daretolead

Mạn Đàm Về "định Mệnh Có Thật Hay Không?"

357 bài viết trong chủ đề này

Daretolead chưa đủ điều kiện để tham gia mục Trao đổi học thuật. Thấy chú Thiên sứ và các thành viên khác đang trao đổi về một số vấn đề hứng thú trong topic "định mệnh có thật hay không?" nên mạo muội lập topic mạn đàm này để trao đổi ngoài lề mong đóng góp ý kiến để bài viết ngày càng rõ ràng và hấp dẫn hơn.

Dare không có kiến thức chuyên sâu về lý học nhưng có thể thảo luận về phương pháp luận và các vấn đề vật lý đang quan tâm.

Trước hết trong topic, dare thấy thầy Thiên Sứ đề cập đến "Hiệu ứng con bươm bướm" để nói lên kết luận về tính bất định. Theo dare biết thì cách diễn giải "một cái đập cánh của con bươm bướm ở nơi này có thể gây lên cơn bão ở nơi kia" là một cách nói hoa mỹ và hiểu sai của một số người. Các nhà dự báo thời tiết dùng hình ảnh này để ám chỉ rằng hệ thống dự báo thời tiết là rất phức tạp và mọi yếu tố đều tương tác, liên quan đến nhau. Người ta không thể nào xác định vị trí quỹ đạo, trạng thái của một phân tử khí trong căn phòng nhưng vẫn có những kết quả đo đạc về áp lực, mật độ khí, nhiệt động học của cả căn phòng đấy, đó chính là thống kê học.

Bất định và tất định là 2 phạm trù đã được đề cập đến trong triết học. Đó là 2 mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng và thống nhất. Mâu thuẫn nhưng không triệt tiêu nhau. Ta có thể nói rằng khi ném một hòn đá từ đỉnh đồi xuống thì việc hòn đá lăn xuống chân đồi là tất định, nhưng con đường hòn đá lăn như thế nào lại là bất định. Tất định là biểu hiện của rất nhiều quá trình bất định, và ngược lại đằng sau vô số cái bất định là cái tất định. Lưỡng tính sóng- hạt của ánh sáng cũng là một biểu hiện của mối quan hệ giữa bất định và tất định.

Về khái niệm điểm trong toán học, dare đã đọc bài viết "định mệnh có thật hay không" nhưng vẫn chưa hiểu hết ý của chú Thiên Sứ. Điểm là khái niệm tiên khởi không được định nghĩa trong toán học (hình học). Theo dare thì ta không thể nói về tính bất định cũng như tất định của khái niệm điểm. Ta chỉ có thể nói về tính bất định hay tất định của một "điểm cụ thể": Ví dụ như quỹ đạo của một photon.

Một cách tiếp cận khác cũng tương tự như cách tiếp cận của chú Thiên sứ để nói lên cái nền tảng bất định của toán học là phát hiện của Gregory Chaitin khi phát triển định lý Godel và Sự Cố Treo Máy của Alan Turing:

Một, trong toán học tồn tại những con số ngẫu nhiên không thể tính được(uncomputable), hoặc không thể biết được (unknowable). Kết luận này tương đương với kết luận của Godel: Trong toán học tồn tịa những định lý đúng, nhưng không thể chứng minh.

Hai, vì những con số mang bản chất ngẫu nhiên không tính được là số thực, mà số thực là nền tảng của số học, tức là nền tảng của toán học, do đó tính ngẫu nhiên( randomness)nằm trong nền tảng của toàn bộ khoa học!

Dare nghĩ bài viết của chú Thiên Sứ có thể tận dụng những khám phá này làm nguồn cảm hứng để phát triển (tuy nhiên cũng cần tìm hiểu kỹ :))

Sự sụp đổ của chủ nghĩa duy lý? Số ômega của Chaitin và sự nghi ngờ lý tính của toán học?! và còn bao nhiêu thứ đáng nghi ngờ khác nữa?

Nhưng hãy luôn nhớ rằng vật chất là vô cùng vô tận và mỗi sự vật hiện tượng đều nằm trong vô số mối quan hệ biện chứng với nhau...

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuẩn !!! ít nhất thì cũng có người học có kiến thức cơ bản.

Thân ái.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Daretolead thân mến.

Chúng tôi có quy định cho những hội viên mới tham gia diễn đàn phải có những tiêu chuẩn nhất định mới có thể tham gia mục trao đổi học thuật. Thức chất chỉ để hạn chế những sự tranh cãi vô bổ phi học thuật, gây ảnh hưởng tới những người có thiện chí đóng góp tri thức học thuật với diễn đàn. Chứ không nhằm cản trở sự trao đổi học thuật. Trong thời gian sinh hoạt trên diễn đàn, chúng tôi luôn lưu ý sự phản biện, hoặc trao đổi học thuật của quí vị và anh chị em mới tham gia, nếu có tinh thần phản biện, trao đổi học thuật thật sự, chúng tôi rất hân hạnh mời tham gia trong mục này.

Ngay ngày hôm nay, hoặc ngày mai, tôi sẽ chuyển topic này vào mục trao đổi học thuật - Lý học Đông Phương và trân trọng mời deratolead tham gia. Điều mà từ trước tôi nghĩ Deratolead đã tham gia từ lâu

Tôi thực sự trân trong kiến thức và cách nhìn của Daretolead trong thời gian sinh hoạt trên diễn đàn.

Daretolead chưa đủ điều kiện để tham gia mục Trao đổi học thuật. Thấy chú Thiên sứ và các thành viên khác đang trao đổi về một số vấn đề hứng thú trong topic "định mệnh có thật hay không?" nên mạo muội lập topic mạn đàm này để trao đổi ngoài lề mong đóng góp ý kiến để bài viết ngày càng rõ ràng và hấp dẫn hơn.

Dare không có kiến thức chuyên sâu về lý học nhưng có thể thảo luận về phương pháp luận và các vấn đề vật lý đang quan tâm.

Trước hết trong topic, dare thấy thầy Thiên Sứ đề cập đến "Hiệu ứng con bươm bướm" để nói lên kết luận về tính bất định. Theo dare biết thì cách diễn giải "một cái đập cánh của con bươm bướm ở nơi này có thể gây lên cơn bão ở nơi kia" là một cách nói hoa mỹ và hiểu sai của một số người. Các nhà dự báo thời tiết dùng hình ảnh này để ám chỉ rằng hệ thống dự báo thời tiết là rất phức tạp và mọi yếu tố đều tương tác, liên quan đến nhau. Người ta không thể nào xác định vị trí quỹ đạo, trạng thái của một phân tử khí trong căn phòng nhưng vẫn có những kết quả đo đạc về áp lực, mật độ khí, nhiệt động học của cả căn phòng đấy, đó chính là thống kê học.

Bất định và tất định là 2 phạm trù đã được đề cập đến trong triết học. Đó là 2 mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng và thống nhất. Mâu thuẫn nhưng không triệt tiêu nhau. Ta có thể nói rằng khi ném một hòn đá từ đỉnh đồi xuống thì việc hòn đá lăn xuống chân đồi là tất định, nhưng con đường hòn đá lăn như thế nào lại là bất định. Tất định là biểu hiện của rất nhiều quá trình bất định, và ngược lại đằng sau vô số cái bất định là cái tất định. Lưỡng tính sóng- hạt của ánh sáng cũng là một biểu hiện của mối quan hệ giữa bất định và tất định.

Về khái niệm điểm trong toán học, dare đã đọc bài viết "định mệnh có thật hay không" nhưng vẫn chưa hiểu hết ý của chú Thiên Sứ. Điểm là khái niệm tiên khởi không được định nghĩa trong toán học (hình học). Theo dare thì ta không thể nói về tính bất định cũng như tất định của khái niệm điểm. Ta chỉ có thể nói về tính bất định hay tất định của một "điểm cụ thể": Ví dụ như quỹ đạo của một photon.

Một cách tiếp cận khác cũng tương tự như cách tiếp cận của chú Thiên sứ để nói lên cái nền tảng bất định của toán học là phát hiện của Gregory Chaitin khi phát triển định lý Godel và Sự Cố Treo Máy của Alan Turing:

Một, trong toán học tồn tại những con số ngẫu nhiên không thể tính được(uncomputable), hoặc không thể biết được (unknowable). Kết luận này tương đương với kết luận của Godel: Trong toán học tồn tịa những định lý đúng, nhưng không thể chứng minh.

Hai, vì những con số mang bản chất ngẫu nhiên không tính được là số thực, mà số thực là nền tảng của số học, tức là nền tảng của toán học, do đó tính ngẫu nhiên( randomness)nằm trong nền tảng của toàn bộ khoa học!

Dare nghĩ bài viết của chú Thiên Sứ có thể tận dụng những khám phá này làm nguồn cảm hứng để phát triển (tuy nhiên cũng cần tìm hiểu kỹ :))

Sự sụp đổ của chủ nghĩa duy lý? Số ômega của Chaitin và sự nghi ngờ lý tính của toán học?! và còn bao nhiêu thứ đáng nghi ngờ khác nữa?

Nhưng hãy luôn nhớ rằng vật chất là vô cùng vô tận và mỗi sự vật hiện tượng đều nằm trong vô số mối quan hệ biện chứng với nhau...

Oh. Rất cảm ơn Daretolead đã dẫn chứng. Như vậy tôi đỡ phải mất thời giờ minh chứng tính bất định vốn thường hằng và là bản chất của tự nhiên.

Còn về "hiệu ứng con bướm" - tôi cũng hiểu như vậy - và tôi đang viết về chính v/d này và so sánh với phương pháp tiên tri của Lý học Đông phương với tri thức khoa học hiện đại.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Daretolead thân mến.

Tôi xin phép chép bài này của Daretolead vào blog của tôi.

Xin cảm ơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Huyền Học Và Vật Lý Hiện Đại

Nguyễn Austin chuyển ngữ từ

Mysticism And The New Physics

MICHAEL TALBOT

(Thấy nội dung có đề cập đến bất định).

Posted Image

Phần 1: Ý THỨC VÀ THỰC TẠI

Phải chấp nhận rằng ý nghĩa của Vật lý lượng tử, mặc cho mọi công trình đã được hoàn tất về nó, cũng vẫn chưa được làm sáng tỏ một cách kỹ lưỡng như những ý tưởng thiết kế lý thuyết tương đối. Mối quan hệ giữa thực tại và sự quan sát là vấn đề trung tâm.Dường như chúng ta cần một sự phân tích sâu hơn về mặt nhận thức luận của những gì tạo nên một thí nghiệm, một sự đo lường và loại ngôn ngữ được dùng để diễn đạt những kết qủa của chúng. Có phải là một thứ ngôn ngữ của vật lý cổ điển như Niels Bohr dường như đã nghĩ, hay có phải là một thứ “ngôn ngữ tự nhiên” mà ở đó mọi người trong cư xử nơi cuộc sống hàng ngày đã chạm mặt với thế giới bao gồm những đồng loại và chính họ? Tương tự như trong tóan học của Hilbert mà ở đó những tính tóan bằng những ký hiệu cụ thể hơn là những dữ liệu của một “ý thức thuần túy” nào đó đã được sử dụng như cơ sở chính yếu vượt trên lý luận .Dường như có một câu hỏi đã được gợi ý : Phải chăng điều này cho thấy sự phát triển hiện đại của toán học và vật lý học đã đi cùng hướng , chuyển động xa khỏi tính chất duy tâm và hướng đến “quan điểm hiện sinh” mà chúng ta đang quan sát trong triết học đương thời?

HERMANN WEYL, philosophy, mathematics and Natural Science.

Chương 1: NGƯỜI QUAN SÁT VÀ KẺ THAM GIA

Về nguyên lý lượng tử, không có gì quan trọng hơn điều này, rằng nó đã hủy bỏ khái niệm về một thế giới như “bàng tọa” mà người quan sát tách biệt an toàn khỏi nó bởi một tấm kính dày 20 cm. Ngay cả để quan sát những đối tượng nhỏ nhặt như một electron, họ cũng phải đập bỏ tấm kính. Họ phải đến gần. Họ phải thiết kế những thiết bị đo lường được chọn. Họ hoàn toàn quyết định nên đo vị trí hay xung lượng. Xếp đặt thiết bị để đo hạt này đã loại bỏ sự xếp đặt để đo hạt khác. Hơn nữa, sự đo lường làm thay đổi trạng thái của electron. Sau đó vũ trụ sẽ không bao giờ như cũ. Để diễn tả những gì đã xảy ra, người ta phải gạch bỏ danh từ cũ ‘ người quan sát’ và thay vào vị trí đó một danh từ mới ’người tham gia’.Trong một ý nghĩa lạ lùng nào đó thì vũ trụ là một vũ trụ được tham gia.

JOHN A. WHEELER, the Physicist’s Conception of Nature

Năm 1927, Werner Heisenberg giới thiệu Nguyên Lý Bất Định nổi tiếng của mình và khuấy động một cuộc tranh luận vẫn chưa được gỉai đáp. Trong một vài từ rút gọn, Heisenberg khẳng định rằng người quan sát làm biến đổi vật được quan sát chỉ đơn thuần bằng hành động quan sát. Ông không ám chỉ rằng nhận thức có những hiệu qủa trực tiếp lên kết qủa. Thay vào đó, ông đã đề cập đến những vấn đề đã gặp phải khi cố gắng đo lường những đại lượng trong hệ thống nguyên tử. Vì kích cỡ qúa nhỏ của các hệ nguyên tử nên không có sự quan sát nào được thực hiện trên một hệ nguyên tử duy nhất mà không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nó. Điều này cũng tựa như khi nói người ta không thể kiểm tra máy móc của một chiếc đồng hồ nhỏ mà không quấy nhiễu sự vận hành của nó. Kích thước nhỏ nhặt của chính hệ thống làm cho sự quan sát và đo lường trở nên khó khăn.

Khó khăn khi quan sát những hệ nguyên tử tăng lên bởi sự kiện là ánh sáng có thể tác động đến hệ. Cũng giống như ở tầm mức cuộc sống thường nhật chúng ta đã nhận ra tác động của sự quan sát. Nhìn một cái ghế hay một trang giấy in dường như là một hoạt động khá tách biệt. Sự kiện ánh sáng phản chiếu trên cái ghế và trang giấy in thực ra đang làm thay đổi chúng theo cách thức vi tế lại không trực tiếp có sẵn trong cảm nhận của chúng ta. Tuy nhiên trong những hệ vi mô, chẳng hạn như bên trong một nguyên tử, thì một quang tử thực ra đang va chạm các hạt. Không bao giờ chúng ta có thể chắc về vị trí của hạt bởi phương tiện duy nhất của chúng ta là nhìn hạt ấy và khi dội vào nó bằng những quang tử thì vị trí của nó sẽ bị thay đổi. Chúng ta như những người mù cố gắng nắm bắt một mạng nhện mỏng manh.

Các nhà Vật lý quyết định cách thức tương tác của nguyên tử một cách có hệ thống và cố gắng rút ra điều gì đó về những tính chất chưa bị biến đổi của nguyên tử ngay cả khi hệ thống đã biến đổi sau sự quan sát. Nguyên lý Bất Định của Heisenberg chỉ đơn thuần tiên đoán những hiệu ứng đa dạng, khả dĩ trên sự quan sát nguyên tử sao cho những tính chất không bị nhiễu loạn của nó được tiếp cận gần hơn.

Do đó mối liên kết nguyên thủy giữa người quan sát và vật được quan sát được khám phá bởi các nhà vật lý lượng tử có liên quan đến khó khăn về kỹ thuật đo đạc các hệ thống nguyên tử. Xuất phát từ những tìm kiếm của Heisenberg thì không nhất thiết có chỉ dấu rằng ý thức của người quan sát ảnh hưởng lên sự đo lường mà chỉ có những dụng cụ người quan sát phải dùng đến đã ảnh hưởng lên nó.Tuy nhiên, những khám phá sau này đã gợi ý cho các nhà vật lý rằng trí óc con người có thể ảnh hưởng lên vật chất.

Một trong những cuộc cách mạng chủ yếu trong địa hạt vật lý là vai trò ngày càng tăng của thuyết bất định (inderterminism) – hay sự nhận ra rằng không thể tiên đoán kết qủa của một thí nghiệm cho dù chúng ta biết được bao nhiêu thông tin về vật chất đi nữa.Trước sự ra đời của thuyết lượng tử, hầu hết các nhà vật lý tin một vũ trụ hoàn toàn nhân qủa. Trong tác phẩm ‘Philosophical Essay on Probabilities’ (1812-1820), Laplace gỉa định một luận điểm như thế, đã khẳng định:’ Như thế chúng ta phải xem xét trạng thái hiện nay của vũ trụ như là hệ qủa của những trạng thái trước của nó và là nguyên nhân của trạng thái theo sau. Gỉa dụ như vào một lúc nào đó, có một trí thông minh có thể hiểu được tất cả các lực trong tự nhiên và những tình huống lần lượt của sự vật cấu tạo nên nó……đối với trí thông minh đó không có gì là không chắc chắn và tương lai cũng như qúa khứ, sẽ hiện ngay trong mắt nó.

Vật lý cổ điển dường như đã chứng tỏ luật nhân qủa hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày. Mọi thứ, từ vật nặng dao động nơi lò xo cho đến chuyển động của những thiên thể, là những hệ thống tuân theo những định luật nhân qủa biểu kiến. Cho trước một trạng thái ban đầu của bất kỳ hệ thống nào, thì tất cả những trạng thái sau đó của hệ đều có thể được tiên đoán với độ chính xác cao. Thành công của vật lý học Newton gắn với sự kiện là những định luật như thế dường như tồn tại hầu hết đối với mọi hệ thống có thể cảm nhận trực tiếp bởi con người, từ trái bi-da đến các máy vi tính, từ mạng điện đến những thiên thực. Ngay cả ở những chỗ mà các tiên đoán không thực hiện được thì các nhà vật lý cổ điển vẫn gỉa định rằng hệ thống vẫn tuân theo luật nhân qủa. Do đó, nếu như ngay cả các nhà vật lý không thể hình dung một cách chính xác điểm đến cuối cùng cuả cái chai được ném xuống Đại Tây Dương, thì trí thông minh gỉa định của Laplace vẫn có thể biết được điều đó.

Tuy vậy, ở tầm mức các biến cố trong cơ học lượng tử thì không có gì, ngay cả sự tiến đến nguyên lý nhân qủa, được tìm thấy là tồn tại. Thí nghiệm nổi tiếng về 2 khe hẹp cung cấp một minh dụ rằng ,trong lý thuyết lượng tử có những khái niệm liên quan đến vật chất mà không trực tiếp đưa đến những đại lượng quan sát được. Hãy tưởng tượng một chùm hạt chuyển động với cùng một vận tốc. Nếu chùm hạt này đập vào một màn trên đó có một khe hẹp, các hạt này khi rời khỏi khe sẽ không còn chuyển động theo cùng một hướng. Chúng bị nhiễu xạ đến nỗi các hướng chuyển động bị thay đổi, tạo thành những góc khác nhau so với chùm tia ban đầu. Thế rồi, nếu các hạt được quan sát riêng lẻ khi chúng đập vào một màn ở xa khe hẹp thì chúng lại không đập vào vùng diện tích bằng khe hẹp mà rộng hơn rất nhiều. Vị trí mà các hạt riêng lẻ đập vào không thể tiên đoán được cũng như có thể tái tạo được mà chỉ có kiểu mẫu của sự phân bố là có thể xác định. Chẳng hạn như, nhà vật lý có thể có 100 hạt chờ để được phóng qua khe hẹp. Các định luật của cơ học lượng tử cho phép tiên đoán rằng 10% các hạt sẽ đập vào một vùng và 90% còn lại sẽ đập vào một vùng khác. Nếu nhà vật lý cho phép từng hạt đi qua khe hẹp thì không có cách nào để tiên đoán vùng nào mà hạt sẽ chọn để đập vào. Thật vậy, không thể tìm được điều gì để giải thích tại sao 10% này lại đập vào một vùng và 90% còn lại đập vào vùng kia. Tất cả các hạt là đồng nhất. Nói một cách chặt chẽ, không có một lý do nào để giải thích tại sao hạt này lại đập khác hạt kia. Trong một vũ trụ dường như cực kỳ nhân qủa thì thuyết bất định như thế tạo nên một quan điểm mới về thế giới mà tiếng dội của nó, có lẽ, không phải chỉ làm rung động cơ sở của nền vật lý cổ điển.

Thuyết bất định của vũ trụ cơ lượng tử chắc chắn là một trong số những thay đổi làm sửng sốt trong cách thức chúng ta nhìn thực tế xảy ra trong lĩnh vực vật lý. Nó tấn công trực giác của chúng ta. Nó hủy diệt quan niệm sai lạc của chúng ta về sự liên thông của các biến cố. Có một chút ngạc nhiên là những trụ cột của những trường phái cũ, bao gồm cả chính Einstein, đã phản đối sự phủ nhận vũ trụ nhân qủa. Trong tác phẩm Einstein và Beckett, Kuznetsov được trích dẫn với nhận xét ’ Einstein đã xuất phát từ ý tưởng là, một chuỗi những hiện tượng có thể quan sát được không xác định rõ ràng bản chất của những mối liên hệ nhân qủa giữa chúng. Như thế, bức tranh về mối liên hệ nhân qủa, ở một mức độ nào đó, được suy diễn một cách độc lập với những quan sát trực tiếp. Einstein nói về sự xây dựng tự do những khái niệm diễn tả mối quan hệ nhân qủa. Phải chăng điều này có nghĩa là những khái niệm như thế là tiên nghiệm hay chỉ mang tính khái niệm, hay những khái niệm nhân qủa đó hoàn toàn trừu tượng? Câu trả lời là Không. Mối liên kết nhân qủa của những qúa trình có thể được diễn đạt bằng nhiều cách xây dựng khác nhau, và trong ý nghĩa đó sự chọn lựa là tùy ý. Nhưng chúng phải phù hợp với quan sát và nhiệm vụ của chúng ta là chọn lọc cách thức xây dựng nào tốt nhất.

Điều quan trọng nên biết rằng những chống đối riêng biệt của Einstein đối với lý thuyết lượng tử nhắm vào việc phơi bày sự thiếu khả năng của lý thuyết này khi cho một lời giải thích thích hợp về thực tại vật lý. Cho đến khi mất Einstein vẫn tin vào một vũ trụ nhân qủa, một loại vũ trụ không tồn tại ở tầm mức những biến cố nguyên tử.

Trong tác phẩm ‘The Human Use of Human Beings’, Norbert Wiener viết rằng không phải Heisenberg, cũng không phải Planck mà chính là Willard Gibbs, người đầu tiên đã đề nghị rằng vũ trụ có tính ngẫu nhiên (chỉ được tiên đoán trong phạm vi giới hạn thống kê) như là chống lại tính chất tất định (deterministic). Đầu thập niên 1870, Gibbs xây dựng lý thuyết về sự ngẫu nhiên. Có một xác suất vượt trội để mỗi khi bạn đụng vào trái banh bi-da theo “cùng” một hướng, với “cùng” một lực để nó sẽ phản ứng “như nhau”. Nhưng có viền ngoài của những sự cố - đó là những kỳ quặc bởi các tỳ vết ở những làn ranh cuả thực tại nhân qủa- chỉ ra tính chất ngẫu nhiên của vũ trụ. Trong một vũ trụ ngẫu nhiên, mặc dù hầu hết thời gian trái bi-da phản ứng theo cùng cách thức, nhưng cũng có cơ may là nó sẽ không phản ứng hay có phản ứng hoàn toàn không tiên đóan được. Theo ý tưởng của Gibb về tính chất ngẫu nhiên thì các nhà vật lý không còn phải đối phó với những gì luôn luôn xảy ra mà chỉ đối phó với những gì xảy ra trong phần khoảng thời gian vượt trội.

Lý thuyết lượng tử cũng đề nghị rằng cuối cùng thì mọi hệ thống đều có thể được diễn tả chỉ bằng cách thức thống kê. Tính chất nhân qủa biểu kiến của vũ trụ là do sự kiện sác xuất để xảy ra trong những hệ thống lớn hơn những hệ thống nhỏ thì gần như bằng 1. Xác suất cực kỳ cao để cho những thiên thực xảy ra vào một ngày có thể xác định nào đó là kết qủa thống kê của một số gần như là vô hạn các biến cố cơ lượng tử. Wiener khẳng định,’…trong một thế giới có tính thống kê chúng ta không còn xử lý những đại lượng và những vấn đề chỉ liên quan đến một vũ trụ, như là một toàn thể, thực và riêng biệt, mà thay vào đó nên đặt những câu hỏi có thể tìm được những câu trả lời trong một số lớn những vũ trụ tương tự. Do đó, cơ may (chance) được chấp nhận không đơn thuần như một công cụ tóan học cho vật lý mà như là một phần căn cơ của vật lý’.

Chính sự chuyển dịch từ một vũ trụ nhân qủa sang một vũ trụ thống kê đã gây nên tranh cãi nhiều nhất. Những hàm ý về thuyết bất định được hiển lộ nhiều nhất trong các bài toán, đầu tiên được phát hiện bởi nhà vật lý người Áo Erwin Schrodinger trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Trong lý thuyết lượng tử, mỗi biến số chi phối ứng xử của hạt ( năng lượng,vị trí, vận tốc, momen xung lượng,..) đều được xem xét. Một khi những thí nghiệm vật lý khám phá những tính chất và những tác động của các biến số này, thì công việc song hành của nhà vật lý là thiết lập những định luật dưới dạng toán học tương ứng để mô tả những tính chất vật lý và mối quan hệ của chúng. Một khi hình thức luận tóan học được thiết lập thì ứng xử của hạt có thể được tiên đoán.

Hãy xem xét lại ví dụ ở trên về một chùm hạt đi qua khe hẹp. Một khi những tính chất khác nhau của một tóan tử tương ứng được biết, thì người ta có thể tiên đoán một kiểu hình phân bố. Schrodinger đã khai triển một phương trình toán học mô tả ứng xử này. Vì những hạt lượng tử biểu hiện tính chất bổ sung-vừa có tính chất hạt vừa có tính chất sóng- nên phương trình này được biết như là phương trình sóng của hạt.

Chính đây là nơi mà vấn nạn về thuyết bất định bước vào. Trong những tình huống nhất định phương trình sóng Schrodringer tiên đoán được ứng xử của một hạt cho trước được xem như một điểm và mô tả được hai kết qủa khả dĩ như nhau cho cùng một hạt. Trong tính toán cũng như quan sát thì không có lý do nào để gỉai thích cho sự biến đổi trong ứng xử của hạt. Do đó câu hỏi dường như bước vào trạng thái lập lờ vì ở đó không thể quyết định kết qủa nào để chọn. Lý thuyết lượng tử không đối ứng với những biến cố riêng lẻ. Cho trước một hạt riêng lẻ, hàm sóng Schrodinger không thể xác định nó sẽ đập vào nơi nào trên màn, nhưng lại có thể tiên đóan nơi mà toàn bộ hay một nhóm hạt sẽ đập vào.

Những hàm ý về thuyết bất định được minh họa một cách kịch tính hơn trong một bài tóan tưởng tượng được biết đến nhiều là bài toán “Con mèo của Schrodinger”. Gỉa thiết về bài toán ấy như sau: một con mèo bị nhốt trong một cái chuồng kín, trong đó có máy đếm hạt phóng xạ Geiger và chứa đủ chất phóng xạ để mà trong vòng một giờ có 50% cơ may một hạt nhân phân rã. Dựa vào sự phát xạ của máy đếm, một cái búa sẽ đập vỡ bình chứa khí phóng xạ. Theo hàm sóng Schrodinger thì sau một giờ hệ thống sẽ ở một dạng trong đó con mèo sống và con mèo chết sẽ “trộn lẫn” theo một tỷ lệ như nhau . Dĩ nhiên, nếu điều này được thực hiện trong thí nghiệm thì chỉ có một kết qủa khả dĩ xảy ra. Điều này dẫn Schrondinger đến với cảm gíac rằng tóan học đã tạo nên một sự mô tả thực tại có tính chất nghịch lý và không thể chấp nhận được.

Trong tác phẩm ‘Time and Quantum Theory’ (1966), J.Zimmerman đã viết,’ Những câu hỏi về những biến cố riêng lẻ, trong ngôn ngữ của lý thuyết lượng tử bảo thủ, là vô nghĩa và do dó, khi sự diễn giải được tiến hành, chúng thực sự không có ý nghĩa. Chỉ có những câu hỏi cùng với những khẳng định về một tập hợp là có ý nghĩa’. Một quan điểm về tính bất định của vũ trụ như thế có thể được trông đợi bị chống đối bởi những nhà vật lý cổ điển. Năm 1955, John von Neumann đầu tiên gợi ý rằng phương trình Schrodinger có thể sai. Ông đã đưa vào một phương trình thứ hai để tìm ra sự sai lầm đó, nhưng chính phương trình này cũng trở nên lập lờ. Và phương trình thứ ba, thứ tư,…cũng thế. Chúng tạo nên một chuỗi được biết dưới cái tên‘Tai họa về chuỗi vô hạn lùi của Von Neumann’

Bản chất bất định của những hệ nguyên tử không được hầu hết các nhà vật lý chấp nhận một cách dễ dàng. Một cách đại khái nó giống như một cái bàn bi-da trên đó một số bi phản ứng khi chúng bị tác động, một số bất động một vài phút trước khi chuyển động và một số chuyển động mà không cần phải tác động. Để khái niệm hóa một cách dễ dàng hơn cái mô tả nghịch lý về thực tại biểu hiện trong phương trình Schrodinger, hãy tưởng tượng hàm sóng như một hàm số bất kỳ trong không gian cấu hình. Đó là môt không gian ba chiều ảo được dùng cho những vấn đề khái niệm hóa. Ứng xử của hạt có thể được biểu diễn bằng một đường trong không gian cấu hình này.

Tại điểm nơi mà phương trình Schrodinger tiên liệu hai kết qủa khả dĩ như nhau thì đường này bị phân nhánh. Theo hàm sóng, điều đó có nghĩa là một hạt riêng lẻ thực hiện hai ứng xử khác nhau tại một điểm và cùng một lúc. Trong những điều kiện nào đó thì hàm sóng sẽ tiên liệu một số vô hạn những trạng thái lập lờ mà ở đó lộ trình của nó trong không gian cấu hình chẻ thành 4 kết qủa khả dĩ, 8 kết qủa khả dĩ, 16 ,…..và đến vô hạn .

Vì con mèo đang ở trong trạng thái sống-chết trộn lẫn theo tỷ lệ, cũng như một hạt thể hiện hai hay ngay cả một số vô hạn những ứng xử khả dĩ tại cùng một điểm và cùng một lúc, thì hòan toàn mâu thuẫn với kinh nghiệm của chúng ta, nên phương trình Schrodinger dường như không mô tả những biến cố nguyên tử riêng lẻ. Đã có nhiều cách diễn giải về lý thuyết lượng tử được đưa ra để giải thích cho sự lập lờ của phương trình Schrodinger.

Sự diễn giải mang tính qui ước và được chọn bởi hầu hết các nhà vật lý lượng tử được biết dưới cái tên ‘ Sự Sụp Đổ Copenhagen’. Theo quan điểm này, khi phương trình bị phân làm đôi thì một trong các đường trong không gian cấu hình sẽ đơn thuần sụp đổ. Thay vì có rất nhiều kết qủa thì phương trình thu về một kết qủa duy nhất. Những người ủng hộ trường phái Copenhagen lập luận rằng lý thuyết lượng tử có tính bất định nghiêm ngặt. Phương trình không biểu hiện thực tế mà chỉ là một thuật toán ( một phương pháp tóan ) để đưa ra những dự đóan xác suất. Chẳng hạn như, nếu thí nghiệm về con mèo của Schrondinger được thực hiện thì rõ ràng là người ta không thể kết thúc với con mèo vừa sống vừa chết trong một tỷ lệ trộn lẫn. Chỉ có một tập hợp của những con mèo sống và con mèo chết mới biểu diễn cho sự mô tả chính xác về thực tại.

Michael Audi nói rằng ’…nếu thuyết bất định được chấp nhận minh bạch thì những vấn đề triết học của việc diễn giải lý thuyết lượng tử trở nên dễ xử lý.’ Những người chống đối đưa ra lập luận rằng sự gán ghép trọng khối xác suất và sự sụp đổ một cách tùy ý cho những đường thẳng không xuất phát từ phương trình Schrodinger.Einstein và de Broglie cho rằng một thế giới hòan toàn tất định có thể được chấp nhận hơn một thế giới ngẫu nhiên và đề nghị một sự giải thích khác cho tính chất lập lờ của phương trình. Có lẽ tất cả những thông tin liên quan đến những biến cố cơ học lượng tử không được biết và một biến số chưa được khám phá hay là ‘biến số ẩn’ nào đó có thể chịu trách nhiệm cho những ứng xử biến đổi của hai hạt.Quan điểm này lần đầu tiên được đề xuất bởi Einstein năm 1935.

Trong những bản thảo ban đầu về lý thuyết lượng tử, Heisenberg nhấn mạnh rằng những đại lượng vật lý chỉ có thể được xem là thực chỉ sau khi chúng được thực sự quan sát, nghĩa là, khi chúng là những biến cố có thể mô tả được trong không-thời gian và được nhận thức. Bohr thuyết phục Heisenberg rằng lý thuyết lượng tử không có ý nghĩa khi vắng mặt lĩnh vực cổ điển. Bất kỳ một điều gì không được kiểm chứng bằng thực nghiệm, không dẫn ra những ‘hệ qủa được quan sát’ và ‘thiếu nền tảng trực giác’ đều bị ông ta đơn thuần loại bỏ khỏi địa hạt của những thực tế khách quan .

Sau khi mang lại cho lý thuyết lượng tử một hình thức luận tóan học được khai triển đầy đủ với Nguyên Lý Bất Định, Heisenberg và một số nhà vật lý khác bắt đầu đặt câu hỏi về bản chất của những thực tế vật lý hay khách quan. Như được dẫn ra trong phần mở đầu, Heisenberg đi đến kết luận rằng ‘…thực tế khách quan…..đã bốc hơi vào trong …toán học và nó[tóan học] không còn biểu hiện ứng xử của hạt cơ bản nữa mà đúng hơn nó biểu thị kiến thức của chúng ta về ứng xử đó

Trong một nỗ lực duy trì sự tồn tại của một thực tế khách quan và vẫn giải quyết được vấn nạn về hàm sóng, nhà vật lý đoạt giải Nobel Eugene Wigner năm 1961 đã đề nghị một giải pháp thứ hai.Nếu phương trình Schrodinger không biểu thị cho thực tế, thì có lẽ chính ý thức là biến số ẩn quyết định kết qủa của một biến cố thực sự sẽ xảy ra. Wigner chỉ ra rằng nghịch lý ‘con mèo của Schrodinger’ chỉ xảy ra sau sự đưa vào nhận thức của con người những tín hiệu đo lường. Nói một cách khác, nghịch lý này chỉ xảy ra vào cái lúc mà sự quan sát của con người can thiệp vào.

Theo Wigner, mọi ý nghĩa mà cơ học lượng tử nhằm cung cấp chính là những mối liên hệ mang tính xác suất giữa những qúa trình tiếp nối của nhận thức. Ông cho rằng không thể nào có được sự mô tả những qúa trình lượng tử mà không có ‘một sự tham chiếu tường minh vào nhận thức’. Trong vấn nạn ‘con mèo của Schrondinger’ chính nhận thức của người quan sát đã can thiệp và kích khởi để một kết qủa nào đó được quan sát trong số những kết qủa khả dĩ . Wigner cũng gợi ý rằng phải có sự tìm kiếm những tác động khác mà nhận thức có thể tạo nên.

Trong tác phẩm ‘ Symmetries and Reflections’ Wigner đã phác thảo một sự mô tả tóan học khả dĩ về cái mà ông tin là nó phải xảy ra khi nhận thức tác động lên sự quan sát. Ông cho rằng,’ lập luận đã có trước về sự khác biệt trong vai trò của những dụng cụ quan sát vô tri và người quan sát với nhận thức – về sự vi phạm các định luật vật lý nơi mà nhận thức có vai trò- là hoàn toàn có sức thuyết phục một khi người ta còn chấp nhận những nguyên lý của cơ học lượng tử chính thống với toàn bộ những hệ qủa của nó. Điểm yếu của lập luận này đối với việc cung cấp một hiệu qủa riêng biệt của ý thức lên vật chất nằm ở sự nương tựa tòan bộ vào những nguyên lý đó- một sự nương tưạ rất khó để biện minh đầy đủ khi dưạ trên cơ sở của kinh nghiệm của chúng ta với bản chất phù du của các lý thuyết vật lý

Ý tưởng về nhận thức tác động lên vật chất là một khẳng định bất bình thường đối với các nhà vật lý. Trong phương pháp cơ học và kinh nghiệm, khoa học luôn luôn cố gắng khử trừ bóng ma của nhận thức ra khỏi bất kỳ sự thiết lập về các định luật vật lý. Wigner gợi ý rằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại vật lý giống như bản chất của luật nhân qủa đều cần được tái kiểm tra và đó chính là sự khởi hành triệt để từ vật lý cổ điển. Mặc dù Wigner đề nghị một mối liên hệ mới giữa người quan sát và cái được quan sát, ông ta vẫn xác nhận rằng mối dây liên lạc giữa nhận thức và thực tại ‘không thể bị loại trừ’. Vẫn có hai loại thực tại- chủ quan và khách quan.Lãnh vực cổ điển của các thực tại khách quan đơn thuần trở thành tương đối.

Nhà vật lý học ở Princeton John A.Wheeler tin rằng thuật ngữ ‘người quan sát’ nên được thay thế bằng ‘ người tham gia’. Sự thay thế này, ông ta cảm thấy rằng, đã chỉ ra một cách tường minh vai trò mới và triệt để của nhận thức trong vật lý. Thay vì phủ nhận sự tồn tại của những thực tại khách quan ông ta đã đi xa hơn với sự khẳng định rằng thực tại chủ quan và khách quan phần nào đã sinh ra lẫn nhau. Chúng là những hệ thống’ tự kích thích’ và biến thành ‘tự tham chiếu’. Ông viết’ trong một ý nghĩa lạ lùng nào đó, phải chăng vũ trụ có thể “tự trở thành” bởi sự tham gia của những kẻ đã dự phần?...tác động sống còn là sự tham gia. “ Người tham dự” là một khái niệm mới không thể bàn cãi do cơ học lượng tử mang lại. Nó đốn ngã danh từ” người quan sát” của lý thuyết cổ điển : kẻ đứng sau những tấm kính an toàn và theo dõi những gì đang xảy ra mà không dự phần vào’. Wheeler kết luận,’ nó không thể xong được, cơ học lượng tử nói vậy

Sự gợi ý về thuật ngữ ‘ kẻ tham dự’ của Wheeler chứng tỏ bản chất huyền bí của ngành vật lý mới. Chúng ta có thể nhớ lại khẳng định của Sir James Jeans rằng tâm thức có thể là kẻ sáng tạo và cai trị của lĩnh vực vật chất. Tương tự như thế, trong một bài báo có tựa là “ Implications of Meta-Physics for Psychoenergetic Systems’ nhà vật lý Jack Sarfatti cũng xác nhận niềm tin của mình rằng cấu trúc của vật chất không thể độc lập với ý thức!

Sarfatti còn đề nghị xa hơn rằng chúng ta phải kết hợp chặt chẽ phép tính logic với những mệnh đề hai gía trị ‘đúng-sai’ để hiểu hoàn toàn lý thuyết lượng tử. Cái luận lý ‘yes-and-no’ này sẽ dẫn chúng ta đến sự biểu đạt thứ ba của cơ lượng tử : sự biểu đạt của Everett-Wheeler hay ‘đa thế giới’. Quan điểm này trình bày thế giới gần như là khoa học gỉa tưởng nhưng ngược lại với trực gíac của hầu hết các nhà vật lý. Sự biểu đạt này cho rằng vũ trụ liên tục tách ra thành một số vô cùng lớn những thực tại song song. Trong một vũ trụ như thế, chúng ta không chỉ hiện hữu trong một số vô hạn các thế giới mà những kết qủa khả dĩ của bất kỳ một biến cố nào cũng tồn tại như thế.

Trong truyện ngắn ,’ The Garden of the Forking Paths’ (Khu Vườn Rẽ Nhánh) , Jorge Luis Borges kể về một người đàn ông qúi phái, kỳ bí người Trung quốc có tên là Ts’ui Pên. Người này trong đời đã thề hai điều: viết một cuốn sách và xây một mê cung. Chỉ sau khi ông ta chết thì con cháu của ông ta mới nhận ra hai dự án này là một. Cuốn sách mà Ts’ui Pên viết có tên là The Garden of the Forking Paths ( Khu Vườn Rẽ Nhánh ) rất kỳ bí và có vẻ phi lý.Trong chương đầu tiên nhân vật chính bị giết. Ở chương thứ hai, nhân vật này sống lại. Mỗi khi mà một trong những nhân vật này đối diện với những nhân vật thay thế mình, thì người này chọn tất cả những nhân vật thay thế đồng thời.

Posted Image

Borges mô tả nhân vật chính sau cùng đã nhận ra cảnh mộng ảo được che dấu trong The Garden of the Forking Paths. Đó chính là sản phẩm lý thuyết về bản chất của thời gian: ‘ một bức tranh chưa đầy đủ mà không sai lạc của vũ trụ như Ts’ui Pên cảm nhận nó đang-là. Khác với Newton và Schopenhauer….[ông ta]không nghĩ thời gian là tuyệt đối và đều. Ông ta tin vào một chuỗi vô tận thời gian đang phát triển với tốc độ chóng mặt, như một mạng lưới đang trải rộng với những dòng thời gian phân kỳ, hội tụ và song song. Cái mạng thời gian này- những sợi tơ đến gần nhau, chẻ nhánh, giao cắt hoặc tách rời nhau trải qua hàng thế kỷ- đã ôm giữ mỗi khả thể.’ Như nhân vật chính giải thích, ‘ Chúng ta không hiện hữu trong hầu hết các vũ trụ đó. Anh hiện hữu trong một số vũ trụ này và tôi không có mặt ở đó mà lại ở những vũ trụ khác nơi đó không có anh. Cũng có những vũ trụ khác mà cả chúng ta đều hiện hữu. Trong thế giới này ở đó may mắn đến với tôi, anh đã đến cửa nhà tôi. Trong thế giới khác, anh đi qua khu vườn và thấy tôi đã chết. Lại trong một thế giới khác, tôi đang nói những lời này nhưng là một kẻ sai lầm, một bóng ma.

Mặc dù tác phẩm của Borges chỉ là gỉa tưởng, nhưng ý niệm về thời gian của Ts’ui Pên lại song hành với diễn giải của Everett-Wheeler trong cơ học lượng tử. Một cách cơ bản, có ba vấn đề đang ám ảnh những diễn giải khác nhau của cơ lượng tử. Trước tiên, nỗ lực của von Neumann nhằm kiểm tra những sai lầm của phương trình Schrodinger đã gỉa định rằng nền tảng tóan học không đúng. Hàm sóng mô tả thực tại mâu thuẫn với trực giác nhưng, như ‘Tai Họa Của Chuỗi Lùi Vô Hạn’ đã tiết lộ: nền tảng toán học không bao giờ được chứng minh là sai lầm. Thứ hai, sự sụp đổ của phương trình sóng được sử dụng bởi trường phái Copenhagen đã tránh né bất kỳ sự giải thích nào cho những hiện tượng có tính xác suất như thế. Cuối cùng, những đề nghị như của Wigner đã gỉa định sự tồn tại của một thực tế vật lý mặc dù sự phát hiện của Heisenberg đã cho thấy cái định nghĩa về một thực tế vật lý như thế là không thể được.

Năm 1957 Hugh Everett cùng với John A.Wheeler đã kiểm tra lại những vấn đề trên. Sau đó, họ đưa ra sự diễn giải Everett-Wheeler về cơ học lượng tử mà không đòi hỏi sự thay đổi nào về cơ sở toán học của phương trình Schrodinger. Trong những tiền đề cơ sở, sự diễn giải này đã:

  • Chấp nhận nền tảng tóan học của phương trình Schrodinger
  • Chấp nhận rằng không một nhánh nào của phương trình Schrodinger bị sụp đổ
  • Phủ nhận sự tồn tại của một thực tại vật lý.Gỉa thiết Everett-Wheeler chấp nhận sự diễn giải mang tính xác suất theo qui ước của lý thuyết lượng tử bằng một sự phân biệt quan trọng. Xác suất liên hệ với lý thuyết lượng tử khác biệt về mặt khái niệm và không nên lẫn lộn với khái niệm xác suất như được hiểu trong vật lý thống kê. Lý thuyết lượng tử mô tả một cách tóan học một vũ trụ mà trong đó cơ may (chance) không phải là một phép đo lường sự không hiểu biết của chúng ta về một hệ thống nhưng có tính tuyệt đối. Không thể tránh được những trạng thái như sự lập lờ của hàm sóng xảy ra. Những nhánh của hàm sóng tách ra và chia chẻ tương ứng với những xác suất của một phép đo cho trước. Cách ứng xử là phần toán học của phương trình Schrondinger. Bởi vì cơ may không phải là sự đo lường sự không hiểu biết của chúng ta về hệ thống nên những thông tin mới không thể làm chúng ta phủ nhận hay thay đổi phương trình.
Vấn đề ,dĩ nhiên, cũng là vấn đề mà những hậu duệ của Ts’ui Pên đã gặp phải. Lối diễn giải của Everett-Wheeler chấp nhận ba vấn đề mà các lối diễn giải khác đã gặp, nhưng nó thách thức trực gíac của chúng ta về thời gian. Như Bryce deWitt đã chỉ ra, Everett và Wheeler đề nghị một vũ trụ mà ‘…..thường xuyên tách ra thành một số vô cùng lớn các nhánh rẽ, tất cả sinh ra từ phép đo giống như tương tác giữa vô số các thành phần của nó. Hơn thế nữa, mỗi một chuyển dời lượng tử xảy ra trên mỗi ngôi sao, trong mỗi thiên hà, nơi mỗi góc xa xăm của vũ trụ đang tách thế giới định xứ của chúng ta trên trái đất thành vô số những bản sao của chính nó

Khả năng của 10100+ vũ trụ, tất cả những bản sao không hoàn chỉnh giữa chúng và tất cả không hoàn tòan nhận biết được sự hiện diện của nhau, đã mang lại những hàm ý tuyệt vời.Trong thí nghiệm của Schrodinger, đối với mỗi con mèo sống trong vũ trụ của chúng ta lại có một con chết trong vũ trụ khác. Hàm sóng làm vũ trụ tách làm hai và do đó nghịch lý đã được giải quyết. Như tai họa chuỗi vô hạn lùi của von Neumann đã hàm ý, mỗi một biến cố cơ học lượng tử trong vũ trụ của chúng ta tạo nên một chuỗi vô hạn những phép chia mà ở đó xác suất cho phép mọi hiện thực khả dĩ đều ‘tồn tại’. Trong khu vườn có nhiều nhánh rẽ như thế lời giải đáp cho vấn nạn về sự bất định có thể là: một vũ trụ trong đó mọi kết qủa khả dĩ của một thí nghiệm đã thực sự xảy ra.

Lối diễn giải này cũng có những vấn đề của nó như những lối diễn giải trước đó. Một hình thức luận toán học dẫn đến lối diễn giải của chính nó có thể không bao giờ nhận được sự ủng hộ nơi phòng thí nghiệm. Ngay cả nếu như một thí nghiệm như thế được thực hiện, giống như những thiết bị kiểm tra của von Neumann, nó cũng có thể trở nên lập lờ và lại dẫn đến tất cả những kết qủa khả dĩ. Giống như một con mèo vừa sống vừa chết theo tỷ lệ trộn lẫn, cách diễn giải của Everett-Wheeler có thể minh chứng cho chính nó và phủ bác chính nó tại cùng một điểm và đồng thời.

Tuy nhiên, khi chúng ta bắt buộc phải chấp nhận logic yes-and-no trong sự kiện eclectron vừa là sóng vừa là hạt đồng thời tại một điểm thì có lẽ chúng ta cũng nên lưu ý đến gợi ý của Wheeler (và của Safatti) về phép tính yes-and-no. Lối diễn giải của Everett-Wheeler (dù có đúng về mặt bản thể hay không) có lẽ là câu trả lời thích hợp duy nhất.

Một lần nữa lối diễn giải này mang chúng ta đến với mối liên hệ giữa nhận thức và thực tại. ‘Người tham dự’ của Wheeler ngầm gợi ý lối diễn giải về đa thế giới. Nếu cả hai kết qủa của thí nghiệm’ con mèo của Schrodinger’ đều xảy ra thì ắt hẳn một tác nhân kích khởi nào đó trong nhận thức của con người phải quyết định kết qủa nào sẽ được kinh nghiệm. Jack Sarfatti tin tưởng chính vô thức của tập thể loài người đã định đoạt hạt sẽ phân hủy hay không. Tuy nhiên, vì chúng ta không nhận thức rằng chúng ta là những kẻ tham dự trong vũ trụ lượng tử, nên ý chí tập thể sẽ không hội tụ, không mạch lạc và chính điều này đã làm những biến cố lượng tử dường như ngẫu nhiên và có tính xác suất.

Tiến xa hơn và như một tiền đề, Sarfatti cho rằng khái niệm về ‘người tham dự’ cũng có thể được dùng để giải thích cho những hiện tượng khác. Chẳng hạn trong chuyển động Brown hay là chuyển động zigzag đều đặn của những hạt trong chất lỏng hay khí, ông đề nghị rằng chính cái ý thức của người tham dự đã quyết định chuyển động của các hạt. Tính chất ngẫu nhiên của chuyển động Brown là do gỉa định về sự thiếu hội tụ của ý chí tập thể loài người. Như thế, Sarfatti gợi ý, hạt bị vùi dập trong chuyển động Brown ngẫu nhiên, đã được tạo nên bởi sự vận hành trong tiềm thức của mọi kẻ tham dự. Ông khẳng định,’ Người tham dự trong một thí nghiệm lượng tử riêng biệt trong phòng thí nghiệm vật lý có thể là người thực hiện thí nghiệm, dù là ở tầm mức sâu hơn của sự liên thông lượng tử thì nó phải bao gồm mọi hệ có sự sống. Mọi hệ thống có nhận thức, không kể đến vị trí trong không-thời gian của chúng so với những thiết bị thí nghiệm, đều đóng góp rời rạc vào cái thế (potential) lượng tử được cảm nhận bởi từng hạt trong những hạt photon hay electron’.

Sarfatti cảm nhận rằng nguyên tắc về người tham gia chịu trách nhiệm về những tài năng có vẻ xuất chúng được chứng tỏ bởi tâm lý học như Uri Geller. Nếu những tài năng như thế được xác nhận, thì những cá nhân như Geller chỉ bằng vào tác động của ý chí cũng có thể nhiều lần kiểm soát chính xác vùng đập vào của những hạt riêng lẻ trong thí nghiệm về hai khe đã đề cập ở trước. ( Sarfatti đã thực sự tham dự thí nghiệm kiểm tra khả năng của Geller. Thí nghiệm này được dẫn dắt bởi giáo sư John Hasted ở Birbeck College, University of London vào ngày 20, 21 tháng 6 năm 1974. Những người chứng kiến bao gồm giáo sư David Bohm, Tiến sĩ Ted Bastin, Arthur Koestler và Arthur C. Clarke đã quan sát Geller biểu diễn làm cong miếng kim loại và kích khởi máy đếm Geiger bằng năng lực tâm lý. Hasted và Bohm đang chuẩn bị công bố bài báo cáo chi tiết)

Quan điểm của các nhà vật lý đang thay đổi. Đã năm mươi năm kể từ ngày Heisenberg trao phó những xác nhận kỳ vĩ liên quan đến sự quan sát. Một cách chậm rãi, khối lương đồ sộ những cơ sở khoa học bắt đầu cảm nhận về cơn chấn động đầu tiên về một thời đại mới. Hàng thế kỷ đã qua, những người theo thuyết thần bí luôn xác nhận rằng vật chất và ý thức là hai phương diện khác nhau của cùng một thứ gì đó. Với những người dành trọn cuộc đời của mình để cố gắng chọc thủng những bí ẩn của vật chất, thì vật lý hiện đại đã có một thông điệp, dù không mới mẻ nhưng hóa ra lại là một sự tái khám phá quan trọng nhất mà loài người chưa từng làm. Có lẽ, sự thay đổi này sẽ được cảm nhận như một chuỗi tiếng sấm rền khi những cấu trúc cũ đổ xuống và được thay thế bằng những cấu trúc mới. Có lẽ, sự thay đổi này sẽ nhỏ nhiệm và tiệm tiến đến nỗi mà chúng ta sẽ không có nhiều cảm nhận về nó hơn những người chống Copernic trong thời đại của Galileo đã không cảm thấy trái đất đang chuyển động. Dù thế nào đi nữa, thông điệp của nền vật lý mới này là: chúng ta là những kẻ tham gia trong một vũ trụ ngày càng kỳ diệu. Chúng ta đã xuyên thủng vật chất và đã tìm thấy ở đó một ít bụi trần và cái thóang nhìn của chính chúng ta.

Posted Image

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi viết lại bài này để biện minh bài phản hồi của Daretolead.

Xin cảm ơn sự quan tâm và chia sẻ của các bạn.

=======================================

Daretolead thân mến.

Tôi cũng hiểu nội dung của thuyết Bất Định, như Daretolead đã miêu tả. Có điều là tôi phải diễn đạt và biện minh theo cách của tôi. Bởi vì - bắt đầu từ nội dung đó - nó phải liên hệ được tới những khả năng tiên tri mà chính lý thuyết Bất Định cho rằng rất hạn chế, hoặc gần như bất khả thi. Nếu thuyết Bất định/ Hỗn độn đúng thì không có lý thuyết thống nhất. Hay nói đúng hơn. Chính lý thuyết thống nhất phải dung nạp được thuyết Bất định này. (Từ nay tôi dùng từ chính thức trong các bài viết của tôi là "Lý thuyết Bất định").

Bởi vậy, tôi phải phân biệt: Bản chất vật chất là bất định và nó được thể ở mọi khái niệm nền tảng - từ Toán học và ngay cả trong cuộc sống - Khái niệm "tôi" / Sinh học và xã hội - đều xây dựng trên cơ sở của tính bất định - và so sánh với - tính cấu trúc ổn định trong thời gian tương đối. Tính quy luật nằm ở phạm trù này - và tất cả mọi tri thức của nền văn minh phát triển đến một lý thuyết thống nhất nằm ở phạm trù này, chứ không phải nằm ở bản chất vất chất vốn bất định.

Trên cơ sở này mới chứng minh được bản chất của khả năng tiên tri thuộc về Lý học Đông phương - hoàn toàn khoa học và không mơ hồ. So với Lý học, đúng là những kiến thức khoa học kiện nay chỉ là nền tảng cơ bản - có phần chưa đầy đủ với tên gọi này - làm cơ sở để bắt đầu tìm hiểu một lý thuyết thống nhất mà tôi đang cố gắng chứng minh. Bởi vậy, đối với tất cả những kiến thức căn bản của tri thức khoa học hiện đại, tôi nghĩ chỉ cần thể hiện khái quát nội dung của nó. Chí ít là các nhà chuyên môn thừa nhân sự miêu tả của tôi không sai, trong trường hợp cụ thể mà tôi đã miêu tả.

Tôi cũng hiểu rằng:

Một con bướm vỗ cánh ở Amazon tạo nên hiệu ứng cơn bão ở Thái Bình Dương là hoàn toàn có thật - theo Lý học. Nhưng không phải con bướm nào cũng tạo ra hiệu ứng này. Và không phải tri thức hiện đại có khả năng tiên tri việc này - ngay cả khi chưa xuất hiện và ứng dụng thuyết Bất Định. Trong khí đó, kiến thức Lý học còn đi xa hơn:

Về lý thuyết nó có thể chỉ ra con bướm nào sẽ tạo ra cơn bão ở Thái Bình Dương trong hàng ngàn con trong đàn bướm đang bay. Bởi vậy, nếu chúng ta chỉ quanh quẩn theo tri thức cơ bản thì không thể tiến thêm được.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Daretolead xin cám ơn sự quan tâm của chú Thiên Sứ và chú vuivui.

Như chú Thiên Sứ có đề cập:

Tôi cũng hiểu nội dung của thuyết Bất Định, như Daretolead đã miêu tả. Có điều là tôi phải diễn đạt và biện minh theo cách của tôi.

.....

Bởi vậy, đối với tất cả những kiến thức căn bản của tri thức khoa học hiện đại, tôi nghĩ chỉ cần thể hiện khái quát nội dung của nó. Chí ít là các nhà chuyên môn thừa nhân sự miêu tả của tôi không sai, trong trường hợp cụ thể mà tôi đã miêu tả.

Dare nhận thấy diễn đàn mình không phải là một diễn đàn vật lý (hoặc các chuyên ngành khác như hóa, sinh, xã hội học,...) nên phần lớn các kết quả nghiên cứu từ các nhà khoa học chuyên ngành thường được các thành viên đăng tải dưới dạng trích dẫn lại các bài báo của các tác giả trên internet. Việc trang bị một nền tảng kiến thức căn bản để có thể tự mình đúc kết, tổng quát các kết quả nghiên cứu khác đòi hỏi sự tập trung thời gian và trí lực như chú Thiên Sứ đang làm. Dare muốn nhấn mạnh rằng không phải tất cả các bài báo tổng kết các kết quả nghiên cứu đều nói lên đúng bản chất và kết luận của các nghiên cứu này. Tác giả có thể bị ảnh hưởng và bị chi phối bởi nhiều yếu tố dẫn đến các kết luận không đúng với thực chất. Như vậy, Dare nghĩ khi tận dụng kết luận trong bài viết của các học giả khác ta cũng cần tham khảo từ nhiều nguồn, nhiều phía để có cái nhìn đa diện.

Dare nghĩ mỗi một khám phá mới của khoa học dẫn chúng ta đến một tầm nhận thức mới, một chân lý gắn với thực tại mới. Nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử có vị trí khoa học của nó và vẫn được nhiều nhà khoa học chấp nhận vì nó mô tả được thực tại (mà con người biết). Ta chỉ phản đối các cách diễn giải, kết luận một cách tối thượng kiểu "bất khả tri". Đơn giản vì ta "chưa biết" chứ không phải là "không thể biết". Dare nghĩ chú Thiên sứ sẽ phải đương đầu với rất nhiều vấn đề (tầm triết học) mà người ta vẫn đang còn tranh cãi.

Một ví dụ khác, dare thấy nhiều bài viết bàn về bigbang được trích dẫn. Người đọc chỉ lấy cách hiểu chất phác về một vụ nổ lớn để luận và so sánh nó trong lý học và hiểu sai bản chất toán học cũng như vật lý của bigbang. Điều này vô tình làm giảm giá trị nghiên cứu của lý học phương đông.

Như vậy, để kết luận một kết quả nghiên cứu khoa học (vật lý lượng tử chẳng hạn) thì không thể đơn thuần dựa vào bài báo của một vài học giả nào đấy. Thông tin đi từ kết quả gốc, qua nhiều người với nhiều quan điểm, tư duy khác nhau thì cần phải được thẩm định kỹ.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Daretolead xin cám ơn sự quan tâm của chú Thiên Sứ và chú vuivui.

Như chú Thiên Sứ có đề cập:

Dare nhận thấy diễn đàn mình không phải là một diễn đàn vật lý (hoặc các chuyên ngành khác như hóa, sinh, xã hội học,...) nên phần lớn các kết quả nghiên cứu từ các nhà khoa học chuyên ngành thường được các thành viên đăng tải dưới dạng trích dẫn lại các bài báo của các tác giả trên internet. Việc trang bị một nền tảng kiến thức căn bản để có thể tự mình đúc kết, tổng quát các kết quả nghiên cứu khác đòi hỏi sự tập trung thời gian và trí lực như chú Thiên Sứ đang làm. Dare muốn nhấn mạnh rằng không phải tất cả các bài báo tổng kết các kết quả nghiên cứu đều nói lên đúng bản chất và kết luận của các nghiên cứu này. Tác giả có thể bị ảnh hưởng và bị chi phối bởi nhiều yếu tố dẫn đến các kết luận không đúng với thực chất. Như vậy, Dare nghĩ khi tận dụng kết luận trong bài viết của các học giả khác ta cũng cần tham khảo từ nhiều nguồn, nhiều phía để có cái nhìn đa diện.

Dare nghĩ mỗi một khám phá mới của khoa học dẫn chúng ta đến một tầm nhận thức mới, một chân lý gắn với thực tại mới. Nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử có vị trí khoa học của nó và vẫn được nhiều nhà khoa học chấp nhận vì nó mô tả được thực tại (mà con người biết). Ta chỉ phản đối các cách diễn giải, kết luận một cách tối thượng kiểu "bất khả tri". Đơn giản vì ta "chưa biết" chứ không phải là "không thể biết". Dare nghĩ chú Thiên sứ sẽ phải đương đầu với rất nhiều vấn đề (tầm triết học) mà người ta vẫn đang còn tranh cãi.

Một ví dụ khác, dare thấy nhiều bài viết bàn về bigbang được trích dẫn. Người đọc chỉ lấy cách hiểu chất phác về một vụ nổ lớn để luận và so sánh nó trong lý học và hiểu sai bản chất toán học cũng như vật lý của bigbang. Điều này vô tình làm giảm giá trị nghiên cứu của lý học phương đông.

Như vậy, để kết luận một kết quả nghiên cứu khoa học (vật lý lượng tử chẳng hạn) thì không thể đơn thuần dựa vào bài báo của một vài học giả nào đấy. Thông tin đi từ kết quả gốc, qua nhiều người với nhiều quan điểm, tư duy khác nhau thì cần phải được thẩm định kỹ.

Đồng ý với nhận xét của Dare.

Nhưng một lý thuyết thống nhất nó phải khái quát được tất cả mọi lý thuyết hiện hữu và giải thích được những vấn đề mà con người quan tâm. Nếu như ở mỗi lý thuyết chuyên ngành - mà những dẫn chứng đụng chạm tới - đều đòi hỏi một kiến thức thẩm định chuyên sâu thì thật là điều bất khả cho cá nhân tôi. Bởi vì: Không ai có một kiến thức chuyên sâu cho tất cả mọi ngành từ toán , lý, xã hội, sinh , địa, triết...vv.... Do đó, vấn đề sẽ là: Tôi sẽ trình bày những kết luận cuối cùng củng các chuyên gia hàng đầu về lý thuyết của họ. Hoặc trên cơ sở khái quát những luận điểm của họ. Trên cơ sở đó tôi sẽ chứng minh cho luận điểm của tôi.

Tôi rất thận trọng khi thu thập tư liệu.

Một lần nữa cảm ơn Dare chia sẻ.

Tôi sẽ lưu ý hơn.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bản chất của ý thức

Phù Dịch quãng hỹ. Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngữ.

Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc nhi chính. Dĩ ngôn hồ thiên địa chi gian tắc bị hỹ.

Dịch lớn thay! Nói về xa thì vô cùng, nói về gần thì tĩnh mà chính.

Nói về trời đất thì bao trùm tất cả! .

I - Khái niệm về vấn đề

Khoa học ngày càng đi sâu vào thế giới vật chất vi mô. Những dạng tồn tại nhỏ nhất của vật chất được lần lượt phát hiện. Những cấu trúc - những dạng tồn tại của vật chất - ngày càng nhỏ dần và có vẻ như từ từ biến mất. Các nhà khoa học hàng đầu ngơ ngác. Đã có người la lên rằng: "Vật chất đã biến mất". Những giáo lý tôn giáo bắt đầu xem xét lại tính hợp lý cho sự tồn tại của Thượng Đế. Cuốn "Thượng Đế và Khoa học" là một điển hình (*). Trong cuốn này - được trước tác bởi ba vị viện sĩ của Viện Hàn lâm khoa học Pháp Quốc - đã kết luận: Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ. Trong trường hợp này - như người viết đã trình bày:

Định mệnh không có thật. Vì nó tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của Thượng Đế.

Chúng ta giả thiết rằng: Tất cả các qui luật vật lý trong vũ trụ đã được phát hiện. Mọi quy luật tương tác - mà khoa học thừa nhận tính tương tác tạo nên vạn vật - đều được khám phá. Trong trường hợp này vấn đề đặt ra cho khoa học sẽ là:

Bản chất của ý thức là gì? Và tất cả các quy luật tương tác vật lý có tương tác với ý thức hay không?

Hay chỉ có sự tương tác một chiều: Sự tương tác của ý thức với vật chất và không có chiều ngược lại?

Cũng hàng ngàn năm qua đi...Đã có nhiều cách giải thích minh triết khác nhau về vũ trụ và con người. Nhưng hầu hết các trường phái triết học cổ xưa cũng như hiện đại đều phân biệt trạng thái ý thức (hoặc tinh thần) và vật chất. Và “Ý thức” là khái niệm cho một dạng tồn tại phi vật chất và có tương tác với vật chất.

Bởi vậy, nếu tiêu chí khoa học hiện đại cho rằng: “một lý thuyết khoa học phải có tính quy luật và có khả năng tiên tri” thì – từ tiêu chí khoa học và giả thiết về tính quy luật của những hiệu ứng vũ trụ tác động lên con người – vấn đề sẽ được đặt ra là:

Những hiệu ứng tương tác vũ trụ này có tương tác với ý thức con người hay không?

Hay nói một cách khác:

Có sự tương tác hai chiều giữa vật chất và ý thức không - Khi tất cả các trường phải triết học đều đã xác định một chiều là: "ý thức có tương tác với vật chất"?

I - 1: Trong trường hợp được xác định là "có" sự tương tác hai chiều thì bản chất của ý thức mang thuộc tính vật chất.

Như vậy sự phân biệt giữa vật chất và ý thức phi vật chất là một sai lầm trong nhận thức cổ điển. Đã có một lần, tôi hỏi một nhà khoa học trẻ, giảng viên toán lý một trường đại học. Câu hỏi là:

"Trong tri thức khoa học hiện đại mà anh biết, có một dạng tồn tại nào phi vật chất, nhưng lại có năng lương tác động lên vật chất hay không?".

Anh ta trầm ngâm suy nghĩ một lúc và trả lời tôi:

"Không!".

Với câu trả lời này thì nếu coi ý thức là một dạng tồn tại phi vật chất thì đây là điều hoàn toàn phi lý trong mối tương quan với tri thức khoa học hiện đại. Và điều này xác định về mặt lý thuyết rằng:

Tất cả mọi quy luật vật chất mà khoa học khám phá được sẽ hoàn toàn vô nghĩa . Vì trong vũ trụ tồn tại một sự tương tác phi vật chất và không kiểm chứng được, không quán xét được do tất cả mọi phương tiện kỹ thuật - vật chất - không tương tác với nó.

So sánh với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học thì vấn đề được xác định ở đây là: Ý thức và biến tướng của khái niệm này - mà ngày nay người ta gọi là "tâm linh" - phải là một dạng tồn tại của vật chất - chưa được khám phá. Hay nói cách khác: Khái niệm "vật chất" phải được định nghĩa lại. Và đây không phải lần đầu tiên trong lịch sử văn minh nhân loại những tư duy khoa học và minh triết đặt lại định nghĩa về khái niệm này.

Khái niệm mới định nghĩa về vật chất - được coi là hợp lý và cần trong tiểu luận này - như sau:

Mọi dạng tồn tại tương tác lẫn nhau, dù đã được biết đến hoặc chưa được biết đến - đều là vật chất.

Hay diễn đạt một cách đầy đủ là:

Vật chất là tất cả những dạng tồn tại và tương tác lên những dạng tồn tại khác và chính nó.

Bởi vì chúng phải có năng lượng để thực hiện sự tương tác đó. Khi đã có năng lượng thì chúng sẽ phải tuân theo quy luật tích lũy, sản sinh hay bảo tồn năng lương - một quy luật của khoa học.

I - 2: Trong trường hợp sự trả lời câu hỏi "Có sự tương tác hai chiều giữa vật chất và ý thức không - Khi tất cả các trường phải triết học đều đã xác định ý thức có tương tác với vật chất?" là “Không”.

Trong điều kiện này mọi quy luật vật lý thể hiện sự tương tác của vật chất đều không thể tồn tại, khi có sự tác động của ý thức – vốn được coi là một dạng tồn tại phi vật chất – và không kiểm soát được tính quy luật của nó. Tất yếu sẽ không có khả năng tiên tri. Và khi không có khả năng tiên tri thì đây chính là sự phủ nhận tiêu chí khoa học cho bất cứ một lý thuyết khoa học nào - "Một lý thuyết khoa học phải có khả năng tiên tri".

Như vậy - trong trường hợp này - dù người ta nhân danh tư tưởng minh triết thuộc bất cứ trường phái nào đều cũng sẽ dẫn thẳng đến Thượng Đế. Hay nói một cách khác: Toàn bộ tri thức khoa học loài người đã xây dựng nên trong lịch sử văn minh hiện đại phải sụp đổ (Chưa nói đến cái đám lóc nhóc "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế" đang được quảng cáo là ủng hộ quan niệm phủ nhận lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm, nhân danh khoa học).

I - 3: Phần này giới thiệu một dạng tồn tại được đặt ra và cần lưu ý của nền minh triết Đông phương, trong ba luồng tư tưởng cổ đại là: Dịch, Phật, Lão. Trong tính minh triết này có đặt vấn đề về một dạng tồn tại “không phải có, không phải không” và là bản tính chân như trong minh triết Phật Giáo; hoặc khái niệm Đạo trong Đạo giáo: "Đón thì không thấy đầu, theo thì không thấy đuôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối. Nhưng có thật và đáng tin"; Hoặc khái niệm Thái cực trong Dịch học.

Vấn đề này được đặt ra chỉ để lưu ý bạn đọc và sẽ được trình bày trong phần sau của tiểu luận này.

III - Bản chất của ý thức là gì?

Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã và đang có một khái niệm mới là một dạng tồn tại khác của "ý thức" và có vẻ như "ý thức" chỉ là một trường hợp riêng của trạng thái này. Đó là khái niệm "tâm linh". Nhưng dù với bất cứ khải niệm nào. Miễn là cái gọi là "ý thức " hay "tâm linh" đó có tương tác với vật chất thì - theo định nghĩa "Mọi dạng tồn tại có tương tác lẫn nhau, dù đã được biết đến hoặc chưa được biết đến - đều là vật chất.".

Ngược lại, nếu khẳng định tính phi vật chất của "ý thức" và "tâm linh" - cho dù thừa nhận tính tương tác của nó - thì như người viết đã trình bày ở trên: "Sẽ không có một khả năng tiên tri nào thực hiện được nhân danh khoa học". Bởi vì mọi quy luật vật lý sẽ phụ thuộc vào sự tương tác một chiều phi vật chất không kiểm chứng được, không phải đối tượng nghiên cứu khoa học và tất cả tri thức khoa học sẽ sụp đổ bởi chính tiêu chí của nó vì không còn tính quy luật và khả năng tiên tri.

Do đó, tính “Phi vật chất” của ý thức - tâm linh được tất các trường phái triết học cổ kim thừa nhận đến ngày hôm nay - khi người viết đang gõ những hàng chữ này, chính là một sai lầm trong phát triển tri thức của con người thuộc lịch sử văn minh hiện đại - khi người ta có một giới hạn trong khái niệm và định nghĩa cổ điển về vật chất.

Đó là nguyên nhân – ít nhất về mặt lý thuyết – khả năng tiên tri sẽ không thực hiện được và mọi quy luật của tự nhiên tạo nên tri thức nhân loại hiện đại sẽ sụp đổ bởi chính tiêu chí khoa học của nó.

Nhưng thực tế khả năng tiên tri vẫn đang hiện hữu và tồn tại từ ngàn đời. Trong đó tồn tại những phương pháp tiên tri có hệ thống, có qui luật và khách quan đã dẫn chứng là Tử Vi, Tử Bình...

Như vậy, sự tồn tại và hiệu quả của các phương pháp có khả năng tiên tri tri hàng ngàn năm, tự nó đã phủ nhận khái niệm “ý thức là một thể tồn tại phi vật chất”. Hay nói một cách khác: Khái niệm "ý thức: - hay "tâm linh" chỉ là những dạng tồn tại của vật chất. Trong điều kiện này thì nó phải chịu sự tương tác của những quy luật vật lý mà loài người đã khám phá ra hoặc chưa khám phá ra.

Như vậy, nếu câu trả lời là "Không" có sự tương tác của vật chất lên ý thức thì kết luận sẽ là "Không có Định mệnh có khả năng tiên tri" và vấn đề sẽ kết thúc ở đây.

Hay nói một cách khác: Nhân loại sẽ không bao giờ tìm được một lý thuyết thống nhất mà các nhà khoa học đang mơ ước - sẽ chứng minh rõ hơn ở phần sau với những nhận định của S.W. Hawking. Đồng thời người ta sẽ phải thừa nhận một lực lượng phi tự nhiên đang tác động vào tự nhiên không mang tính quy luật khách quan. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sụp đổ của tất cả tri thức khoa học mà nhân loại đã tích lũy.

IV - Những vấn đề tồn tại.

Nhưng nếu ý thức không thể phi vật chất thì con người rút cục chỉ là robot cao cấp chăng? Thực tế đã chứng minh không phải như vậy, cho dù tư duy (ý thức, tinh thần) có tính quy luật và có những thuộc tính vật chất thì vấn đề hợp lý tiếp theo sẽ là:

Cái gì nhận thức tính tương tác có qui luật đó? Kể cả qui luật tương tác của ý thức?

Để giải thích một cách hợp lý vần đề được đặt ra trong một chuỗi suy luận vì tính hợp lý của nó, chúng ta cần quay lại từ sự hình thành Thái Dương hệ.

"Trong giai đoạn đầu của sự hình thành Thái Dương Hệ – tức là vào giai đoạn chưa hề có một phần tử hữu cơ nào xuất hiện trên trái Đất để mở đầu cho sự sống – thì tất cả từ những vận động khởi đầu cho một quá trình phát triển, tiến hoá của tự nhiên trên trái Đất đều ảnh hưởng của những hiệu ứng tương tác từ vũ trụ. Chính những hiệu ứng tương tác từ vũ trụ này đã ảnh hưởng và chi phối quá trình tiến hoá của vật chất – cụ thể là trên trái đất – từ vô cơ đến hữu cơ, từ đơn giản đến phức tạp – cho đến khi hình thành những sinh vật cao cấp trên trái Đất hiện nay, trong đó có con người. Do đó, tất cả những sự hiện hữu dù đơn giản hay phức tạp, dù sinh vật bậc thấp hay cao trên trái Đất, đều tồn tại và phát triển trong tính tất yếu đã hiện hữu của những hiệu ứng vũ trụ và hoà nhập cân đối với những hiệu ứng đó, ngay từ những tế bào sống đầu tiên. Loài người cũng chỉ là một hiện tượng tồn tại hữu hạn trong quá trình vận động tương tác vô tận của vũ trụ. Do đó, sự tác động mang tính quy luật của những hiệu ứng vũ trụ lên chính con người (bao gồm cả những giá trị nhận thức và sự vận động tư duy, vốn là hệ quả của các hiệu ứng trên) phải là một thực tế hiện hữu và liên tục.

Nếu những vấn đề đặt ra theo giả thuyết ở trên không phải là một thực tế hiện hữu; tức là sự vận động của tâm lý, tư duy, những giá trị nhận thức... gọi chung là những giá trị tinh thần của con người, tách rời hoặc không chịu sự tác động của những hiệu ứng vũ trụ, thì sự phủ nhận này sẽ dẫn đến tính hợp lý tiếp theo của nó là: Thừa nhận một sự tồn tại thoát thai từ tự nhiên và trở thành phi tự nhiên (xuất phát từ vật chất và phi vật chất), không nằm trong sự chi phối của tự nhiên và tách rời tự nhiên ở tầm cỡ vũ trụ. Nếu sự tồn tại phi tự nhiên đó có thật và hiện hữu trong con người, thì đó chính là con đường dẫn tới ý niệm về Thượng Đế. Vì theo truyền thuyết, chỉ có Thượng Đế mới không chịu sự tương tác của tự nhiên. Điều này không thuộc về những luận điểm nhân danh khoa học và luận đề này sẽ kết thúc ở đây. Trong trường hợp này Định Mệnh sẽ không có thật mà tuỳ thuộc vào ý chí của Đấng Tối Cao, hoặc là một khái niệm khác - mà để tránh nhắc tới Thượng Đế - người ta gọi là "Tâm linh". Nếu đặt vấn đề: “ý thức có trước” thì câu hỏi đặt ra tiếp theo sẽ là: Tại sao cái có trước đó lại tạo ra những qui luật vật lý như thế này chứ không như thế kia? Tại sao nó không tạo ra một thế giới ngay như bây giờ mà lại phải từ một nền văn minh thấp và phát triển như hiện nay? Đây cũng là vấn đề đặt ra trong cuốn “Thượng Đế và khoa học” và được giải thích rằng: Thượng Đế toàn năng đã sắp đặt vũ trụ như hiện nay với những qui luật của nó? Nhưng khi đặt vấn đề như vậy, bản thân ngài Jean Guitton – Đồng tác giả, viện sĩ Hàn lâm viện Pháp Quốc – cũng chưa chứng minh được sự hiện hữu của Thượng Đế. Lập luận của ông trong suốt cuốn sách chỉ có thể coi là một cách đặt vấn đề, khi tri thức khoa học hiện đại còn khiếm khuyết ở cách giải thích sự khởi nguyên của vũ trụ. Hơn nữa sự phản biện quan điểm "Thượng Đế tạo ra vũ trụ" với các viện sĩ hàn lâm Pháp Quốc kia sẽ là:

Tại sao Thượng đế toàn năng lại sáng tạo ra những qui luật vật lý không thuộc sự chi phối của Ngài?

Khi các nhà khoa học tiến vào thế giới vi mô của vật chất thì họ chợt nhận ra rằng: Hình như vật chất biến mất, hình như sự tương tác của các hạt lượng tử trong các thí nghiệm tuỳ thuộc vào cách nghĩ của con người trực tiếp thí nghiệm nó? Nhưng với khái niệm về vật chất trình bày ở trên thì chính một sự tồn tại của vật chất chứa đựng năng lượng - mà người ta quen gọi là "ý thức" hoặc "tâm linh" đã tác động vào các hạt lượng tử.

Với những luận điểm và những luận cứ đã trình bày ở trên thì tiểu luận này cần giải quyết và chứng minh tiếp tục rằng:

Nếu tất cả những gì tồn taị trong vũ trụ đều là vật chất - đều là Âm trong khái niệm của Lý học Đông phương so với thể bản nguyên vũ trụ thì để giải quyết vấn đề còn lại mang tính nhân bản sẽ chứng minh rằng: "Con người không phải là robot của tạo hóa" sẽ phải tiếp tục trong tiểu luận này.

Một giả thuyết được đặt ra và cần phải chứng minh tính hợp lý của nó sẽ dẫn đến việc chỉ thẳng vấn đề mà những trí thức hàng đầu của nhân loại đang tìm kiếm:

"Thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến huyền vĩ Việt trải gần 5000 năm văn hiến - chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ"

Giả thuyết này đặt vấn đề cho rằng:

Phải chăng sự khởi nguyên của vũ trụ được bắt đầu bằng một thể nguyên thuỷ thống nhất?

----------------------

* Chú thích: Sách đã dẫn

Ta về giữa cõi vô thường

Đào trong kỷ niệm tìm hương cuối mùa

Thiên Sứ

Thưa thầy Thiên Sứ, Dare đọc lại từng phần bài viết của thầy Thiên Sứ và xin tiếp tục mạo muội thảo luận thêm một số điều:

Dare thấy rằng cách đặt vấn đề chưa hợp lý. Từ sự tương tác của quy luật vật lý trong thế giới vật chất để đặt câu hỏi về sự tác động của các quy luật này lên ý thức con người có gì đó hơi khiên cưỡng, mang tính logic/thống nhất cục bộ. Sự khiên cưỡng này được giải thích qua kết luận ý thức cũng là vật chất (nhưng tất nhiên con người không phải là robot).

Như chú Thiên Sứ cũng có đề cập, đã có rất nhiều trường phái triết học cố gắng trả lời cho những câu hỏi căn bản: vật chất là gì, ý thức là gì.

Cũng hàng ngàn năm qua đi...Đã có nhiều cách giải thích minh triết khác nhau về vũ trụ và con người. Nhưng hầu hết các trường phái triết học cổ xưa cũng như hiện đại đều phân biệt trạng thái ý thức (hoặc tinh thần) và vật chất. Và “Ý thức” là khái niệm cho một dạng tồn tại phi vật chất và có tương tác với vật chất.

Dare cho rằng thông tin sử dụng ở trên là chưa đầy đủ. Dare xin được trích lại định nghĩa vật chất và ý thức của Marx để tham khảo (lưu ý là hiện có nhiều người nói định nghĩa này đã cũ và xuất hiện các định nghĩa mới đầy đủ hơn).

Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình tư duy - đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Đây chính là bản chất xã hội của ý thức.

(trích từ http://vi.wikipedia...._Marx-Lenin%29)

Như vậy có thể nói rằng có nhiều câu trả lời cho câu hỏi vật chất, ý thức là gì. Riêng dare thì cho rằng phạm trù vật chất và ý thức theo Lenin/Marx là tương đối đầy đủ và chính xác.

Tiếp theo, dare nghĩ cần xem lại định nghĩa về vật chất của chú Thiên Sứ:

Mọi dạng tồn tại tương tác lẫn nhau, dù đã được biết đến hoặc chưa được biết đến - đều là vật chất.

Cần làm rõ nghĩa chữ "Tương tác". Ý thức có thể tác động lên vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, như vậy có được xem là tương tác hay không? Dare nghĩ đang có sự hiểu mối quan hệ giữa ý thức và vật chất một cách thô sơ - chủ nghĩa duy vật bình thường:

Như vậy sự phân biệt giữa vật chất và ý thức phi vật chất là một sai lầm trong nhận thức cổ điển. Đã có một lần, tôi hỏi một nhà khoa học trẻ, giảng viên toán lý một trường đại học. Câu hỏi là:

"Trong tri thức khoa học hiện đại mà anh biết, có một dạng tồn tại nào phi vật chất, nhưng lại có năng lương tác động lên vật chất hay không?".

Anh ta trầm ngâm suy nghĩ một lúc và trả lời tôi:

"Không!".

Với câu trả lời này thì nếu coi ý thức là một dạng tồn tại phi vật chất thì đây là điều hoàn toàn phi lý trong mối tương quan với tri thức khoa học hiện đại

Dare thấy rằng việc ý thức không là vật chất không ảnh hưởng đến khả năng tiên tri. Tuy nhiên cần làm rõ hơn về khái niệm tiên tri trong giới tự nhiên (vật lý) và tiên tri đối với con người. Con người khác sự vật vật lý vì nó có ý thức. Ý thức lại có mối quan hệ biện chứng với vật chất.

Dare cho rằng cần xác định rõ phạm vi, giới hạn khả năng tiên tri về con người: dung sai? Điều kiện? Xét đến các tương tác khác? Phân khúc thời gian? Số lượng mẫu?v.v...

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa thầy Thiên Sứ, Dare đọc lại từng phần bài viết của thầy Thiên Sứ và xin tiếp tục mạo muội thảo luận thêm một số điều:

Dare thấy rằng cách đặt vấn đề chưa hợp lý. Từ sự tương tác của quy luật vật lý trong thế giới vật chất để đặt câu hỏi về sự tác động của các quy luật này lên ý thức con người có gì đó hơi khiên cưỡng, mang tính logic/thống nhất cục bộ. Sự khiên cưỡng này được giải thích qua kết luận ý thức cũng là vật chất (nhưng tất nhiên con người không phải là robot).

Như chú Thiên Sứ cũng có đề cập, đã có rất nhiều trường phái triết học cố gắng trả lời cho những câu hỏi căn bản: vật chất là gì, ý thức là gì.

Dare cho rằng thông tin sử dụng ở trên là chưa đầy đủ. Dare xin được trích lại định nghĩa vật chất và ý thức của Marx để tham khảo (lưu ý là hiện có nhiều người nói định nghĩa này đã cũ và xuất hiện các định nghĩa mới đầy đủ hơn).

Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình tư duy - đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Đây chính là bản chất xã hội của ý thức.

(trích từ http://vi.wikipedia...._Marx-Lenin%29)

Như vậy có thể nói rằng có nhiều câu trả lời cho câu hỏi vật chất, ý thức là gì. Riêng dare thì cho rằng phạm trù vật chất và ý thức theo Lenin/Marx là tương đối đầy đủ và chính xác.

Tiếp theo, dare nghĩ cần xem lại định nghĩa về vật chất của chú Thiên Sứ:

Cần làm rõ nghĩa chữ "Tương tác". Ý thức có thể tác động lên vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, như vậy có được xem là tương tác hay không? Dare nghĩ đang có sự hiểu mối quan hệ giữa ý thức và vật chất một cách thô sơ - chủ nghĩa duy vật bình thường:

Dare thấy rằng việc ý thức không là vật chất không ảnh hưởng đến khả năng tiên tri. Tuy nhiên cần làm rõ hơn về khái niệm tiên tri trong giới tự nhiên (vật lý) và tiên tri đối với con người. Con người khác sự vật vật lý vì nó có ý thức. Ý thức lại có mối quan hệ biện chứng với vật chất.

Dare cho rằng cần xác định rõ phạm vi, giới hạn khả năng tiên tri về con người: dung sai? Điều kiện? Xét đến các tương tác khác? Phân khúc thời gian? Số lượng mẫu?v.v...

Để biện minh cho phản biện của Dare tôi trả lời vắn tắt như sau:

1 - Tương tác là khái niệm phổ biến trong ngôn ngữ khoa học và triết học. Tôi dùng đúng nghĩa của từ này. Nếu tôi phải định nghĩa lại thì hoặc là tôi đúng và tất cả định nghĩa tương tác trước sai. Hoặc thống nhất khái niệm.

2. Tôi đã phân tích rõ tính mâu thuẫn trong sự phân biệt giữa ý thức và vật chất trong quá trình phát triển của lịch sử triết học và khoa học. Nếu cứ theo tất cả các khái niệm về vật chất và ý thức có trước hệ thống của tôi thì không giải quyết được mâu thuẫn. Đó là điều kiện cần để phải định nghĩa lại về vật chất . Trên cơ sở này, tiếp tục giải quyết vấn đề về mặt lý thuyết.

Theo tôi hiểu thì trước Lê Nin , Mar đã có định nghĩa về vật chất, Sau đó trong quá trình phát triển của nền văn minh Lê Nin đã định nghĩa lại. Phải không nhỉ? Bây giờ tôi định nghĩa lại một lần nữa. Vậy thôi. Tôi còn nhớ. Trong cuốn "Biện Chứng Pháp" Nxb ST - do các triết gia Maxit Pháp được dịch. Có đoạn như sau:

Thuyết Duy vật biện chứng là thành tựu cuối cùng chứ không phải kết luận cuối cùng.

Dare hiểu vấn để này như thế nào? Nếu tất cả cái gì đã có trong tri thức nhân loại là kết luận cuối cùng và là chân lý tuyệt đối thì Dare hãy xác định điều này!

Đại ý vậy. Tôi xem cuốn này từ khi mới 17 tuổi, nên không nhớ nguyên văn.

3. . Nhưng vấn đề Dara đưa ra là những vấn đề cần tiếp tục giải quyết chứ không phải là điều kiện phản biện. Nhưng nó phải hoàn chính hệ thống của nó đã.

Tôi viết chưa xong mà..

Dare thấy rằng việc ý thức không là vật chất không ảnh hưởng đến khả năng tiên tri. Tuy nhiên cần làm rõ hơn về khái niệm tiên tri trong giới tự nhiên (vật lý) và tiên tri đối với con người. Con người khác sự vật vật lý vì nó có ý thức. Ý thức lại có mối quan hệ biện chứng với vật chất.

Dare cho rằng cần xác định rõ phạm vi, giới hạn khả năng tiên tri về con người: dung sai? Điều kiện? Xét đến các tương tác khác? Phân khúc thời gian? Số lượng mẫu?v.v...

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dare cảm ơn vì tiếp tục nhận được sự quan tâm của chú Thiên Sứ.

Dare hiểu là chân lý là cái mà khoa học hướng đến. Các phát minh, khám phá đều có tính chân lý tương đối, tức giải thích được sự vật hiện tượng thực tại. Và Dare đồng ý với chú Thiên Sứ là duy vật biện chứng là một nấc trong quá trình phát triển. Nếu xem mọi điều Lênin hay Marx hay ai khác nói là tuyệt đối thì sẽ mắc vào bệnh giáo điều.

Một hệ thống lý luận là đúng thì nó phải có tính thống nhất chặt chẽ. Đó cũng là điều mà chú Thiên Sứ thường nhắc đến. Tranh luận, đối thoại để mọi người có thể hiểu rõ hơn là điều mà dare mong mỏi. Khi trao đổi thì chí ít cũng phải đứng trên một lập trường nào đấy, ở đây Dare chọn duy vật biện chứng. Dare xin trình bày lại cụ thể các ý kiến trước đây như sau:

A. Dare nhận thấy cách suy luận:

Có sự tương tác hai chiều giữa vật chất và ý thức không - Khi tất cả các trường phải triết học đều đã xác định một chiều là: "ý thức có tương tác với vật chất"?

I - 1: Trong trường hợp được xác định là "có" sự tương tác hai chiều thì bản chất của ý thức mang thuộc tính vật chất.

là chưa rõ ràng. Lý do:

1. Theo định nghĩa từ điển: http://tratu.vn/dict...6%A1ng_t%C3%A1c thì tương tác (động từ) là tác động qua lại lẫn nhau. Việc dùng từ "tương tác", "tương tác 1 chiều", "tương tác 2 chiều" làm người đọc khó theo dõi. Đây là một phần lý do Dare hỏi nghĩa của từ tương tác.

2. Bài viết có nhắc đến một đoạn đối thoại:

Như vậy sự phân biệt giữa vật chất và ý thức phi vật chất là một sai lầm trong nhận thức cổ điển. Đã có một lần, tôi hỏi một nhà khoa học trẻ, giảng viên toán lý một trường đại học. Câu hỏi là:

"Trong tri thức khoa học hiện đại mà anh biết, có một dạng tồn tại nào phi vật chất, nhưng lại có năng lương tác động lên vật chất hay không?".

Anh ta trầm ngâm suy nghĩ một lúc và trả lời tôi:

"Không!".

Với câu trả lời này thì nếu coi ý thức là một dạng tồn tại phi vật chất thì đây là điều hoàn toàn phi lý trong mối tương quan với tri thức khoa học hiện đại. Và điều này xác định về mặt lý thuyết rằng:

Tất cả mọi quy luật vật chất mà khoa học khám phá được sẽ hoàn toàn vô nghĩa . Vì trong vũ trụ tồn tại một sự tương tác phi vật chất và không kiểm chứng được, không quán xét được do tất cả mọi phương tiện kỹ thuật - vật chất - không tương tác với nó.

Dare thắc mắc về cách hiểu từ "tương tác" của ngừoi giảng viên toán lý này (tương tác qua năng lượng, tương tác qua hoạt động thực tiễn của con người, v.v...?) hoặc anh ta không đồng tình rằng phạm trù ý thức không phải là phạm trù vật chất, hoặc anh ta không xem ý thức là phi vật chất hoặc ý thức cũng là một dang của vật chất. Điều này tất nhiên dẫn đến câu trả lời "KHÔNG".

3. Việc sử dụng tam đoạn luận không rõ ràng:

Mệnh đề 1: Khi tất cả các trường phải triết học đều đã xác định một chiều là: "ý thức có tương tác với vật chất"

Mẹnh đề 2: Trong trường hợp được xác định là "có" sự tương tác hai chiều

Mệnh đề 3: thì bản chất của ý thức mang thuộc tính vật chất

Từ mệnh đề 1 và 2 dare nghĩ không thể kết luận mệnh đề 3.

Dare đưa ra quan niệm theo duy vật biện chứng thì có phạm trù vật chất và ý thức. ý thức và vật chất có mối quan hệ biện chứng với nhau.

B. Tiếp theo:

I - 2: Trong trường hợp sự trả lời câu hỏi "Có sự tương tác hai chiều giữa vật chất và ý thức không - Khi tất cả các trường phải triết học đều đã xác định ý thức có tương tác với vật chất?" là “Không”.

Trong điều kiện này mọi quy luật vật lý thể hiện sự tương tác của vật chất đều không thể tồn tại, khi có sự tác động của ý thức – vốn được coi là một dạng tồn tại phi vật chất – và không kiểm soát được tính quy luật của nó. Tất yếu sẽ không có khả năng tiên tri. Và khi không có khả năng tiên tri thì đây chính là sự phủ nhận tiêu chí khoa học cho bất cứ một lý thuyết khoa học nào - "Một lý thuyết khoa học phải có khả năng tiên tri".

Dare đọc thấy rất khó hiểu trong suy luận. Mong chú Thiên Sứ giải thích, sắp xếp lại ý để bài viết mạch lạc hơn.

Dare thấy rằng phần mở đầu này cực kỳ quan trọng vì luận điểm ý thức là một dạng tồn tại của vật chất tức vật chất bao gồm ý thức để từ đó nói lên tính tiên tri (có sự tương đồng giữa các quy luật vật lý tác động lên vật chất và lên "vật-chất-ý-thức") nên lý luận phải rất chặt chẽ.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dare cảm ơn vì tiếp tục nhận được sự quan tâm của chú Thiên Sứ.

Dare hiểu là chân lý là cái mà khoa học hướng đến. Các phát minh, khám phá đều có tính chân lý tương đối, tức giải thích được sự vật hiện tượng thực tại. Và Dare đồng ý với chú Thiên Sứ là duy vật biện chứng là một nấc trong quá trình phát triển. Nếu xem mọi điều Lênin hay Marx hay ai khác nói là tuyệt đối thì sẽ mắc vào bệnh giáo điều.

Một hệ thống lý luận là đúng thì nó phải có tính thống nhất chặt chẽ. Đó cũng là điều mà chú Thiên Sứ thường nhắc đến. Tranh luận, đối thoại để mọi người có thể hiểu rõ hơn là điều mà dare mong mỏi. Khi trao đổi thì chí ít cũng phải đứng trên một lập trường nào đấy, ở đây Dare chọn duy vật biện chứng. Dare xin trình bày lại cụ thể các ý kiến trước đây như sau:

A. Dare nhận thấy cách suy luận:

là chưa rõ ràng. Lý do:

1. Theo định nghĩa từ điển: http://tratu.vn/dict...6%A1ng_t%C3%A1c thì tương tác (động từ) là tác động qua lại lẫn nhau. Việc dùng từ "tương tác", "tương tác 1 chiều", "tương tác 2 chiều" làm người đọc khó theo dõi. Đây là một phần lý do Dare hỏi nghĩa của từ tương tác.

2. Bài viết có nhắc đến một đoạn đối thoại:

Dare thắc mắc về cách hiểu từ "tương tác" của ngừoi giảng viên toán lý này (tương tác qua năng lượng, tương tác qua hoạt động thực tiễn của con người, v.v...?) hoặc anh ta không đồng tình rằng phạm trù ý thức không phải là phạm trù vật chất, hoặc anh ta không xem ý thức là phi vật chất hoặc ý thức cũng là một dang của vật chất. Điều này tất nhiên dẫn đến câu trả lời "KHÔNG".

3. Việc sử dụng tam đoạn luận không rõ ràng:

Mệnh đề 1: Khi tất cả các trường phải triết học đều đã xác định một chiều là: "ý thức có tương tác với vật chất"

Mẹnh đề 2: Trong trường hợp được xác định là "có" sự tương tác hai chiều

Mệnh đề 3: thì bản chất của ý thức mang thuộc tính vật chất

Từ mệnh đề 1 và 2 dare nghĩ không thể kết luận mệnh đề 3.

Dare đưa ra quan niệm theo duy vật biện chứng thì có phạm trù vật chất và ý thức. ý thức và vật chất có mối quan hệ biện chứng với nhau.

B. Tiếp theo:

Dare đọc thấy rất khó hiểu trong suy luận. Mong chú Thiên Sứ giải thích, sắp xếp lại ý để bài viết mạch lạc hơn.

Dare thấy rằng phần mở đầu này cực kỳ quan trọng vì luận điểm ý thức là một dạng tồn tại của vật chất tức vật chất bao gồm ý thức để từ đó nói lên tính tiên tri (có sự tương đồng giữa các quy luật vật lý tác động lên vật chất và lên "vật-chất-ý-thức") nên lý luận phải rất chặt chẽ.

Dare thân mến.

Thì ra là vậy. Đó là do cách sắp xếp và suy luận của Dare khi tìm hiểu luận điểm của tôi (Những cũng không loại trừ khà năng diễn đạt chưa thật dễ hiểu của tôi)

Tôi nói thêm để Dare thấy rõ hơn như sau:

Trong luận đề tôi đã nói rõ nội dung: Mọi người thừa nhận ý thức tương tác với vật chất. Vậy thì nó phải có năng lượng để thực hiện sự tương tác. Chứa đựng năng lương và tương tác thì nó mang thuộc tính vật chất - So với định nghĩa vật chất của tôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bản chất của sự vật, hiện tượng như là ý thức có phải vật chất hay phi vật chất cũng cần được xem xét ở khía cạnh thực tiễn bởi vì khi ta so sánh giữa vật chất và chu trình tạo nên ý thức liên quan đến hiện thực khác quan phản ảnh vào não bộ như định nghĩa nêu trên. Như vậy nếu thực tiễn có rất nhiều trường hợp xảy ra hiện tượng tương tác bằng ý thức (suy nghĩ) thì phải có nhận định khác, như:

- Dùng ý nghĩ di chuyển đồ vật như lấy viên thuốc trong lọ thủy tinh ra.

- Mấy chục năm trước có người đã làm dừng đồng hồ bigbang bằng suy nghĩ.

- Hiện tượng các nhà ngoại cảm...

Kính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình tư duy - đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Đây chính là bản chất xã hội của ý thức.

Nếu dùng định nghĩa này thì làm sao làm rõ được Ý thức là vật chất???.

Định nghĩa chỉ ra quá trình hình thành nên tư duy chứ không chỉ ra tư duy có phải là vật chất?

Như vậy, khả năng nếu ta dùng các định nghĩa của bất kỳ chuyên ngành nào thì đã hoàn toàn bị giới hạn vì chính các định nghĩa đó, do chúng chưa phản ánh được bản chất của hiện tượng "Ý thức".

Để giải quyết vấn đề này chỉ còn có các thí nghiệm thực tiễn sao cho "Ý thức" tác động được vào "Sự vật, hiện tượng" thông qua các công cụ đo hoặc bằng chính sự nhận biết trực tiếp của giác quan con người.

Kính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Để giải quyết vấn đề này chỉ còn có các thí nghiệm thực tiễn sao cho "Ý thức" tác động được vào "Sự vật, hiện tượng" thông qua các công cụ đo hoặc bằng chính sự nhận biết trực tiếp của giác quan con người.

Ngoài ra còn 1 thí nghiệm khác: Giả sử rằng nếu Ý thức là vật chất thì tự thân nó có khả năng chuyển hóa hay chứng minh có "tiêu tốn năng lượng" hoặc thay đổi tình trạng vật lý...

Kính.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dare thân mến.

Thì ra là vậy. Đó là do cách sắp xếp và suy luận của Dare khi tìm hiểu luận điểm của tôi (Những cũng không loại trừ khà năng diễn đạt chưa thật dễ hiểu của tôi)

Tôi nói thêm để Dare thấy rõ hơn như sau:

Trong luận đề tôi đã nói rõ nội dung: Mọi người thừa nhận ý thức tương tác với vật chất. Vậy thì nó phải có năng lượng để thực hiện sự tương tác. Chứa đựng năng lương và tương tác thì nó mang thuộc tính vật chất - So với định nghĩa vật chất của tôi.

Thưa chú Thiên Sứ,

Dare nghĩ rằng khi trao đổi để tìm chân lý thì một câu hỏi cần trả lời là căn cứ vào những tiêu chuẩn nào để biết hệ thống lý luận đó là đúng. Dare xin trích từ WILLIAM S. SAHAHAN & MABEL. SAHAKAN:

Xét trên phương diện của một tiêu chuẩn chân lý, kết cấu chặt chẽ nói đến sự lý giải nhất quán và có tính hệ thống đối với toàn bộ sự kiện thuộc về kinh nghiệm và tri thức. Để đảm bảo tiêu chuẩn này, người ta phải sắp xếp tất cả các sự kiện vào đúng vị trí, sao cho chúng thể hiện được mối tương quan với nhau một cách nhất quán và chặt chẽ như những bộ phận hữu cơ của một tổng thể thống nhất. Bất kỳ sự kiện nào được đề cập đến phải được lý giải thoả đáng, được đặt vừa khớp trong hệ thống tổng thể ấy. Chỉ những cách lý giải nào thoả mãn tối đa các yêu cầu của kết cấu tổng thể mới có thể được xem là thoả đáng.

Trong số các tiêu chuẩn được đề cập đến ở trên (daretolead - gồm 16 tiêu chuẩn như tập quán, tri thức nhân loại, nhất quán cục bộ, nhất quán tổng quát), kết cấu chặt chẽ là yếu tố thoả mãn các yêu cầu kiểm chứng chân lý một cách đầy đủ nhất. Nó bao hàm các đặc tính cần thiết: lý lẽ, hệ thống, tổng thể, tương quan và nhất quán. Rõ ràng, giới hạn của tiêu chuẩn này, không thuộc về khiếm khuyết của nó, chính là giới hạn của con người (hay nói cách khác, sự bất lực của con người) trong việc thu thập toàn bộ kinh nghiệm về thế giới thực tại. Chỉ có trí tuệ ?othông suốt mọi sự? mới sở hữu được khối tri thức khổng lồ ấy.

Do vậy, con người phải tự bằng lòng với vốn tri thức sẵn có ở thời điểm hiện tại, với những gì được chứng minh là chân xác theo chuẩn mực ?ocó khả năng gắn kết chặt chẽ nhất? đối với kinh nghiệm tri thức trong điều kiện hiện tại.

...

Cuối cùng, vấn đề còn nằm trong vòng bàn cãi là liệu có khả năng nhiều hệ thống kết cấu, bao gồm toàn bộ kinh nghiệm tri thức của con người, tồn tại song song với nhau?

Dare hoàn toàn tuân theo cách sắp xếp và suy luận của chú Thiên Sứ trong bài viết đó chứ. Dare không hề đưa vào các định nghĩa mới mà chỉ muốn làm rõ định nghĩa được đề cập trong bài viết. Nếu hệ thống suy luận trong bài viết lại đem đến nhiều cách hiểu khác nhau thì hệ thống suy luận này chưa chặt chẽ.

Chú Thiên Sứ có nói:

Trong luận đề tôi đã nói rõ nội dung: Mọi người thừa nhận ý thức tương tác với vật chất. Vậy thì nó phải có năng lượng để thực hiện sự tương tác. Chứa đựng năng lương và tương tác thì nó mang thuộc tính vật chất - So với định nghĩa vật chất của tôi.

Vậy cần hiểu "tương tác" ở đây như thế nào? Bài viết trả lời: tương tác qua năng lượng. Phải chăng bài viết đang đề cập đến tương tác vật lý? Vậy phải định nghĩa xem năng lượng là gì? Năng lượng tương tác giữa ý thức và vật chất có phải là năng lượng vật lý không? Ý thức tác động đến vật chất như thế nào? có cần năng lượng không? Tác động trực tiếp hay gián tiếp? (dare dùng chữ tác động thay cho tương tác). Có rất nhiều thuật ngữ cần làm sáng tỏ trước khi có thể đi đến kết luận một cách nhanh chóng rằng ý thức mang thuộc tính vật chất.

Nếu tất cả được hiểu theo nghĩa vật lý thì dare xếp vào loại chủ nghĩa duy vật tầm thường (ý thức là vật chất).

Ý thức không cần là vật chất. Ý thức và vật chất có quan hệ biện chứng. Tâm lý học nghiên cứu ý thức con người, tìm ra quy luật, ứng dụng nó trong đời sống.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa chú Thiên Sứ,

Dare nghĩ rằng khi trao đổi để tìm chân lý thì một câu hỏi cần trả lời là căn cứ vào những tiêu chuẩn nào để biết hệ thống lý luận đó là đúng. Dare xin trích từ WILLIAM S. SAHAHAN & MABEL. SAHAKAN:

Dare hoàn toàn tuân theo cách sắp xếp và suy luận của chú Thiên Sứ trong bài viết đó chứ. Dare không hề đưa vào các định nghĩa mới mà chỉ muốn làm rõ định nghĩa được đề cập trong bài viết. Nếu hệ thống suy luận trong bài viết lại đem đến nhiều cách hiểu khác nhau thì hệ thống suy luận này chưa chặt chẽ.

Chú Thiên Sứ có nói:

Vậy cần hiểu "tương tác" ở đây như thế nào? Bài viết trả lời: tương tác qua năng lượng. Phải chăng bài viết đang đề cập đến tương tác vật lý? Vậy phải định nghĩa xem năng lượng là gì? Năng lượng tương tác giữa ý thức và vật chất có phải là năng lượng vật lý không? Ý thức tác động đến vật chất như thế nào? có cần năng lượng không? Tác động trực tiếp hay gián tiếp? (dare dùng chữ tác động thay cho tương tác). Có rất nhiều thuật ngữ cần làm sáng tỏ trước khi có thể đi đến kết luận một cách nhanh chóng rằng ý thức mang thuộc tính vật chất.

Nếu tất cả được hiểu theo nghĩa vật lý thì dare xếp vào loại chủ nghĩa duy vật tầm thường (ý thức là vật chất).

Ý thức không cần là vật chất. Ý thức và vật chất có quan hệ biện chứng. Tâm lý học nghiên cứu ý thức con người, tìm ra quy luật, ứng dụng nó trong đời sống.

Điều này tôi đã trả lời Dare rồi:

Khái niệm tương tác của tôi là khái niệm chung đã ứng dụng.

Tôi không hề nói: Tương tác qua năng lượng". Dare xem lại.

Riêng đoạn này:

Dare nghĩ rằng khi trao đổi để tìm chân lý thì một câu hỏi cần trả lời là căn cứ vào những tiêu chuẩn nào để biết hệ thống lý luận đó là đúng. Dare xin trích từ WILLIAM S. SAHAHAN & MABEL. SAHAKAN:

"...đã trích dẫn..."

Tôi tuân thủ theo đúng tiêu chí khoa học và đã nhắc nhiều lần trên diễn đàn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nếu tất cả được hiểu theo nghĩa vật lý thì Dare xếp vào loại chủ nghĩa duy vật tầm thường (ý thức là vật chất).

Ý thức không cần là vật chất. Ý thức và vật chất có quan hệ biện chứng. Tâm lý học nghiên cứu ý thức con người, tìm ra quy luật, ứng dụng nó trong đời sống.

Giả sử rằng Ý thức đã được chứng minh là vật chất theo nghĩa vật lý thì sự chứng minh minh này đã không là một sự việc tầm thường và là khám vĩ đại và nó cũng sẽ phải được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, đây là điều tất yếu.

Thực tại, một số hiện tượng khách quan phản ánh một số tính chất khác với các quy luật của Tâm lý học như đã ví dụ ở trên, dẫn đến xuất hiện một nhận thức hoàn toàn khác biệt về sự tồn tại của Ý thức sau khi chết hay có một số sức mạnh đặc biệt tiềm ẩn của một số con người thông qua Ý thức, vậy thì sự hiểu của Ý thức qua môn Tâm lý học là rõ ràng chưa toàn vẹn, cho nên bản chất của Ý thức cũng cần phải nghiên cứu.

Tất cả mọi lý thuyết về quy luật hay quy phạm, tiêu chuẩn được xây dựng hoàn toàn dựa trên những cái mà khoa học đã biết, vậy thì bản chất của Ý thức là cái chưa biết phải chăng cũng có thể là đối tượng của khoa học?. Nếu Ý thức là vật chất thì Ý thức vừa có khả năng điều khiển và cũng chịu sự chi phối của các quy luật vận động của vật chất? vậy Ý thức sẽ có khả năng xử lý, điều chỉnh các vấn đề của cơ thể khi bị bệnh... - đây chính là một thành tựu khác xa với thành tựu y học của Tâm lý học hiện đại đủ nói lên sự quan trọng của việc này.

Châm cứu.

Khí Công.

Thiền...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Như chú thiên sứ đã thấy, trong diễn đàn đầy những cách hiểu về "tương tác" giữa ý thức và vật chất theo kiểu vật lý đấy thôi. Một kiểu duy vật tầm thường. Do vậy, Dare thiết nghĩ việc xác định khái niệm "tương tác" trong bài viết là gì cũng không phải là việc thừa.

Chú thiên sứ có nói:

ôi không hề nói: Tương tác qua năng lượng". Dare xem lại.

Lý do daretolead hiểu ý trong bài viết rằng ý thức và vật chất tương tác qua năng lượng là do trong bài viết có đề cập:

Khái niệm mới định nghĩa về vật chất - được coi là hợp lý và cần trong tiểu luận này - như sau:

Mọi dạng tồn tại tương tác lẫn nhau, dù đã được biết đến hoặc chưa được biết đến - đều là vật chất.

Hay diễn đạt một cách đầy đủ là:

Vật chất là tất cả những dạng tồn tại và tương tác lên những dạng tồn tại khác và chính nó.

Bởi vì chúng phải có năng lượng để thực hiện sự tương tác đó. Khi đã có năng lượng thì chúng sẽ phải tuân theo quy luật tích lũy, sản sinh hay bảo tồn năng lương - một quy luật của khoa học.

Theo bài viết thì Ý thức là một dạng tồn tại của vật chất, mà vật chất tương tác với nhau cần năng lượng. Vậy dare kết luận là ý thức tương tác với vật chất qua năng lượng.

Có thể thấy rõ mục đích của bài viết là khẳng định ý thức là vật chất, từ đó các quy luật vật lý có thể tác động lên vật chất thì cũng tác động lên ý thức. Tức nếu khám phá ra các quy luật này thì có khả năng tiên tri cuộc sống của con người (ý thức). Và sự dẫn dắt này có phần gượng ép và không chặt chẽ như dare đã nêu trong các bài trước.

Dare khi nêu ra định nghĩa về vật chất và ý thức theo duy vật biện chứng nhằm nói lên rằng:

1. Vật chất và ý thức có tác động qua lại 2 chiều chứ không phải 1 chiều như trong bài viết đề cập về kết luận của tất cả các trường phái triết học.

2. Ý thức được nghiên cứu chuyên sâu bởi tâm lý học, sinh lý học, và các ngành có liên quan như ngôn ngữ học, xã hội học v.v... Nó là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Và tất nhiên, nó có quy luật để con người có thể tìm hiểu, "tiên tri" về nó.

Và một điểm mà dare xem là gợi mở:

Cuối cùng, vấn đề còn nằm trong vòng bàn cãi là liệu có khả năng nhiều hệ thống kết cấu, bao gồm toàn bộ kinh nghiệm tri thức của con người, tồn tại song song với nhau?

và dare hy vọng là hệ thống lý thuyết của chú Thiên sứ đi qua cánh cửa hẹp này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Như chú thiên sứ đã thấy, trong diễn đàn đầy những cách hiểu về "tương tác" giữa ý thức và vật chất theo kiểu vật lý đấy thôi. Một kiểu duy vật tầm thường. Do vậy, Dare thiết nghĩ việc xác định khái niệm "tương tác" trong bài viết là gì cũng không phải là việc thừa.

Chú thiên sứ có nói:

Lý do daretolead hiểu ý trong bài viết rằng ý thức và vật chất tương tác qua năng lượng là do trong bài viết có đề cập:

Theo bài viết thì Ý thức là một dạng tồn tại của vật chất, mà vật chất tương tác với nhau cần năng lượng. Vậy dare kết luận là ý thức tương tác với vật chất qua năng lượng.

Có thể thấy rõ mục đích của bài viết là khẳng định ý thức là vật chất, từ đó các quy luật vật lý có thể tác động lên vật chất thì cũng tác động lên ý thức. Tức nếu khám phá ra các quy luật này thì có khả năng tiên tri cuộc sống của con người (ý thức). Và sự dẫn dắt này có phần gượng ép và không chặt chẽ như dare đã nêu trong các bài trước.

Dare khi nêu ra định nghĩa về vật chất và ý thức theo duy vật biện chứng nhằm nói lên rằng:

1. Vật chất và ý thức có tác động qua lại 2 chiều chứ không phải 1 chiều như trong bài viết đề cập về kết luận của tất cả các trường phái triết học.

2. Ý thức được nghiên cứu chuyên sâu bởi tâm lý học, sinh lý học, và các ngành có liên quan như ngôn ngữ học, xã hội học v.v... Nó là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Và tất nhiên, nó có quy luật để con người có thể tìm hiểu, "tiên tri" về nó.

Và một điểm mà dare xem là gợi mở:

và dare hy vọng là hệ thống lý thuyết của chú Thiên sứ đi qua cánh cửa hẹp này.

Dare có thể đưa khái niệm "tương tác" của chính Dare coi là đúng. Còn tôi đã trả lời rồi: Tôi dùng khái niệm "tương tác" đồng thuận với khái niệm này mà các nhà khoa học đã sử dụng.

Định nghĩa vật chất của tôi là - Tất cả mọi dạng tồn tại chứa đựng năng lượng và tương tác đều là vật chất. Còn Dare cho quan niệm của tôi là " tương tác qua năng lương" là cách suy diễn của riêng Dare. Đây là cách hiểu sai, nên cho rằng tôi sai. Dâre nên xem kỹ lại.

* Còn nếu chính Dare xác định vật chất và ý thức tác động hai chiều và cũng là quan niệm chung của tất cả các nhà khoa học thì tôi có thể không cần phải chứng minh. Hay nói đúng hơn: Phần minh chứng sẽ gọn gàng hơn. Dare nến xem kỵ lại để tránh suy diễn sai.

Theo bài viết thì Ý thức là một dạng tồn tại của vật chất, mà vật chất tương tác với nhau cần năng lượng. Vậy dare kết luận là ý thức tương tác với vật chất qua năng lượng.

Đây là một suy diễn sai , nến kết luận sai.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dare có thể đưa khái niệm "tương tác" của chính Dare coi là đúng. Còn tôi đã trả lời rồi: Tôi dùng khái niệm "tương tác" đồng thuận với khái niệm này mà các nhà khoa học đã sử dụng.

Định nghĩa vật chất của tôi là - Tất cả mọi dạng tồn tại chứa đựng năng lượng và tương tác đều là vật chất. Còn Dare cho quan niệm của tôi là " tương tác qua năng lương" là cách suy diễn của riêng Dare. Đây là cách hiểu sai, nên cho rằng tôi sai. Dâre nên xem kỹ lại.

* Còn nếu chính Dare xác định vật chất và ý thức tác động hai chiều và cũng là quan niệm chung của tất cả các nhà khoa học thì tôi có thể không cần phải chứng minh. Hay nói đúng hơn: Phần minh chứng sẽ gọn gàng hơn. Dare nến xem kỵ lại để tránh suy diễn sai.

Đây là một suy diễn sai , nến kết luận sai.

Thưa chú Thiên Sứ, Dare nghĩ rằng đã là khoa học thì phải thống nhất. Không thể cùng một khái niệm lại mỗi người hiểu theo một cách khác nhau là đúng được.

Vậy có thể nói rằng dare chưa hiểu khái niệm ý thức mà bài viết có đề cập đến. Không biết cách hiểu nào sau đây là đúng:

1. Ý thức là vật chất và nó chứa năng lượng, ý thức tương tác với vật chất.

2. Ý thức là vật chất và nó không chứa năng lượng. ý thức tương tác với vật chất.

Về biểu hiện của sự tương tác giữa ý thức và vật chất:

1. Tương tác giữa ý thức và vật chất phải dùng năng lượng

2. Tương tác giữa ý thức và vật chất không cần năng lượng.

Dare cũng xin hỏi chú Thiên Sứ và vật chất tương tác với ý thức như thế nào? Ý thức mang năng lượng gì? Năng lượng này có khác với năng lượng của vật chất không?

Đây không không phải là vấn đề duy vật hay duy tâm mà là vấn đề phương pháp luận. Nó quyết định toàn bộ những vấn đề mà chú Thiên Sứ đề cập tiếp theo sau trong bài viết. Bởi vậy ta phải cẩn trọng trong suy luận.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa chú Thiên Sứ, Dare nghĩ rằng đã là khoa học thì phải thống nhất. Không thể cùng một khái niệm lại mỗi người hiểu theo một cách khác nhau là đúng được.

Vậy có thể nói rằng dare chưa hiểu khái niệm ý thức mà bài viết có đề cập đến. Không biết cách hiểu nào sau đây là đúng:

1. Ý thức là vật chất và nó chứa năng lượng, ý thức tương tác với vật chất.

2. Ý thức là vật chất và nó không chứa năng lượng. ý thức tương tác với vật chất.

Về biểu hiện của sự tương tác giữa ý thức và vật chất:

1. Tương tác giữa ý thức và vật chất phải dùng năng lượng

2. Tương tác giữa ý thức và vật chất không cần năng lượng.

Dare cũng xin hỏi chú Thiên Sứ và vật chất tương tác với ý thức như thế nào? Ý thức mang năng lượng gì? Năng lượng này có khác với năng lượng của vật chất không?

Đây không không phải là vấn đề duy vật hay duy tâm mà là vấn đề phương pháp luận. Nó quyết định toàn bộ những vấn đề mà chú Thiên Sứ đề cập tiếp theo sau trong bài viết. Bởi vậy ta phải cẩn trọng trong suy luận.

1 -

Thưa chú Thiên Sứ, Dare nghĩ rằng đã là khoa học thì phải thống nhất. Không thể cùng một khái niệm lại mỗi người hiểu theo một cách khác nhau là đúng được.

Chính xác là như vậy! Và tôi nhắc lại thêm một lần nữa là: Khái niệm tương tác mà tôi dùng hoàn toàn thống nhất với tất cả các khái niệm tương tác mà các nhà khoa học đã xử dụng. Nếu Dare chỉ hỏi riêng tôi về khái niệm tương tác của tôi thì đây chính là sai lầm ngay từ đầu của Dare khi đặt vấn đề phản biện.(Xem lại số bài đầu tiên của Dare).

Cần làm rõ nghĩa chữ "Tương tác".

Dare đặt vấn đề: Các cách hiểu sau đây cách nào đúng?

2 -

1. Ý thức là vật chất và nó chứa năng lượng, ý thức tương tác với vật chất.

2. Ý thức là vật chất và nó không chứa năng lượng. ý thức tương tác với vật chất.

Về biểu hiện của sự tương tác giữa ý thức và vật chất:

1. Tương tác giữa ý thức và vật chất phải dùng năng lượng

2. Tương tác giữa ý thức và vật chất không cần năng lượng.

Tất cả các cách hiểu của Dare đều sai. Bởi vậy, Dare không nên đem cái hiểu sai của mình để làm căn cứ phản biện. Sai ở chỗ này:

Tôi đã xác định sự phân biết giữa ý thức và vật chất là một sai lầm - do đó không thể lấy chính ngay sự phân biệt đó làm để phản biệ - khi luận điểm của tôi bác bỏ sự phân biệt này.

3

3 - Dare cũng xin hỏi chú Thiên Sứ và vật chất tương tác với ý thức như thế nào? Ý thức mang năng lượng gì? Năng lượng này có khác với năng lượng của vật chất không?

Cách đặt vấn đề sai. Nên tôi không có trách nhiệm trả lời.

Sai ở chỗ này: Luận đề của tôi xác định : Không có phi vật chất. Do đó câu hỏi: Ý thức tác động tới vật chất như thế nào là một câu hỏi sai.

4 -

Đây không không phải là vấn đề duy vật hay duy tâm mà là vấn đề phương pháp luận. Nó quyết định toàn bộ những vấn đề mà chú Thiên Sứ đề cập tiếp theo sau trong bài viết. Bởi vậy ta phải cẩn trọng trong suy luận.

Trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại có bàn đến duy tâm và duy vật. Ở đây tôi đang viết về lý thuyết thống nhất là cái mà tri thức của văn minh hiện đại đang mơ ước và may ra có thể thấy được trong tương lai.

Thôi nhé! Tam thời chờ tôi viết xong đã rồi hãy thắc mắc. Chẳng ai lại phản biển khi bài toán đang làm nửa chừng cả.

Tôi rất cẩn trọng trong suy luận và Dare cứ yên tâm điều này.

Tôi rất nhậy cảm với câu: "Cẩn trọng trong suy luận". Dare nên lưu ý điều này!

Đây là phản biện khoa học . Dare nhân danh cái gì để có lời khuyên khá chân thành vây?

Kết luận của tôi với toàn bộ các bài viết của Dare:

Nhưng phản biện của Dare tôi rất cảm ơn vì khiến tôi lưu ý tính chuyên sâu bề chuyên ngành tôi dẫn chứng . Nhưng dù tôi không chuyên sâu thì cũng không có nghĩa là tôi sai. Điều này tôi đã trình bày: Tôi chỉ có thể tổng hợp kết luận cuối cùng của một lý thuyết và không g nhất thiết phải có kiến thức chuyên sâu về lý thuyết chuyên ngành nào đó.

Vì Dare không hiểu vấn đề mà tôi trình bày. Nhưng lại phản biện trên cái hiểu sai của mình và có tính áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình cho người bị phản biện: "Cần trong trong suy luận". Trong khi phản biện khoa học thì chỉ có đúng sai chứ klhông có cẩn trọng. Cẩn trong chỉ là vấn để "chính trị" thôi Dare ạ! Còn trong khoa học thì có thể sai. Hình như cả Eistein cũng có lần phải cải chính, Hawking cũng vậy.

Tôi có thể khóa topic này nếu diện biến theo chiều hướng kiểu" Duy tâm": "duy vật" và "cần trọng trong suy luận"!

Bởi vậy! Tôi nhận thấy rằng: Để chứng minh cho một chân lý là cực kỳ khó khăn.

Vài lời tâm sự một chút:

Nhiều lúc tôi thật sự cũng nản lắm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thực ra chứng minh Ý thức là vật chất cũng không quá khó như ta tưởng.

Nếu tư duy là sản phẩm của bộ não như các chuyên ngành khoa học đã chứng minh thì mặc nhiên tư duy phải là vật chất bởi không thể sản phẩm của vật chất là phi vật chất.

Ý thức là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của mỗi con người, vậy thì sự tương tác của Ý thức (khi sự tư duy về bất kỳ cái gì xuất hiện trong bộ não) sẽ bao hàm sự thay đổi của trạng thái cơ thể con người. Do có một số trường hợp thực tế khả dĩ chưa chỉ ra được nguyên nhân - kết quả cho nên nhầm lẫn Ý thức là phi vật chất.

Share this post


Link to post
Share on other sites

1 -

Chính xác là như vậy! Và tôi nhắc lại thêm một lần nữa là: Khái niệm tương tác mà tôi dùng hoàn toàn thống nhất với tất cả các khái niệm tương tác mà các nhà khoa học đã xử dụng. Nếu Dare chỉ hỏi riêng tôi về khái niệm tương tác của tôi thì đây chính là sai lầm ngay từ đầu của Dare khi đặt vấn đề phản biện.(Xem lại số bài đầu tiên của Dare).

Dare đặt vấn đề: Các cách hiểu sau đây cách nào đúng?

2 -

Tất cả các cách hiểu của Dare đều sai. Bởi vậy, Dare không nên đem cái hiểu sai của mình để làm căn cứ phản biện. Sai ở chỗ này:

Tôi đã xác định sự phân biết giữa ý thức và vật chất là một sai lầm - do đó không thể lấy chính ngay sự phân biệt đó làm để phản biệ - khi luận điểm của tôi bác bỏ sự phân biệt này.

3

Cách đặt vấn đề sai. Nên tôi không có trách nhiệm trả lời.

Sai ở chỗ này: Luận đề của tôi xác định : Không có phi vật chất. Do đó câu hỏi: Ý thức tác động tới vật chất như thế nào là một câu hỏi sai.

4 -

Trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại có bàn đến duy tâm và duy vật. Ở đây tôi đang viết về lý thuyết thống nhất là cái mà tri thức của văn minh hiện đại đang mơ ước và may ra có thể thấy được trong tương lai.

Thôi nhé! Tam thời chờ tôi viết xong đã rồi hãy thắc mắc. Chẳng ai lại phản biển khi bài toán đang làm nửa chừng cả.

Tôi rất cẩn trọng trong suy luận và Dare cứ yên tâm điều này.

Tôi rất nhậy cảm với câu: "Cẩn trọng trong suy luận". Dare nên lưu ý điều này!

Đây là phản biện khoa học . Dare nhân danh cái gì để có lời khuyên khá chân thành vây?

Kết luận của tôi với toàn bộ các bài viết của Dare:

Nhưng phản biện của Dare tôi rất cảm ơn vì khiến tôi lưu ý tính chuyên sâu bề chuyên ngành tôi dẫn chứng . Nhưng dù tôi không chuyên sâu thì cũng không có nghĩa là tôi sai. Điều này tôi đã trình bày: Tôi chỉ có thể tổng hợp kết luận cuối cùng của một lý thuyết và không g nhất thiết phải có kiến thức chuyên sâu về lý thuyết chuyên ngành nào đó.

Vì Dare không hiểu vấn đề mà tôi trình bày. Nhưng lại phản biện trên cái hiểu sai của mình và có tính áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình cho người bị phản biện: "Cần trong trong suy luận". Trong khi phản biện khoa học thì chỉ có đúng sai chứ klhông có cẩn trọng. Cẩn trong chỉ là vấn để "chính trị" thôi Dare ạ! Còn trong khoa học thì có thể sai. Hình như cả Eistein cũng có lần phải cải chính, Hawking cũng vậy.

Tôi có thể khóa topic này nếu diện biến theo chiều hướng kiểu" Duy tâm": "duy vật" và "cần trọng trong suy luận"!

Bởi vậy! Tôi nhận thấy rằng: Để chứng minh cho một chân lý là cực kỳ khó khăn.

Vài lời tâm sự một chút:

Nhiều lúc tôi thật sự cũng nản lắm.

Chú Thiên Sứ đã nói vậy thì Dare không tiếp tục trao đổi từng ý nữa vậy. Chỉ xin mạn đàm ngoài lề thế này: Lý do Dare cho rằng cần cẩn trọng trong suy luận bắt nguồn từ việc Dare thấy điễn đàn cổ súy cho các "nghiên cứu khoa học" chưa đủ tầm và chưa được công nhận. Ví dụ: lấy nguồn từ các kết luận giải thích sự ảnh hưởng của ý thức lên vật chất qua các thí nghiệm trong cơ học lượng tử, các bài viết lật đổ Thuyết tương đối một cách khôi hài, các định nghĩa, khái niệm cũ mà không xem xét nó một cách thấu đáo (Dare muốn dùng từ biện chứng). Xuất phát từ những nhận định không đầy đủ, thậm chí là sai làm xuất phát điểm để bác bỏ (không hoàn toàn) các giá trị khoa học hiện thời, đề xuất cái mới thì Dare e là không hợp lý và gượng ép. Và nó biểu hiện cho việc sẵn sàng sử dụng bất kỳ phát ngôn nào đúng với cái mà tác giả nhắm đến dù cho các nhận định này hoàn toàn không có giá trị học thuật.

Có lẽ chú Thiên Sứ hiểu sai ý của Dare khi cho rằng sa đà vào chuyện duy vật hay duy tâm. Dare muốn nhấn mạnh rằng dare không bàn về duy vật hay duy tâm mà chỉ muốn đề cập đến phương pháp luận. Bởi vì duy vật hay duy tâm, theo cách nào đó, là 2 mặt đối lập của triết học, và nó là động lực để triết học phát triển. Đơn giản vì dare thấy rằng chú định nghĩa lại rất nhiều khái niệm và phạm trù triết học nên đi vào phương pháp luận sẽ khách quan hơn cả. Và như Dare đã có đề cập:

Cuối cùng, vấn đề còn nằm trong vòng bàn cãi là liệu có khả năng nhiều hệ thống kết cấu, bao gồm toàn bộ kinh nghiệm tri thức của con người, tồn tại song song với nhau?

Dare đọc trả lời của chú Thiên Sứ. Ví dụ:

Dare hỏi:

Dare cũng xin hỏi chú Thiên Sứ và vật chất tương tác với ý thức như thế nào? Ý thức mang năng lượng gì? Năng lượng này có khác với năng lượng của vật chất không?

Trả lời:

Cách đặt vấn đề sai. Nên tôi không có trách nhiệm trả lời

Sai ở chỗ này: Luận đề của tôi xác định : Không có phi vật chất. Do đó câu hỏi: Ý thức tác động tới vật chất như thế nào là một câu hỏi sai.

Trong bài viết của mình, Dare không hề nhắc đến cái gọi là "phi vật chất". Nên cũng không hiểu "ý thức tác động tới vật chất như thế nào là một câu hỏi sai" là như thế nào?

Chú không phân biệt vật chất và ý thức vậy ý thức có tương tác với vật chất không? Hay chú hiểu rằng phân biệt vật chất và ý thức thì ý thức là phi vật chất? Khái niệm phi vật chất là gì? Đến đây dare quả thật không hiểu ý chú muốn diễn đạt là gì? Chắc Dare không đủ trình độ để hiểu những gì chú viết một cách tường minh và rõ ràng. Nếu chú có ý như vậy thì dare xin dừng mạn đàm ở đây vậy.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ý thức là 1 dạng tồn tại của vật chất nên câu:

ý thức có tương tác với vật chất không?

là câu hỏi hiểu sai hay thừa về bản chất. Vật chất tương tác với nhau theo nghĩa vật lý học hay hóa học khi chúng phải thỏa mãn các điều kiện, còn có những tương tác khác mà khoa học ngày nay chưa biết hay lý giải được là "khí" trong lý học Đông Phương như trong Đông Y và Phong Thuỷ đã ứng dụng hoặc các trường hợp về ngoại cảm.

Vài câu mạn đàm với bạn Dare.

Thân mến.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites