Thiên Luân

Bí Ẩn Chữ Viết Thời Hùng Vương

3 bài viết trong chủ đề này

Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương

(VTC News) - Ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa, phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu.

Để chứng minh thời kỳ Hùng Vương đất nước ta có chữ Viết, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền đã đến hàng trăm đền, đình, miếu để khảo cứu. Càng tìm hiểu, ông càng ngạc nhiên khi thấy khắp đất nước ta, có cả trăm đền, miếu thờ thầy giáo, học trò.

Ông đã đi khắp các tỉnh, từ Đông Bắc sang Tây Bắc, đi hết miền Trung để mục sở thị các di tích, ghi chép lại, lập bản đồ mạng lưới dạy học thời Vua Hùng, trước khi người Hán sang xâm lược.

Posted Image

Ông Xuyền (bên trái) trao đổi với các nhà nghiên cứu của Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam. Ảnh nhân vật cung cấp.

Trong quá trình khảo cứu, tìm tư liệu, ông Xuyền may mắn tiếp cận được những tài liệu mà người Pháp thu thập trong cuộc tổng kiểm kê các di tích, làng xã vào năm 1938. Rồi các công trình như: Thần linh đất Việt, Các nữ thần Việt Nam, Các nữ tướng của Hai Bà Trưng… Ông Xuyền đã tìm thấy cả trăm di tích nói về thầy, trò, lớp học.

Theo đó, mở đầu của nền giáo dục trước khi Hán xâm lược, là thời Hùng Vương thứ 6 và kết thúc là thời Hai Bà Trưng với thầy Đỗ Nam Tế, cô Tạ Cẩn Nương, thầy Lê Đạo, sư bà chùa Phúc Khánh… Có điều lạ là, vào thời kỳ đó, có rất nhiều cô giáo và học trò nữ, chứng tỏ, thời Hùng Vương, nam nữ rất bình quyền.

Tại đền thờ Lỗ Công ở thôn Bồng Lai (Từ Liêm), còn một tấm bia cổ ghi rõ: Thầy giáo Lỗ Công dạy học ở Kinh Thành (Văn Lang). Học trò của thầy Lỗ Công là Hoàng Trụ, con của công chúa Mỵ Châu Hoa (con gái Hùng Đinh Vương, Vua Hùng 16). Hoàng Trụ biết chữ, về thôn Bồng Lai mở lớp, dạy học. Do có công với dân làng, nên dân làng lập đền thờ phụng.

Posted Image

Bản đồ mạng lới đền, miếu thờ thầy cô, học trò thời Hùng Vương do ông Xuyền lập.

Sau khi phát hiện hàng trăm thầy, cô, học trò thời Hùng Vương (với ghi chép cụ thể, đầy đủ), thầy giáo Đỗ Văn Xuyền khẳng định rằng, thời Hùng Vương, đất nước ta đã có chữ viết. Nếu không có chữ, chẳng lẽ hệ thống giáo dục của thời kỳ này lại dạy chay?

Có tài liệu của người Hán viết rằng, năm 178, Sĩ Nhiếp làm Thái thú đất Giao Châu, thấy vùng Giao Châu không có chữ viết, nên đưa chữ Hán vào dạy. Tuy nhiên, lịch sử từ nước ta khẳng định rằng, Sĩ Nhiếp đã đốt sạch tài liệu, sách vở, cấm người dân học chữ Việt, bắt buộc phải học chữ Hán. Hàng ngàn năm Bắc thuộc, chữ Việt mai một rồi biến mất cũng là điều dễ hiểu.

Posted Image

Chữ cổ trên trống đồng trưng bày ở Đền Hùng.

Càng tìm hiểu, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền càng tin rằng người Việt từng có chữ viết riêng. Người Lào, người Campuchia, thậm chí các dân tộc thiểu số quanh vùng còn có ngôn ngữ, chữ viết riêng, thì không lẽ gì người Việt lại không có chữ.

Mang công trình ghi chép hành trình đi tìm các lớp học thời Hùng Vương gặp GS. Hà Văn Tấn để trình bày khát vọng muốn đi tìm chữ Việt cổ, ông Xuyền đã bị ấn tượng mạnh. Khi đó, GS. Hà Văn Tấn đã nằm liệt, không cử động được nữa. GS. Tấn cứ nắm tay ông Xuyền khóc không ngừng. GS. Tấn đã dành cả đời để nghiên cứu chữ Việt cổ, song công trình nghiên cứu còn dang dở thì ông đã nằm liệt, không tiếp tục được nữa.

Sau này, ông Xuyền tiếp tục gặp GS. Lê Trọng Khánh, người cũng dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu chữ Việt cổ. Khi đó, GS Khánh đã 86 tuổi, mắt mờ, chân yếu. Ông Khánh khóc to lắm, rồi cứ nắm tay ông Xuyền dặn dò, động viên tiếp tục công việc nghiên cứu còn dang dở của ông.

Posted Image

Chữ cổ trên bãi đá Sapa. Ảnh nhân vật cung cấp.

Sau khi gặp hai vị giáo sư hàng đầu về chữ cổ, niềm khao khát giải mã chữ Việt cổ của thầy giáo Đỗ Văn Xuyền lại càng mãnh liệt. Nhưng trước hết, để giải mã được chữ Việt cổ, thì phải có trong tay nhiều chữ cổ.

Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần quy, bối hữu Khoa đẩu”. Nghĩa là, thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu.

Theo cổ sử Trung Quốc, thời vua Nghiêu (năm 2357 TCN), sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) dâng thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch.

Posted Image

Ông Xuyền viết chữ Việt cổ cho tác giả xem.

Trong tài liệu “Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ”, do Viện Văn hóa in năm 1986, GS. Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy - Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Riêng ở Việt Nam, chữ Khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng.

Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... trước đó là Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng.

Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Tiêu biểu là 28 ký tự cổ được phát hiện trên 4 chiếc qua đồng Đông Sơn. Các nhà khoa học cho rằng, những ký tự này là chữ Việt cổ, nhưng chưa giải mã được.

Hễ nghe thông tin ở đâu phát hiện ký tự lạ, cổ, ông Xuyền lập tức lên đường tìm hiểu, bất kể ở trên rừng hay dưới biển, ở ngoài Bắc hay trong Nam và dù trời mưa nắng hay bão giông.

Posted Image

Bản thảo chữ cổ do ông Vương Duy Trinh phát hiện.

Do các chuyến đi đều dài ngày, đi xa, mà tiền lương hưu ít ỏi, nên ông giáo già Đỗ Văn Xuyền đã thực hiện tiết kiệm tối đa. Mỗi chuyến đi, ông đều chuẩn bị võng, bạt, bi đông đựng nước, mì tôm, bánh mì. Tối ông không vào nhà nghỉ mà mắc võng, dựng bạt ngủ ven rừng, bên đường, rồi nhai bánh mì, mì tôm sống cầm hơi. Hàng chục chuyến hành trình vất vả, kéo dài có khi đến cả tháng, nhưng thứ chữ ông thu thập phần lớn chỉ là chữ Chăm, chữ Lào, chữ Thái cổ.

Đọc tài liệu về ông Phạm Thận Duật, ông Xuyền như bắt được vàng. Phạm Thận Duật là quan triều Nguyễn, từng làm Tri châu ở Tây Bắc, là một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Cuối thế kỷ 19, ông tìm thấy chữ Việt cổ. Theo mô tả, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Thứ chữ này khác với chữ Thái cổ, khác chữ Hán.

Tuy nhiên, công trình nghiên cứu, giải mã chữ Việt cổ của ông Duật còn dang dở, thì bị thực dân Pháp bắt. Ông bị đày đến Tahiti. Ông bị chết trên đường đi và thực dân Pháp ném xác ông xuống biển.

Cùng thời gian đó, ông Xuyền tiếp cận được các tài liệu liên quan đến ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa. Năm 1903, ông này đã phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu.

Ông Vương Duy Trinh khẳng định đây là chữ của tổ tiên thời Vua Hùng, vẫn còn được lưu truyền cho hậu thế, nhưng chỉ ở một bộ phận xã hội nhỏ. Ông viết: “Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Hán".

Nắm được điều đó, ông Xuyền đã chuyển hướng tìm kiếm chữ cổ lên vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Cứ ở đâu có chữ lạ, chữ cổ, chữ không ai biết, không ai đọc được, là ông nghiên cứu, sưu tầm, so sánh.

Còn tiếp…

Phạm Ngọc Dương

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người 50 năm giải mã chữ của tổ tiên người Việt

(VTC News) - Ông Xuyền nói: “Đây là chữ Khoa đẩu, chữ của người Việt cổ, của tổ tiên chúng ta. Từng chữ bốc lên như ngọn lửa, nên gọi là Hỏa tự”. Trong tôi trào dâng niềm xúc động, mặc dù, nhìn vào những dòng chữ đó, tôi chả hiểu được điều gì.

Tôi nhớ mãi cái buổi tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi ở phố Đặng Văn Ngữ (Đống Đa, Hà Nội), vào cuối năm 2007, ông giáo già người Phú Thọ, đã thuyết trình cả buổi trước 40 nhà khoa học, toàn các giáo sư, tiến sĩ, các nhà sử học, ngôn ngữ học, văn học nước nhà. Lúc thì trên máy chiếu, lúc trên bảng đen, ông như thầy giáo của thời xưa cũ, và các nhà khoa học lớn của nước nhà, như những học trò, ngồi nghe ông thuyết giảng về một loại ký tự lạ. Loại ký tự lạ ấy không phải của người ngoài hành tinh, mà chính là của tổ tiên chúng ta!

Posted Image

Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giảng giải về chữ Việt cổ (Ảnh: nhân vật cung cấp).

Tôi cũng từng được nghe đâu đó, trong sử sách, truyền thuyết, rằng tổ tiên ta cũng có chữ cổ, rằng thứ chữ ấy có tên Khoa đẩu. Quả thực, tôi rất tò mò về loại chữ này. Tôi đã nhiều lần đến bãi đá cổ Sapa, đôi ba lần đến bãi đá cổ Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La, hiện các hòn đá đã được khai quật, giải phóng cho lòng hồ thủy điện Sơn La), bãi đá cổ ở Xín Mần (Hà Giang) và vinh dự là người đầu tiên được “người rừng” Trần Ngọc Lâm dẫn vào đại ngàn Hoàng Liên Sơn tận mắt bãi đá có hình khắc chưa từng được biết đến. Tuy nhiên, với khả năng hạn hẹp (gần như bằng không về cổ tự), tôi chỉ quan sát cho thỏa trí tò mò. Những hình vẽ loằng ngoằng đó liệu có phải cổ tự không, thú thật, tôi còn chẳng biết.

Posted Image

Theo các nhà khoa học, trên bãi đá cổ Sapa xuất hiện nhiều chữ Việt cổ.

Hôm nghe ông thầy giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền nói như lên đồng trước đông đảo các nhà khoa học, trong hội trường chật hẹp, về một thứ chữ cổ của người Việt, đã thất truyền, giờ được ông giải mã, không riêng gì tôi, nhiều nhà khoa học vô cùng xúc động. Dù thứ ngôn ngữ và cách giải mã của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền chưa được thừa nhận chính thức, song nó đã khẳng định một điều, rằng đất nước ta, rằng người Việt chúng ta, từ mãi thời Vua Hùng, từ tận thời Đông Sơn mấy ngàn năm trước, đã từng có chữ. Chữ là văn minh, chữ là thịnh vượng. Rằng chúng ta không phải những người “ăn nhờ” văn hóa, “đi mượn” chữ viết của các dân tộc khác. Điều này quan trọng biết bao, ý nghĩa biết bao và bớt đi tủi nhục biết bao.

Posted Image

Tác giả bên một hòn đá có chữ lạ ở bãi đá cổ Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La). Posted Image

Và ở bãi đá có hình khắc chưa từng được biết đến trong rừng Hoàng Liên Sơn.

Bẵng đi mấy năm, câu chuyện giải mã chữ Việt cổ, cách đọc chữ Việt cổ của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền cũng chìm vào quên lãng. Không thấy người ta hội thảo, không thấy bàn tán, chẳng thấy khen chê, ủng hộ, cũng chả thấy ai phản bác cái công trình 50 năm trời lặn lội của ông giáo giá kia. Chẳng lẽ công trình tưởng như không có gì lớn bằng, không có gì ý nghĩa bằng kia, là thứ vô tác dụng, là thứ nói ra cho biết rồi tống vào tủ cho mối mọt gặm?

Ngày giỗ Tổ đến, cả triệu người dân nước Việt nô nức trẩy về đền Hùng, nơi thờ đức tổ Hùng Vương, với 18 chi, không biết bao nhiêu đời vua đã dựng xây, bảo vệ đất Việt suốt 2622 năm ròng (Từ thời Kinh Dương Vương 2879 TCN đến thời Thục Phán thôn tính nước Văn Lang 258 TCN). Tôi cũng hòa vào dòng người mang nỗi niềm xúc động tìm về tổ tiên. Trong lòng trào dâng bao ý nghĩ, bao thắc mắc về một thời khắc lịch sử rất dài mà có nhiều lộn xộn, khó hiểu. Thời đại Hùng Vương như một đám mây mênh mang, linh thiêng, bí ẩn và chưa được giải mã.

Posted Image

Chữ Việt cổ chỉ còn rải rác xuất hiện trên những đồ vật thời Đông Sơn, trong đó có trống đồng.

Lang bang với những ý nghĩ ấy, tôi chợt nhớ đến cái buổi hội thảo năm kia, ông giáo già tỉnh lẻ Đỗ Văn Xuyền, bằng công trình tâm huyết với tổ tiên, đã dựng lại cả một thời đại hùng tráng, thịnh vượng chả kém gì các nền văn minh rực rỡ của thế giới cổ đại. Thế là, rồi rời dòng người hối hả lên đền Hùng, tìm gặp ông giáo già Đỗ Văn Xuyền.

Ngôi nhà khang ở con phố nhỏ phường Tân Dân (Việt Trì), ngay cạnh Công an tỉnh Phú Thọ lúc nào cũng im ỉm khóa, khóa cả cửa kính lẫn cửa sắt. Cạnh đó, có quán nhậu thịt trâu 7 món và cá sông Hồng nổi tiếng của Việt Trì, khách rất đông, ồn ào, náo nhiệt.

Tôi bấm chuông mấy lần, người đàn bà mới ì ạch ra mở cửa. Bà nhìn tôi với ánh mắt không được thiện cảm. Tôi giới thiệu là nhà báo, bà bảo tôi vào ghế ngồi, rồi bà ngúng nguẩy lên gác.

Posted Image

Ông Xuyền với bức tranh mà ông mô tả bằng hình ảnh và chữ viết của người Việt cổ.

Một lát sau, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền từ gác đi xuống. Câu đầu tiên ông nói: “Cậu thông cảm. Bà vợ coi tôi là kẻ vô tích sự, toàn ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Bà ấy sợ các cậu đến, các nhà khoa học đến, lại thổi bùng lên nhiệt huyết trong tôi, rồi tôi lại bỏ nhà, bỏ mặc bà ấy lên đường tìm chữ cổ. Đấy là bà ấy nghĩ thế thôi, chứ niềm đam mê nghiên cứu chữ cổ đã ngấm vào máu của tôi hơn 50 năm nay rồi, cậu có động viên hay không thì tôi cũng vẫn say mê nghiên cứu. Suốt 50 năm trời, tôi tự mày mò, nghiên cứu, có cần ai động viên, ai cho tiền bạc gì đâu”.

Lúc này, tôi mới hiểu rõ tâm tư bà vợ của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền. Cũng chả trách bà được. Công sức, tiền bạc, ông không dành cho gia đình, mà phục vụ thiên hạ, làm sao khiến phụ nữ vui cho được.

Posted Image

Những tài liệu chữ Việt cổ được ông Xuyền bảo quản cẩn thận trong tủ kính.

Tôi ngồi trò chuyện với ông Xuyền, vợ ông mang đên cốc nước rồi “lên án” chồng: “Ngày nào ông ấy cũng thức đến 12 giờ đêm nghiên với chả cứu. 3 giờ sáng ông ấy đã thức dậy rồi không ngủ nữa, cứ hì hục nghiên cứu chữ nghĩa. Mà cái thứ chữ ông ấy nghiên cứu có bán được đâu, có ăn được đâu. Tôi ở cùng nhà ông ấy, nhưng mấy chục năm nay, có mấy khi thấy mặt ông ấy đâu. Tiền lương hưu của ông ấy có hơn 2 triệu bạc, chả đủ để phô tô tài liệu, chứ đừng nói đến chuyện đi khắp trong Nam ngoài Bắc, lên rừng xuống biển. Có tiền ông ấy cũng đi, không có tiền ông ấy cũng đi, tôi ốm ông ấy cũng không thèm về, chả quan tâm gì đến cái gia đình này cả”.

Những lời trách cứ của bà vợ, đã nói rõ nhiệt huyết của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền. Không bỏ nửa thế kỷ tâm huyết, không hy sinh tất thảy, làm sao ông Xuyền có thể hoàn thành một công trình lớn như vậy, công trình mà hàng trăm nhà khoa học đầu ngành về ngôn ngữ, lịch sử, đã ôm hận xuống suối vàng khi việc nghiên cứu còn dang dở.

Posted Image

Ông Xuyền dịch Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng sang chữ Việt cổ.

Nói điều này, không có nghĩa tôi công nhận công trình giải mã, phục hồi chữ Việt cổ của ông thầy giáo Đỗ Văn Xuyền là thành công tuyệt đối (việc này phải ở tầm cỡ quốc gia, quốc tế công nhận đã), nhưng tôi phải công nhận rằng, tâm huyết, trí tuệ của ông với văn hóa quốc gia là đáng trân trọng.

Để bắt đầu câu chuyện hành trình đi tìm chữ cổ kéo dài hơn 50 năm trời, ông Đỗ Văn Xuyền chọn lọc trong đống tài liệu ngập tủ tủ kính phòng khách và phòng làm việc trên tầng 2 của ông cho tôi xem.

Tôi lật từng trang tài liệu mà hoa cả mắt, rặt là một thứ chữ lạ, chẳng giống chữ Hán, chẳng giống chữ Nôm, cũng chẳng ra chữ Lào, chữ Thái. Ông Xuyền nói: “Đây là chữ Khoa đẩu, chữ của người Việt cổ, của tổ tiên chúng ta đấy. Từng chữ bốc lên như ngọn lửa, nên gọi là Hỏa tự”. Trong tôi tự dưng trào dâng niềm xúc động, mặc dù, nhìn vào những dòng chữ đó, tôi chả hiểu được điều gì.

Còn tiếp…

Phạm Ngọc Dương

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sự thật ngôi miếu thờ thầy trò thời Hùng Vương

(VTC News) - Vợ chồng thầy cô giáo được song táng trong lòng miếu và được người dân thôn Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt 2.300 năm.

Ông Đỗ Văn Xuyền sinh năm 1937, quê gốc ở Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông tình nguyện lên Việt Trì dạy học. 22 tuổi, ông làm hiệu trưởng trường cấp 2. Khi đó, học sinh cấp 2 thậm chí lớn hơn cả thầy giáo.

Ngày đó, trường mới lập nên còn hoang sơ lắm. Sau giờ học, thầy trò phải lao động cật lực, đào đất, san nền lấy mặt bằng để dựng trường, làm sân chơi.

Trong quá trình đào bới, san lấp, ông cùng học trò của mình đào được vô số đồ cổ bằng đồng như giáo, mác, mũi tên, trống đồng và các loại đồ gia dụng... Học trò còn gánh đồ cổ về lớp chơi, tặng cho thầy giáo.

Posted Image

Ông giáo Đỗ Văn Xuyền và tài liệu giải mã chữ Việt cổ.

Thấy vùng đất này có quá nhiều đồ cổ, hiệu trưởng Đỗ Văn Xuyền lục lại sách vở, nghiên cứu lịch sử. Hóa ra, trường học nơi ông dạy từng là kinh đô Văn Lang với những địa danh nổi tiếng như Lầu Thượng, Lầu Hạ, Kẻ Lư, Thậm Thình, Mã Quàng…

Nghiên cứu những đồ cổ thu thập được, lục lại lịch sử, thầy giáo trẻ Đỗ Văn Xuyền cảm nhận thấy rằng, lịch sử cổ xưa của nước mình chứa đựng nhiều điều vĩ đại lắm, chứ không đơn giản như sách sử của người Trung Quốc và cả Việt Nam viết.

Với sự trân trọng lịch sử, cổ vật, thầy giáo trẻ Đỗ Văn Xuyền đóng gói hàng trăm cổ vật mà ông và học sinh đào được, gửi về Sở Văn hóa thông tin Phú Thọ cất giữ.

Posted Image

Ngôi miếu thờ thầy giáo và học trò có tên miếu Hai Cô.

Những năm bom Mỹ bắn phá miền Bắc, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền lại xung phong lên vùng Tây Bắc dạy học. Vừa dạy học, ông Xuyền vừa bỏ công tìm hiểu văn hóa của đồng bào dân tộc, sáng tác văn học.

Năm 1980, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền trở về Việt Trì với cương vị Chủ tịch Hội Văn nghệ, kiêm Trưởng ban Văn hóa xã hội của Thành phố Việt Trì. Lúc này, ông đã là một nhà văn, có một số tác phẩm gây tiếng vang, với bút danh Khánh Hoài.

Niềm đam mê nghiên cứu văn hóa, sáng tác văn học lại thêm thôi thúc ông đi tìm hiểu về lịch sử thời Hùng Vương của người Việt. Ông tích cực đi điền dã, tìm hiểu thực tế ở các thôn xóm, làng xã, nghiên cứu đền miếu…

Posted Image

Sắc phong trong ngôi miếu cổ. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Ông giáo Đỗ Văn Xuyền kinh ngạc khi phát hiện ra một ngôi đền thờ rất nhỏ, song lại thờ mẹ đẻ của Lạc Long Quân, vợ Kinh Dương Vương. Người trông đền thờ lại còn khẳng định ngôi mộ ở cạnh đền là mộ của bà.

Với gần 5.000 tuổi, ông Xuyền biết rằng, sẽ chẳng còn xương cốt dưới mộ. Nhưng qua ngôi đền, ngôi mộ, ông Xuyền thấy rằng, người dân cố đô Văn Lang có ý thức bảo tồn di tích lịch sử rất tốt. Đó là điều kiện rất thuận lợi để ông đi sâu tìm hiểu văn hóa, lịch sử thời Hùng Vương.

Tiếp tục điền dã, ông phát hiện một ngôi đền nhỏ xíu, cực kỳ cổ kính, cũ kỹ bên đường. Đó là đền thờ bà Thục Nương, Đại tướng của Hai Bà Trưng. Sau này, ông liên hệ với chính quyền và người ta đã xây dựng lại rất khang trang.

Posted Image

Tài liệu ghi chép thông tin về ngôi miếu Hai Cô.

Một ngôi miếu nhỏ đã làm thay đổi suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng và định hướng nghiên cứu của ông Xuyền, đó là miếu Hai Cô.

Đó là lần điền dã qua quả đồi nhỏ ở thôn Hương Lan, trung tâm cố đô nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương, ông thấy một ngôi miếu cổ kính, tường nứt loang lổ, có diện tích bằng hai manh chiếu, nằm dưới gốc hai cây táu ngàn năm tuổi, to đến 4-5 người ôm. Mỗi khi hè về, hai cây táu lại rải những cánh hoa vàng, hoa bạc trên mái ngói rêu phong, càng tạo vẻ u tịch.

Tò mò với ngôi miếu lạ, ông Xuyền tìm cụ Nguyễn Hữu Bồng, người được dân làng phân công trông nom miếu, để tìm hiểu. Ông Bồng kể, năm 1978, Hợp tác xã nông nghiệp Động Lực đã hô hào xã viên chặt hai cây táu để làm củi nung gạch. Các cụ già trong thôn đã kéo nhau ra miếu phản đối. “Cuộc đấu” giữa một bên đòi chặt và một bên đòi giữ diễn ra rất căng thẳng. Cuối cùng, ông Bồng đã ôm chặt thân cây kêu lớn: “Nếu các anh định chặt cây thì chặt xác tôi đã. Tôi không cho phép các anh phá nơi thờ tự thầy cô giáo”.

Posted Image

Tượng thầy giáo Vũ Thê Lang và cô giáo Nguyễn Thị Thục. Posted Image

Mộ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang trong miếu Hai Cô.

Chuyện cụ Bồng kể khiến ông Xuyền rất ngạc nhiên. Rõ ràng tên miếu là Hai Cô, nhưng sao lại thờ thầy giáo? Tìm hiểu kỹ các văn bản, thư tịch lưu lại trong miếu và qua lời kể của ông cụ Bồng, thì thực tế, ngôi miếu này lại thờ thầy giáo thời Vua Hùng, có tên họ hẳn hoi là Vũ Thê Lang, quê ở Mộ Trạch (Hải Dương).

Theo đó, thầy giáo Vũ Thê Lang đã cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn (Kinh Bắc), đã lên vùng này dạy học vào thời Vua Hùng thứ 18. Thầy cô đã chết vào cùng một giờ, ngày 2-2 năm Quý Dậu (288TCN). Vợ chồng thầy cô giáo được song táng trong lòng miếu và được người dân thôn Hương Lan âm thầm bảo vệ suốt 2.300 năm.

Trên bàn thờ của ngôi miếu vẫn còn tượng thầy cô và đặc biệt có 2 cô gái cùng 2 thị nữ theo hầu. Tượng hai cô gái đó là công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con gái Vua Hùng 18, là học trò xuất sắc của thầy Vũ Thê Lang. Tại ngôi miếu còn có bức Hoành Phi nhỏ ghi “Thiên Cổ miếu” và đôi câu đối dài chừng 1m: “Hùng lĩnh trung chi thắng tích/ Nam thiên chính khí linh từ”. (Tạm dịch: “Thắng tích: Dấu xưa Hùng Lĩnh/ Đền thiêng: Nguồn sáng trời Nam).

Posted Image

Hoành phi được khắc chữ Việt cổ do thầy giáo Đỗ Văn Xuyền thực hiện.

Những thông tin về ngôi miếu cổ này không phải do ông Đỗ Văn Xuyền bịa ra, mà nó được dân gian kể lại, có cả văn bản ghi chép, tất nhiên là thế hệ sau ghi lại, chứ không phải bằng chữ cổ thời Hùng Vương. Qua ngôi miếu này, ông Xuyền nhận ra rằng, từ thời Hùng Vương, tức là trước khi người Hán sang đô hộ, nước Văn Lang đã có lớp học, đã có thầy giáo, cô giáo, đã có học trò, và tất nhiên là phải có chữ viết.

Việc phát hiện một ngôi đền thờ thầy cô giáo, học trò từ thời Hùng Vương, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền suy luận thời Hùng Vương có chữ viết, quả không có gì phi lôgic. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về ngôi đền này, tôi có một số lăn tăn mà chưa tìm được lời giải đáp.

Theo gia phả họ Vũ Việt Nam, thủy tổ của hai dòng họ này là Vũ Hồn (sinh năm Giáp Thân 804 và mất năm Quý Dậu 853). Vũ Hồn là con của bà Nguyễn Thị Đức và ông Vũ Huy. Bà Đức quê ở Mạn Nhuế (Thanh Lâm, thuộc Chí Linh, Hải Dương bây giờ). Ông Vũ Huy là người làng Mã Kỳ (huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc). Trong lần du ngoạn sang ấp Cổ Nhuế, ông Huy lấy bà Đức và sinh ra Vũ Hồn.

Posted Image

Ngôi mộ được cho là của bà Nguyễn Thị Đức, mẹ đẻ của người được cho là thủy tổ họ Vũ là ông Vũ Hồn. Mộ đặt tại xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương.

Vũ Hồn đỗ thi Đình khi mới 16 tuổi, tinh thông cả thiên văn, địa lý, phong thủy. Năm 825 ( Ất Tỵ) đời vua Đường Kính Tông, niên hiệu Bảo lịch thứ nhất, Vũ Hồn được cử sang An Nam làm Thứ sử Giao Châu.

Sau khi rời quan trường, Vũ Hồn về Hải Dương lập trang ấp, xây dựng nhà cửa, dinh cơ, gọi con cháu, nhân dân quanh vùng về ở, tạo nên xóm nhỏ, đặt tên là Khả Mộ Trang, tức là làng Mộ Trạch (Bình Giang, Hải Dương bây giờ).

Vì thế, họ Vũ coi Vũ Hồn là thủy tổ của dòng họ và coi làng Mộ Trạch là nơi phát tích của dòng họ này.

Như vậy, tìm hiểu gia phả họ Vũ và ngôi đền thờ thầy giáo Vũ Thê Lang, sẽ thấy có điểm mâu thuẫn rất lớn. Nếu căn cứ vào gia phả họ Vũ, thì họ Vũ và làng Mộ Trạch, mới xuất hiện ở nước ta 1.200 năm nay, vào thời Bắc thuộc. Vậy, thông tin ông thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở làng Mộ Trạch, dạy học thời Vua Hùng, tức là cách ngày nay 2.300 năm là rất vô lý.

Qua những thông tin này, sẽ có 2 giả thuyết: Thứ nhất, thầy giáo Vũ Thê Lang không thể dạy học từ thời Vua Hùng nếu ông Vũ Hồn là thủy tổ họ Vũ (Trong khi thời Vua Hùng, không thấy nhắc đến họ, ngay cả hai cô học trò được thờ trong đền là Ngọc Hoa và Tiên Dung cũng không có họ, nhưng vợ chồng thầy giáo lại có họ đàng hoàng). Thứ hai, thủy tổ họ Vũ không phải ông Vũ Hồn, mà thủy tổ họ Vũ phải từ thời Văn Lang, nếu thực tế có ông thầy giáo Vũ Thê Lang dạy học thời Vua Hung!

Như vậy, việc căn cứ vào ngôi miếu Hai Cô thờ thầy cô và học trò khẳng định có lớp học thời Hùng Vương chưa thuyết phục. Tất nhiên, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền không dừng lại ở việc phát hiện hai ngôi miếu đầu tiên này để khẳng định thời Hùng Vương có chữ viết.

Còn tiếp…

Phạm Ngọc Dương

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites