiếng kép gợi hình, gợi ảnh như:

kềnh càng, khệnh khạng, ngênh ngang, lồm cồm, lổ ngổ, lỉnh kỉnh, lủng củng, lẳng cẳng …

Rồi thay vì nói ngọt không, còn có ngọt xớt, ngọt lịm, ngọt như đường cát, ngọt như mía lùi. Thay vì nói đỏ không, còn có đỏ cạch, đỏ tươi, đỏ hỏn, đỏ hon hỏn, đỏ hoen hoét, đỏ thắm, đỏ chót, đỏ rực, đỏ hồng.

Cũng chỉ là mang, nhưng ta còn vô số danh từ khác như gánh, như gồng, như khiêng, như vác, như khuân, như đội, như xách, như đèo, như cặp, như kè, ấy là chưa kể đến những lối nói lặp đi lặp lại như:

Nói nhăng, nói nhít,

Nói xằng, nói xịt

Làm việc làm viếc,

Tiêu tiêu tiệc,

Làm dáng làm diếc

Thật là vô cùng phong phú.

Một công trình văn hóa đồ sộ khác đượm màu sắc dân tộc khác chính là chữ NÔM.

Tuy là nói mượn chữ Hán để tạo thành, nhưng rồi ghép ngang ghép dọc, hoặc trại đi, thấy chữ lại đọc nghĩa mà bỏ âm, học chỉ để lấy âm mà bỏ nghĩa, khiến người Trung Hoa đọc vào không hiểu mô tê mù tịt gì cả, trái lại người Việt đọc vào thấy hết sức thích thú.

Nhiều người nói: «Nôm na là cha mách qué», nhưng thiết nghĩ nó chẳng mách qué tí nào, và đã được cấu tạo nên một cách rất hữu lý, quy cũ.

Để quý vị thưởng thức cái tài tình của chữ Nôm, tôi đan cử bài thơ Phong Hoa Tuyết Nguyệt của viên Bảng Kim Bồng, Vũ Duy Thanh (1806 - 1861) theo thế thuận nghịch độc. Bài này tài tình ở chỗ đọc xuôi la thơ chữ Hán đọc ngược lại từ dưới lên trên theo lối đọc chữ Nôm, thì lại thành thơ quốc văn.

Thi đàn tế liễu lộng hoa hài,



Khách bộ tùy sương, ấn bích đài.



Kỳ cục đả phong thanh áp trận,



Tửu biều nghinh tuyết bạch hòa bôi.



Sơ liêm thấu nguyệt hương ly cúc,



Yến tịch lăng hoa vị át mai.



Phi phất lĩnh đầu chiêm tĩnh điếm,



Thi đàn tế liễu lộng hoa hài.



Đọc ngược từ dưới lên theo kiểu chữ Nôm ta có:

Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ

Điếm tạnh xem đầu núi phất phơ,

Mai át mùi hoa lồng tiệc yến

Cúc lìa hương nguyệt thấu rèm thưa

Chén hòa bạch tuyết nghiêng bàn rượu,

Trận áp thanh phong đánh cuộc cờ,

Rêu biếc in sương theo bước khách,

Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.

Bài thơ nôm vừa là bài thơ mới lại vừa dịch lại được đại ý bào thơ chữ Hán thực là tuyệt diệu.[4]

Càng đi sâu vào vấn đề văn hóa dân tộc, càng thấy nó mênh mông bát ngát. Giáo sư Trần Văn Khê đã để cả đời mình để nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Nhạc sĩ Hùng Lân từ nhiều năm nay cũng đã để tâm nghiên cứu rất nhiều về dân ca Việt Nam.

Về kiến trúc ta thấy có Chùa Một Cột là cái gì độc đáo.

Về các thể văn thơ, ta có: lục bát, song thất lục bát là các thể thơ thuần túy Việt Nam.

Về võ thuật ta có môn võ Vovinam mà trong vòng mấy chục năm nay rất thịnh hành. Rồi ngày nay lại còn một phong trào hết sức là rầm rộ: Đó là vấn đề thuốc dân tộc.

Trong các lãnh vực này có những cố gắng rất đáng ca ngợi. Chẳn hạn L.M. Vũ Đình Trác, đã nghiên cứu, đã bào chế được hơn 150 vị thuốc ta, mùi vị cũng rất là thơm tho, trình hbày cũng đẹp mắt. Các vị lương y như Việt Cúc, Định Ninh … cũng đã khéo biến chế dùng các vị thuốc Nam thay thế thuốc Bắc hết sức tài tình.

Khi cụ Nguyễn Văn Ba, chủ hiệu thuốc Kim Điền, còn sinh tiền, tôi có lần xuống chơi. Tôi con nhớ hồi đó là khoảng năm 1976. Tôi hỏi cụ: Cụ pha chế thuốc Đông Y làm sao mà cụ có đủ nguyên liệu mà làm. Cụ trả lời: «Các nguyên liệu của tôi từ trước tới nay hoàn tòan là cây cỏ miền Nam. Vậy chỉ có khi nào giang sơn Việt Nam không còn, tôi mới hết nguyên liệu làm thuốc.» Tôi ra về mà trong lòng hết sức thán phục cụ …

Về phương diện đạo giáo, tuy nước ta từ thời Lý Trần theo Phật, và đa số dân chúng theo phật, nhưng tinh thần hòa đồng tam giáo đời nào cũng hết sức mãnh liệt. Đó là một nét rất đặc thù về văn hóa dân tộc.

Gần đây khảo cứu một số sách vở Phật vừa bằng chữ Hán, vừa bằng chữ Nôm như :

Thơ văn Lý Trần (Nhà xuất bản Khoa Học Hà Nội 1972).

Thiền tông bản Hạnh, Chân Nguyên thiền sư viết (1646- 1726) khoảng thế kỷ XVII, Thanh Hanh xuất bản lại năm 1932. Sách này tiêu biểu cho Thiền học đời Trần, phái Thiền Lâm Tế, và Thiền học thế kỷ XVII

Thơ văn Ngô Thời Nhiệm (1764- 1803) (Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1978) tiêu biểu cho Thiền học cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.

Hồng Mông Hạnh mà tác giả là tỳ kheo Giác Lâm ở Chùa Hồng Đức, Phường Hòe Nhai, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông, và đã khắc thời vua Minh Mệnh (tiêu biểu cho Phật giáo thế kỷ XIX)

Tu Chân Yếu Chỉ Quốc Âm, khắc in năm 1930, tiêu biểu cho Thiền học cuối thế kỷ XIX và đầu XX.

Tôi nhận thấy khuynh hướng Phật giáo trước sau cũng là khuynh hướng hòa đồng Tam giáo, lấy thuyết Thiên địa vạn vật đồng nhất thể làm tư tưởng chính yếu, nhân đó suy ra các quan điểm khác về vũ trụ, nhân sinh, tu trì, đắc đạo, và lấy đủ các danh từ trong Tam Giáo để suy diễn và trình bày học thuyết ấy. Ta thấy những danh từ như TỲ LƯ NHẤT THÍCH, như HI DI, như HƯ VÔ DIỆU THẾ, như CHÂN NHƯ, như BẤN LAI DIỆN MỤC, như THÁI CỰC NHẤT KHÍ CHÂN NGUYÊN được dùng song song với nhau, thay thế cho nhau, bổ túc, giải thích lẫn cho nhau. Cái THỂ trước sau vẫn là ĐỒNG, cái GỐC trước sau cũng vẫn chỉ có một, chỉ có cái ngọn mới khác nhau, chỉ có cái DỤNG mới là DỊ.

Chỉ bấy nhiêu, mà tôi thấy các ngài đã đi từ cái Tạp thù, trở về được với cái Thuần nhất, từ cái Đạo tại Sách vở, kinh kệ, từ cái Phật tại Chùa, tại Tây thiên mà tìm ra được cái đạo tại Tâm, cái Phật tại Tâm, cái Giác ngộ tại tâm, cái giải thóat tại tâm, cái giải thóat tại tiền, không phải đợi tới lai sinh, tới vãng cảnh. Tôi mới cảm phục các ngài, vì đã đem được những gì từ những xứ xa xôi, cách trở, đem về được nước mình, gắn vào được lòng mình, cho nó nhập vào được tâm linh mình, rồi lại từ nguồn suối tâm linh ấy tung tỏa lại ra thành nững tư tưởng mới, sống động, hồn nhiên, đượm màu sắc Việt Nam, và dân tộc Việt Nam. Và cũng chính là để nói lên lòng ngưỡng mộ của tôi đến với các vị đắc đạo tiền bối ấy, tôi đã viết bài:

Ít nhiều cảm nghĩ suy tư về Thiền Học Việt Nam, đăng trong Cao Đài Giáo Lý Rằm tháng hai năm Kỷ Mùi …

Từ mấy chục năm gần đây, Cao Đài rồi Tam Tông Miếu cũng đã ra công phát huy, ra công thừa kế cái tinh thần đạo giáo dân tộc ấy.

Thay vì theo một đạo giáo nào mà thôi, hoặc Phật, hoặc Lão, hoặc Khổng một khuôn, gạn lọc lấy tinh hoa, loại trừ những gì phù phiếm.

Như vậy thiết tưởng Cao Đài chính đã đại diện cho Việt Nam về phương diện tôn giáo. Thế giới ngày nay nếu nói:

Bà La Môn giáo là của Ấn

Phật giáo là của Ấn

Khổng Lão là của Trung Hoa,

Gia tô giáo, Thiên chúa giáo là của Tây Phương,

Hồi giáo là của các nước Ả Rập

thì cũng phải nói:

Cao Đài giáo là của Việt Nam.

Cao Đài lại dùng cơ bút như là một phương tiện truyền đạo giảng đạo, dạy đạo. Và nền văn chương, thi phú cơ bút này đã đóng góp không ít vào nền văn học thi ca, và tư tưởng của nước nhà.

Tôi không dự cơ, nhưng đã khảo cứu rất nhiều cơ bút của Cao Đài, và nhận thấy hết sức là phong phú và có nhiều đoạn hết sức là sâu sắc, thâm thúy. Đó là một hiện tượng văn hóa hết sức là ly kỳ.

Về phía Công giáo, chúng ta cũng đang thấy có nỗ lực lấy các hình thức lễ nghi dân tộc để trang sức, để phục sức cho Công giáo có bộ mặt dân tộc.

Các câu kinh lời hát ngày nay, hoàn toàn bằng tiếng Việt Nam không còn bằng La Tinh hay Pháp ngữ như mấy chục năm gần đây. Rồi cũng hương nhang, rồi cũng chiêng trống, rồi cũng áo mão, nhang đèn, theo kiểu Việt Nam.

Các nhà Công giáo ngày nay cũng thấy bày ảnh cha mẹ, ông bà với hương hoa, đèn nến, cái mà mấy chục năm trước đây được Công giáo liệt vào hàng đại cấm kỵ. Thế mới hay chạy theo bên ngoài mãi, cuối cùng mới lại thấy theo tổ tiên, theo dân tộc là cái gì tự nhiên nhất, cái gì thích hợp với lòng con người nhất. Và rút cuộc vẫn là:

Ta về ta tắm ao ta

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn …

Suy cho đến kỳ cùng , thì lạ lùng nhất là thấy ai ai trong một nước chẳng ít thì nhiều cũng đã đóng góp vào nền văn hóa dân tộc. Người cao thì đóng góp bằng tư tưởng, bằng phát minh, sáng kiến, người thấp thì đóng góp bằng văn nghệ hình thức, người thấp hơn nữa thì đóng góp vào văn hóa mỗi khi có ý gì hay, hành vi gì tốt. Tạo văn hóa, làm văn hóa, sống văn hóa đều là góp phần vào công trình văn hóa thay thảy.

Cũng có thể nói được rằng : những người đóng góp nhiều nhất vào văn hóa dân tộc nhiều nhất chính lại là quảng đại thần chúng. Họ chẳng cần bằng sắc, họ không có quyền thế, địa vị, họ chẳng theo Tàu, chẳng theo Tây, mà chỉ sống hồn nhiên cởi mở, ngẫm nghĩ sao nói năng vậy, vui buồn sao, hò hát vậy. Ay chính vì tự nhiên thế mà lại có năng lực cảm động lòng người. Cái không cầu kỳ nhất lại trở thành cái cao siêu nhất, cái giản dị nhất lại là cái đẹp đẽ nhất.

Ví như câu:

Hỡi cô tác nước bên đàng

Sao cô múc trăng vàng đổ đi?

Không cần biết câu đó là của ai làm, nhưng chỉ thấy nó mộc mạc làm sao mà cũng duyên dáng làm sao, đẹp đẽ làm sao. Trông vào gàu nước đục, không thấy nước đục mà toàn thấy có ánh trăng vàng …

Tóm lại nói đến Văn Hoá Dân Tộc tức là mặc nhiên nói đến sức sáng tạo của dân tộc.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bà La Môn giáo là của Ấn

Phật giáo là của Ấn

Khổng Lão là của Trung Hoa,

Gia tô giáo, Thiên chúa giáo là của Tây Phương,

Hồi giáo là của các nước Ả Rập

thì cũng phải nói:

Cao Đài giáo là của Việt Nam.

Đạo Cao đài không thể là một nét đặc trưng so sánh ngang bằng với Phật, Chúa, Hồi...được, xét về mặt lịch sử, văn hóa và tư tưởng. Nếu ông Nguyễn Tử Thọ có cái nhìn sâu sắc hơn thì đã phải biết Đạo Mẫu (tức Đồn Bóng, Hầu Đồng) mới chính là nét đặc sắc đáng tự hào, bản sắc của người Việt. Vì Đạo Mẫu tồn tại trước cả khi có đạo Phật, có thể ít nhất từ thời Hùng Vương 5000 về trước. Còn nếu không đúng vậy thì ít nhất Đạo Mẫu với sự thẩm đẫm tính cách Việt đã có lịch sử và bề dày hơn Đạo Cao Đài 2500 năm.

Vậy xin mạo muội sửa lại một ít trong công trình nghiên cứu của ông Nguyễn tử Thọ, theo ý cá nhân Thiên Đồng (nếu ai không thích thì thôi):

Bà La Môn giáo là của Ấn

Phật giáo là của Ấn

Khổng Lão là của Trung Hoa,

Gia tô giáo, Thiên chúa giáo là của Tây Phương,

Hồi giáo là của các nước Ả Rập

thì cũng phải nói:

Đạo Mẫu (Đồng Bóng) là của Việt Nam.

Thiên Đồng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xem hết cuôúii cùng chẳng thấy ai làm rõ được nghĩa văn hóa. Nhưng nếu đem định nghĩa về văn hóa của tôi - chưa được khoa học công nhận - thì chí ít nó cũng là một sự hợp lý hơn, tạm sài được so với tất cả sự mù mờ ở trên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay