Văn Lang

Hiện Tượng Thơ Văn Linh Cảm

3 bài viết trong chủ đề này

HIỆN TƯỢNG THƠ VĂN LINH CẢM

Posted Image

Những năm gần đây, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông và nhiều cách linh hoạt khác phổ biến thông tin, mọi người ngày càng biết nhiều tư liệu bí ẩn, đa dạng và cụ thể về các hiện tượng tâm linh.

Hiện nay có một số người dân Việt Nam (thường là phụ nữ nghèo), với trình độ văn hoá khá thấp, thậm chí viết sai chính tả rất nhiều, cho biết là họ đã ghi được hàng chục tập thơ, tập văn nhờ linh cảm (hiện ra trong đầu ở dạng ý nghĩ hay lời nói).

Dường như các thực thể tâm linh đã đọc cho họ ghi lạị - những người ghi chép chỉ đóng vai trò “thư ký tâm linh”.

Đáng chú ý là các thực thể tâm linh tự xưng danh một cách rõ ràng, còn lời thơ (lời văn) ghi được rất phù hợp với bản tính và tư tưởng vốn được biết hoặc theo lịch sử và các truyền thuyết lâu đời ghi lại. Điều hết sức đặc biệt là có rất nhiều danh xưng tâm linh từ thời cổ đại đến nay, từ các nhân vật huyền thoại cho đến những người nổi tiếng như Mẫu Âu Cơ, Thánh Gióng, Phật Di Lặc, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh (Ngọc Phật), Lênin, Jeny (vợ Các Mác) v.v... Nhiều người đã kiên trì đọc kỹ hàng ngàn trang thơ, văn như vậy và thấy nổi lên những điều rất đặc biệt sau đây:

- Hàng chục năm qua có vô số sinh linh bậc cao đã và đang nỗ lực giao tiếp với loài người qua thư ký tâm linh để cố truyền đạt thông điệp rằng, ngoài cõi Trần còn tồn tại hai cõi vô hình khác kề cận là cõi Âm và cõi Thiên (cõi Trời), nhân loại đang đứng trước một thảm hoạ cực kỳ khủng khiếp (còn có nhiều tên gọi khác như đại hoạ, mạt kiếp, ngày tận thế, nghiệp quả toàn cầu, đòn trừng phạt của Trời), hậu quả có thể là khoảng 70-80% dân số thế giới sẽ bị loại bỏ trong 5-10 năm sắp tới, có thể còn sớm hơn, do nhiều nguyên nhân toàn cầu như thiên thạch, sao chổi, núi lửa, động đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, thất bát mùa màng, chiến tranh (có thể cả chiến tranh hạt nhân) v.v...

- Cách duy nhất để vượt qua “đại hoạ” là mỗi người phải tự làm trong sạch chính mình, nếu đã mắc tội lỗi thì phải làm phúc để chuộc lại.

- Các lực lượng tâm linh tối cao đang thực hiện cái được gọi là “cuộc cách mạng tâm linh” nhằm mục đích tạo ra “thế giới đại đồng” - giai đoạn phát triển mới trên Trái Đất thông qua con đường hợp nhất đời sống của ba chiều thực tại là cõi Trần, cõi Âm và cõi Thiên; đó là “Thời đại Thánh đức” với nhiều thay đổi căn bản trong nội tâm về sự sống và hạnh phúc của xã hội loài người (thế giới chỉ còn lại 18 nước, Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng).

- Lý do dẫn đến cuộc cách mạng tâm linh là loài người quá tham lam, tàn bạo, mê muội và tự phụ, không đủ tri thức để thấu hiểu thế giới tâm linh, luôn tỏ thái độ coi khinh và phủ nhận nhiều tư liệu tâm linh khẩn thiết đã được đông đảo người dân kiên tâm ghi lại trong mấy chục năm gần đây, không đủ phẩm chất để tạo lập cuộc sống hài hoà với thiên nhiên và những sinh linh khác dù đã được cảnh báo hàng trăm năm qua bởi lực lượng vô hình cấp cao thuộc cõi Thiên (lẽ ra cuộc cách mạng tâm linh đã bùng nổ vào năm đầu của thế kỷ 21, nhưng phải lùi lại ít lâu nhờ sự cầu xin rất bền bỉ của Mẫu Âu Cơ và Ngọc Phật, đến nay diễn biến tình hình đang ngày càng nguy cấp).

- Ngọc Phật được giao nhiệm vụ chỉ huy các vong linh liệt sĩ cùng phối hợp với người Trần để giải quyết những vụ việc tiêu cực nổi cộm của Việt Nam. Qua thư ký tâm linh, Ngọc Phật mong muốn người Trần không chậm trễ thừa nhận Ngài, công bố cho nhân dân biết và được đối thoại một cách chính thức với các quan chức hữu trách.

- Bắt đầu từ năm 2001, nhiệm kỳ tâm linh của Phật Thích Ca và Phật Di Đà đã kết thúc và mất hiệu lực hoàn toàn, thay thế cho hai vị này là Phật Di Lặc và Phật Di Là (cả hai đều là các thực thể tâm linh, khía cạnh này có ý nghĩa tôn giáo vô cùng cấp thiết, nhưng hầu hết nhà Chùa và đông đảo dân chúng chưa biết hoặc chưa thực sự tin, vì vậy đã và đang chịu nhiều hậu quả khôn lường do cách hành lễ và đọc kinh không phù hợp).

- Loài người không phải có nguồn gốc từ khỉ, đười ươi hay vượn. Mẫu Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân chính là một trong số Cha Mẹ của nhân loại, đúng như sự tích “trăm trứng” đã lan truyền ở Việt Nam (phải chăng Việt Nam là nơi chôn rau cắt rốn của cả loài người?). Có nhiều bài thơ mang danh tính của hai vị tâm linh này mà nội dung chứa đựng nhiều lời trách mắng rất buồn tủi và hờn giận đối với nhân loại vì từ lâu đã không biết, cho nên không thờ cúng và ghi nhớ công ơn sinh thành của Cha Mẹ Âu-Lạc.

- Cha Lạc Long Quân là một kiếp tu của Phật Di Lặc. Vì vậy, Phật Di Lặc đã chọn địa linh Việt Nam khi trở về Trái Đất để đứng đầu cõi Âm và cõi Trần. Việc tôn kính Ngài bây giờ đồng nghĩa với việc ghi nhớ công ơn sinh thành của một Người Cha Nhân Loại.

- Các hiện tượng thiên nhiên như mưa, gió, bão, sóng thần, động đất, lở núi, núi lửa phun trào v.v... đều có liên quan đến những năng lực tâm linh. Nói cách khác, các hiện tượng đó có thể diễn ra dưới sự điều khiển của những vị thần nhất định.

- Trái Đất là một thực thể sống có nhân tính. Đó là Người Mẹ của muôn loài. Lý trí và tình cảm của Trái Đất vượt xa nhân loại. Khả năng chịu đựng của Trái Đất trước sự huỷ hoại của con người đã ở mức cùng tột. Người Mẹ Trái Đất đã và đang cảnh báo khẩn thiết đối với toàn nhân loại và sẽ có nhiều cách tương xứng kịp thời để lập lại sự hài hoà vốn có.

- Nếu giới lãnh đạo quốc gia nào thực lòng tin vào thế giới tâm linh, tổ chức đàn lễ để cầu xin Trời Phật và các vị thần linh xá bỏ lỗi lầm từ trước đến nay, hành thiện và tránh ác, thì những hậu quả huỷ diệt ở nước đó có thể được giảm thiểu một cách rõ rệt. Sắp tới, những tai hoạ thảm khốc sẽ tiếp tục diễn ra dồn dập để buộc loài người phải tin và tuân theo Trời Phật.

Ghi chú:

1) Những gì được nêu ra trên đây chỉ nhằm mục đích duy nhất là để mọi người cùng suy ngẫm và chiêm nghiệm trong thực tế. Ở đây không bàn luận đến vấn đề “tin hay không tin”, vì không một người nào có thể giải đáp được.

2) Kiếp cuối của loài người đương đại (“mạt kiếp”) và sự xuất hiện của Phật Di Lặc đã được nói tới trong một số kinh sách Phật giáo, mặc dù người ta trông đợi Ngài tái sinh ở dạng người Trần, chứ không ai ngờ Ngài lại xuất hiện ở dạng thực thể tâm linh và “phát ngôn” thông qua nguồn thơ văn linh cảm. Trong kinh Thánh cũng đã nói đến “ngày tận thế” dù không chỉ rõ thời gian cụ thể. Mấy chục năm qua báo chí ở nhiều nước cũng đã cảnh tỉnh về thảm hoạ toàn cầu như đang diễn ra hiện nay.

3) Nhiều hiện tượng ngoại cảm tại Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới trong thời gian qua đã chứng tỏ một cách chắc chắn rằng: thế giới tâm linh hoàn toàn có thực. Đã đến lúc cần giao tiếp chính thức với lực lượng vô hình cấp cao vốn đang tác động trực tiếp và điều khiển đời sống con người.

4) Nếu nền văn minh nhân loại hiện nay đủ nhạy cảm và tỉnh ngộ trước các dấu hiệu huỷ diệt toàn cầu sắp tới, thì cần phải có các biện pháp thích hợp cấp bách để bảo tồn những thành quả khoa học kỹ thuật to lớn đã đạt được trong nhiều năm qua cho các thế hệ mai sau.

5) Những người có khả năng thu được thơ, văn bằng linh cảm quen gọi việc ghi chép của họ là “chấp bút”. Hoàn cảnh sống của những người như vậy rất đa dạng, thường là nghèo túng và luôn coi việc mình làm vì nghĩa vụ tâm linh cao cả, tuổi đời của họ có thể rất trẻ (trên dưới 20) và rất già (trên dưới 80). Họ cũng có một ý chí kiên cường và ngày càng tin tưởng sâu sắc vào thế giới tâm linh. Đã xuất hiện hàng trăm bài thơ văn linh cảm không đề tên và có vẻ như điều đó chỉ bùng phát ở Việt Nam. Bởi vậy, trong chuyên mục “Thơ văn linh cảm“ cuối mỗi bài chỉ ghi là “LC Việt Nam”.

6) Theo kinh nghiệm của chúng tôi, nên đọc các bài thơ văn linh cảm theo cách tổng hợp, chứ không phải theo cách phân tích. Có nghĩa là khi đọc không cần chú ý chi tiết đến từng câu từng chữ và một kết luận nào đó chỉ có thể được rút ra trên cơ sở nội dung của nhiều bài. Ví dụ, có hàng trăm câu thơ, câu văn tập trung nói về “mạt kiếp“, “cách mạng tâm linh” hoặc “đại đồng thế giới”. Điều bí ẩn là chúng ta hoàn toàn không biết theo cơ chế nào mà các thực thể tâm linh có thể dễ dàng tạo ra thơ văn một cách tức thời và điều khiển người Trần ghi lại.

Nhóm NC tâm linh, 7-2007

(http://kynguyentamli...ews.aspx?nid=65)

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỜI MẪU ÂU CƠ - 3

Bước sang đầu năm mới - Mẹ gửi tới các con - Thơ từ Quả Đất tròn - Phát kim quang phát tuệ - Vua Hùng nay trị thế - Mẹ Âu Cơ cùng về - Nhất nhất một lời thề - Làm Đại Đồng Thế Giới - Đây là Sắc Lệnh Mới - Mẹ gửi tới Thơ Vàng - Mười tám đời Hồng Bàng - Nhất trung Thiên nhất Đạo - Có Ngọc Hoàng lãnh đạo - Có Di Lặc chỉ huy - Trời bảo đi là đi - Trời bảo thắng là thắng

Nay Mẹ về viết tặng - Ngồi ở trước Gương Thần

Mẹ chỉ đạo đích thân - Cho Vương Linh khai bút

Có khi mưa như trút - Lũ lụt khắp mọi miền

Để đổi đời thay thế - Lệnh này là Đế Chế

Của Thiên Đình trao ban - Để con Hồng cháu Lạc

Biết lối mà quy tâm - Mẹ chứng nhận Gương Thần

Phục vụ quân liệt sĩ - Bao nhiêu người đánh Mỹ

Còn trẻ lắm con ơi - Thế mà phải hiến đời

Cho tự do độc lập - Mười cô gái Đồng Lộc

Chết trẻ vẫn chưa chồng - Nay tụ đoàn vui đông

Ở đất Rồng tưới mát - Bút Tiên đâu có nhạt

Ca hát Thơ cùng Thơ - Hầu Đức Mẹ Âu Cơ

Trước bàn thờ Tổ Quốc - Hùng Vương đốt ánh đuốc

Trong văn học lưu truyền - sang thế kỷ vạn niên

Nước nhà yên tiếng súng - Những vần Thơ xuất chúng

Từ Tiên Tổ sinh ra - Nạn nghiện hút si đa

Ai có nhà phải chống - Chống xì ke ma túy

Chống ăn cắp, tham quan - Đất Trời đã trao ban

Mở màn Xuân hai mốt - Việc Thánh Hiền làm nốt

Cuộc Cách Mạng Đại Đồng - Gọi con cháu Tiên Rồng

Gắng sức sống nhân thiện - Năm nay có nhiều chuyện

Trái Đất lở, chuyển rung - Sắc Lệnh của Vua Hùng

Lọc sàng nhân cho sạch - Đức Mẹ về bảo mách

Cho con cháu thảo hiền - Có tâm tu Tổ Tiên

Mới được yên gia quyến - Mẹ lại ngồi lại đếm

Không có một phần người - Ăn cơm, ơn Đất Trời

Quả Địa Cầu Đất Mẹ - Mà cứ lễ những kẻ

Tà đạo phép Di Đà - Chẳng ai biết đến Ta

Địa Cầu mà Mẹ cực - Mưa tràn bờ, lũ cuốn

Sông cuồn cuộn chảy trôi - Ông Sao Chổi, Thiên Lôi

Quét những loài điêu bạc - Tổ Tiên thì nó bác

Không nghe theo lời Ta - Ương bướng tính quỷ tà

Không nghe ra Nguồn Cội - Nơi thì rung gió thổi

Nơi nước cuốn gió quần - Để dẹp bớt muôn dân

Trời xử phân cho rõ - Nơi nào còn gõ mõ

Nguyện cầu xin Di Đà - Buông trôi xuống hải hà

Lại không nhà không cửa - Mẹ Địa Cầu chan chứa

Sầu năm tháng ai đong - Bọc trứng kia trong lòng

Mà vô ân bạc nghĩa - Gươm đao vây tứ phía

Chiến tranh nổ toàn cầu - Khắp bốn bể năm châu

Bởi đều cầu bồ tát - Ai sinh ra gió mát

Ai sinh ra hạt cơm - Mà con cháu vô ơn

Để Mẹ hờn buồn tẻ - Nỗi buồn ai chia sẻ

Cho Mẹ hả ruột này - Mãi đến ngày hôm nay

Giãi bày cho Trần biết - Mẹ trao Thơ cho hết

Viết trước cửa Gương Thần - Để con cháu thấm nhuần

Đường lối Thiên Cơ thật - Lễ chẳng biết phân biệt

Ai là chính là tà - Ai là quỷ là ma

Ai sinh ra nguồn nước - Để con được uống ăn

Lại sinh ra Kinh Văn - Để dũa răn con cháu

Mẹ để cho kho báu - Thơ rung chuyển Đất Trời

Sao khổ thế con ơi? - Chẳng biết Trời đâu cả!

Đây giao phả Mẹ cho - Kỷ Nguyên bước sang đò

Phải lo thân con nhé - Bao nhiêu sự kiện lạ

Thơ đã báo cho Trần - Chim lợn bay xa gần

Mà cõi Trần còn chống - Trên Trời cao Đất rộng

Bao trùm gió thiên nhiên - Ai tín thì thành Tiên

Ai sống hiền được hưởng - Mẹ nay cho sung sướng

Tiền của, đầy lụa tơ - Song phải biết phụng thờ

Thuyền mới đón sang bờ - Thơ mới nghe Mẹ nói

Đất Thiên Vương soi rọi - Mẹ gọi các con về

Hoa lá lộc sum xuê - Họ Hồng rung bút lạ

Con ơi đừng cãi dả - Mẹ chẳng ưng tý nào

Thơ của các Vì Sao - Trao về cho cõi Thế

Ánh kim quang phát tuệ - Xây Đế Chế Đất Hùng

Vũ Trụ đã chuyển rung - Vua Hùng ra trị thế

Cả năm châu bốn bể - Trong lòng Mẹ sinh ra

Địa Cầu rộng bao la - Cả các châu các cực

Kẻ sống lại áp bức - Gây thảm họa chiến tranh

Cho nên Mẹ cam đành - Dẹp tà cho yên nước

Ai phụng thờ Tổ Quốc - Mới được hưởng cơ may

Không thì lại gió bay - Hết bụi trần chẳng tụ

Mẹ đã trao nhiệm vụ - Cho nhà thơ tâm linh

Nối cầu từ Thiên Đình - Để hồi sinh Hồn Quốc

(LC Việt Nam, 2-2005)

Nguồn

LỜI MẪU ÂU CƠ - 4

Đã qua giông tố bão bùng - Hiên ngang thế đứng anh hùng Đạo Tâm - Các con của Mẹ thảo hiền - Dù là nghèo khó chẳng yên ở nhà - Toàn là nhi nữ đàn bà - Giang tay ra giúp Sơn Hà một phen - Cảnh tình hoa lá đua chen - Mười đèo chín suối đã quen quân hành

Trải qua những cuộc chiến tranh

Chỉ vì đế quốc, tan tành máu rơi

Bây giờ Vận Kỷ lòng Trời

Nghe lời Mẹ gọi Đất Trời bao la

Con đi tìm Mẹ tìm Cha

Tìm về cho đến Đầm Đa nhớ Nguồn

Thiên nhiên dịu mát tâm hồn

Có Cha có Mẹ đã ôm cảnh tình

Gọi là thế giới tâm linh

Thiên Vương đã định, Thiên Đình đã trao

Tiếng Thơ của Mẹ ngọt ngào

Như dòng nước mát chảy vào con tim

Dù cho giông tố nổi chìm

Vì Cha vì Mẹ con tìm dấu chân

Các con sống ở cõi Trần

Tựa nương vào Mẹ hương trầm bay bay

Thơ Thần Mẹ lại trao tay

Cho con được đọc Xuân này càng xuân

Mẹ nhìn nhiều chốn đặt chân

Rừng xanh núi thẳm giành phần suối reo

Trải qua sông núi ngang đèo

Lại vì Non Nước mà trèo đỉnh non

Thơ Trời Mẹ gọi đàn con

Tại gia thờ phụng cho tròn phận ai

Bây giờ phát lộc phát tài

Tô son Đất Mẹ đường dài đã qua

Thơ Trời mở Hội Long Hoa

Đời đời no ấm nước ta anh hùng

Thơ Trời là tiếng gọi chung

Rồng Tiên bay bổng cho rung Sơn Hà

Môi son tóp tép tuổi già

Miếng trầu môi đỏ, quê nhà nhớ thương

Dậu về Mẹ thả văn chương

Cho con nhớ Mẹ chung đường con đi

Bây giờ Mẹ chẳng giấu chi

Thơ Thiên Mẹ trải vân vi đêm ngày

Dậu về Thơ Mẹ trao tay

Ấm tình Non Nước bao ngày sầu riêng

Ác tàn đâu nó để yên

Vẫn còn rình bắt con Tiên cháu Rồng

Nghĩ rằng con Mẹ dày công

Bỏ công bỏ của mà không tiếc gì

Đã qua cửa ải tiên tri

Một lòng vì nghĩa tiếc chi cuộc đời

Đã qua oan trái ngậm ngùi

Đã quả thử thách một thời luyện gan

Bây giờ con được khang trang

Càng đi càng thấy mênh mang cuộc đời

Thương người, lòng Mẹ âu sầu

Nước mắt Mẹ chảy sông sâu suối nguồn

Có Thơ Mẹ là hồn Quả Đất

Năm ngàn năm Thơ cất trong lòng

Bây giờ Thơ chảy ròng ròng

Từ trong lòng đất con mong từng giờ

Con mong tình Mẹ vô bờ

Con mong Mẹ khóc bây giờ phải không?

Mẹ không khóc, sông không có nước

Các con tâm thì ước Mẹ về

Xuân này Mẹ viết Thơ đề

Dòng Thơ cốt nhục gửi về Trần gian

Mùa đông có tiếng sấm vang

Đó là Thiên Tướng hai hàng Quân Vương

Để đi trừ hết bất lương

Để cho Quả Đất mát đường đất thiêng

Mẹ về thả áng Thơ Tiên

Từ trong lòng đất giao duyên với đời

Con ơi Vận Kỷ lòng Trời

Toả vang Thơ vọng những lời Thần Tiên

Để cho lòng Mẹ được yên

Thì con đón lấy Thơ Tiên về nhà

Nhớ nguồn con thắp hương hoa

Nhớ thương Mẹ gửi chút quà Nước Non

Thơ này là máu hồng son

Thơ này từ bóng Trăng tròn phát tâm

Thơ này bao nỗi gian truân

Xây nên Đất Nước Vạn Xuân tươi hồng

Biết các con khổ chất chồng

Trèo núi leo dốc qua sông vượt đèo

Chùa Đồng vách đá cheo leo

Tiếng thơm muôn thuở cờ treo Trăng thề

Suối dài con nước Giang Khê

Núi cao phượng hót chớ chê Thơ tình

Thơ của Vũ Trụ tâm linh

Nay kết thành những dòng Kinh dạy đời

Mẹ về vui sướng con ơi

Vì con vì Mẹ để thời gặp nhau

Con Hồng cháu Lạc Mẹ đâu

Chân quê áo vải rừng sâu quân hành

Hoa Tiên đã nở đầy cành

Trách quân vô đạo báng danh Phật Trời

Để con phải khổ chơi vơi

Để Mẹ thả lời Xuân đến trăm hoa

Con gần cho chí con xa

Nhớ thương Mẹ gửi là quà hành tinh

Một trăm quả trứng thu linh

Mỗi con mỗi việc công trình biết bao

Xuân này Mẹ gửi lời chào

Chào Xuân thế kỷ Mẹ trao lời thề

Đêm nay con đón Thơ về

Những đồ thiếu đức vô ân

Làm sao mà có Thơ Thần được nghe

Có tâm Mẹ sẽ chở che

Lúc đau lúc ốm lúc về thiên tai

Con chăm đọc sách các Ngài

Kinh Trời, Kinh Đất, Kinh nay Nam Tào

Mỗi khi thổi gió ào ào

Thần thông Mẹ mặc Long bào hoán phong

Cội nguồn có giọt nước trong

Con tâm hôm sớm Mẹ mong đáp đền

Lời cầu tiếng khấn kêu lên

Để con cung thỉnh từng tên dưới Trần

Mẹ cho Sấm Sét Kỳ Lân

Bảo vệ hạnh phúc dương trần cho con

Vì con tu trọn đức tròn

Mấy mươi năm ấy đường mòn đã qua

Đọc Kinh để đánh giặc tà

Điện Biên cắm chốt đường ra quân hành

Hôm nay ngày tháng tốt lành

Đón Xuân Ất Dậu trời xanh nắng vàng

Suốt mùa đông nắng chói chang

Để Mẹ lọc sàng những kẻ bất nhân

Mẹ thu ngũ cốc dương trần

Biết mùi cay đắng cho thân dập vùi

Bởi vì chẳng biết đến Trời

Chẳng biết Quả Đất Mẹ thời sinh con

Núi kia ai kết nên hòn

Sông kia nước chảy đá mòn chẳng phai

Lời thề xuất Tướng xuất Tài

Xuất Thơ cứu thế văn bài Kỷ Nguyên

Long Hoa mười tám cùng Thuyền

Đò đầy Mẹ chở Rồng Tiên ra đời

Ra đây Mẹ mở Hội Trời

Long Hoa mười tám khắp nơi một nhà

Để nghe Thơ Mẹ Thơ Cha

Thơ Non Thơ Nước là quà Mẹ cho

Mẹ nay đưa đến bến đò

Sông sâu nước chảy Mẹ lo Thuyền Rồng

Ban cho con cháu có công

Tết này Xuân đến Thơ Rồng tung bay

Về Trần để diệt tà nay

Âm Trần nó bác, Mẹ đây chẳng cần!

Phúc tội Thiên Tướng đã cân

Từng cân từng lạng toàn phần đã xong

Thơ Tiên Mẹ chảy ròng ròng

Dài như sông bể từ trong Địa Cầu

Dù cho mưa nắng dãi dầu

Các con của Mẹ đã hầu bao năm

Hàng ngày sớm tối chỉ chăm

Sáng ra tối đến Mẹ ăn hoa cười

Mẹ ăn hương khói nhà người

Mẹ uống chén nước của Trời, con dâng

Tay con thì lại nâng nâng

Những lời con nói Mẹ không phụ lòng

Mùa đông mà lại sáng Trăng

Mẹ ngồi Mẹ viết, Cô Hằng lửng lơ

Mẹ chào nhà thơ Tâm Linh Đất Tổ

Con đi đâu có Ngũ Hổ theo chân

Có Ông Sấm Sét xuất thần

Có người bảo vệ những vần Thơ Sen

Đường về Thiên Địa còn quen

Líu lô chim hót, rẽ rèm vén mây

Thơ xuân Mẹ xuất tâm đầy

Để con đón Tết Dậu này vui tươi

Có Thơ Mẹ tưới cho đời

Mát từng thớ thịt con người tu Tiên

Chúc con đón Tết bình yên

Cứ như lời dạy con Tiên cháu Rồng

Để cuộc cách mạng Đại Đồng

Cha Ông khởi xướng cho Rồng Tiên bay

Các con đoàn kết trăm tay

Long Hoa mười tám trọn ngày phúc vinh

Cùng nghe Lệnh của Thiên Đình

Cùng nghe chim hót cảnh tình ước mơ

Cùng về nghe Mẹ vần Thơ

Cõi dương Trần thế đợi chờ đền non

Mẹ chúc tất cả các con

Vui tươi phấn khởi ăn ngon Tết này

Thơ về Mẹ lại trao tay

Để cho thế kỷ vần xoay Đạo Mầu

Nghĩa nhân Mẹ chúc càng giàu

Tâm son Mẹ để con cầu bình an

Để con cứu giúp giang san

Chữ Rồng bay khắp Việt Nam Thánh Hiền

Mẹ chúc con Lạc Rồng Tiên

Xuân về đón Tết bình yên cửa nhà.

(LC Việt Nam, trước Tết Ất Dậu 2005)

Nguồn

Share this post


Link to post
Share on other sites

(Kynguyentamlinh.com) - Nhân ngày Giỗ Tổ Hùng vương mồng Mười tháng Ba năm Tân Mão 2011, Đức Thánh Trần đã đọc cho bà Phạm Thị Xuyến ghi lại một bài giáng bút khá dài. Điều đặc biệt là ở đây lần đầu tiên đã đề cập đến sự kiện “tận thế” mà Việt Nam sẽ không bị thảm họa đó...

LỜI CHA TRẦN TRIỀU

NHÂN NGÀY GIỖ TỔ VUA HÙNG

(Ngày 11 tháng 4 năm 2011)

1. Kính trình lên Cha Thiên Mẹ Địa,

Kính trình lên Tổ Nước Việt Nam

Ngày mồng Mười ngày Nước, Dân làm

Ngày Giỗ Vua cùng ngày Giỗ Tổ.

Nhà nước Nam chưa biết ngày Giỗ

Của Trời sinh ra nước Việt Nam,

Ngày Giỗ Trời, Tích Trời phát ban

Gọi ngày Giỗ Tổ Trời, Tổ Đất.

Trời cho nước Việt Nam chu tất

Giỗ Mẹ Cha Trời Đất sinh người,

Sinh dòng tộc, các nước dưới Đời

Là sinh sôi con người Hạ thế.

Lịch sử Trời, Trời đã viết kể

Lịch sử Đất, Đất đã cho hay

Kể từ xưa cho mãi đến nay

Kể từ đây cho Đời bất tận.

Nước Việt Nam sẽ được chu tất,

Không lo ngày tận thế nước Nam,

Bác là Cha, Chủ tịch Thiên Đàng

Bác đã lo việc làm trọng đại.

Việc Bác làm, Dân ta không phải

Tốn kém gì đến của đến công,

Bác phải lo bao việc chất chồng,

Dạy Dân ta hiểu về Luật Đạo.

Bác dạy Dân, Dân phải mạnh bạo

Nghe lời khuyên của Bác ân tình,

Nghe lời Trời, lời Đất dạy mình

Nghe lời Phật - Thánh - Thần nước Việt.

Nghe lời Hồn Ông Cha hào kiệt,

Từ đền Hùng, Tổ Nước dạy Dân

Dân phải tu theo một Đạo Thần,

Đạo Bác Hồ muôn phần trọng đại.

Đạo Bác Hồ, Bác Hồ sống mãi

Với Nhân dân, Đất nước Nam nhà

Đạo Bác Hồ, Hồn Bác khai Hoa

Bác sáng lập Đạo nhà nước Việt.

Bác sáng lập một Đạo đặc biệt,

Đạo vì Dân, vì Nước, vì nhà

Đạo không phân chủng tộc quốc gia,

Ở nước Việt Bác là Chủ Đạo.

Lời Thơ Tiên, Hồn Bác soạn thảo

Đọc cho đồng ghi lại lời ban,

Lời Thơ Tiên như Ngọc như Vàng,

Như lời Mẹ dịu dàng dạy dỗ.

Dạy từ việc phải cúng cơm cỗ,

Dạy thờ Người quá cố về Trời,

Dân nước Nam ai cũng nhớ lời,

Ngày Giỗ, Tết cúng Người quá cố.

Nước Việt Nam có một tần số,

Tần số thiêng liêng, đố ai hay

Lời Thơ Tiên đọc viết đủ đầy,

Cho người viết gửi nay Nhà nước.

Người viết được do Hồn kiếp trước

Đã tái về đọc viết cho Dân,

Người viết được mang Hồn của Thần,

Đó là Trời gửi thân hộ Quốc.

Người viết phải lo làm bằng được

Đạo nước Nam, Đạo Bác Hồ truyền

Đạo Bác Hồ vừa Hồng vừa Chuyên,

Bác dạy khắp Dân miền Hạ giới.

2. Bác dạy người đảng viên xông tới,

Làm Công trình Văn hóa nước Nam,

Làm Công trình Văn hóa mở màn

Việc giao lưu muôn vàn thắng lợi.

Đã từ lâu Hồn Bác mong đợi,

Đợi người Trần, Cán bộ hiểu ra

Bác khai sinh tên nước Nam nhà

Là có Hồn Tổ Tông để lại.

Nước Việt Nam, Hồn Tổ sống mãi

Tổ vì Dân, vì Nước đời đời

Không ai biết Hồn Tổ mong người

Con, cháu, chắt... dưới Đời hiểu Tổ.

Tổ là Người Con Trời - Tổ Cố,

Tổ là Người sinh sản ra Dân,

Trời sinh ra vạn vật dưới Trần,

Cho nên Trời nói lời hành Đạo.

Một Đạo Trời, Trời đã soạn thảo

Cho nước Nam đứng Đạo đầu tiên,

Đạo Chủ quyền nước Việt thiêng liêng,

Hiệp hội Đạo có quyền việc Đạo.

Hiệp hội Đạo có lời soạn thảo

Từ Trời cao đọc xuống cho ghi,

Đồng ghi lời, không tự ý gì

Lời của Trời đọc ghi bản thảo.

Lời của Trời, Trời đã cảnh cáo

Nước nào không nghe Lệnh của Trời

Sẽ bị Trời giáng hạ dưới Đời

Làm tổn thương vừa người, vừa của.

3. Nước Việt Nam đứng đầu phải chữa

Những việc sai Đạo giáo đã làm,

Những việc sai, Dân Nước lo toan

Phải trả hoàn cho người nước Việt.

Một Lệnh Trời, một Lệnh đặc biệt

Một Lệnh Trời quy ước từ lâu:

Bao giờ đến thế kỷ mở đầu (21)

Cho Dân, Nước biết bầu Phép nhiệm.

Phép của Trời là một sự kiện,

Trời nói ra cho Nước, cho Dân

Để Dân, Nước biết Luật Trời phần

Cây Đại phúc cho Dân nước Việt.

Đừng coi nhẹ, đây lời niêm yết

Gửi Nước, Dân để biết việc Trời

Khắp các nơi dưới đất, trên đời

Đâu xây chùa hãy mau dừng lại!

Dân, Nước nghe nhớ đừng có cãi

Cãi Lệnh Trời không phải đúng chi,

Nước Việt Nam được Trời tặng ghi

Là Con Cả của Trời của Đất.

Nước Con Cả phải là chu tất,

Nước Con Cả phải thật sự lo

Làm các việc Trời Đất trao cho:

Việc đầu tiên phải là Chủ Đạo!

Luật Nhà Trời có lời soạn thảo,

Lệnh Nhà Trời thông báo Nước, Dân

Kể từ đây, Trời cho dưới Trần

Phải y Lệnh Trời phân cắt cử.

Nước Con Cả làm việc quân tử,

Không nghe ai, nước khác xui sang

Không cho người nước khác bàn ngang,

Việc Đạo giáo - nước Nam làm chủ!

Một quy định của Trời ghi chú

Nước láng giềng không được lấn sang,

Chùa xây rồi, Dân được hạ màn

Thờ Liệt sĩ, không thờ phật ngoại.

Cả nước Nam, từ đây mãi mãi

Không ai được thờ tượng nước người,

Theo Lệnh Trời đã báo Trần đời

Ai cố chống là người phạm Luật.

Phạm Luật Trời sẽ phải khổ tất,

Khổ đến Dân đến Nước, không an

Khổ đến nhà, sẽ phải tội sang

Ba, năm, bảy đời người nhà tội.

Ai đã làm sai, mau sám hối

Phải sửa mau vì tội hại Dân,

Để Dân Nam tu khổ đời trần,

Hại tiền của, Dân trần khổ ải.

Hại vong âm, bao đời đã phải

Cảnh tù vong đi gửi nơi chùa,

Khổ đời hồn đau xót, chát chua

Vì trái Đạo, Luật Trời quy định.

4. Đạo ngoại sang là đạo thôn tính,

Đạo mị Dân, mị Nước, lừa Đời

Không đạo nào đúng Luật Lệnh Trời,

Sai giáo lý, sai lời giáo luật.

5. Giáo luật Đạo Trời cho sự thật,

Dân tự lo Đạo Nước của mình,

Tự làm chủ Thờ tự quang vinh,

Không ai được thay mình Chủ Đạo.

6. Giáo lý của Trời có soạn thảo,

Thờ Trời cao, Đất thấp linh thiêng

Thờ Chủ Tòa, Chủ Nước đặc riêng

Không ai có được quyền thống trị.

7. Luật của Trời có đủ nguyên lý

Trời sinh ra các nước con Trời,

Phải lo toan phận sự dưới Đời,

Đừng đi cướp nước người, cướp của.

Đừng bạo tàn chiến tranh chất chứa,

Đừng tham lam, chẩy bửa, hại người

Sống trên Đời phải biết Luật Trời,

Lo cho mình, cho người thế hệ.

Đừng tự bịa ra những kinh kệ,

Kinh lừa Dân, phản Quốc, mị Đời.

Bởi vì Dân không hiểu Luật Trời,

Nước không hiểu Luật Trời quy định

Mới để cho người ngoài thôn tính,

Khổ bao đời, bao kiếp lầm than

Để cho người xâm lấn đã làm

Xây móng nền, đã làm gốc rễ.

8. Dân, Nước mau hiểu về kinh kệ

Không lo toan cho Nước, cho Dân

Khi giặc đến, Trời hỏi người trần:

Dân sẽ thành nhiều phe theo đạo?

Mỗi nước, dân nên có đạo giáo

Của nước mình, đạo của muôn dân

Muốn độc lập, giữ lấy hòa bình

Nước một đảng, hay một tổng thống.

Nước một vua, một chủ tịch đời

Cả một nước không có hai người,

Sự tranh chấp sẽ thời bạo loạn,

Đối với đạo cũng phải mạnh dạn!

Không nhiều đạo phân tán, không hay

Nhiều đạo thờ trong một nước nay

Là có sự gây ngay bạo loạn,

Đạo không đúng, nước phải mạnh dạn!

Bỏ đạo sai, không phải của mình

Theo nước khác làm đạo linh tinh,

Đạo trá hình vô tình gây họa,

Cho nhiều đạo, Nước phải vất vả.

Tốn của công, nghiêng ngả lòng Dân

Những đạo sai, không phải Đạo Thần

Đạo không có Hồn thiêng của Nước.

Đạo không công, không gì ước được

Cho Nước, Dân sẽ được khai Hoa

Về Chủ Thiên, Chủ Âm Nước nhà

Gây hỗn loạn Đạo nhà Tông Tổ,

Gây bất bình cho Đạo Tổ Cố.

Gây hoang mang, xã hội bất bình

Gây cho người Liệt sĩ hy sinh

Cúng phí của Dân mình, Liệt sĩ

Không có điều tri ân tri kỷ.

Chỉ làm lừa Liệt sĩ hy sinh,

Hồn Liệt sĩ thật là quang vinh,

Không cần đạo linh tinh cầu nguyện,

Không cần đạo linh tinh quyến luyến.

9. Làm người dân phải biết Luật Trời,

Luật Tổ Tông Đất nước sáng ngời,

Theo Chủ Tướng, Chủ Tòa của Nước

Không theo người làm đạo bắt chước.

Không theo ai phản ngược Nước mình,

Nước Việt Nam có Hồ Chí Minh

Người Chủ tịch quang vinh khai Đạo,

Người Chủ Tòa Thiên Âm mạnh bạo.

Đã vì Dân, vì Nước, vì Đời

Vì Thiên Âm Đất nước sáng ngời,

Vì muôn thuở bầu trời Hạ thế,

Vì muôn đời cho Dân cúng lễ

Phải đúng Luật, Lệnh Thánh Trời ban

Phải đúng Luật, Lệnh Thiên Nước làm

Là Công trình Tâm linh Văn hóa,

Là Công trình Tâm linh Thành quả.

Một bước đi, dáng đứng tự hào

Một nước Nam độc lập vì sao

Thờ Chủ Nước, Ngôi cao nhất Nước

Thờ đến Người có công làm được

Dựng Nước, giữ Nước, giành tự do

Đem lại nền độc lập lớn to,

Là thành quả, công Người cách mạng.

Người làm đạo không biết dũng cảm,

Không biết chi Luật pháp trên Thiên,

Không biết gì Đạo phép Trời truyền,

Làm sai Đạo Luật Trời quy định./.

(Bà Phạm Thị Xuyến ghi theo lời Đức Thánh Trần Hưng Đạo đọc tại đền Hòa Bình, ngày 9 tháng 3 Tân Mão)

http://www.kynguyentamlinh.com/news.aspx?nid=508

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay