Thiên Luân

Bí Ẩn Về Một Thế Giới Khác Cùng Tồn Tại Trên Trái Đất

26 bài viết trong chủ đề này

Bí ẩn về một thế giới khác cùng tồn tại trên trái đất


Đã từ lâu, các nhà khoa học trên thế giới tin rằng thời gian và địa điểm chúng ta đang sống chỉ là một trong nhiều chiều không gian và thời gian mà chúng ta không nhìn thấy được.

Posted Image


Theo họ, thời gian có thể đếm được, là một dạng vật chất không thể biến mất. Do đó hình hài của chiều thời gian cũng có mặt ở mọi nơi. Khi 2 chiều thời gian trùng nhau thì đó cũng là hiện tượng tự nhiên, giống như lúc mưa rơi, nắng rọi và sấm sét dậy trời. Người ở một chiều thời gian có thể nhìn thấy một chiều thời gian khác, có thể là chiều thời gian tương lai hoặc quá khứ.

"Tam giác quỷ" Bermuda ở Đại Tây Dương được mệnh danh là "tử địa", vì đã có hàng trǎm tàu thuyền và máy bay bị mất tích một cách bí ẩn tại đây trong vòng 100 nǎm qua.

Những người đi biển tin rằng giữa Đại Tây Dương có một "rốn biển" với những xoáy nước khổng lồ có đường kính hơn 100 dặm... Và đó có thể là cánh cửa xuyên vào một chiều thời gian khác có tốc độ gấp 2 lần tốc độ ánh sáng.

Các nhà khoa học ở một số cơ quan nghiên cứu quốc tế nổi tiếng cho biết, có thể làm cho con người chúng ta xuyên qua một chiều thời gian khác, nhưng đáng tiếc tốc độ của các phương tiện mà con người tạo ra hiện thời mới chỉ đạt chưa đầy 1/3 tốc độ ánh sáng. Vì vậy, những tàu thuyền và máy bay bị mất tích một cách bí ẩn có thể là do bị hút vào một chiều không gian khác.

Cũng tương tự như vậy đối với sự kiện bí ẩn xảy ra trên bầu trời Niu Yoóc (Mỹ) vào cuối nǎm 1999. "Lạy Chúa, chúng tôi đang ở đâu vậy. Làm sao chúng tôi đến được nơi đây? Đây là Hãng hàng không Alp Air, chuyến bay 703. Tất cả đều lạ lùng. Tôi không biết mình ở đâu. Người nào nhận được những lời này xin hãy giúp chúng tôi". Đó là nội dung lời kêu cứu của một viên phi công "ma" truyền qua làn sóng điện với giọng vô cùng sợ hãi. Rồi chiếc máy bay hành khách kiểu cũ ĐC.7 mà hãng Boing chế tạo từ hơn 30 nǎm trước bỗng xuất hiện phía trên đảo Maháttan ở thành phố Niu Yoóc.

Những người chứng kiến hình ảnh của "chiếc máy bay ma" nói trên là viên phi công lái một chiếc máy bay trực thǎng đưa một số du khách bay thưởng ngoạn toàn cảnh thành phố lớn nhất thế giới này.

Viên phi công lái máy bay trực thǎng tên là Ben Giắcman đã nhận được lời cấp báo đó một cách rõ ràng. Và 12 khách du lịch trên chiếc máy bay cũng tận mắt nhìn thấy "chiếc máy bay ma" ĐC.7, một số người đã chụp ảnh nó.

Ben Giắcman sau đó thuật lại trên truyền hình về sự kiện bí ẩn này: "Khi tôi nhận được lời nói của anh ta, tôi vội bấm nút trả lời ngay, vì nhận thấy giọng nói của anh ta giống người đang bị hoảng loạn. Anh ta cuống lên nói rằng lẽ ra máy bay đã tới dãy núi Alp (ở châu Âu), nhưng sao không nhìn thấy nó và phía dưới cũng không phải Thụy Sĩ, vì anh ta biết rõ địa hình. Tôi bèn nói với anh ta rằng anh ta đang ở trên bầu trời nước Mỹ, vì không có lịch trình bay qua đây.

Anh ta cất cánh từ sân bay thành phố Vêrôna (Italia) và bay đến thành phố Inxbrúc (áo). Khi đó tôi nghĩ rằng gã phi công này không điên thì cũng say rượu. Nhưng tôi bỗng rợn tóc gáy vì chợt nghĩ ra điều gì đó. Tôi hỏi ngày cất cánh của anh ta là ngày nào. Điều viên phi công trả lời khiến tôi gần như không tin nổi vào tai mình. Anh ta nói rành mạch rằng máy bay cất cánh tại sân bay quốc tế Vêrôna hồi 6h45 ngày 26/11/1972 để bay tới thành phố Inxbrúc, rồi sẽ bay tiếp đến Líchtenxten.

Máy bay của anh ta có phi hành đoàn 7 người và 132 hành khách. Tôi sững sờ, không biết nói sao, rồi tôi nghe tiếng viên phi công "ma" đó bắt liên lạc với trạm hoa tiêu bay của thành phố Inxbrúc.

Đến đây tôi biết rằng mình đang đối mặt với điều tựa như chuyện truyền kỳ bí ẩn. Tôi đã gặp ma hay linh hồn đang xuyên qua chiều thời gian quá khứ để đến với chiều thời gian hiện tại. Tôi nói với anh ta rằng giờ đây không phải là nǎm 1972 mà là nǎm 1999, nhưng anh ta vẫn khǎng khǎng cãi nǎm nay là nǎm 1972".

Về sau Ben được biết rằng Hãng hàng không Alp Air và chuyến bay 703 là có thật 100%.

Nǎm 1972, chuyến bay này đã chở các SV người Pháp và Italia đi dự cuộc thi trượt tuyết mùa đông. Nhưng máy bay đó đã gặp bão tuyết đột ngột và bị rơi sau khi cất cánh được 40 phút.

Chuyến bay nói trên được ghi nhận là "mất tích" cùng với thông báo tất cả các hành khách và phi hành đoàn trên máy bay đều chết, vì từ đó đến nay người ta chưa hề tìm ra vết tích của chiếc máy bay này.

Ben cho biết thêm: "Khi đang cố khẳng định đang là nǎm 1999, tôi nghe thấy tiếng nấc và giọng nói như của người hấp hối của "viên phi công ma". Tôi nhìn về phía cửa sổ buồng lái và cửa sổ khoang hành khách của chiếc máy bay đó và thấy rằng hình như bên trong máy bay không phải là người mà chỉ là hình bóng của họ. Tôi tìm cách lái trực thǎng tiến lại gần chiếc máy bay DC.7, nhưng ngay lập tức có một luồng ánh sáng trắng lóa lên rồi "chiếc máy bay ma" nọ bỗng nhiên mất hút, cứ như chẳng có gì xảy ra trước đó"...

Theo Khoa học


Share this post


Link to post
Share on other sites

Không biết ở VN mình có tạp chí Tâm Linh không nhỉ ? Nếu có, đăng lại toàn những bài viết dạng này thì chắc cũng phần nào đỡ được cái vấn nạn hiểu các vấn đề tâm linh là mê tín dị đoan.

Nói chung, khi kiến thức không đến được với dân chúng, nghĩa là giáo dục yếu kém quá !!! Cho nó nhanh.

Thân,

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites

Không có chiều thời gian thứ hai trở lên. Quan niệm nhiều chiếu không/ thời gian là một sai lầm của nhận thức cho rằng: "Không gian/ Thời gian có thuộc tính vật chất và là một dạng của vật chất. Thực ra nó chỉ là khái niệm của con người để qui ước quán xét vật chất. Nếu nghiên cứu theo hướng này sẽ bế tắc. Nhưng có những cấu trúc và vận động tương tác của vật chất chưa được khám phá.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Không có chiều thời gian thứ hai trở lên. Quan niệm nhiều chiếu không/ thời gian là một sai lầm của nhận thức cho rằng: "Không gian/ Thời gian có thuộc tính vật chất và là một dạng của vật chất. Thực ra nó chỉ là khái niệm của con người để qui ước quán xét vật chất. Nếu nghiên cứu theo hướng này sẽ bế tắc. Nhưng có những cấu trúc và vận động tương tác của vật chất chưa được khám phá.

Chỉ có 1 chiều thời gian trôi.

Không gian vẫn là 3 chiều.

So sánh thời gian trong vũ trụ phải có điểm gốc so sánh, chẳng hạn đồng hồ đo gốc đặt ở Trái đất chẳng hạn.

Con người cảm nhận thời gian có thể dài ngắn khác nhau qua giác quan trong các môi trường khác nhau, hoặc thay đổi chu trình sinh học chứ không phải do thời gian co giãn.

Nếu con người ở các hành tinh quay chậm - nhanh - môi trường khác nhau, chu kỳ sinh học cơ thể theo môi trường trái đất vẫn đang hoạt động và vì vậy họ vẫn già đi khi chuyển đổi thời gian từ hành tinh về thời gian gốc ở trái đất.

Kính.

Share this post


Link to post
Share on other sites
  On 4/2/2011 at 01:27, 'hoangnt' said:

Con người cảm nhận thời gian có thể dài ngắn khác nhau qua giác quan trong các môi trường khác nhau, hoặc thay đổi chu trình sinh học chứ không phải do thời gian co giãn.

Nếu con người ở các hành tinh quay chậm - nhanh - môi trường khác nhau, chu kỳ sinh học cơ thể theo môi trường trái đất vẫn đang hoạt động và vì vậy họ vẫn già đi khi chuyển đổi thời gian từ hành tinh về thời gian gốc ở trái đất.

Vậy câu này thừa nhận thời gian là 1 hằng số (chỉ tại do cảm nhận sai theo từng hệ quy chiếu nên tưởng nó biến thiên). Nhưng hằng số dựa trên cái gì, hệ quy chiếu gốc nào ? Vậy trong những hệ quy chiếu khác thì nên gọi là cái gì ?

Nếu đã nói là "cảm nhận thời gian" vậy thời gian tùy thuộc cảm nhận (của đối tượng nhận biết) ở từng hệ quy chiếu, vậy cái "thời gian" thực mà "chứ không phải do thời gian co giãn" nó tồn tại và tương tác với đối tượng nhận biết qua phương trình nào để khiến đối tượng nhận biết có được cái cảm nhận tùy từng hệ quy chiếu này, (Gọi vắn tắt là tương tác thế nào ?). Chỉ khi nào xác định được nó là gì thì mới biết được nó có tương tác được không, và như thế nào.

Cá nhân mình thấy: các hạt vật chất cơ bản, kể cả những hạt chưa nhận biết được, vẫn đang quay (vận động), sự vận động và tương tác tạo ra vạn vật trong vũ trụ như ngày nay (cả khoa học và lý học đều công nhận điều này), đối với chúng, chúng không có 1 giây ngừng nghỉ, chúng chỉ biết mỗi 1 việc là quay và tương tác với nhau, do đó có gọi những thứ, những kết quả tương tác mà chúng vô tình tạo ra là bất cứ cái gì, chúng cũng không hề biết, mà cũng chả cần biết. Những cái thứ đó muốn gọi tên lẫn nhau là cái gì cũng được, những bản chất vẫn chỉ là những hiệu ứng cảm nhận được chứ chẳng phải là 1 hạt nào cái. Mà cái thực tại vũ trũ đang vẫn động này là do những hạt vật chất cơ bản (nói trên) tạo nên và điều hành mà ?!

Do đó, không thời gian chỉ là cái khái niệm về những hiệu ứng cảm nhận được mà thôi, và cũng tùy thuộc 1 hệ quy chiếu cụ thể. Nếu ở những hệ quy chiếu khác ví dụ như "cõi Phật" chẳng hạn, thì sẽ mất hết cảm nhận về những hiệu ứng này, nên sẽ không có khái niệm thời gian, và không gian.

Vài ý kiến mong trao đổi

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites
  Quote

do đó có gọi những thứ, những kết quả tương tác mà chúng vô tình tạo ra là bất cứ cái gì, chúng cũng không hề biết, mà cũng chả cần biết. Những cái thứ đó muốn gọi tên lẫn nhau là cái gì cũng được, những bản chất vẫn chỉ là những hiệu ứng cảm nhận được chứ chẳng phải là 1 hạt nào cái.

Mình nói rõ ý hơn: những thứ, những kết quả tương tác mà chúng vô tình tạo ra này, cũng chính là 1 dạng tồn tại khác của chúng, của vật chất, vẫn chỉ là vật chất, nhưng là 1 thế hệ con tiếp theo, và cứ thế tiếp tục. Do đó cảm nhận về sự thay đổi, khác biệt giữa các trạng thái tồn tại, các thế hệ hạt này khiến chúng ta có cảm nhận về cả không gian và thời gian.

Thân,

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vậy câu này thừa nhận thời gian là 1 hằng số (chỉ tại do cảm nhận sai theo từng hệ quy chiếu nên tưởng nó biến thiên). Nhưng hằng số dựa trên cái gì, hệ quy chiếu gốc nào ? Vậy trong những hệ quy chiếu khác thì nên gọi là cái gì ?

Không có hệ quy chiếu nào cả nếu con người không quán xét, vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian (nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian). Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất. Dĩ nhiên khi con người quan tâm, thì bắt buộc nảy sinh hệ quy chiếu để quán xét sự vận động trên.

Hệ quy chiếu sẽ bao gồm tùy chọn riêng hoặc tổ hợp của 3 đại lượng không thời gian và thuộc tính vật chất.

Nếu đã nói là "cảm nhận thời gian" vậy thời gian tùy thuộc cảm nhận (của đối tượng nhận biết) ở từng hệ quy chiếu, vậy cái "thời gian" thực mà "chứ không phải do thời gian co giãn" nó tồn tại và tương tác với đối tượng nhận biết qua phương trình nào để khiến đối tượng nhận biết có được cái cảm nhận tùy từng hệ quy chiếu này, (Gọi vắn tắt là tương tác thế nào ?). Chỉ khi nào xác định được nó là gì thì mới biết được nó có tương tác được không, và như thế nào.

Một câu hỏi khó, hiểu được ngọn ngành thì khác gì phá tan 1 bức màn vô minh về thế giới tự nhiên, hiểu rõ 1 ý nghĩa lớn lao của đạo giáo và khoa học.

Ta xét con người vì có nhận thức về thế giới:

- Từ khi ra đời chưa có thông tin nên chưa cảm nhận về thế giới (ngoại trừ trường hợp "tái sinh"). Do vậy trong "Não" chưa "ghi" được thông tin. Theo không thời gian và tương tác, họ sẽ nhận biết và có nhận thức về thế giới.

- Nếu ta nhắm mắt lại thì có cảm nhận được không? hoặc tại sao ta biết được mùi thơm của hương hoa, cái đẹp của phụ nữ, sự vĩ đại của bầu trời... Rõ ràng chúng phải được phản ảnh qua giác quan về "Não" để nhận biết.

- Chúng ta có thể ngăn cản các cảm xúc trên bằng châm cứu, thuốc tê chẳng hạn...: như vậy cảm xúc cũng phải là vật chất nên bị giới hạn. Không thời gian dĩ nhiên không nằm ngoài vấn đề này.

- Khi cảm xúc bị ngăn cản nhưng chúng ta vẫn biết bằng "Nhận thức". Vậy "Nhận thức" có phải vật chất hay không?.

- Các nhà ngoại cảm là trung gian giao tiếp giữa người mất và người sống: chúng tỏ "họ còn sống" nhưng không có cô thể vật lý như chúng ta vì biết quá khứ, hiện tại và một phần tương lai và có cảm xúc đôi bên (cần có phương pháp kiểm tra hiện thực khách quan này).

- Máy ghi âm, hộp đen... cũng ghi nhận thông tin nhưng không có tiên tri, cảm xúc.

Có thể ghi nhận: "Nhận thức" tồn tại ngay cả sau khi chết (dĩ nhiên không có tồn tại trạng thái sinh nở trong "thế giới này" vì ở một trạng thái vật chất khác).

Nếu chấp nhận tương tác giữa các đối tượng trên thì "Nhận thức" phải là vật chất và rất đặc biệt do tính bất biến (tạm chấp nhận đơn vị ngàn năm, do các nhà ngoại cảm đã nói chuyện được với các vị trong khỏang thời gian này).

Thời gian vẫn trôi, người xưa khi nói chuyện "nhớ lại" chứ không phải quay lại quá khứ.

Thế tại sao biết tương lai - tiên tri: sẽ luận tiếp.

Do đó, không thời gian chỉ là cái khái niệm về những hiệu ứng cảm nhận được mà thôi, và cũng tùy thuộc 1 hệ quy chiếu cụ thể. Nếu ở những hệ quy chiếu khác ví dụ như "cõi Phật" chẳng hạn, thì sẽ mất hết cảm nhận về những hiệu ứng này, nên sẽ không có khái niệm thời gian, và không gian.

Bản chất "Nhận thức" tồn tại và giả sử ở cõi Phật, thì:

- Vẫn tồn tại cảm nhận không thời gian như thường. Vũ trụ là thể thống nhất nên không thơi gian bất kỳ thế giới nào cũng vận động ăn khớp và tương ứng.

- Không cảm nhận không thời gian vì cảm xúc "Không cần thiết" không tồn tại do thân vật lý không sinh sản hay không thể cảm nhận mặc dù "Nhận thức" hiểu nó. Do vậy "ta" không còn quan tâm đến không thời gian theo nghĩa này.

- Vậy, để đạt cõi Phật, phải "xả" bớt ham muốn nhằm giảm tải cho "Nhận thức".

Bạn đang hỏi những cái cốt tủy của các đạo giáo (chân lý của các đạo giáo chưa chắc đúng) và chân lý vũ trụ duy nhất và biến hóa có quy luật.

* Phúc Lộc Thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vậy, để đạt cõi Phật, phải "xả" bớt ham muốn nhằm giảm tải cho "Nhận thức": Bao gồm cả việc nâng cao trí tuệ ở khía cạnh nhận thức thế giới theo quy luật của cá nhân. Hiện ta chưa rõ tính liên thông "Nhận thức" giữa các "vị đã mất", tuy nhiên bởi tính độc lập "khi sống" thì hệ quả phải là tương đương.

Nếu "Nhận thức" vẫn sống, do trí tuệ chưa rõ quy luật nên vẫn vướng vào "ham muốn" khi thân vật lý không đạt được do không tồn tại: đây có vẻ là đang ở trong Thập điện Diêm vương.

* Phúc Lộc Thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mình có vài ý kiến trao đổi từ câu trả lời của anh,

Anh nói:

  Quote

Con người cảm nhận thời gian có thể dài ngắn khác nhau qua giác quan trong các môi trường khác nhau, hoặc thay đổi chu trình sinh học chứ không phải do thời gian co giãn.

Đây là 1 câu khẳng định, do đó mình muốn biết dựa vào đâu mà cho rằng thời gian không co giãn (bất biến), bản thân câu này cũng thừa nhận thời gian là 1 thực tại thường hằng, vậy cũng dựa vào đâu mà biết nó tồn tại ?

Anh nói

  On 4/4/2011 at 01:43, 'hoangnt' said:

Không có hệ quy chiếu nào cả nếu con người không quán xét, vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian (nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian). Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất. Dĩ nhiên khi con người quan tâm, thì bắt buộc nảy sinh hệ quy chiếu để quán xét sự vận động trên.

Hệ quy chiếu sẽ bao gồm tùy chọn riêng hoặc tổ hợp của 3 đại lượng không thời gian và thuộc tính vật chất.

Nếu không có hệ quy chiếu để xác định nó thường hằng, thì phải chứng minh bằng lý thuyết trên cơ sở các suy luận hợp lý để biết được tại sao có nó. Chứ thế này chỉ là 1 suy đoán, vì bản thân tôi cũng có thể nói đơn giản là: có chiều thời gian thứ n nếu thích, và nó cũng không co không giãn.

Tại sao? Vì hệ quả từ cái khẳng định có tồn tại 1 thực tại là "thời gian thường hằng" này là anh đã suy ra được con người ta có cảm nhận về thời gian (như anh đã trình bày). Nhưng đây chỉ là 1 cảm nhận, chứ không phải là 1 sự khẳng định bắt buộc phải có. VD: tôi cảm nhận được con gái nhà tôi nó đang vui, thì đó chỉ là sự cảm nhận do có 1 sự tương tác được từ não của tôi với vận động trên khuôn mặt của con tôi biểu cảm ra mà tôi cảm nhận được, chứ nó không nói lên phải có 1 cái thực tại gọi là "niềm vui" không co không giãn tồn tại trong cái vũ trụ này. Cái "niềm vui" đó đơn thuần chỉ là hệ quả, hiệu ứng của 1 loạt những vận động và tương tác phức tạp tạo ra mà tôi cảm thấy thế mà tôi, nhưng cũng có người khác nhìn vào tưởng nó đang giận, cũng có thể chứ. Đó chính là cái nhận thức tùy hệ quy chiếu đó.

  Quote

vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian (nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian). Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất.

Câu này mang nghĩa suy đoán cũng như trên, cần được chứng minh. 2 vế mang tính đối lập nhưng không đồng nhất.

Mình chỉ muốn hỏi: đã gọi là "vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian" nghĩa là có thể hiểu nó không cần thời gian, không gian vẫn vận động độc lập được, thì tại sao còn nói "nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian", điều gì khiến có sự khẳng định này, nó mâu thuẫn.

  Quote

Một câu hỏi khó, hiểu được ngọn ngành thì khác gì phá tan 1 bức màn vô minh về thế giới tự nhiên, hiểu rõ 1 ý nghĩa lớn lao của đạo giáo và khoa học.

Ta xét con người vì có nhận thức về thế giới:

- Từ khi ra đời chưa có thông tin nên chưa cảm nhận về thế giới (ngoại trừ trường hợp "tái sinh"). Do vậy trong "Não" chưa "ghi" được thông tin. Theo không thời gian và tương tác, họ sẽ nhận biết và có nhận thức về thế giới.

- Nếu ta nhắm mắt lại thì có cảm nhận được không? hoặc tại sao ta biết được mùi thơm của hương hoa, cái đẹp của phụ nữ, sự vĩ đại của bầu trời... Rõ ràng chúng phải được phản ảnh qua giác quan về "Não" để nhận biết.

- Chúng ta có thể ngăn cản các cảm xúc trên bằng châm cứu, thuốc tê chẳng hạn...: như vậy cảm xúc cũng phải là vật chất nên bị giới hạn. Không thời gian dĩ nhiên không nằm ngoài vấn đề này.

- Khi cảm xúc bị ngăn cản nhưng chúng ta vẫn biết bằng "Nhận thức". Vậy "Nhận thức" có phải vật chất hay không?.

- Các nhà ngoại cảm là trung gian giao tiếp giữa người mất và người sống: chúng tỏ "họ còn sống" nhưng không có cô thể vật lý như chúng ta vì biết quá khứ, hiện tại và một phần tương lai và có cảm xúc đôi bên (cần có phương pháp kiểm tra hiện thực khách quan này).

- Máy ghi âm, hộp đen... cũng ghi nhận thông tin nhưng không có tiên tri, cảm xúc.

Có thể ghi nhận: "Nhận thức" tồn tại ngay cả sau khi chết (dĩ nhiên không có tồn tại trạng thái sinh nở trong "thế giới này" vì ở một trạng thái vật chất khác).

Nếu chấp nhận tương tác giữa các đối tượng trên thì "Nhận thức" phải là vật chất và rất đặc biệt do tính bất biến (tạm chấp nhận đơn vị ngàn năm, do các nhà ngoại cảm đã nói chuyện được với các vị trong khỏang thời gian này).

Thời gian vẫn trôi, người xưa khi nói chuyện "nhớ lại" chứ không phải quay lại quá khứ.

Thế tại sao biết tương lai - tiên tri: sẽ luận tiếp.

Bản chất "Nhận thức" tồn tại và giả sử ở cõi Phật, thì:

- Vẫn tồn tại cảm nhận không thời gian như thường. Vũ trụ là thể thống nhất nên không thơi gian bất kỳ thế giới nào cũng vận động ăn khớp và tương ứng.

- Không cảm nhận không thời gian vì cảm xúc "Không cần thiết" không tồn tại do thân vật lý không sinh sản hay không thể cảm nhận mặc dù "Nhận thức" hiểu nó. Do vậy "ta" không còn quan tâm đến không thời gian theo nghĩa này.

- Vậy, để đạt cõi Phật, phải "xả" bớt ham muốn nhằm giảm tải cho "Nhận thức".

Bạn đang hỏi những cái cốt tủy của các đạo giáo (chân lý của các đạo giáo chưa chắc đúng) và chân lý vũ trụ duy nhất và biến hóa có quy luật.

Phần này nằm ngoài chủ đề trao đổi là về không thời gian và bản chất của chúng. Xin được trao đổi sau.

Rất mong có thêm ý kiến trao đổi với anh,

Thân,

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh nói:

Đây là 1 câu khẳng định, do đó mình muốn biết dựa vào đâu mà cho rằng thời gian không co giãn (bất biến), bản thân câu này cũng thừa nhận thời gian là 1 thực tại thường hằng, vậy cũng dựa vào đâu mà biết nó tồn tại ?

Vũ trụ là thực tại khách quan.

Vật chất và có thể có Bản thể = Thái cực = Thần tồn là thực tại khác quan.

Không gian cũng tương tự và có định nghĩa cũng như công cụ đo.

Thời gian được định nghĩa từ nhận biết sự vận động của vật chất cần được quan tâm và xác định bởi đồng hồ đo các loại. Vì thời gian mang tính trừu tượng nhằm mục tiêu trên do vậy không có thuộc tính.

Dựa vào Nhận thức của con người mà có tất cả các kết quả trên. Nhận thức con người là gì thì chúng ta đang phân tích tiếp tục.

Anh nói

Nếu không có hệ quy chiếu để xác định nó thường hằng, thì phải chứng minh bằng lý thuyết trên cơ sở các suy luận hợp lý để biết được tại sao có nó. Chứ thế này chỉ là 1 suy đoán, vì bản thân tôi cũng có thể nói đơn giản là: có chiều thời gian thứ n nếu thích, và nó cũng không co không giãn.

Thực tại khách quan - Nhận thức - định nghĩa... - kiểm tra, so sánh, đối chiếu thực tế - tiên tri về sự vận động của vật chất: chỉ cần một đơn vị T là xong hết.

Tại sao? Vì hệ quả từ cái khẳng định có tồn tại 1 thực tại là "thời gian thường hằng" này là anh đã suy ra được con người ta có cảm nhận về thời gian (như anh đã trình bày). Nhưng đây chỉ là 1 cảm nhận, chứ không phải là 1 sự khẳng định bắt buộc phải có. VD: tôi cảm nhận được con gái nhà tôi nó đang vui, thì đó chỉ là sự cảm nhận do có 1 sự tương tác được từ não của tôi với vận động trên khuôn mặt của con tôi biểu cảm ra mà tôi cảm nhận được, chứ nó không nói lên phải có 1 cái thực tại gọi là "niềm vui" không co không giãn tồn tại trong cái vũ trụ này. Cái "niềm vui" đó đơn thuần chỉ là hệ quả, hiệu ứng của 1 loạt những vận động và tương tác phức tạp tạo ra mà tôi cảm thấy thế mà tôi, nhưng cũng có người khác nhìn vào tưởng nó đang giận, cũng có thể chứ. Đó chính là cái nhận thức tùy hệ quy chiếu đó.

Cảm nhận đã chuyển qua nhận thức, xây dựng lý thuyết và có công cụ và tiên tri rồi.

Chưa xây dựng chung được ý nghĩa Vui - Buồn nên không so sánh được, nhưng nếu là con người thì ví dụ trên là Vui do đã nhận thức được (tức có định nghĩa tuy chưa ghi ra). Người khác nghĩ Buồn vì họ không quan tâm đến cái chung lẫn nhau và không phải là bạn (chưa đồng dạng chứ không phải tùy hệ quy chiếu), bạn đang nhầm lẫn. Nếu chọn hệ quy chiếu thì Bạn là gốc hệ quy chiếu, tạm gọi vậy thì so sánh từ người khác trong hệ này như thế nào?

Câu này mang nghĩa suy đoán cũng như trên, cần được chứng minh. 2 vế mang tính đối lập nhưng không đồng nhất.

Mình chỉ muốn hỏi: đã gọi là "vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian" nghĩa là có thể hiểu nó không cần thời gian, không gian vẫn vận động độc lập được, thì tại sao còn nói "nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian", điều gì khiến có sự khẳng định này, nó mâu thuẫn.

Thực tại phản ánh, con người nhận thức...: giống như phân tích trên, không mâu thuẫn.

Kinh Bất Liễu Nghĩa là các bộ kinh thiên về chữ Tín. Những người có Lòng Tìn đối với Phật Pháp nhưng học lực của họ kém, không có năng khiếu nghiên cứu nên được Phật nói những thứ thực hành ngay, cứ làm là sẽ có kết quả, không cần tìm hiểu từ bản chất cũng được, cũng như sử dụng máy tính mà không cần hiểu về cấu tạo máy tính như thế nào. RUBI

Hoàn toàn chính xác.

Thân.

* Phúc Lộc thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhận định: ngoài thể xác này, sau khi mất vẫn còn trạng thái vật chất khác: có vẻ tương ứng nhận định hạt cơ bàn là không tìm ra. Nhận thức tồn tại lâu dài.

Vì thực tại khách quan phản ánh và có nhận thức và nhận định nhận thức là vật chất, cho nên ta tạm thấy rằng: có vẻ nhận thức tương ứng Bản thể vũ trụ do tính tự điều chỉnh với bất kỳ sự thay đổi nào liên quan.

Vậy thì Bản thể có vẻ là một trạng thái chưa nhận biết nhưng có thuộc tính bất kỳ khi nảy sinh các mối quan hệ vật chất tương ứng. Phải chăng vật chất chính là thuộc tính của bản thể?.

Nếu nhận thức là vật chất, rõ ràng cũng đang vận động theo lý âm dương ngũ hành và xem vũ trụ là duy nhất thì Nhận thức phải vận động hết cung đường của nó tức qua 8 thuộc tính âm dương ngũ hành trước khi trở về GỐC BAN ĐẦU là BẢN THỂ.

Như vậy đời người về cơ bản sẽ phải qua 8 giai đoạn trước khi hòa nhập vào vũ trụ?.

* Phúc Lộc thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhận định: ngoài thể xác này, sau khi mất vẫn còn trạng thái vật chất khác: có vẻ tương ứng nhận định hạt cơ bàn là không tìm ra. Nhận thức tồn tại lâu dài.

Tạm thời nhận định Bản thể Vũ trụ đang điều khiển vật chất thông qua Bản thể của chính vật chất. Tùy dạng vật chất thay đổi mà Bản thể Vũ trụ tự điều chỉnh tương ứng có nghĩa luôn duy trì sự vận động vận chất có quy luật.

Bản thể không thể tách rời vật chất trong giai đoạn vật chất vận động.

Nếu nhận định trên thì có vẻ chu kỳ vận động của vật chất là mãi mãi sau khi hiện hữu thì không thể quay về Bản thể gốc - ban đầu?.

Môi trường vận động của trái đất có phải là nơi cho cả con người khi sống cũng như sau khi mất - vẫn tồn tại nhận thức hay nhận thức tồn tại ở khắp nơi.

Nguyên lý nhân quả và huyết thống có mối quan hệ như thế nào trong sự vận động này?.

Luân hồi có mối quan hệ như thế nào?

Bản thể con người tiếp nhận các thuộc tính thì có thể giải tỏa nó hay không thông qua nhận thức?

* Phúc Lộc thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites
  On 4/5/2011 at 01:25, 'hoangnt' said:

Anh nói:

Đây là 1 câu khẳng định, do đó mình muốn biết dựa vào đâu mà cho rằng thời gian không co giãn (bất biến), bản thân câu này cũng thừa nhận thời gian là 1 thực tại thường hằng, vậy cũng dựa vào đâu mà biết nó tồn tại ?

Vũ trụ là thực tại khách quan.

Vật chất và có thể có Bản thể = Thái cực = Thần tồn là thực tại khác quan.

Không gian cũng tương tự và có định nghĩa cũng như công cụ đo.

Thời gian được định nghĩa từ nhận biết sự vận động của vật chất cần được quan tâm và xác định bởi đồng hồ đo các loại. Vì thời gian mang tính trừu tượng nhằm mục tiêu trên do vậy không có thuộc tính.

Dựa vào Nhận thức của con người mà có tất cả các kết quả trên. Nhận thức con người là gì thì chúng ta đang phân tích tiếp tục.

Anh nói

Nếu không có hệ quy chiếu để xác định nó thường hằng, thì phải chứng minh bằng lý thuyết trên cơ sở các suy luận hợp lý để biết được tại sao có nó. Chứ thế này chỉ là 1 suy đoán, vì bản thân tôi cũng có thể nói đơn giản là: có chiều thời gian thứ n nếu thích, và nó cũng không co không giãn.

Thực tại khách quan - Nhận thức - định nghĩa... - kiểm tra, so sánh, đối chiếu thực tế - tiên tri về sự vận động của vật chất: chỉ cần một đơn vị T là xong hết.

Tại sao? Vì hệ quả từ cái khẳng định có tồn tại 1 thực tại là "thời gian thường hằng" này là anh đã suy ra được con người ta có cảm nhận về thời gian (như anh đã trình bày). Nhưng đây chỉ là 1 cảm nhận, chứ không phải là 1 sự khẳng định bắt buộc phải có. VD: tôi cảm nhận được con gái nhà tôi nó đang vui, thì đó chỉ là sự cảm nhận do có 1 sự tương tác được từ não của tôi với vận động trên khuôn mặt của con tôi biểu cảm ra mà tôi cảm nhận được, chứ nó không nói lên phải có 1 cái thực tại gọi là "niềm vui" không co không giãn tồn tại trong cái vũ trụ này. Cái "niềm vui" đó đơn thuần chỉ là hệ quả, hiệu ứng của 1 loạt những vận động và tương tác phức tạp tạo ra mà tôi cảm thấy thế mà tôi, nhưng cũng có người khác nhìn vào tưởng nó đang giận, cũng có thể chứ. Đó chính là cái nhận thức tùy hệ quy chiếu đó.

Cảm nhận đã chuyển qua nhận thức, xây dựng lý thuyết và có công cụ và tiên tri rồi.

Chưa xây dựng chung được ý nghĩa Vui - Buồn nên không so sánh được, nhưng nếu là con người thì ví dụ trên là Vui do đã nhận thức được (tức có định nghĩa tuy chưa ghi ra). Người khác nghĩ Buồn vì họ không quan tâm đến cái chung lẫn nhau và không phải là bạn (chưa đồng dạng chứ không phải tùy hệ quy chiếu), bạn đang nhầm lẫn. Nếu chọn hệ quy chiếu thì Bạn là gốc hệ quy chiếu, tạm gọi vậy thì so sánh từ người khác trong hệ này như thế nào?

Câu này mang nghĩa suy đoán cũng như trên, cần được chứng minh. 2 vế mang tính đối lập nhưng không đồng nhất.

Mình chỉ muốn hỏi: đã gọi là "vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian" nghĩa là có thể hiểu nó không cần thời gian, không gian vẫn vận động độc lập được, thì tại sao còn nói "nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian", điều gì khiến có sự khẳng định này, nó mâu thuẫn.

Thực tại phản ánh, con người nhận thức...: giống như phân tích trên, không mâu thuẫn.

Kinh Bất Liễu Nghĩa là các bộ kinh thiên về chữ Tín. Những người có Lòng Tìn đối với Phật Pháp nhưng học lực của họ kém, không có năng khiếu nghiên cứu nên được Phật nói những thứ thực hành ngay, cứ làm là sẽ có kết quả, không cần tìm hiểu từ bản chất cũng được, cũng như sử dụng máy tính mà không cần hiểu về cấu tạo máy tính như thế nào. RUBI

Hoàn toàn chính xác.

Thân.

* Phúc Lộc thọ mãn đường *

Mình thấy anh hoangnt nên trả lời xoáy thẳng vào vấn đề đang trao đổi, đó là có thừa nhận thời gian và không gian là 1 thực tại độc lập với vật chất như a đã khẳng định hay không "vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian (nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian). Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất. Dĩ nhiên khi con người quan tâm, thì bắt buộc nảy sinh hệ quy chiếu để quán xét sự vận động trên."

A trả lời lan man ngoài chủ đề quá, nào là nhận thức, linh hồn, thể xác, bản thể, ngũ hành, âm dương. Và toàn những ý kiến khẳng định Vật chất và có thể có Bản thể = Thái cực = Thần tồn là thực tại khác quan. Xin tạm miễn bàn về những vấn đề trên (hẹn trao đổi với anh ngay sau phần tranh luận về không thời gian này đã)

Anh đã nói "Thời gian được định nghĩa từ nhận biết sự vận động của vật chất cần được quan tâm và xác định bởi đồng hồ đo các loại. Vì thời gian mang tính trừu tượng nhằm mục tiêu trên do vậy không có thuộc tính."

Vậy sao còn nói "Cả 3 vừa độc lập", không có vật chất vận động để dựa vào đó và từ đó nhận biết được thời gian như câu trên, vậy độc lập ở chỗ nào, anh có thể chứng minh cái "thời gian" và "không gian" tồn tại độc lập với vật chất để sáng tỏ vấn đề được chứ ? Không cần dựa vào vật chất vẫn xác định được chúng chứ ?

Einstein đã nói "Khi vật chất biến mất thì không thời gian cũng biến mất"

Newton thì trước đó thừa nhận thời gian vẫn còn, nhưng ít nhất ông đã khẳng định "Khi vật chất biến mất thì không gian biến mất"

Tương tự, anh có thể chất vấn lại quan điểm của mình về 2 khái niệm không gian, thời gian này dựa trên bài viết mình đã trình bày:

  Quote

Cá nhân mình thấy: các hạt vật chất cơ bản, kể cả những hạt chưa nhận biết được, vẫn đang quay (vận động), sự vận động và tương tác tạo ra vạn vật trong vũ trụ như ngày nay (cả khoa học và lý học đều công nhận điều này), đối với chúng, chúng không có 1 giây ngừng nghỉ, chúng chỉ biết mỗi 1 việc là quay và tương tác với nhau, do đó có gọi những thứ, những kết quả tương tác mà chúng vô tình tạo ra là bất cứ cái gì, chúng cũng không hề biết, mà cũng chả cần biết. Những cái thứ đó muốn gọi tên lẫn nhau là cái gì cũng được, những bản chất vẫn chỉ là những hiệu ứng cảm nhận được chứ chẳng phải là 1 hạt nào cái. Mà cái thực tại vũ trũ đang vẫn động này là do những hạt vật chất cơ bản (nói trên) tạo nên và điều hành mà ?!

Do đó, không thời gian chỉ là cái khái niệm về những hiệu ứng cảm nhận được mà thôi, và cũng tùy thuộc 1 hệ quy chiếu cụ thể. Nếu ở những hệ quy chiếu khác ví dụ như "cõi Phật" chẳng hạn, thì sẽ mất hết cảm nhận về những hiệu ứng này, nên sẽ không có khái niệm thời gian, và không gian

Quote

do đó có gọi những thứ, những kết quả tương tác mà chúng vô tình tạo ra là bất cứ cái gì, chúng cũng không hề biết, mà cũng chả cần biết. Những cái thứ đó muốn gọi tên lẫn nhau là cái gì cũng được, những bản chất vẫn chỉ là những hiệu ứng cảm nhận được chứ chẳng phải là 1 hạt nào cái.

Mình nói rõ ý hơn: những thứ, những kết quả tương tác mà chúng vô tình tạo ra này, cũng chính là 1 dạng tồn tại khác của chúng, của vật chất, vẫn chỉ là vật chất, nhưng là 1 thế hệ con tiếp theo, và cứ thế tiếp tục. Do đó cảm nhận về sự thay đổi, khác biệt giữa các trạng thái tồn tại, các thế hệ hạt này khiến chúng ta có cảm nhận về cả không gian và thời gian.

Thân,

Rất mong được trao đổi cặn kẽ

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mình thấy anh hoangnt nên trả lời xoáy thẳng vào vấn đề đang trao đổi, đó là có thừa nhận thời gian và không gian là 1 thực tại độc lập với vật chất như a đã khẳng định hay không "vật chất vận động theo quy luật mà bất chấp không thời gian (nhưng chúng lại vận động trong không gian, theo - cần thời gian). Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất. Dĩ nhiên khi con người quan tâm, thì bắt buộc nảy sinh hệ quy chiếu để quán xét sự vận động trên."

A trả lời lan man ngoài chủ đề quá, nào là nhận thức, linh hồn, thể xác, bản thể, ngũ hành, âm dương. Và toàn những ý kiến khẳng định Vật chất và có thể có Bản thể = Thái cực = Thần tồn là thực tại khác quan. Xin tạm miễn bàn về những vấn đề trên (hẹn trao đổi với anh ngay sau phần tranh luận về không thời gian này đã)

Anh đã nói "Thời gian được định nghĩa từ nhận biết sự vận động của vật chất cần được quan tâm và xác định bởi đồng hồ đo các loại. Vì thời gian mang tính trừu tượng nhằm mục tiêu trên do vậy không có thuộc tính."

Vậy sao còn nói "Cả 3 vừa độc lập", không có vật chất vận động để dựa vào đó và từ đó nhận biết được thời gian như câu trên, vậy độc lập ở chỗ nào, anh có thể chứng minh cái "thời gian" và "không gian" tồn tại độc lập với vật chất để sáng tỏ vấn đề được chứ ? Không cần dựa vào vật chất vẫn xác định được chúng chứ ?

Einstein đã nói "Khi vật chất biến mất thì không thời gian cũng biến mất"

Newton thì trước đó thừa nhận thời gian vẫn còn, nhưng ít nhất ông đã khẳng định "Khi vật chất biến mất thì không gian biến mất"

Tương tự, anh có thể chất vấn lại quan điểm của mình về 2 khái niệm không gian, thời gian này dựa trên bài viết mình đã trình bày:

Thời gian và không gian có tương tác với vật chất không? nếu trả lời được thì nó không phải là trừu tượng.

Thế giới tồn tại khác quan. Con người đang quan sát thế giới và nhận định nó. Định nghĩa về bất kể cái gì của thế giới là phần không thể thiếu, chẳng hạn vật chất, không thời gian, tương tác...

Ta nhận thấy vật chất vận động mà nó không quan tâm không thời gian (ở vai trò chủ thể là vật chất ngoài con người). Tuy nhiên từ nhận thức của chính chúng ta cũng lại thấy: vật chất vận động "cần" thời gian và "trong" không gian. Trong quá trình nhận thức lại hiểu rằng không gian và thời gian không tương tác với vật chất. Độc lập và thống nhất là vậy.

Einstein nói theo nghĩa của sự thống nhất không thời gian và vật chất, tuy nhiên tôi nghĩ khác:

Vì sự tồn tại khách quan của thế giới cho nên nhận định phải tương ứng, điều này có nghĩa dù ta nhận thức tính logic mối tương quan không thời gian và vật chất như Einstein nhưng rõ ràng thế giới vẫn còn đấy cơ mà. Để dễ hiểu tôi đưa ra ví dụ sau:

Các nhà khoa học, bằng công cụ, đã xác định được ranh giới vũ trụ, nơi mà mật độ vật chất bằng không, chúng ta cùng chấp nhận giả thuyết này, vật thì: ngoài biên giới này là cái gì?

Từ các định nghĩa và mối tương quan như trên, theo tôi về logic và thực tại, khi vật chất biến mất thì thời gian không còn, không gian vẫn còn, hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn tối đen: khác cả nhận định của Einstein và Newton.

Thế người Việt xưa xác định không thời gian và vật chất như thế nào? phải xem lại cách xây dựng bảng Lục thập hoa giáp (Lạc thư hoa giáp).

Thân.

* Phúc Lộc thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites

  On 4/6/2011 at 00:58, 'hoangnt' said:

Ta nhận thấy vật chất vận động mà nó không quan tâm không thời gian (ở vai trò chủ thể là vật chất ngoài con người). Tuy nhiên từ nhận thức của chính chúng ta cũng lại thấy: vật chất vận động "cần" thời gian và "trong" không gian. Trong quá trình nhận thức lại hiểu rằng không gian và thời gian không tương tác với vật chất. Độc lập và thống nhất là vậy.

Tôi không nhận thấy được những điều như anh nói này !

Vậy đây chính là cơ sở suy luận để anh khẳng định "cả 3 vừa độc lập vừa thống nhất", và tồn tại 3 thực tại (luôn luôn tồn tại dù con người - chủ thể quan sát - có gọi tên là bất cứ cái gì): thời gian, không gian, vật chất ? Tôi chả thấy có sự suy luận nào ở đây cả, nó chỉ toàn là kết luận mang tính giả thiết đấy chứ ?!

A tự giả thiết vật chất vận động không quan tâm không thời gian, rồi lại "cần" thời gian và "trong" không gian để giải thích cho cái định đề "Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất"

Rồi từ những giả thiết cơ sở này anh nhận định

  Quote

"Từ các định nghĩa và mối tương quan như trên, theo tôi về logic và thực tại, khi vật chất biến mất thì thời gian không còn, không gian vẫn còn, hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn tối đen: khác cả nhận định của Einstein và Newton."

Phần này chỉ là hệ quả suy ra từ cơ sở bên trên nên không cần bàn.

Tôi có thể đưa ra 1 ví dụ thế này

VD tôi nói: tôi nhìn thấy cái ghế này, thì điều đó dẫn đến 1 suy luận là

- Có tồn tại 1 dạng vật chất được con người đặt tên gọi là "cái ghế"

- Có tồn tại 1 dạng tương tác giữa chủ thể quan sát (con người) và đối tượng được quan sát (cái ghế) khiến con người nhận biết được cái ghế này. (Các tương tác có thể là ánh sáng, hình dạng cấu tạo chung của chiếc ghế, v...v... bất cứ cái gì, gọi là gì cũng được, nhưng suy luận này khẳng định chắc chắn những yếu tố trên có tồn tại trên thực tế, nghĩa là thực tại). Đây chính là cách suy luận bằng lý thuyết, chưa cần kiểm chứng bằng thực tại.

Nhưng tôi không thể nói là:

- Phải đặt cái ghế này trong 1 căn phòng A tại thời điểm B thì tôi mới biết được nó là cái ghế. Vậy bình thường đặt chỗ khác tôi không thấy nó à ??? Nếu tôi cố gắng suy luận khiên cưỡng kiểu đó để gán ghép là chúng (thời gian, vật chất, không gian) cần và thống nhất với nhau thì thậm vô lý. Đây là tôi đang cố gắng đi tìm 1 VD giải thích, chứng minh cho giả thiết bên trên của anh.

Rốt cuộc lại, với cách tranh luận và phản biện như trên, tôi cũng có thể nói là: Con người, con chó và con mèo là 3 mặt tuy độc lập nhưng thống nhất, Con người ăn thì như chúng ta thấy không cần con chó phải ăn trước thì ta mới được ăn, nhưng ta cũng thấy ta phải cần cho con chó và mèo ăn trước thì ta mới được ăn vậy. Do đó mới nói "con người, con chó, con mèo" là 3 thực tại tuy tồn tại độc lập nhưng thống nhất là vậy đó. Posted Image Nói sao cũng được.

Do khác ở cách suy luận và quan điểm, nên tạm thời tôi xin phép dừng ở đây. Qua cũng nhiều bài trao đổi mà vẫn chưa cặn kẽ được những suy luận của anh, càng trao đổi có vẻ càng thêm rối, nên xin phép được trao đổi trực tiếp trong 1 dịp khác, hy vọng sẽ rõ nghĩa hơn.

Cám ơn anh hoangnt đã dành thời gian.

Thân,

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi không nhận thấy được những điều như anh nói này !

Vậy đây chính là cơ sở suy luận để anh khẳng định "cả 3 vừa độc lập vừa thống nhất", và tồn tại 3 thực tại (luôn luôn tồn tại dù con người - chủ thể quan sát - có gọi tên là bất cứ cái gì): thời gian, không gian, vật chất ? Tôi chả thấy có sự suy luận nào ở đây cả, nó chỉ toàn là kết luận mang tính giả thiết đấy chứ ?!

A tự giả thiết vật chất vận động không quan tâm không thời gian, rồi lại "cần" thời gian và "trong" không gian để giải thích cho cái định đề "Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất"

Rồi từ những giả thiết cơ sở này anh nhận định

Phần này chỉ là hệ quả suy ra từ cơ sở bên trên nên không cần bàn.

Tôi có thể đưa ra 1 ví dụ thế này

VD tôi nói: tôi nhìn thấy cái ghế này, thì điều đó dẫn đến 1 suy luận là

- Có tồn tại 1 dạng vật chất được con người đặt tên gọi là "cái ghế"

- Có tồn tại 1 dạng tương tác giữa chủ thể quan sát (con người) và đối tượng được quan sát (cái ghế) khiến con người nhận biết được cái ghế này. (Các tương tác có thể là ánh sáng, hình dạng cấu tạo chung của chiếc ghế, v...v... bất cứ cái gì, gọi là gì cũng được, nhưng suy luận này khẳng định chắc chắn những yếu tố trên có tồn tại trên thực tế, nghĩa là thực tại). Đây chính là cách suy luận bằng lý thuyết, chưa cần kiểm chứng bằng thực tại.

Nhưng tôi không thể nói là:

- Phải đặt cái ghế này trong 1 căn phòng A tại thời điểm B thì tôi mới biết được nó là cái ghế. Vậy bình thường đặt chỗ khác tôi không thấy nó à ??? Nếu tôi cố gắng suy luận khiên cưỡng kiểu đó để gán ghép là chúng (thời gian, vật chất, không gian) cần và thống nhất với nhau thì thậm vô lý. Đây là tôi đang cố gắng đi tìm 1 VD giải thích, chứng minh cho giả thiết bên trên của anh.

Rốt cuộc lại, với cách tranh luận và phản biện như trên, tôi cũng có thể nói là: Con người, con chó và con mèo là 3 mặt tuy độc lập nhưng thống nhất, Con người ăn thì như chúng ta thấy không cần con chó phải ăn trước thì ta mới được ăn, nhưng ta cũng thấy ta phải cần cho con chó và mèo ăn trước thì ta mới được ăn vậy. Do đó mới nói "con người, con chó, con mèo" là 3 thực tại tuy tồn tại độc lập nhưng thống nhất là vậy đó. Posted Image Nói sao cũng được.

Do khác ở cách suy luận và quan điểm, nên tạm thời tôi xin phép dừng ở đây. Qua cũng nhiều bài trao đổi mà vẫn chưa cặn kẽ được những suy luận của anh, càng trao đổi có vẻ càng thêm rối, nên xin phép được trao đổi trực tiếp trong 1 dịp khác, hy vọng sẽ rõ nghĩa hơn.

Cám ơn anh hoangnt đã dành thời gian.

Thật khó để hiểu lẫn nhau, tuy nhiên các ví dụ của bạn hoàn toàn không ăn khớp tí nào. Chẳng nhẽ trước khi luận bàn đều phải quay lại toàn bộ các định nghĩa, quy ước, tính chất, nguyên lý... rồi mới thống nhất mục tiêu xem xét, môi trường xung quanh các yếu tố, các giới hạn liên quan... lôi tất cả trở về ban đầu. Không nên mất thời gian, trong khi bàn bạc phải tự mình thống nhất cái nhìn nhận chung ở một tầm mức nhất định nếu không thì luận cả đời cũng chưa xong. Một trong những cái cần khi bàn lý học phải có óc tượng tượng rất lớn.

Cách hiểu của tôi đã có thể chứng minh không thời gian không co giãn qua thí nghiệm trong bài toán của Einstein và chỉ ra nhầm lẫn trong đấy.

Nếu bạn chưa hiểu suy luận của tôi thì khó có thể phân tích và hiểu nguyên lý của Lạc thư hoa giáp, đây là một trong những nền tảng cơ bản nghiên cứu lý học mà chỉ ra mối quan hệ không thời gian và vật chất hết sức kỳ diệu.

Trường hợp tương tự: Khi bàn về ý nghĩa chữ THIÊN trong lịch sử Trung Hoa, các học giả bây giờ cãi nhau như mổ bò, cuối cùng phải ra một cuốn sách cả ngàn trang nói về chữ THIÊN của tất cả các học giả từ cổ chí kim để người đọc nghiên cứu.

Vài lời chia sẻ.

Thân.

Share this post


Link to post
Share on other sites
  On 4/7/2011 at 00:37, 'hoangnt' said:

Tôi không nhận thấy được những điều như anh nói này !

Vậy đây chính là cơ sở suy luận để anh khẳng định "cả 3 vừa độc lập vừa thống nhất", và tồn tại 3 thực tại (luôn luôn tồn tại dù con người - chủ thể quan sát - có gọi tên là bất cứ cái gì): thời gian, không gian, vật chất ? Tôi chả thấy có sự suy luận nào ở đây cả, nó chỉ toàn là kết luận mang tính giả thiết đấy chứ ?!

A tự giả thiết vật chất vận động không quan tâm không thời gian, rồi lại "cần" thời gian và "trong" không gian để giải thích cho cái định đề "Cả 3 vừa độc lập lại vừa thống nhất"

Rồi từ những giả thiết cơ sở này anh nhận định

Phần này chỉ là hệ quả suy ra từ cơ sở bên trên nên không cần bàn.

Tôi có thể đưa ra 1 ví dụ thế này

VD tôi nói: tôi nhìn thấy cái ghế này, thì điều đó dẫn đến 1 suy luận là

- Có tồn tại 1 dạng vật chất được con người đặt tên gọi là "cái ghế"

- Có tồn tại 1 dạng tương tác giữa chủ thể quan sát (con người) và đối tượng được quan sát (cái ghế) khiến con người nhận biết được cái ghế này. (Các tương tác có thể là ánh sáng, hình dạng cấu tạo chung của chiếc ghế, v...v... bất cứ cái gì, gọi là gì cũng được, nhưng suy luận này khẳng định chắc chắn những yếu tố trên có tồn tại trên thực tế, nghĩa là thực tại). Đây chính là cách suy luận bằng lý thuyết, chưa cần kiểm chứng bằng thực tại.

Nhưng tôi không thể nói là:

- Phải đặt cái ghế này trong 1 căn phòng A tại thời điểm B thì tôi mới biết được nó là cái ghế. Vậy bình thường đặt chỗ khác tôi không thấy nó à ??? Nếu tôi cố gắng suy luận khiên cưỡng kiểu đó để gán ghép là chúng (thời gian, vật chất, không gian) cần và thống nhất với nhau thì thậm vô lý. Đây là tôi đang cố gắng đi tìm 1 VD giải thích, chứng minh cho giả thiết bên trên của anh.

Rốt cuộc lại, với cách tranh luận và phản biện như trên, tôi cũng có thể nói là: Con người, con chó và con mèo là 3 mặt tuy độc lập nhưng thống nhất, Con người ăn thì như chúng ta thấy không cần con chó phải ăn trước thì ta mới được ăn, nhưng ta cũng thấy ta phải cần cho con chó và mèo ăn trước thì ta mới được ăn vậy. Do đó mới nói "con người, con chó, con mèo" là 3 thực tại tuy tồn tại độc lập nhưng thống nhất là vậy đó. Posted Image Nói sao cũng được.

Do khác ở cách suy luận và quan điểm, nên tạm thời tôi xin phép dừng ở đây. Qua cũng nhiều bài trao đổi mà vẫn chưa cặn kẽ được những suy luận của anh, càng trao đổi có vẻ càng thêm rối, nên xin phép được trao đổi trực tiếp trong 1 dịp khác, hy vọng sẽ rõ nghĩa hơn.

Cám ơn anh hoangnt đã dành thời gian.

Thật khó để hiểu lẫn nhau, tuy nhiên các ví dụ của bạn hoàn toàn không ăn khớp tí nào. Chẳng nhẽ trước khi luận bàn đều phải quay lại toàn bộ các định nghĩa, quy ước, tính chất, nguyên lý... rồi mới thống nhất mục tiêu xem xét, môi trường xung quanh các yếu tố, các giới hạn liên quan... lôi tất cả trở về ban đầu. Không nên mất thời gian, trong khi bàn bạc phải tự mình thống nhất cái nhìn nhận chung ở một tầm mức nhất định nếu không thì luận cả đời cũng chưa xong. Một trong những cái cần khi bàn lý học phải có óc tượng tượng rất lớn.

Cách hiểu của tôi đã có thể chứng minh không thời gian không co giãn qua thí nghiệm trong bài toán của Einstein và chỉ ra nhầm lẫn trong đấy.

Nếu bạn chưa hiểu suy luận của tôi thì khó có thể phân tích và hiểu nguyên lý của Lạc thư hoa giáp, đây là một trong những nền tảng cơ bản nghiên cứu lý học mà chỉ ra mối quan hệ không thời gian và vật chất hết sức kỳ diệu.

Trường hợp tương tự: Khi bàn về ý nghĩa chữ THIÊN trong lịch sử Trung Hoa, các học giả bây giờ cãi nhau như mổ bò, cuối cùng phải ra một cuốn sách cả ngàn trang nói về chữ THIÊN của tất cả các học giả từ cổ chí kim để người đọc nghiên cứu.

Vài lời chia sẻ.

Thân.

ANh hoangnt đúng là nói phong long thật, a nói cứ như nói cho anh tự hiểu ý.

Anh đưa ra 1 khái niệm, 1 nhận định, tôi bám vào đó để tranh luận, trích dẫn, đưa ra lập luận, mà anh lại kêu tôi tạm thời thống nhất với a đã ??? Là thống nhất cái mà đang tranh luận đó hả ? Vô lý quá nhỉ ? A thử trích dẫn cho tôi xem tôi nên thống nhất với anh ở câu nào, điểm nào ? Cụ thể ra đi.

Đang bàn về khái niệm, (tạm gọi là định nghĩa) không thời gian là gì, để xác định nó có tồn tại như 1 thực tại (như anh luôn khẳng định "Cả 3 vừa tồn tại độc lập mà vừa thống nhất"), có n chiều như a khẳng định hay không, nghĩa là đang đi từ cái cơ bản nhất, mà anh lại kêu phải tạm thời thống nhất ở cái cơ bản cái đã

  Quote

"Chẳng nhẽ trước khi luận bàn đều phải quay lại toàn bộ các định nghĩa, quy ước, tính chất, nguyên lý... rồi mới thống nhất mục tiêu xem xét, môi trường xung quanh các yếu tố, các giới hạn liên quan... lôi tất cả trở về ban đầu"

vậy anh cứ thử hỏi có ai hiểu cái cơ bản mà anh nói chung chung vậy là cái nào không ? Các "định nghĩa, quy ước, tính chất ấy" là cái gì ?

Nói về óc tưởng tượng thì tôi không thiếu, nhưng tôi cũng chả tưởng tượng nổi sao anh không đăng luôn bài phản biện 1 cách đầy đủ ở đây về cái anh nhận định sau cho dễ phân tích nhỉ ? Toàn thấy anh nói không, khẳng định và nói không.

  Quote

Cách hiểu của tôi đã có thể chứng minh không thời gian không co giãn qua thí nghiệm trong bài toán của Einstein và chỉ ra nhầm lẫn trong đấy.

  Quote

Nếu bạn chưa hiểu suy luận của tôi thì khó có thể phân tích và hiểu nguyên lý của Lạc thư hoa giáp, đây là một trong những nền tảng cơ bản nghiên cứu lý học mà chỉ ra mối quan hệ không thời gian và vật chất hết sức kỳ diệu.

Trường hợp tương tự: Khi bàn về ý nghĩa chữ THIÊN trong lịch sử Trung Hoa, các học giả bây giờ cãi nhau như mổ bò, cuối cùng phải ra một cuốn sách cả ngàn trang nói về chữ THIÊN của tất cả các học giả từ cổ chí kim để người đọc nghiên cứu.

Ngoài lề.

Thân,

NA

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cô gái Việt nhìn bằng 'con mắt thứ ba'

Khoa học đã tốn không ít giấy mực về hiện tượng "con mắt thứ ba", tức là khả năng nhìn thấy không dùng đôi mắt thường. Ở Việt Nam có một cô gái như thế, nhìn được cả bằng trán, mũi và thái dương, đã được khẳng định qua hàng chục thí nghiệm của các nhà khoa học.

Hơn chục năm qua, ông Tuệ Đức, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học tin học ứng dụng Việt Nam và các thành viên đã thực hiện hàng nghìn thí nghiệm nghiên cứu những khả năng đặc biệt của con người. Tổng kết của họ là có đến 98-99% những người tự nêu ra khả năng "đặc biệt" là lừa bịp. Như vậy, 1-2% còn lại, dù vô cùng nhỏ bé, còn phải nghiên cứu nhiều, vẫn tiếp tục gây thắc mắc cho các nhà khoa học. Có nhiều chuyện kỳ lạ như có người nhìn thấy linh hồn, nhìn thấy quá khứ, nói chuyện với người âm... song các nhà nghiên cứu chưa dám công bố.

Gần đây nhất là một cô gái có thể đọc được chữ, nhìn thấy mọi vật bằng trán, mũi và thái dương, người đặc biệt nhất mà ông Đức từng gặp, vì vậy ông quyết tâm nghiên cứu kỹ càng trước khi công bố. Cách đây không lâu, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải khi trả lời phỏng vấn truyền hình cũng nhắc đến cô gái có khả năng kỳ lạ trên, song nhất định không tiết lộ thông tin cụ thể.

Mới đây, tại văn phòng làm việc của ông Đức, các nhà khoa học từ hai cơ quan chuyên nghiên cứu hiện tượng lạ, khả năng đặc biệt của con người là Liên hiệp Khoa học tin học ứng dụng và Trung tâm Bảo trợ khoa học kỹ thuật truyền thông đã có có mặt để chứng kiến khả năng của cô gái này. Cùng với họ là một số nhà khoa học của Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an. Đây là lần tập hợp đầy đủ nhất của các nhà khoa học.

Cô gái, được gọi là A, không có vẻ ngoài đặc biệt. Chị ngoài 30 tuổi, trông chất phác và bình thường như những cô gái vùng quê khác.

Phương án thực hiện thí nghiệm được vạch sẵn từng bước, qua mỗi bước, khả năng của chị A sẽ được bộc lộ và những toan tính, chuyện bịp bợm nếu có cũng dễ dàng lật tẩy.

Đầu tiên, ông Đức yêu cầu chị A nhắm mắt lại. Trước sự chứng kiến của mọi người, một nhà khoa học cầm tờ Chuyên đề An Ninh thế giới vừa được mang đến tiến về phía chị. Tờ báo được giơ lên trước mặt chị A, và chị cũng ngước mặt lên theo như thể nhìn thấy mọi hành động của nhà khoa học.

Để hóa giải nghi ngờ của mọi người khi một số đặt câu hỏi: "Liệu chị A có nhìn theo kiểu ti hí không?", ông Tuệ Đức dùng mẩu băng dính đen dán hai mắt chị lại. Với mẩu băng dính này, chị A cố mở thế nào hai mí mắt cũng không nhích lên được. Tuy nhiên, khuôn mặt chị vẫn thanh thản, chị đọc vanh vách hết trang này đến trang kia của tờ báo như bất cứ người bình thường nào. Đây là tờ báo vừa phát hành buổi sáng nên nhiều khả năng chị A chưa được đọc lần nào chứ đừng nói đến chuyện đã thuộc lòng. Ngoài ra, bất kỳ một loại tài liệu nào đưa ra trước đôi mắt dán chặt băng dính kia chị vẫn đọc rất trôi chảy.

Để loại bỏ khả năng đôi mắt chị A đặc biệt đến nỗi nhìn xuyên thấu lớp mi và băng dính mỏng, các nhà khoa học tiếp tục dùng tờ tạp chí để che mắt chị, rồi sau đó là cả cuốn sách dày hơn 10 cm, nhưng chị vẫn đọc làu làu như không có gì xảy ra. Lạ lùng hơn, chị ngước mắt lên tường nhà đọc chính xác con số chỉ từng giây, từng phút trong chiếc đồng hồ treo tường; chỉ tay miêu tả hình dáng, màu quần áo từng giáo sư, tiến sĩ và các nhà khoa học đang đứng ngồi khắp phòng khiến mọi người hết sức ngạc nhiên. Một người còn cẩn thận dùng tay mình bịt mắt chị, rồi hỏi vật gì xung quanh, chị vẫn nói đúng. Ngay cả nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải từng mất mấy ngày để sáng chế ra chiếc kính đen ngòm, dày cộp, ôm kín mắt chị A, song ông ngồi quan sát chị cả ngày, chị vẫn đeo kính và làm việc bình thường, xem TV, đọc sách. Người khác đeo chiếc kính ấy sẽ chỉ thấy bóng tối đen kịt.

Để tìm ra vị trí con mắt thứ ba của chị, các nhà khoa học che kín cả khuôn mặt chị lại. Lúc này, dù cố gắng thế nào chị cũng không thấy gì nữa. Như vậy, dù "con mắt thứ ba" của chị nằm ở đâu trên mặt thì nó cũng đã bị che khuất.

Ông Tuệ Đức từ từ kéo dần vật che mặt từ phía đỉnh đầu xuống dưới cằm. Khi vật che hở phần trán, điểm giữa hai lông mày thì chị nhìn lại được. Chị A cũng khẳng định mình nhìn được là nhờ "con mắt" ở trán, phía trên sống mũi, điểm giữa hai lông mày. Chị nhận thấy có một luồng ánh sáng chiếu từ trán ra và thu nhận được những hình ảnh trước mắt như một chiếc máy quay phim vậy.

Ông Tuệ Đức và các thành viên khác tiếp tục bịt khắp mặt của chị A lại và chỉ để hở một điểm nhỏ ở mũi theo yêu cầu của chị. Thật ngoài sức tưởng tượng khi chị có thể nhìn thấy mọi vật và đọc được mọi loại sách báo bằng mũi. Các nhà khoa học lại che mũi và để hở một bên thái dương. Lần này, thái dương của chị cũng có "mắt". Che thái dương bên trái, chị đọc bằng thái dương phải và ngược lại. Theo lời kể của chị A và ông Đức, người đã 4 năm miệt mài tìm hiểu hiện tượng này, chị A không những có "con mắt thứ ba" mà còn điều khiển được từ suy nghĩ xem con mắt sẽ phát huy tác dụng ở trán, mũi, hay thái dương. Do vậy, dù có bịt cả hai mắt, che cả mặt, song chỉ cần hở ra một trong 4 điểm trên khuôn mặt là chị vẫn nổ xe máy phóng vù vù trên đường đông người qua lại. Điều này ông Tuệ Đức cũng đã làm thí nghiệm. Chính chị A, trong hoàn cảnh bịt mắt đã chở ông Đức dọc đường làng, vượt qua các chướng ngại vật do các nhà khoa học sắp xếp.

Theo ông Đức, cách đây 4 năm khi ông bắt đầu nghiên cứu chị A thì thỉnh thoảng chị mới bộc lộ khả năng này. Mỗi lần đó, gia đình lại gọi ông đến làm thí nghiệm. Thời gian gần đây, "con mắt thứ ba" của chị ổn định hơn và có thể nhìn thấy bất cứ lúc nào.

Khả năng đặc biệt của chị A, theo lý giải bước đầu của các nhà khoa học có thể là do một ngoại lực hoặc nội lực nào đó đã vô tình đánh thức một cơ quan bí ẩn của não bộ mà chúng ta chưa biết.

Chị A không hề tập thiền hay yoga và theo chị và gia đình thì chị cũng chẳng có tiền sử bệnh tật hay bị một chấn thương nào. Chị sinh ra trong một gia đình làm nghề nông ở Hải Phòng, đã lấy chồng, có con và hiện sống với chồng ở Lương Sơn, Hòa Bình. Chị cho biết cách đây 5 năm, một ngày tự nhiên chị thấy có một luồng sáng từ trán chiếu ra và chị cảm nhận được những hình ảnh mờ nhạt qua luồng sáng đó. Sợ hãi quá, chị dùng băng dính đen dính "con mắt" ở trán đó lại, nhưng rồi bằng sự điều khiển qua ý nghĩ, chị lại thấy có luồng sáng phát ra từ mũi. Chị dán ở mũi thì lại nhìn được bằng thái dương. Chị và gia đình quá sợ hãi không biết nguyên nhân vì sao. Thế rồi một người mách chị đến Liên hiệp Khoa học tin học ứng dụng, nơi các nhà khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng đặc biệt. Từ đó chị được các nhà khoa học quan tâm, làm rất nhiều thí nghiệm và đặc biệt, mỗi ngày chị nhìn thấy mọi vật bằng "con mắt thứ ba" rõ hơn, và giờ đây, nó đã nhìn được mọi vật rõ ràng như mắt thường.

(Theo An Ninh Thế Giới)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chapter 3: Có Phải Thượng Đế Đã Tạo Nên Vũ Trụ?

Nguyễn Austin chuyển ngữ từ

- The Newyork Times Notable Book Of The Year

God And The New Physics-

Paul Davies

Posted Image

'Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’ - Einstein

‘Tôi không cần đến giả thiết này’ - Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte

Các nhà vũ trụ học đã tìm thấy Thượng đế!’ như đã được công bố mới đây nơi những hàng tiêu đề lớn của một tờ báo định kỳ nổi tiếng. Chủ đề của bài báo này là Vụ nổ lớn Big Bang và những tiến bộ mới đây trong kiến thức của chúng ta về những thời kỳ đầu tiên của vũ trụ. Trong giới báo chí phổ thông thì sự kiện sáng tạo chính nó đã được xem là đủ thẩm quyền để tiết lộ sự hiện hữu của Thượng đế. Nhưng khi nói Thượng đế đã gây ra sự sáng tạo thì điều đó thực sự có nghĩa như thế nào? Có thể nào quan niệm về sự sáng tạo mà không có Thượng đế hay không? Có phải Vũ trụ học hiện đại đã phô bày một cách không tránh né những giới hạn của một vũ trụ vật lý và bắt buộc chúng ta phải viện dẫn đến những lý do siêu nhiên?

Thuật ngữ ‘sáng tạo’ rất đa dạng về ý nghĩa và điều rất quan trọng là phải giữ sự phân biệt minh bạch giữa những ý nghĩa đó. Sự sáng tạo vũ trụ có thể có nghĩa là một hình thái có tổ chức đột ngột của vật chất đi từ hình thái hỗn loạn nguyên thủy , thiếu cấu trúc cho đến những trật tự phức hợp và những hoạt động vi tế được quan sát hiện nay. Nó có thể hiểu là sự tạo nên vật chất từ khoảng không trống rỗng tầm thường hay được hiểu là sự xuất hiện đột ngột của toàn bộ thế giới vật chất bao gồm không gian, thời gian từ cái hoàn toàn không-có-gì. Cũng có những vấn đề riêng biệt về sự sáng tạo ra cuộc sống và chính con người mà chúng ta sẽ đề cập sau này.

Phiên bản về sự sáng tạo của vũ trụ ‘trong ngày đầu tiên’ rất mơ hồ về những gì có liên quan đến nó. Hiện nay có hai cách giải thích về sự sáng tạo ,nhưng chẳng có lối giải thích nào đề cập một cách tường minh rằng vật chất mà từ đó các ngôi sao, hành tinh, trái đất và thân thể chúng ta được tạo nên, đã hiện hữu trước biến cố sáng tạo. Niềm tin rằng Thượng đế đã tạo nên chất liệu của vũ trụ từ cái không-có-gì là một phần giáo lý lâu đời của Thiên chúa giáo. Qủa thật là niềm tin này dường như phải được bổ sung bởi gỉa định về sự toàn năng của Thượng đế vì vật chất rất thô sơ mà nếu Thượng đế không tạo nên được vật chất thì điều đó hàm ý rằng khả năng của ông ta có giới hạn.

Trước thế kỷ này các nhà khoa học và thần học đều gỉa định giống nhau rằng vật chất không thể được tạo ra (hoặc hủy diệt) bằng các phương tiện có trong thiên nhiên. Dĩ nhiên, hình thái của vật chất có thể thay đổi chẳng hạn như trong các phản ứng hóa học nhưng lượng vật chất thì vẫn không đổi mà chưa có một ngoại lệ nào. Đối diện với vấn đề về nguồn gốc của vật chất các nhà khoa học có xu hướng tin rằng vũ trụ có vô hạn tuổi và như thế sẽ tránh được sự sáng tạo cần thiết. Trong một vũ trụ vĩnh cửu vật chất có thể tồn tại mãi mãi và như thế vấn đề nguồn gốc của nó sẽ không còn cần thiết.

Niềm tin rằng vật chất không thể được tạo ra bằng các phương tiện tự nhiên đã sụp đổ thảm hại vào những năm 1930 khi vật chất lần đầu tiên được tạo nên trong phòng thí nghiệm. Những biến cố dẫn đến sự khám phá này cung cấp một thí dụ cổ điển của vật lý hiện đại một cách tốt nhất.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1905 từ Einstein cũng như từ nhiều người khác. Phương trình nổi tiếng của ông ta: E=mc2 là hiện thân tóan học của một khẳng định, rằng khối lượng và năng lượng là tương đương: khối lượng mang năng lượng và năng lượng có khối lượng. Khối lượng là lượng phẩm của vật chất: khối lượng của thân thể cho bạn biết có bao nhiêu vật chất chứa trong đó. Khối lượng lớn có nghĩa là nặng nề và chậm chạp, khối lượng nhỏ có nghĩa là nhẹ nhàng và nhanh nhạy. Sự kiện khối lượng tương đương với năng lượng theo một ý nghĩa nào đó có nghĩa là khối lượng là năng lượng bị “giam giữ”. Nếu được giải phóng theo một cách nào đó thì vật chất sẽ biến mất giữa sự bùng phát của năng lượng. Ngược lại, bằng cách nào đó nếu năng lượng đủ tập trung thì vật chất sẽ xuất hiện.

Trong quan niệm khởi đầu , phương trình Einstein chỉ là phó phẩm của Lý thuyết Tương Đối và nó chỉ liên quan đến tính chất của những vật chuyển động với vận tốc cực nhanh gần bằng vận tốc ánh sáng. Theo lý thuyết thì năng lượng của chuyển động phải làm cho vật trở nên nặng hơn (tăng khối lượng). Hiệu qủa này không đáng kể ở những vận tốc thông thường vì một khối lượng rất nhỏ tương ứng với một lượng năng lượng rất lớn. Chẳng hạn như một gam vật chất tương đương với một triệu đô la theo gía hiện hành.Tuy nhiên những máy gia tốc về các hạt cơ bản hiện đại có thể tăng tốc các hạt điện tử và proton suýt soát vận tốc ánh sáng mà ở đó khối lượng của chúng được quan sát đã tăng lên hàng chục lần.

Dĩ nhiên khối lượng tăng theo vận tốc không có nghĩa là sự sáng tạo vật chất. Đúng hơn nó chỉ liên quan đến vật chất được tăng trọng nhưng đã hiện hữu từ trước. Khả năng của một hạt vật chất mới, được sản sinh nằm ngoài sự tập trung của năng lượng chỉ nổi lên với giai đoạn xem xét về mặt tóan học của Paul Dirac vào khoảng 1930. Dirac đã nổ lực hoà hợp lý thuyết tương đối của Einstein cùng công thức E = mc2 với những cuộc cách mạng quan trọng khác trong vật lý thế kỷ 20 quan tâm đến ứng xử của vật chất ở tầm mức nguyên tử và hạ nguyên tử. Một lý thuyết lượng tử tương đối tính cần thiết để mô tả các hạt hạ nguyên tử chuyển động gần vận tốc ánh sáng chẳng hạn như các qúa trình xảy ra trong sự phóng xạ năng lượng hạt nhân.

Theo sự phân tích tóan học , Dirac đã đề nghị một phương trình mới nhằm mô tả vật chất ở tầm mức nguyên tử có tốc độ cao. Phương trình này là một sự thành công tức thời vì nó đã giải thích một tính chất kỳ ảo của electron cho đến giờ vẫn là được biết đến, cụ thể là chúng quay tròn theo một cách thức hoàn toàn kỳ lạ, xung khắc với cảm nhận chung và hình học cơ bản. Nói một cách thô thiển, mỗi electron phải quay quanh hai lần trước khi nó trở lại bề mặt ban đầu. Phương trình này cung cấp một thí dụ điển hình khác về việc làm thế nào toán học có thể thay thế trưc giác trong thế giới trừu tượng của vật lý.

Tuy nhiên, phương trình Dirac đã có một khía cạnh đáng ngạc nhiên. Các nghiệm của nó mô tả một cách chính xác ứng xử của các electron thông thường, nhưng với mỗi nghiệm như thế lại tồn tại một nghiệm liên hợp khác. Nghiệm này lại có vẻ không tương ứng với bất kỳ cái gì đã được biết đến trong vũ trụ. Với một chút tưởng tượng ,người ta vẫn có thể nghĩ đến những loại hạt chưa biết đến. Về khối lượng và spin (độ lớn), chúng hoàn toàn giống như các electron thông thường nhưng trong khi các electron mang điện tích âm thì những hạt này lại mang điện tích dương. Một số tính chất khác chẳng hạn như spin (chiều) thì lại ngược lại, đã làm cho những loại hạt mới này như là hình ảnh trong gương của các electron.

Sự tiên đóan của Dirac lại còn ngoạn mục hơn nữa, rằng nếu có năng lượng đủ lớn để có thể tập trung thì một trong các hạt ‘phản electron ‘ này có thể xuất hiện ở nơi mà trước đó không có gì tồn tại. Để cho điện tích được bảo toàn, biến cố này phải được đi kèm bởi sự xuất hiện đồng thời của một electron. Theo cách này thì năng lượng có thể được dùng một cách trực tiếp để tạo ra vật chất trong hình thức của một cặp electron -phản electron.

Vào khoảng thời gian này (1930), nhà vật lý C.Y.Chao đang thí nghiệm về năng suất xuyên thấu của tia gamma (photon ánh sáng mang năng lượng cao) trong các loại vật chất nặng như chì. Ông ta nhận thấy rằng những tia gamma mang năng lượng lớn nhất lại bị yếu đi một cách đáng kể theo cách thức rất lạ. Nguyên nhân của sự hấp thụ bổ sung của các tia này là một bí mật đối với Chao. Ngày nay chúng ta biết rằng điều đó là do sự sinh cặp electron-phản electron.

Thế rồi, vào năm 1933, khi Carl Anderson nghiên cứu về sự hấp thụ của các tia vũ trụ-những hạt mang năng lượng rất lớn từ không gian- bởi các tấm kim loại ông ta đã phát hiện lần đầu tiên sự xuất hiện rõ ràng của các ‘phản electron’ của Dirac. Vật chất đã được tạo ra trong các thí nghiệm được kiểm soát trong phòng thí nghiệm. Các tính chất được mong đợi của loại hạt mới nhanh chóng được kiểm chứng và Dirac cùng Anderson chia nhau giải Nobel cho sự tiên đóan và phát hiện xuất sắc ra loại hạt này.

Những năm sau đó, việc tạo nên các electron và phản electron (thường được gọi là positron ) trở nên phổ biến trong một loạt qúa trình trong phòng thí nghiệm. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai sự phát triển của các máy tăng tốc cho các loại hạt hạ nguyên tử cũng đã có thể tạo nên một số loại hạt khác theo cách thức có kiểm soát. Các hạt phản proton, phản neutron đã được tạo nên. Ngày nay ,các hạt positron và phản proton đả được tạo nên với số lớn và được giữ trong các “chai từ tính”. Tựu trung lại, các phản hạt được gọi chung là phản vật chất và ngày nay nó được tạo nên thường xuyên trong các phòng thí nghiệm Vật lý.

Được trang bị bởi các sự kiện này, cách thức giải thích một cách tự nhiên về nguồn gốc của mọi vật chất dường như đã được mở ra. Trong thời kỳ BigBang, một năng lượng cực lớn đã có sẵn cho việc tạo nên một lượng lớn vật chất và phản vật chất. Cuối cùng, khi bị lạnh đi nhiều, những vật chất này có thể đã hội tụ thành các ngôi sao và hành tinh. Nhưng thật không may cho ý tưởng đơn giản đó, đã có những trở ngại bất ngờ xuất hiện: khi vật chất gặp phản vật chất thì cả hai phải tiêu hủy lẫn nhau và phóng thích một năng lượng mạnh mẽ. Đó là qúa trình ngược của quá trình tạo nên vật chất.

Như thế thì một vũ trụ chứa hỗn hợp vật chất -phản vật chất sẽ bất ổn định dữ dội. Một số những giới hạn chặt chẽ có thể áp đặt lên một lượng phản vật chất, nhưng đó là một lượng không đáng kể. Như thế thì tất cả các phản vật chất đã biến đi đâu? Trong phòng thí nghiệm, mỗi hạt được tạo ra luôn đi kèm theo một phản hạt. Do đó chúng ta có thể trông đợi rằng vũ trụ là một hỗn hợp 50-50. Nhưng những quan sát thực nghiệm đã loại bỏ điều này. Một số các nhà Vật lý vũ trụ đã thử giải thích vấn nạn này bằng cách gỉa thiết rằng bằng cách nào đó vật chất và phản vật chất đã tự thu xếp để tách ra thành những khu vực rộng lớn mà ở đó một trong hai loại hạt và phản hạt sẽ chiếm ưu thế. Có thể toàn bộ thiên hà nào đó được tạo nên bởi phản vật chất và những thiên hà khác lại được tạo nên bởi vật chất. Tuy nhiên, không có một cơ chế nào cho sự tách biệt này được đề nghị và lý thuyết về vũ trụ đối xứng [giữa vật chất và phản vật chất: người dịch] đã rơi vào sự thất sủng.

Như vậy, các nhà khoa học nào đã nhấn mạnh rằng BigBang là một sự Sáng tạo sẽ phải đối mặt với nhu cầu gỉa tạo, bất chấp đến các định luật vật lý là sự gỉa định rằng một qúa trình siêu nhiên nào đó đã bơm vật chất vào vũ trụ không có phản vật chất. Những viện cớ mơ hồ về điều “ tất cả các định luật dù sao cũng đều bị phá vỡ tại điểm dị thường” chẳng làm dịu đi cái cảm giác không thoải mái về cách giải thích này.

Tuy nhiên, rất gần đây một lối thoát khả dĩ cho vấn nạn này đã xuất hiện. Mặc dù trong những điều kiện của phòng thí nghiệm thì sự tạo ra vật chất và phản vật chất luôn luôn đối xứng, nhưng dưới nhiệt độ cực kỳ cao của Bigbang thì một sự vượt trội nhẹ của vật chất là khả dĩ được phép. Ý tưởng này là hệ qủa của một chương trinh về lý thuyết nhằm tìm cách cung cấp một sự mô tả thống nhất về bản chất của bốn loại lực (chủ đề này sẽ được bàn luận trong chương 11). Theo những tính toán về lý thuyết, ở nhiệt độ hàng tỷ,tỷ, tỷ độ có thể đạt tới chỉ trong một phần tỷ ,tỷ, tỷ của một giây thì đối với một tỷ phản-proton sẽ có một tỷ và một proton được tạo nên. Tương tự như thế số electron sẽ hơn số positron là 1 trong một tỷ hạt.

Một sự vượt trội như thế dù là nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng. Trong chuỗi hủy diệt tiếp theo đó, một tỷ cặp proton và phản-proton sẽ biến mất chỉ còn lại proton riêng lẻ sống sót cùng với electron đơn lẻ. Những hạt còn sót lại này- gần như là một ý định muộn màng của tự nhiên-đã trở thành vật liệu mà sau cùng hình thành nên tất cả thiên hà, ngôi sao, hành tinh- và chúng ta. Theo lý thuyết này thì vũ trụ của chúng ta được dựng nên bởi phần cặn dư vật chất còn sống sót như là di tích của phút giây hiện hữu đầu tiên không thể nghĩ bàn.

Cũng như mọi lý thuyết khả tín khác, các nhà vật lý tìm thấy lời giải thích này về nguồn gốc của vật chất là thuyết phục. Nhưng tìm đâu cho được những chứng cứ mạnh mẽ?

Có hai kết qủa khả dĩ có tính khẳng định. Kết qủa thứ nhất liên quan đến sự hủy diệt toàn phần của hàng tỷ các cặp hạt-phản hạt đi kèm với mỗi hạt vượt trội ngay từ lúc khởi đầu. Năng lượng tạo ra từ sự hủy cặp này cũng phải sống sót và được gỉa định dưới dạng nhiệt. Nhưng như đã được đề cập trong chương trước thì vũ trụ thực sự được ngâm trong bức xạ nhiệt còn sót lại từ Bigbang. Vấn đề đơn giản là tính tổng cộng năng lượng nhiệt cho mỗi nguyên tử sống sót để xem những con số có đúng với phép tính (một trong một tỷ) hay không. Những con số đó ăn khớp! hay ít nhất là phù hợp với những mô hình hợp lý. Do đó không chỉ nguồn gốc của vật chất được gỉai thích bởi lý thuyết này mà nó còn tính toán được nhiệt độ chính xác của vũ trụ. Đó là một công trình đáng chú ý.

Lý thuyết tiên đóan được sự vượt trội rất nhỏ của sự sản sinh ra vật chất cũng tiên đoán được sự hủy diệt đồng thời rất nhỏ của vật chất bởi cùng một cơ chế. Theo lý thuyết này thì trải qua một thời gian rất lâu proton sẽ phân hủy thành positron. Hạt này [positron]sẽ tiếp tục biến mất cùng với electron [qúa trình hủy cặp].Theo cách thức này thì vật chất cuối cùng sẽ biến mất. Tuy nhiên, thời gian cho sự biến mất này sẽ rất lâu đến nỗi mà trong suốt một đời người thì thân thể người ta tính trung bình chỉ mất một proton mà thôi. Để kiểm tra lý thuyết này các nhà khoa học đang nghiên cứu sự tích tụ rất lớn của vật chất dưới sâu trong lòng đất để loại bỏ sự ô nhiễm của các tia vũ trụ và cố gắng bắt qủa tang hạt proton đang phân hủy. Bởi vì nguồn gốc qúa trình là thống kê (giống như trong phóng xạ), nên cho dù là chu kỳ phóng xạ của proton ít nhất là mười ngàn tỷ tỷ tỷ năm, sự phân hủy thất thường cũng sẽ được quan sát sau khỏang vài tuần chờ đợi. Khó khăn nằm ở chỗ là phải tích lũy nhiều tấn vật chất (nghĩa là có nhiều proton) mới phát hiện ra biến cố có tính ngẫu nhiên này. Một vài thí nghiệm như thế đang được tiến hành và ít ra có một thí nghiệm đã tạo nên được một số khả dĩ biến cố phân rã của proton.

Câu hỏi về nguồn gốc của vật chất sẽ làm sáng tỏ vấn đề cơ bản đang thử thách bất kỳ nỗ lực nào để dẫn đến kết luận về sự hiện hữu của Thượng đế từ các hiện tượng vật lý. Sự xuất hiện của vật chất mà không có mặt của phản vật chất dường như đã từng được xem là phép lạ và có lẽ nó đã đòi hỏi sự áp đặt siêu nhiên vào Bigbang, thì nay lại có vẻ dễ hiểu dựa trên nền tảng thông thường của vật lý và dưới ánh sáng của sự hiểu biết ngyà càng được cải thiện của khoa học. Đây là một sự kiện gây ngạc nhiên và không gỉai thích được vào lúc này, nhưng chúng ta không bao giờ tuyệt đối chắc chắn rằng vào một lúc nào đó trong tương lai ,sẽ không có một hiện tượng tự nhiên nào được khám phá để giải thích sự kiện ấy.

Những tiến bộ khoa học đó phải chăng có nghĩa là hiện nay chúng ta có thể giải thích được sự sáng tạo bằng các qúa trình tự nhiên? Nhiều nhà thần học phủ nhận điều ấy. Những qúa trình được mô tả ở đây không đại diện cho sự sáng tạo của vật chất từ cái không- có gì mà chỉ là sự chuyển đổi từ năng lượng đã hiện hữu trước sang dạng vật chất. Chúng ta còn phải giải thích rằng năng lượng đến từ đâu ở vị trí đầu tiên. Phải chăng điều này đòi hỏi một sự giải thích siêu nhiên?

Tuy nhiên, người ta phải thận trọng về việc chuyển trách nhiệm từ vật chất sang năng lượng theo cách này. Đúng hơn năng lượng là một khái niệm rất khó nắm bắt, đặc biệt là trong Vật lý học hiện đại. Năng lượng là cái gì? Nó có thể có rất nhiều dạng. Chẳng hạn như, đơn giản nó là chuyển động. Trong phòng thí nghiệm, các hạt va chạm với nhau ở vận tốc lớn và bốn hạt xuất hiện tại ngay chỗ mà trước đó chỉ có hai. Các hạt mới là cái gía phải trả cho việc giảm tốc độ của hai hạt ban đầu. Sự chuyển đổi từ chuyển động sang vật chất rất mơ hồ. Điều này có thể đến rất gần với tinh thần của việc sáng tạo từ cái không-có-gì.

Vẫn có một khả năng đáng chú ý khác. Đó chính là việc tạo nên vật chất từ trạng thái zero của năng lượng. Khả năng này nảy sinh vì năng lượng có thể dương lẫn âm. Năng lượng của chuyển động hay năng lượng của khối lượng luôn luôn dương, nhưng năng lượng của hấp dẫn chẳng hạn như do các loại trường trọng lực hay điện từ lại có gía trị âm. Đó là trường hợp mà trong đó năng lượng dương để hình thành khối lượng của các hạt vật chất mới bằng đúng với năng lượng âm của lực hấp dẫn hay điện từ. Chẳng hạn như trong trường hợp sau đây: Trong vùng lân cận của hạt nhân nguyên tử thì lực điện rất lớn. Nếu một hạt nhân chứa 200 proton được hình thành (có khả năng nhưng khó khăn) thì khi không có bất kỳ dạng năng lượng nào được thêm vào, hệ sẽ trở nên không bền do sự sinh cặp electron-positron tức thời. Lý do của việc này là năng lượng điện âm được tạo bởi các hạt mới có thể bù trừ chính xác năng lượng của khối lượng chúng.

Trong trường hợp lực hấp dẫn thì tình huống này còn lạ lùng hơn nữa vì trường hấp dẫn chỉ là sự cong của không gian-không gian cong. Năng lượng bị nhốt trong độ cong của không gian có thể chuyển hóa thành các hạt vật chất và phản vật chất. Chẳng hạn như nó có thể xảy ra ở gần lỗ đen và có lẽ nó cũng là nguồn hạt quan trọng nhất trong Bigbang. Như vậy, vật chất xuất hiện tức thời từ không gian trống không. Câu hỏi được đặt ra là có phải vụ nổ nguyên khởi đã mang năng lượng, hay toàn bộ vũ trụ là một trạng thái zero năng lượng trong đó năng lượng của tất cả vật chất bù trừ với năng lượng âm của lực hấp dẫn trọng trường.

Có thể giải quyết vấn đề bằng một phép tính đơn giản. Các nhà vũ trụ học có thể đo được khối lượng của các thiên hà, khoảng cách trung bình giữa chúng và tốc độ dời xa nhau của chúng. Đem tất cả những số liệu này vào trong một công thức sẽ nhận được một đại lượng mà các nhà vật lý đã diễn giải nó như là năng lượng tổng cộng của vũ trụ. Kết qủa nhận được đúng thực là zero với độ chính xác có thể quan sát được. Lý do về kết qủa hết sức đặc biệt này là những vấn đề nan giải các nhà Vũ trụ học. Một số đề nghị lời giải đáp rằng phải có một nguyên lý vũ trụ sâu xa vận hành đòi hỏi Vũ trụ phải có chính xác năng lượng zero. Nếu thực sự như vậy thì Vũ trụ có thể hình thành theo lộ trình ít sức cản nhất. Nó hiện hữu mà không đòi hỏi bất kỳ vật chất hay năng lượng nào được thêm vào.

Vật chất đã trở nên phức tạp hơn bởi sự kiện là ngay năng lượng cũng không được định nghĩa một cách rõ ràng khi có mặt của lực hấp dẫn. Trong một số trường hợp vẫn có thể làm rõ khái niệm năng lượng tổng cộng trong một hệ cô lập bằng cách xem xét ảnh hưởng của lực hấp dẫn ở khoảng cách rất xa ( thực ra là vô hạn). Nhưng chiến lược này thất bại hoàn toàn trong trường hợp vũ trụ vô hạn như mô hình vũ trụ của Einstein (được thảo luận trong chương trước). Trong một vũ trụ đóng như thế thì năng lượng toàn phần là một đại lượng vô nghĩa.

Phải chăng những ví dụ đó, chẳng hạn như sự sáng tạo tự nhiên của vật chất từ không gian trống không mà không cần đến năng lượng thêm vào, có thể giải thích cho sự sáng tạo ex nihilo của thần học? Có thể chấp nhận rằng khoa học vẫn chưa giải thích được sự hiện hữu của không gian (và thời gian). Nhưng chấp nhận rằng sự tạo ra vật chất mà từ rất lâu vẫn được xem như là kết qủa của một tác động thần thánh và nay (có lẽ) đã được hiểu biết trong các thuật ngữ khoa học bình thường thì phải chăng chỉ có một cách duy nhất là viện dẫn đến Thượng đế thì con người mới giải thích được lý do tại sao chỉ có một vũ trụ duy nhất – hay là tại sao không gian và thời gian lại hiện hữu trước rồi vật chất có thể có mặt từ đó?

Niềm tin rằng Vũ trụ như là một toàn thể phải có nguyên nhân và nguyên nhân ấy là Thượng đế, đã được phát biểu bởi Plato và Aristote, được khai triển bởi Thomas Aquinas, và rồi đạt đến một hình thức mạch lạc hơn với Gottfried Wilhelm von Leibniz và Samuel Clarke trong thế kỷ 18. Nó vẫn được biết đến như là những biện giải thần học về vũ trụ cho sự hiện hữu của Thượng đế. Có hai phiên bản về biện giải vũ trụ này: Biện giải nhân qủa (sẽ được xem xét ở đây) và biện giải từ sự ngẫu nhiên (sẽ được thảo luận trong chương tiếp theo). Biện giải thần học về vũ trụ đã được xem xét với sự ngờ vực bởi David Hume, Immanuel Kant và nó cũng bị công kích dữ dội bởi Bertrand Russel.

Mục đích của biện giải vũ trụ có hai hướng. Đầu tiên là để thiết lập sự hiện hữu của “ người khởi xướng”- một thực thể nhằm để giải thích cho sự tồn tại của thế giới. Sau đó là để chứng minh rằng thực thể này thực sự là Thượng đế như vẫn được hiểu trong giáo lý Thiên chúa giáo.

Biện giải này được tiến hành dọc theo lộ trình sau đây. Mỗi biến cố, được nhấn mạnh, đều đòi hỏi một nguyên nhân. Không thể nào có một chuỗi vô hạn các nguyên nhân, do đó phải có một nguyên nhân đầu tiên cho mọi thứ. Nguyên nhân này là Thượng đế. Giờ đây, phải khẳng định ngay từ sự khởi đầu rằng đã có nhiều phiên bản của biện giải vũ trụ và rất nhiều những diễn giải tinh vi về ý nghĩa đến nỗi mà ,trải qua nhiều năm ,cuộc tranh luận này nay đã trở nên bí hiểm và phức tạp. Ở đây, tôi không có ý định đưa ra sự đánh gía cân bằng giữa sự ủng hộ và chống đối, mà chỉ muốn nói rằng biện giải này đã thu hút sự chú ý của một số các trí thức lớn trong lịch sử loài người. Tuy vậy, nó cũng không ngăn được những người ủng hộ cũng như chống đối luận đề này tránh khỏi việc đưa ra những sai lầm về mặt logic cũng như triết học. Mối quan tâm của chúng ta ở đây là xem xét lại gỉa thiết về chuỗi nhân qủa dưới ánh sáng của khoa học hiện đại.

Hãy kiểm tra bước đầu tiên trong biện giải: mỗi biến cố có một nguyên nhân. Như Clarke đã tuyên bố : ‘ Không có điều gì có thể vô lý hơn là giả định rằng điều gì đó là như thế, mà tuyệt đối không có lý do để giải thích tại sao nó là như vậy,mà tại sao nó không lại là như vậy’. Nói một cách lỏng lẻo, người ta thường gỉa định rằng mọi thứ xảy ra đều có nguyên nhân bởi một cái gì khác và mỗi vật khi sinh ra đều được tạo bởi một cái gì đó đã hiện hữu sẵn. Có vẻ là hợp lý, nhưng có thật sự như thế?

Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta hiếm khi nghi ngờ rằng về điều :mọi biến cố đều có nguyên nhân theo một cách nào đó. Một cái cầu gãy đổ vì nó qúa tải; tuyết tan vì không khí ấm lên; cái cây mọc lên vì hạt mầm đã gieo xuống, ….Nhưng liệu có những gì đó không có nguyên nhân?

Hãy xem xét khẳng định ở trên ‘ mỗi vật thể sinh ra đều được tạo nên bởi cái gì đó’. Điều gì đó là gì nếu vật thể không được sinh ra nhưng vẫn luôn hiện hữu? Điều như thế chắc chắn có thể cảm nhận được. Không gian trong vũ trụ ở trạng thái bền là một ví dụ. Đặt câu hỏi về một vật thể tồn tại vĩnh cửu- một vật thể không có thời điểm kết thúc- có nguyên nhân hay không, là một việc có ý nghĩa chăng? Người ta vẫn có thể hỏi ‘Tại sao nó hiện hữu?’ Sự bắt bẻ ‘nó luôn luôn [hiện hữu] như thế’ có vẻ què quặt vì người ta có thể tưởng tượng dễ dàng rằng một vật thể có thể không hiện hữu. Có vẻ là hợp pháp khi đi tìm lý do của sự hiện hữu hơn là lý do không hiện hữu, bất kể đến cái tuổi vô hạn của nó. Do vậy, theo ý kiến của một số người thì dẹp bỏ sự sáng tạo ( như trong trường hợp vũ trụ đang ở trạng thái bền) cũng không làm mất đi sự cần thiết về việc gỉai thích tại sao vũ trụ lại tồn tại.

Hãy tạm để sang một bên vấn đề về những vật thể vô hạn và gỉa định rằng chúng ta chỉ giới hạn vào sự “đi vào hiện hữu” của các vật thể. Có thể nào một điều gì đó được tạo ra từ cái “không có gì”? Chúng ta đã thấy các hạt đã được tạo ra từ không gian trống rỗng như thế nào, nhưng trong trường hợp đó thì độ cong của không gian lại là nguyên nhân. Chúng ta vẫn phải giải thích không gian đến từ đâu (nếu nó không luôn luôn hiện hữu). Một số người có thể đã đặt câu hỏi liệu không gian có phải là sự vật. Đương nhiên, khó mà có thể tưởng tượng được Thomas Aquinas hay Leibniz xem nó như là một phần trong chuỗi nhân qủa. Chúng ta lại nhấn mạnh rằng: cái gì làm cho không gian đột ngột xuất hiện trong Bigbang? Điểm kỳ dị chăng? Nhưng điểm kỳ dị hầu như chắc chắc không phải là một sự vật. Nó là biên giới của sự vật ( không -thời gian). Bế tắt!

Có phải mọi biến cố đều có nguyên nhân? Có thể nào một điều gì đó xảy ra mà không có bất kỳ tác động có trước, hay bất kỳ lý do thuần lý? Báo chí luôn đề cập đến ‘Vật thể trong không gian không gỉai thích được’ Tuy vậy điều đó không có nghĩa là những hiện tượng trên bầu trời xảy ra mà không có sự giải thích mà nó chỉ có nghĩa là không có một lời giải thích được biết đến. Một điều không may là chúng ta khó mà thấy được cái khẳng định ‘ mọi biến cố đều có nguyên nhân’ là hoàn toàn là gỉa tạo. Để thấy được điều đó chúng ta không chỉ phải tìm ra một biến cố không có nguyên nhân tường minh mà phải đi đến việc chứng minh rằng trong rất nhiều thông tin mà người ta đã biết về vũ trụ và đào sâu sự hiểu biết về thiên nhiên, thì không có nguyên nhân nào được tìm thấy. Điều đó dường như là không thể. Làm sao người ta có thể chắc chắn rằng biến cố đang xem xét không được tạo bởi một qúa trình hoàn toàn mơ hồ, cực kỳ hiếm, chưa từng gặp, gây trở ngại và bất thường?

Ngành khoa học gần nhất để đánh đổ khẳng định rằng mọi biến cố đều có nguyên nhân là Cơ học lượng tử. Như chúng ta sẽ thấy trong chương 8, trong thế giới của các hạt hạ-nguyên tử thì cách ứng xử của các hạt thông thường là không thể tiên đóan được. Từ thời điểm này sang thời điểm kế cận anh không thể chắc rằng một hạt sắp làm điều gì. Nếu, trong một biến cố người ta sẽ chọn nơi đến của một hạt là một vị trí riêng biệt nào đó thì , theo lý thuyết lượng tử, biến cố ấy không có nguyên nhân theo nghĩa là nó vốn không thể tiên đoán được. Cho dù có rất nhiều thông tin có sẵn về các lực và các ảnh hưởng tác động lên hạt thì vẫn không có cách nào để cho rằng việc đến một vị trí được chỉ định trước, được xem là được ‘định sẵn’ bởi bất kỳ điều gì khác. Kết qủa cho thấy là vị trí đến của hạt hoàn toàn có tính ngẫu nhiên nội tại. Hạt chỉ nổi lên vị trí đó không nhịp điệu, không lý do.

Một số (thiểu số) các nhà vật lý không xem xét ý tưởng đó một cách nghiêm túc. Einstein bác bỏ nó bằng một bắt bẻ nổi tiếng:’ Thượng đế không chơi trò súc sắc’. Những nhà vật lý đó mong muốn rằng mỗi biến cố phải được tạo nên bởi một điều này hay điều khác ngay cả ở tầm mức hạ-nguyên tử. Điều đủ làm ngạc nhiên là, hoàn toàn có thể thực hiện một thí nghiệm để chứng minh rằng, trừ phi là các ảnh hưởng có thể di chuyển nhanh hơn ánh sáng, các hệ nguyên tử thật sự không tiên đoán được- ‘ Thượng đế ‘đang chơi trò súc sắc. Khẳng định này dường như đang có nền tảng khá vững chắc miễn sao những ý đồ phi thường của thiên nhiên không phản bác các kết qủa thực nghiệm.

Do đó, nếu người ta chấp nhận rằng những biến cố lượng tử không có nguyên nhân trực tiếp một cách riêng lẻ thì phải chăng sự tạo ra vật chất ,như là một thí dụ cổ điển, có thể được xem là không có nguyên nhân vật lý? Theo một nghĩa nào đó thì Đúng là như thế. Một hạt riêng lẻ sẽ được sinh ra đột ngột và không thể tiên đoán được vào một vị trí hay thời điểm bất kỳ. Tuy nhiên cách ứng xử của hạt tuy độc lập nhưng vẫn chịu chi phối bởi các định luật xác suất. Cho trước độ cong không gian có một độ lớn đặc biệt thì có khả năng rất cao là hạt sẽ xuất hiện trong một thể tích nhất định của không gian và trong một khoảng thời gian nào đó nhưng không bao giờ xác định. Ngược lại, dù cho xác suất cực kỳ nhỏ nhưng vẫn có cơ may nhất định cho một hạt như thế nổi lên ở một nơi nào đó trong phòng khách của bạn ngay lúc này. Trong thế giới lượng tử, những điều như thế xảy ra không hề báo trước. Sự kiện rằng xác suất để tạo nên một hạt phụ thuộc vào độ cong của không gian đã hàm ý một liên quan nhân qủa lỏng lẻo. Độ cong của không gian đã làm cho sự xuất hiện của hạt dễ xảy ra hơn. Liệu điều đó có được xem là nguyên nhân của sự xuất hiện hạt một cách chặt chẽ hay không? Đó chỉ là vấn đề ngữ nghĩa trên qui mô rộng lớn.

Giờ đây người ta có thể phản đối rằng trọng tâm của việc thảo luận liên quan đến vấn đề liệu toàn thể vũ trụ có nguyên nhân hay không chứ không phải sự tạo ra hạt electron hay chuyện nó đến một vị trí nào đó có nguyên nhân hay không. Một số nhà vật lý không ngần ngại trả lời rằng toàn thể vũ trụ cũng bị chi phối bởi những nguyên lý lượng tử, nhưng điều này lại dẫn chúng ta đến một chủ đề gây tranh cãi về Vũ trụ học lượng tử mà bản thân lý thuyết này chứa đầy những vấn đề về thống nhất nội tại (consistency). (Những thảo luận xa hơn sẽ được đề cập trong chương 16, ở đó tôi sẽ gợi ý một kịch bản lượng tử có thể giải quyết vấn đề về nguồn gốc vũ trụ). Hiện giờ, vẫn không đi ngược lại lý thuyết lượng tử chúng ta chấp nhận rằng toàn thể vũ trụ có thể được xem là có nguyên nhân và nguyên nhân đó là cái gì? Thượng đế?

Tới đây chúng ta tiến hành xem xét bước thứ hai của biện giải vũ trụ : không thể có một chuỗi vô hạn các nguyên nhân. Trách nhiệm sau cùng phải dừng ở một nơi nào đó. Những thiên hà hình thành từ những tinh vân xoáy tròn, tinh vân được cấu tạo bởi khi hydrô sơ khai, hydro lại được tạo bởi các proton và được tạo nên từ vụ nổ đầu tiên, các proton lại xuất hiện do độ cong của không gian. Sự gỉa định luôn luôn là chuỗi nguyên nhân này phải có thành phần đầu tiên. Aquinas đã viết:

Trong thế giới quan sát được thì các nguyên nhân được tìm thấy được sắp xếp thành các chuỗi. Chúng ta không bao giờ quan sát, không bao giờ có thể thấy, caí gì đó tự tạo nên chính nó vì điều đó có nghĩa là nó đã có trước nó, và điều này là bất khả. Một chuỗi nguyên nhân như thế bắt buộc phải dừng ở một chỗ nào đó vì nguyên nhân sớm hơn sẽ tạo nên nguyên nhân trung gian và nguyên nhân trung gian sẽ tạo nên nguyên nhân cuối cùng (cho dù nguyên nhân trung gian là một hay nhiều). Giờ đây nếu bạn bỏ nguyên nhân thì bạn cũng hủy hệ qủa của nó để rồi bạn không thể có nguyên nhân cuối cùng, không có nguyên nhân trung gian trừ phi bạn còn lại nguyên nhân đầu tiên. Do đó không có điểm dừng trong chuỗi nguyên nhân sẽ không có nguyên nhân đầu tiên, không có nguyên nhân trung gian và cũng chẳng có hệ qủa cuối cùng và điều này là một sai lầm công khai. Vì thế người ta buộc phải gỉa định một nguyên nhân đầu tiên nào đó và đặt tên là “Thượng đế”.(2)

Trong phần lập luận chống lại chuỗi vô hạn về nhân qủa thì cả Aquinas và Clarke đã không đưa ra những phản biện dựa trên nền tảng đó là một chuỗi vô hạn.Thật vậy, cả hai tư tưởng gia đã khai triển lập luận của họ trong khung cảnh của một vũ trụ vĩnh cửu và bằng lòng với điều đó để dẫn đến bằng chứng của sự sáng tạo nằm ở sự ‘mặc khải thần thánh’ hơn là những lập luận lý trí. Đúng hơn thì những phản bác này dường như cho rằng một chuỗi vô hạn nhân qủa chứa toàn thể vũ trụ là điều không thể có được.

Nếu chúng ta xem xét một tiến trình vô hạn…..Đơn giản là , toàn thể chuỗi hiện hữu của mọi loài không thể có nguyên nhân từ’ cái không’ bởi vì mọi thứ đã được giả định là đã và đang được chứa trong vũ trụ. Và rất đơn gỉan là, không thể có nguyên nhân về sự hiện hữu lại nằm trong chính nó vì không có sự hiện hữu nào trong chuỗi vô hạn này được gỉa định là tự hiện hữu hay nhất thiết như thế… nhưng mọi thứ phụ thuộc vào cái có trước….Như thế một tiến trình vô hạn của những hiện hữu với tính chất hoàn toàn phụ thuộc, mà không có bất kỳ một nguyên nhân ban đầu độc lập, là một chuỗi không cần thiết và không có nguyên nhân…trong chính nó hoặc từ cái không: nghĩa là, đó là một sự mâu thuẫn và bất khả thi rõ rệt.(3)

Niềm tin rằng một tiến trình vô hạn của các ‘sự hiện hữu có tính chất phụ thuộc’ là một chuỗi nhân qủa vô hạn, rất lỏng lẻo. Nó cần sự giải thích cho sự tồn tại của chính nó (sự giải thích này không thể tìm thấy khi cho rằng chuỗi đó lại bao gồm mọi thứ đang hiện hữu) và bị công kích sắc bén bởi các triết gia đặc biệt là Hume và Russell. Trong một thảo luận nổi tiếng ở BBC với cha Copleston, Russell đã minh họa quan điểm của ông như sau: ‘Mỗi người hiện hữu đều có một người mẹ…..nhưng rõ ràng là loài người thì không có một người mẹ’. Ngắn gọn là, chừng nào mà mỗi một thành phần riêng lẻ của tiến trình được gỉai thích thì, ipso facto [vì sự kiện đó mà], tiến trình được giải thích. Và vì mỗi thành phần của chuỗi có sự tồn tại nằm ở một hay nhiều thành phần trước đó nên mỗi thành phần của chuỗi vô hạn được gỉai thích. Đặt câu hỏi về nguyên nhân của toàn thể vũ trụ có một vị thế về logic khác với đặt câu hỏi về nguyên nhân của từng đối tượng riêng lẻ hay của từng biến cố trong vũ trụ.

Thật ra, chủ đề về ‘tập hợp của các tập hợp’ có tiếng là khó nắm bắt. Nếu một tập hợp được định nghĩa một cách vô thưởng vô phạt như là sự thu thập các sự vật (cụ thể hay trừu tượng) thì như Russell đã chứng tỏ bằng nghịch lý nổi tiếng của ông: một tập hợp của các tập hợp có thể không phải là một tập hợp! Này nhé, chúng ta có thể xem xét một danh mục liệt kê của tất cả cuốn sách trong thư viện là một tập hợp. Nhưng có phải chính danh mục này cũng nằm trong danh sách? Đôi khi có trường hợp đó. Hãy gọi những danh mục như thế là ‘loại I’ và những danh mục khác không bao gồm chính nó được gọi là ‘loại II’. Giờ đây hãy xem xét một danh mục chính trong thư viện trung tâm như là tập hợp của các tập hợp. Chức năng của nó là liệt kê tất cả danh mục loại II; nó là một tập hợp các danh mục. Có đủ hợp lý chăng? Thật không may là ‘không’.Tập hợp của các danh mục loại II là nghịch lý, vì chúng ta khám phá ngay khi chúng ta đặt câu hỏi, có phải danh mục chính là loại I, hay loại II? Nếu nó là loại II thì nó không được bao gồm chính nó. Nhưng danh mục chính được định nghĩa như để liệt kê tất cả các danh mục không kể chính nó (loại I I). Như vậy nó phải liệt kê chính nó và như vậy nó là loại I. Nhưng điều này không thể được vì danh mục chính chỉ liệt kê loại II, như thế nó không thể liệt kê chính nó nếu nó là loại I. Nghĩa là nó không liệt kê chính nó, vậy thì nó là loại II. Kết quả: một sự vô lý do tự mâu thuẫn.

Kết luận cuối cùng cho mọi điều này là khái niệm vũ trụ của tất cả mọi sự vật đang hiện hữu thật sự là một khái niệm tinh tế. Điều không rõ ràng là vũ trụ là một sự vật và nếu nó được định nghĩa như là tập hợp các sự vật thì nó sẽ dẫn đến nghịch lý. Những vấn nạn như thế đang chực sẵn để giăng bẫy những ai cố gắng lập luận một cách logic về sự hiện hữu của Thượng đế như là nguyên nhân của mọi sự vật.

Cho đến nay ngay cả chấp nhận lập luận rằng vũ trụ phải có nguyên nhân thì vẫn có những khó khăn về mặt logic khi gán nguyên nhân ấy cho Thượng đế vì lẽ chúng ta có thể hỏi tiếp: ‘Cái gì tạo nên Thượng đế?’ Câu trả lời thường là ‘ Thượng đế không cần nguyên nhân. Sự hiện hữu của Thượng đế là đầy đủ và nguyên nhân được tìm thấy trong chính Ngài’. Nhưng lối lập luận vũ trụ về sự tồn tại của Thượng đế lại dựa trên gỉa định rằng mọi thứ đều có nguyên nhân .Vậy mà cuối cùng lại kết thúc bằng một kết luận rằng ít nhất một thứ ( Thượng đế) lại không đòi hỏi nguyên nhân. Lối lập luận như thế có vẻ tự mâu thuẫn. Hơn nữa, nếu người ta được chuẩn bị để thừa nhận rằng một cái gì đó-Thượng đế- có thể tồn tại không cần một nguyên nhân bên ngoài thì tại sao lại phải theo cái chuỗi qúa dài ấy? Tại sao vũ trụ lại không thể tồn tại mà không cần một nguyên nhân bên ngoài? Phải chăng gỉa định rằng vũ trụ tự là nguyên nhân của chính nó đáng hoài nghi hơn gỉa định Thượng đế tự là nguyên nhân của chính mình?

Nếu chúng ta dừng lại, và không đi xa hơn (Thượng đế), tại sao phải đi qúa xa?Tại sao không dừng lại ngay cái thế giới vật chất này?....Bằng việc gỉa định nó chứa những nguyên lý về trật tự trong chính nó thì chúng ta đã thực sự khẳng định nó [thế giới vật chất] chính là Thượng đế.(4)

Đoạn trích của Hume này gợi nhắc đến niềm tin mênh mang của rất nhiều nhà khoa học rằng :” Thượng đế là thiên nhiên” hay “ Thượng đế chính là vũ trụ”

Tuy nhiên, có lẽ sự phản bác quan trọng nhất đối với phiên bản nhân qủa của lối lập luận thần học về vũ trụ chính là sự kiện: nguyên nhân và hậu qủa chỉ là những khái niệm dính chặt với ý niệm về thời gian. Cho đến nay như chúng ta đã biết ,ngành vũ trụ học hiện đại đề xuất rằng sự xuất hiện của vũ trụ có liên quan đến sự xuất hiện của chính thời gian. Thường thường chúng ta chấp nhận rằng nguyên nhân luôn luôn đi trước hậu qủa về thời gian chẳng hạn như cái đích bị vỡ tan sau khi súng nổ. Trong trường hợp đó, nếu hành động sáng tạo có liên quan đến việc sáng tạo ra chính thời gian, thì thật là vô nghĩa khi nói về việc Thượng đế tạo ra vũ trụ theo nghĩa nhân qủa thông thường. Nếu không có “ lúc trước” thì không thể có nguyên nhân ( theo nghĩa thông thường) của Bigbang theo nghĩa tự nhiên cũng như siêu nhiên.

Quan điểm này dường như đã được tán thưởng nhiệt liệt bởi St. Augustine (354-430) khi ông chế nhạo ý tưởng cho rằng Thượng đế chờ một thời gian vô hạn và rồi quyết định tạo ra vũ trụ vào một thời điểm thuận tiện.’ Thế giới và thời gian có cùng điểm khởi đầu’ Ông ta đã viết như thế. ‘ Thế giới được làm nên không phải theo thời gian mà đồng thời với thời gian’ (5) Đó là một dự đoán xuất sắc của ngành khoa học vũ trụ hiện đại khi xem xét những ý tưởng hoàn toàn sai lầm về không gian và thời gian trong thời đại của Augustine.

Dù vậy ,cũng nên tò mò một chút về lối diễn giải của Sáng Thế Ký (Genesis) mà sau này nó bị thách thức khi giáo hội Thiên chúa giáo chịu ảnh hưởng của truyền thống Hy lạp cổ vào thế kỷ 13. Trong cuộc tranh luận sau đó, Hội đồng Giáo hội lần thứ tư (1215) đã bác bỏ triết lý của Aristote về một vũ trụ vô hạn tuổi và nhấn mạnh rằng, như một chương về đức tin của người Thiên chúa giáo, vũ trụ đã có điểm khởi đầu trong thời gian .Vậy mà ngay cả ngày nay các nhà thần học vẫn chia ra làm nhiều phe phái đối với lối diễn giải trong Sáng Thế Ký.

Việc mặc nhiên công nhận một Thượng đế siêu việt thời gian mặc dù có thể làm cho ông ta có thể đến ‘ nơi này và ngay bây giờ’ nhưng nó cũng tạo nên vấn đề . Đó là vì rất nhiều những tính chất mà con người đã gán cho Thượng đế chỉ có ý nghĩa trong khung thời gian. Có chắc là Thượng đế có thể lên kế hoạch, trả lời các người cầu nguyện, diễn tả niềm hài lòng hay lo âu về tiến triển của con người và rồi sau này ngồi phán xét? Phải chăng ông ta vẫn liên tục hoạt động trong thế giới, làm việc, ‘cho dầu trơn vào bánh răng của guồng máy vũ trụ’ vân vân…..Tất cả những hoạt động đó đều không có nghĩa ngoại trừ trong một khung thời gian. Làm thế nào Thượng đế lại có thể lên kế hoạchtác động nếu không có thời gian [giữa hai hành động đó]? Nếu Thượng đế siêu việt thời gian và biết được tương lai thì tại sao ông ta lại quan tâm đến tiến triển của nhân loại hay là cuộc đấu tranh chống cái ác? Vì tất cả kết qủa đã được Thượng đế nhận biết! ( Chúng ta sẽ quay lại chủ đề này trong chương 9).

Thật vậy, cái ý tưởng về Thượng đế tạo ra vũ trụ, như chúng ta đã thấy, là một tác động chỉ xảy ra trong thời gian. Khi giảng về Vũ trụ học, tôi luôn luôn được hỏi rằng cái gì xảy ra trước Bigbang. Câu trả lời là, không có cái ‘trước’ vì Bigbang cũng biểu thị cho sự khởi đầu của chính thời gian. Câu trả lời này luôn luôn bị ngờ vực- ‘ phải có một cái gì đó tạo ra nó’. Nhưng nguyên nhân và hệ qủa là những khái niệm gắn với thời gian và chúng không thể được dùng cho một trạng thái mà trong đó thời gian không tồn tại. Câu hỏi như thế là vô nghĩa.

Nếu thời gian thật sự có điểm khởi đầu thì bất kỳ nỗ lực nào nhằm giải thích về nguyên nhân của nó đều phải viện dẫn đến một khái niệm rộng rãi hơn về nguyên nhân so với khái niệm quen thuộc với chúng ta trong đời thường. Một khả năng là nới lỏng yêu cầu rằng nguyên nhân luôn luôn đi trước hệ qủa. Có thể nào để tạo nên các hệ qủa có trước thì nguyên nhân phải tác động ngược chiều thời gian? Dĩ nhiên, ý tưởng thay đổi qúa khứ có qúa nhiều nghịch lý. Gỉa sử rằng liệu bạn có thể gây ảnh hưởng đến những biến cố của thế kỷ 19 theo một cách nào đó để bạn không được sinh ra, chẳng hạn như vậy? Tuy thế đã có một số những lý thuyết trong Vật lý hiện đại liên quan đến cái ‘nguyên nhân tác động ngược’ này. Những hạt theo giả thuyết chuyển động nhanh hơn vận tốc ánh sáng (thường được gọi là Tachyon) có thể hoàn tất việc này. Để tránh nghịch lý, người ta phải gỉa định rằng kết nối giữa nguyên nhân-hệ qủa rất lỏng lẻo và không kiểm soát được hay nó rất sự đa dạng và vi tế. Như chúng ta sẽ thấy, lý thuyết lượng tử đòi hỏi một kiểu nhân qủa ngược chiều như thế vì lẽ sự quan sát được thực hiện ngày nay có thể góp phần vào việc xây dựng một thực tế trong qúa khứ xa xăm. Quan điểm này được nhấn mạnh bởi nhà Vật lý học John Wheeler : ’ Các nguyên lý lượng tử chứng tỏ rằng có một ý nghĩa nào đó trong đó cái mà người quan sát sẽ làm trong tương lai, lại định nghĩa cái đang làm trong qúa khứ- ngay cả trong một qúa khứ xa xăm mà sự sống chưa hiện hữu.’(6)

Wheeler đưa vào ở đây cái tâm tưởng (mind) (‘của người quan sát’) một cách sâu sắc, vì thật ra người ta bắt buộc phải làm trong lý thuyết lượng tử, và cũng đưa vào dính mắc giữa sự tồn tại của tâm tưởng vào một giai đoạn rộng hơn trong sự tiến hóa của vũ trụ với sự sáng tạo ban đầu của vũ trụ:

Phải chăng cái cơ chế hiện hữu của vũ trụ là vô nghĩa hay không hoạt động hay cả hai trừ phi vũ trụ được bảo đảm để tạo nên sự sống, ý thức và sự quan sát ở nơi nào đó và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nào đó trong lịch sử hình thành của nó?(7)

Wheeler hy vọng rằng chúng ta có thể khám phá, trong khung cảnh của Vật lý, một nguyên lý cho phép vũ trụ sinh ra với ‘sự phù hợp của chính nó’. Trong sự tìm kiếm một lý thuyết như thế, ông nhận xét:’ không có nguyên lý dẫn đường nào có vẻ mạnh mẽ hơn yêu cầu là nó phải cung ứng cho vũ trụ cách thức để được tạo ra(8) .Wheeler đã ví vũ trụ ‘tự tạo nên’ với dòng điện ‘tự kích thích’ trong điện học.

Giờ đây, ngay cả nếu như có thể tìm được một nguyên nhân cho sự tạo nên không -thời gian từ một hoạt động tự nhiên nào đó sau này (có thể là tâm tưởng hay vật chất) thì cũng rất khó mà thấy được làm thế nào mà sự sáng tạo từ ‘cái không có gì’ có thể xảy ra một cách tự nhiên. Vẫn cần phải là “vật liệu thô” cho tâm tưởng hay bất kỳ cái gì đi vào hoạt động khi đi ngược về qúa khứ. Wheeler đề nghị rằng không gian và thời gian thật ra là những cấu trúc tổng hợp- chúng được tạo nên từ những thành phần ‘bit’ mà ông ta gọi là yếu tố ‘tiền không gian’ (pregeometry). Nhiều nhà Vật lý khác lại đề nghị rằng không gian và thời gian không phải là những khái niệm cơ bản mà chỉ là những khái niệm gần đúng giống như vật chất có vẻ liên tục nhưng thực ra lại được xây dựng từ các nguyên tử. Vì thế, không-thời gian có thể được xây dựng bởi các thực thể sơ khởi và trừu tượng hơn. Điều này có thể là kết qủa của nỗ lực tìm kiếm một lý thuyết lượng tử về lực hấp dẫn ( hấp dẫn chỉ thuần túy là hình học của không thời gian). Trong một điều kiện cực kỳ đặc biệt nào đó, chẳng hạn như vào lúc khởi đầu Bigbang, không thời gian có thể ‘tách ra’ và phô bày những thành phần nội tại. Diễn tả điều này theo ngôn ngữ tượng hình thì Bigbang có thể xem là biến cố trong đó các ‘ bánh răng’ nhập khớp vào nhau và sắp xếp thành cái không-thời gian liên tục một cách biểu kiến. Theo cái nhìn này thì Bigbang là sự khởi đầu của không gian, thời gian và vật chất nhưng không phải là các giới hạn của vật lý. Xa khỏi Bigbang ( không phải ‘trước’ vì không có cái ‘trước’ ) thì các ‘bánh răng’ nằm tách biệt. Chúng là các thực thể vật lý nhưng không nằm trong không gian hay thời gian.

Trước khi rời chủ đề về sự sáng tạo và liệu có ý nghĩa hay không khi hỏi rẳng có phải nó đã được tạo nên bởi cái gì đó thì chúng ta phải xem xét khả năng rằng câu trả lời có thể là “có”, nhưng cái gì đó có thể không phải là Thượng đế. Như đã nhấn mạnh, vế thứ hai của những lập luận thần học về vũ trụ tìm kiếm sự thiết lập một Thượng đế sáng tạo vũ trụ. Tuy nhiên, những khám phá của Vật lý hiện đại đã mở ra những khả năng mới mà những người ủng hộ cho lập luận thần học đó không bao giờ mơ tưởng đến.

Trong chương trước chúng ta đã giải thích rằng sự tạo nên vật chất đã được xác định thích hợp trong một không gian gĩan nở (độ cong của không gian). Hơn thế nữa, dường như không có giới hạn cho một tính chất đàn hồi của không gian. Vùng nhỏ nhất có thể nới rộng ra cái vô hạn. Vào thời điểm một phần tỷ giây sau sự tạo nên vũ trụ được quan sát hiện nay ( tất cả thể tích cỡ hàng tỷ, tỷ, tỷ năm ánh sáng -khối đã co rút thành một thể tích của hệ mặt trời. Vào thời điểm trước đó nó còn nhỏ hơn nữa. Do vậy, không gian có thể phát triển từ cái không –có gì và vật chất cũng xuất hiện từ không gian. Tuy nhiên, người ta cảm thấy một cái gì đó ắt hẳn là khởi đầu từ một đốm vô cùng nhỏ của không gian đang trong lộ trình giãn nở vì nổ tung. Đó chính là nơi chúng ta đi trở về những kỳ dị, nhân qủa, vân vân….

Tuy nhiên vẫn có một cách giải thích khác cho vũ trụ của không gian và vật chất. Điều này có thể được sao chép, nói thô thiển là ‘vũ trụ copy’. Nó được mô tả tốt nhất bằng phép tương tự. Vì không gian có tính đàn hồi, hãy tưởng tượng nó được biểu thị bởi một màng cao su. ( Tấm màng này chỉ có hai chiều trong khi không gian là 3 chiều. Đây chỉ là một thiếu sót mang tính khái niệm nhưng vẫn có gía trị về mặt logic. Những gì sắp được mô tả vẫn có gía trị trong không gian 3 chiều nhưng không thể hình dung nó trong trường hợp đó.)

Hình 5 chỉ cho thấy một chuỗi giai đoạn. Đầu tiên , một cái bướu được tạo nên trên tấm màng cao su. Rồi cái bướu phồng lên trong lúc tạo nên một cái ‘cổ’ rất hẹp nối nó với tấm cao su. Cái bướu có hình dạng của trái banh. Bây giờ, cho phép cái cổ co rút lại cho đến khi tấm cao su chỉ còn hoàn toàn tiếp xúc với trái banh. Cuối cùng, cắt cái cổ để giải phóng trái banh và cho phép cái cổ tự lành vết trong tấm cao su liên tục lần nữa. Tấm cao su đã tạo nên trái banh hoàn toàn độc lập và tách rời . Trái banh lại có thể giãn nở đến vô tận. Nếu mong muốn thì trái banh mới này lại có thể tự sử dụng chính nó để tạo nên những trái banh khác.

Posted Image

Hình 5: tính chất đàn hồi của không gian được gợi ý bởi lý thuyết Tương Đối Tổng Quát của Einstein cho phép sự phát triển và tách biệt của một “ vũ trụ con” (bong bong) từ một “vũ trụ mẹ’ (tấm cao su). Sự thay đổi về mặt tôpô được đề nghị trong một số lý thuyết gần đây nhưng vẫn chưa được hiểu hoàn toàn.

Nếu chúng ta xem xét vũ trụ của chúng ta- tất cả những không gian mà chúng ta có thể tiếp cận một cách vật lý- như là một “trái banh mới” thì đây chắc chắn là trường hợp vũ trụ không luôn luôn tồn tại: nó được tạo ra. Tuy nhiên, kẻ sáng tạo ra nó vẫn có thể được tìm thấy trong khuôn khổ của những qúa trình vật lý, cụ thể đó là một cơ chế sáng tạo với nguồn gốc của nó nằm trong ‘tấm cao su mẹ”. Tấm màng đó hiện nay chúng ta chưa thể tiếp cận được. Nó xa khỏi không- thời gian của chúng ta và như thế chúng ta vẫn không tìm thấy nguyên nhân nào về sự hiện hữu của nó trong phạm vi vũ trụ của chúng ta nên Thượng đế vẫn chưa can dự vào.

Nét chính nổi bật từ ý tưởng này là cái mà vẫn thường được xem là “vũ trụ”, thật ra có thể chỉ là một mảnh rời rạc của không thời gian. Có thể có nhiều, ngay cả là vô tận, những vũ trụ khác nhưng tất cả đều không được tiếp cận từ những vũ trụ khác. Với định nghĩa “vũ trụ’ thì sự giải thích về vũ trụ của chúng ta không nằm trong chính nó- nó nằm ngoài xa. Nó không dính líu gì tới Thượng đế mà chỉ liên hệ với không thời gian và cơ chế vật lý khá kỳ lạ mà thôi.

Một cơ chế như thế đã được đề nghị gần đây trong một số nghiên cứu về mặt lý thuyết (9). Dưới một nhiệt độ cực kỳ cao có thể quan niệm rằng không gian trở nên không bền để “sinh sản” những “trái banh” khác theo cách này. Người ta còn có thể xem xét đến một tập thể các tiến bộ kỹ thuật đủ sức để cân nhắc việc tạo nên các vũ trụ mới. Tuy nhiên những người theo chủ nghĩa truyền thống chắc chắn sẽ phản bác rằng gỉa thiết về sự sáng tạo theo cách thức này chỉ chứa một sự gỉai thích giả mạo vì nó vẫn chưa gỉải thích cho cái toàn thể “ tấm cao su và bong bong”. Đúng như thế, nhưng đây chỉ là ví dụ minh họa rằng mọi thứ chúng ta có thể quan niệm ,về nguyên tắc, vẫn được tạo ra bởi các nguyên nhân tự nhiên vào một thời gian nào đó và rằng, cái gì (nếu có) nằm ngoài tất cả không- thời gian của chúng ta cũng không thể hoàn toàn là siêu nhiên.

Sự phân tích này đã góp phần được điều gì cho sự tìm kiếm của chúng ta về Thượng đế như là kẻ sáng tạo ? Lập luận cho rằng phải có nguyên nhân đầu tiên cho mọi thứ đã mở ra những nghi vấn nghiêm trọng chừng nào mà chúng ta còn gắn chặt với bất kỳ khái niệm đơn giản nào về nguyên nhân, bất kể là vũ trụ có vô hạn tuổi hay có sự khởi đầu của thời gian. Những cơ chế nhân qủa kỳ lạ, chẳng hạn như tính nhân qủa đảo ngược hay những qúa trình lượng tử về tinh thần có thể lấy đi sự cần thiết của một nguyên nhân đầu tiên của sáng tạo. Tuy vậy, người ta vẫn còn lại những cảm giác không dễ chịu. Nhà thần học Richard Swinburne đã viết:

Sẽ là một sai lầm khi gỉa định rằng nếu vũ trụ này có vô hạn tuổi và mỗi trạng thái của vũ trụ vào một thời điểm được giải thích hoàn toàn bởi những trạng thái trước của vũ trụ và các định luật tự nhiên (và như thế Thượng đế không được viện dẫn)và rằng sự hiện hữu của vũ trụ qua thời gian vô hạn được giải thích đầy đủ hay hoàn toàn. Không có sự giải thích này cũng không có sự giải thích kia. Nó hoàn toàn là không giải thích được. (10)

Để minh họa quan điểm này, hãy gỉa sử rằng những con ngựa luôn luôn hiện hữu. Sự hiện hữu của mỗi con ngựa có thể được gỉai thích một cách nhân qủa bởi sự hiện hữu của cha mẹ nó. Nhưng chúng ta vẫn chưa giải thích được tại sao lại có tất cả con ngựa- tại sao lại có những con ngựa mà đúng hơn là không có chúng hay đúng hơn là chỉ có loài độc sừng chẳng hạn. Dù chúng ta có khả năng tìm ra mọi nguyên nhân cho mọi biến cố ( không chắc chắn về phương diện các hiệu ứng lượng tử) nhưng chúng ta vẫn còn cái bí ẩn về lý do tại sao vũ trụ lại có được cái tự nhiên mà nó đang có, hay cơ bản hơn là tại sao lại có một vũ trụ.Posted Image

Phụ chú:

<li style="text-align: justify;">Samuel Clarke khai triển phiên bản về những lập luận thần học về vũ trụ trong các bài giảng Boyle năm 1704, sau đó được ấn bản dưới tựa “ A Demonstration of the being and Attributes of God” cùng với các bài giảng khác vào năm 1905 ,những bài giảng này được in lại như “A Discourse Concerning the Being and Attributes of God, the Obligations of Natural Religion, and the Truth and Certainty of the Christian revelation ( John and Paul Knapton;London,1738, nine edtion)<li style="text-align: justify;">Aquinas, Summa Theologiae (ed T.Gilby; Eyre& Spottiswoode 1964)<li style="text-align: justify;">Clark,op,cit pp 12-13<li style="text-align: justify;">D.Hume, ‘Dialogues Concerning Natural Religion (ed H.D.Aiken;Hafner 1969; first published 1779).Part IV.<li style="text-align: justify;">St.Augustine of Hippo, ‘On the beginning of time” ,“The City of God” (trans.M.Dods;Hafner 1948).<li style="text-align: justify;">J.A.Wheeler, “Genesis and observershipFoundational Problems in the Special Sciences (eds R.E.Butts and K.J.Hintikka;Reidel 1977).<li style="text-align: justify;">Ibid<li style="text-align: justify;">J.A.Wheeler, “Beyond the black hole”, “Some Strangeness in the Proportion” (ed.H.Woolf; Addison-Wesley 1980)<li style="text-align: justify;">A so-called ‘bubble cosmology’ has been proposed by J.R.Gott III in Nature 295,304 (1982)<li style="text-align: justify;">R.Swinburne, The Existence of God (Oxford: Clarendon Press 1979) p .122

Share this post


Link to post
Share on other sites

Với sự thật khách quan là "con người không chết" qua các hiện tượng giao tiếp, nói chuyện, tiên tri... của các nhà ngoại cảm khi tiếp xúc với các vong linh, ta có thể xem xét một số quan điểm xưa về Thập điện Diêm vương và nguyên lý nhân quả như thế nào.

Nếu một sự suy nghĩ hay vọng khởi phát sinh trong tâm trí, thì ta hiểu rằng đã có sự tương tác vật chất xuất hiện và với đều kiện này, rõ ràng chúng sẽ thuộc vào một trong các trạng thái của âm dương ngũ hành. Sự tương tác sẽ có lợi hay hại tùy theo mỗi thuộc tính. Vậy, nếu "Nhận thức" vẫn sống sau khi chết, "Nhận thức"này vẫn giữ nguyên và là đặc thù của mỗi người, và do trí tuệ của mỗi người có thể chưa rõ quy luật âm dương ngũ hành cho nên vẫn vướng vào "ham muốn" khi thân vật lý không đạt được không tồn tại sau khi chết: điều này nói lên "Linh hồn" hoàn toàn vẫn còn vướng bận đời thường hay vẫn bị quanh quẩn trong vòng vận động của vật chất hay còn trong vòng khổ ải - ai cũng công nhận thì đây có vẻ là linh hốn vẫn đang ở trong khu vực của Thập điện Diêm vương như người xưa mô tả.

Thập điện diêm vương có 10 điện, trong đó có 8 điện để tra tấn tội nhân. Điện 1: xét tội và Điện 10: đầu thai kiếp khác. Các điện còn lại tra tấn tội nhân.

Theo nhà ngoại cảm nổi tiếng nhất thế giới người nước ngoài, khi không còn mang thân xác thì linh hồn tăng tiến về mặt nhận thức cuộc sống, điều này chỉ ra chẳng nhẽ người tốt hay xấu đều cả cơ hội hiểu rõ sự phát triển nhận thức sai khi chết - tức huề cả làng?. Ví dụ sau khi hết chúng ta có thể gặp Hít Le hay Pôn Pốt mà không có nhận định gì hay sao?. Rõ ràng những người kẽ như vậy khó thay đổi nhận thức sẽ phải ở một tầm thấp hơn trong mức vật chất để có quan hệ với các linh hồn khác. Mặt khác còn có các ràng buộc khác theo nguyên lý nhân qua như trên:

Đó là mối quan hệ gia đình, dòng tộc theo nguyên lý đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Các nguyên nhân của người trước sẽ ảnh hưởng đến người sau "Cha ăn mặn con khát nước". Luật xưa chỉ ra chỉ nam nữ chỉ được lấy nhau sau 5 đời là cũng có lý do. Khoa học hiện đại tìm ra Gen di truyền cũng chứng minh, tuy nhiên chưa chỉ ra nguyên lý nhân quả theo lý học đông phương. Ảnh hưởng cực kỳ nặng nể nếu là Pôn Pốt chẳng hạn... vậy thì tự nhiên cũng rất là công bằng.

Ta cũng hiểu rằng, theo thời gian linh hồn sẽ tiến hóa tiến tới hòa nhập vào bản thể vũ trụ., sau khi cởi bỏ các lớp khoác vật chất khi trong nhận không vọng động các suy nghĩ nào đấy - điều này có đúng không?. Tôi nghĩ rằng, Bản thể của vũ trụ là tuyệt đối - là giới hạn của các tương đối như là vật chất, Ví dụ, chúng ta không thể tìm thấy cái nhỏ nhất nhưng không bằng 0 và ngược lại các to nhất ở vô cùng là không xác định cho thuộc tính vật chất, như vậy nhận thực của chúng ta có thể thoát ra các giới hạn trên để hòa nhập vào bản thể vũ trụ? Nếu hòa nhập vào nó thì linh hồn có cơ hội quay trở lại để tương tác hay không?.

Chúng ta cũng nhận định Thập điện diêm vương có đề cập hiện tượng đầu thai với linh hồn đã làm sạch suy nghĩ, không còn nhớ gì về tiền kiếp - mang ẩn nghĩa gì?.

* Phúc Lộc Thọ mãn đường *

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Niết bàn theo quan điểm Bồ tát Long Thọ

ĐẠI-LÃN

Posted Image

Từ khi đức Phật tuyên bố: “Sarvam Sùnyam” (Mọi vật đều không), từ sự gợi ý của ba pháp ấn: “Vô thường-Khổ-Vô ngã” và sau đó các pháp được quan niệm như là “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã,” thì vấn đề Niết-bàn (Nirvàịa), sau khi đức Thế tôn diệt độ đã được các bộ phái nêu ra đặt vấn đề trở lại theo quan niện hiểu biết của họ về Niết-bàn, và cũng từ đó mọi tranh luận về nó cũng như các phần giáo lý khác trở nên gay gắt. Niết-bàn, vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu, có (bhàva) hay không (abhàva), một đề tài làm nảy sanh ra mọi sự tranh luận, càng ngày càng gay gắt giữa Hữu bộ hay còn gọi là Nhứt thiết hữu bộ (Sarvàsti-vàdin) và Kinh bộ còn gọi là Kinh lượng bộ (Sùtra-vàdin), giữa các nhà Tiểu thừa và Đại thừa Không tông (Sùnyatà-vadin), và vấn đề này không còn dừng lại nơi đây mà còn tiến xa hơn nữa, trong việc hòa giải giữa hai quan điểm nói trên bằng cách gọp chúng lại rồi chấp nhận cả hai để có một cái Niết-bàn hiện hữu theo sự hòa giải của họ, hay phủ nhận cả hai là chẳng phải có, chẳng phải không; đó là bốn thứ quan điểm của các bộ phái, nhưng theo ngài Nàgàrjuna (Long Thọ) thì đức Phật chưa từng nói ra một thứ Niết-bàn nào như vậy, ngay cả khi Ngài còn tại thế, hay sau khi Ngài vào Niết-bàn, Ngài nói:

Khi Như lai hiện hữu,

Chẳng nói có cùng không;

Cũng chẳng nói có-không,

Hay chẳng có, chẳng không.

Và:

Sau khi Như Lai diệt,

Chẳng nói có cùng không;

Cũng chẳng nói có-không,

Hay chẳng có, chẳng không.

Đối với Bồ tát Long Thọ, thì những quan niệm như vậy của các bộ phái đối với Niết-bàn là hoàn toàn không chính xác, và không hiểu được ý nghĩa “Sarvam Sùnyam” cho nên có những quan niệm sai lầm như vậy về ý nghĩa Niết-bàn. Từ sự hiểu lầm này nên đã đi lệch con đường Trung đạo của Ngài, và có những kiến thủ lệch lạc về các pháp nói chung và Niết-bàn nói riêng. Vì con đường Trung đạo của đức Phật không rơi vào Hữu hay Vô, không rơi vào vừa Có vừa Không, cũng không rơi vào chẳng phải có chẳng phải không, của những quan điểm thiên kiến tà chấp trói buộc này, mà con đường Trung đạo là con đường giải thoát mọi sự trói buộc khổ đau giữa hai bờ.

Đối với các nhà Tiểu thừa Hữu bộ, thứ nhất họ hiểu “Mọi vật đều Không” chỉ dành cho các pháp hữu vi mà thôi còn các pháp vô vi như Niết-bàn, thì không bị lệ thuộc vào chúng, thứ hai “Mọi vật đều không” chỉ dành cho Nhơn không chứ không dành cho Pháp không, thứ ba “Mọi vật không” thì không này là không trống rỗng, không có gì hết, không này là không đối lập lại với cái có. Do đó họ mới có những cật vấn như vầy:

Nếu tất cả pháp không,

Thì không sanh, không diệt;

Làm sao có đoạn-diệt,

Để gọi là Niết bàn ?

Ở trên là cách tiếp thu “Mọi vật đều không” và theo đó các nhà Tiểu thừa đặt vấn đề là, nếu tất cả các pháp đều không, không có gì hết, thì sẽ không có hiện tượng sanh diệt, khi đã không có hiện tượng sanh diệt thì mọi vấn đề được đặt ra theo sau đó, chúng không hiện hữu. Vậy thì đoạn cái gì, diệt cái gì để có thể gọi là Niết bàn? Cho nên theo họ, tất cả các pháp không phải không, mà các pháp phải có thật. Vì các pháp chẳng phải không, nên nó đoạn trừ được tất cả mọi phiền não nghiệp hoặc, tiêu diệt được năm ấm để đưa đến Niết bàn. Để trả lời cho nạn vấn này, ngài Long Thọ cũng đứng trên lập trường của họ, hỏi nghịch trở lại:

Nếu các pháp là có,

Thời không sanh không diệt;

Đoạn gì, diệt chỗ nào,

Mà gọi là Niết bàn ?

Vì các nhà Tiểu thừa không hiểu thấu được chỗ sâu xa của pháp Không (Dharmasùnyatà), nên đã nhầm lẫn, cho rằng pháp Không là pháp trống rỗng, hư vô, không có gì hết; pháp không này đối lại pháp có của họ, nên sanh ra kiến giải sai lầm về các pháp, và từ đó đưa ra nạn vấn như trên. Cũng đứng trên lập trường kiến giải sai lầm này, ngài đặt ngược lại vấn đề rằng: Nếu các pháp chẳng phải không tức là có, và vì xưa nay chúng luôn luôn hiện hữu, chúng luôn luôn là có nên chúng sẽ không có sanh, không có diệt; vậy khi đã không sanh không diệt thì làm sao chúng có chỗ để đoạn có chỗ để diệt mà gọi là Niết bàn ? Ở đây hai cửa hữu-vô (Bhàva-Abhàva) không phải là cửa đi đến Niết-bàn, mà Niết-bàn phải được gọi là :

Không được, cũng không đến,

Chẳng đoạn, cũng chẳng thường;

Chẳng sanh, cũng chẳng diệt,

Đó gọi là Niết bàn.

Ở đây, mọi sự hiện hữu nô lệ, lệ thuộc, chấp thủ thiên kiến nhị nguyên như : đắc-thất, đến-đi, đoạn-thường, sanh-diệt v.v... đều bị phủ định. Trong phủ định mới xem ra như là mang cả hai tính chất vừa đập phá vừa xây dựng. Nhưng ở đây, nếu được xác định như vậy, thì lập tức rơi vào đoạn-thường (Ucchada-Nitya) ngay. Do đó, mọi xác định đều cũng bị phủ nhận, để từ đó mở ra một con đường rộng thênh thang không bị trói buộc, đó là con đường Trung đạo đi đến Niết-bàn. Nghĩa là sau khi chúng ta thực hiện vô sự đối với các pháp, thì tự nó là con đường, tự nó là Niết-bàn không phải một cũng không phải khác. Ở đây, hành-quả không phải là chỗ để đạt được, không phải là chỗ để đến, không phải là chỗ để đoạn trừ, chẳng có pháp để phân biệt; chẳng sanh chẳng diệt, cho nên Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải chẳng không, chẳng chấp thủ tất cả các pháp, bên trong tịch diệt gọi đó là Niết-bàn. Vì sao ? Vì tất cả mọi hiện tượng hiện hữu của vạn vật để mắt chúng ta nhận thấy, luôn luôn ở trong trạng thái sanh diệt biến hoại, chỉ là tướng lão tử bị vô thường sanh diệt chi phối nên không phải là Niết-bàn. Nếu có một Niết-bàn nào để mắt chúng ta nhận thấy là có thì Niết-bàn ấy cũng chỉ là tướng lão tử, mà tướng lão tử không phải là tướng Niết-bàn, cho nên Niết-bàn không gọi là có được, vì nó xa lìa tướng lão tử.

Hơn nữa, nếu Niết bàn là có (hữu), thì cái có này, hay Niết-bàn này thuộc vào tướng hữu vi. Nhưng tướng hữu vi, theo đức Phật dạy thì chúng luôn ở trong trạng thái biến diệt không thật có. Vì sao ? Vì chúng hiện hữu có được là nhờ vào các duyên mà thành. Do đó, tất cả mọi pháp đang hiện hữu giữa chúng ta không có bất cứ một pháp nào gọi là hữu vi cả, cho dù là pháp thường mà giả gọi là vô vi dùng lý để tìm hiểu nó. Pháp vô thường còn không có, huống chi là pháp thường không thể thấy, không thể đạt được. Lại nữa, theo Ngài:

Nếu Niết bàn là có,

Sao gọi không chấp thủ;

Vô-hữu không từ chấp (thủ),

Mà gọi là có pháp.

Nếu thật sự Niết bàn là thật có thì tại sao trong kinh, đức Phật lại bảo Niết bàn là không chấp thủ (vô thọ, hay Vô dư y: nirupadhizewa)? Đã là không chấp thủ thì cho dù pháp đó là pháp gì đi nữa cũng không thể hiện hữu ở đây được. Nếu có pháp nào để hiện hữu được thì ở đó không phải là chỗ vô thọ, vì theo kinh thì Niết-bàn là vô thọ, nên không có pháp không chấp thủ ở đây. Vậy Niết-bàn chẳng phải có.

Nạn vấn :

Nếu hữu không phải là Niết-bàn, vậy thì vô là Niết-bàn ?

Ngài bảo :

Hữu chẳng phải Niết-bàn,

Huống chi đối với Vô;

Niết-bàn không có Hữu,

Nơi nào sẽ có Vô ?

Quá rõ ràng như bài kệ trên đã bảo Hữu-Vô không từ chấp thủ mà có. Vậy thì tại sao ở đây lại đặt vấn đề Vô trở lại đối với Niết-bàn được ? Vì sao ? Vì nhờ vào hữu mà có vô. Nếu không có hữu thì làm sao có vô được. Nếu nói trước có nay không, thì vật này là vô. Nhưng Niết-bàn chẳng phải vậy, vì không có pháp có nào lại là không được, cho nên vô cũng không thể tạo nên Niết-bàn được.

Lại nữa, thử đặt vô là Niết-bàn đi. Nhưng ở đây, chúng ta không giải quyết được vấn đề không chấp thủ là Niết-bàn như đức Phật đã dạy trong kinh. Nếu vô là Niết-bàn thì đức Phật đã không nói không chấp thủ là Niết-bàn như kinh đã dạy. Vì sao ? Vì không có pháp không chấp thủ nào gọi là pháp vô cả, cho nên Niết-bàn không thể gọi là vô được.

Hơn nữa,

Như trong kinh Phật bảo:

Đoạn có, đoạn chẳng có;

Biết đó là Niết-bàn,

Chẳng có cũng chẳng không.

Chính đức Phật đã dạy nếu đoạn trừ cả hai : Có và chẳng có này thì Niết-bàn sẽ hiện hữu. Vì sao ? Vì Có là chỉ cho tam hữu (tam giới) và chẳng có chỉ cho tam hữu đã được đoạn diệt. Nếu đoạn trừ cả hai chướng ngại hữu-vô này, thì biết rằng Niết-bàn chẳng phải có (phi hữu) cũng chẳng phải không (phi vô), đó mới gọi là Niết-bàn.

Nạn vấn :

Nếu hữu hay vô không phải Niết bàn thì bây giờ hợp cả hữu và vô lại, có phải là Niết bàn không ? Ngài bảo :

Đối hữu-vô, nếu bảo:

Hợp lại là Niết-bàn;

Hữu-vô là giải thoát,

Thời điều này chẳng đúng.

Ở phần trên hữu-vô đã bị phủ định, nhưng người nạn vấn vẫn đem chúng đặt vấn đề trở lại. Ở đây, lại nảy sanh một phi lý khác nữa, đó là việc hợp nhất giữa hữu-vô lại để có một cái Niết-bàn theo quan điểm của họ. Nhưng theo ngài, nếu hợp cả hữu và vô lại là Niết-bàn, tức là hợp cả hữu và vô lại là giải thoát, điều này chỉ thông cho Niết-bàn và giải thoát thôi. Còn ngay chính nó, hữu và vô, trong một vế mà tự mâu thuẫn nhau với chính mình, vậy thì làm sao thông với vế thứ hai được. Vì sao ? Vì hữu và vô chúng tương phản nhau, làm sao hiện diện cùng lúc cùng một chỗ được. Do đó, hợp cả hai hữu và vô lại là Niết-bàn thì không đúng. Lại nữa :

Đối hữu-vô, nếu bảo:

Hợp lại là Niết-bàn;

Niết-bàn là chỗ chấp,

Cả hai từ chấp sanh.

Ở trên, tự chúng đã không thông rồi. Nếu ở đây mà hợp chúng lại là Niết-bàn có thể chấp nhận đi, với điều kiện tự chúng không mâu thuẫn nhau; nhưng ở đây tự thân Niết-bàn không phải là chỗ chấp thủ, trong khi đó hữu-vô từ chỗ chấp thủ sanh ra, cùng nhờ vào nhau mà hiện hữu. Vậy thì cả hai vế mâu thuẫn và không thông nhau được, do đó chúng không phải là Niết-bàn.

Lại nữa, Niết bàn là Vô vi, nó vượt lên trên hữu-vô của hữu vi. Trong khi hữu-vô hợp lại mà thành thì không thoát khỏi hữu vi, nghĩa là chúng thuộc pháp hữu vi. Nhưng pháp hữu vi là pháp sanh diệt như đức Phật đã dạy, trong khi pháp vô vi là pháp không sinh diệt. Vậy thì làm sao bảo hữu-vô hợp lại thành là Niết-bàn ?

Hay,

Cộng hai việc hữu-vô

Làm sao là Niết-bàn ?

Hai việc không cùng chỗ

Như sáng tối không hợp.

Ở trên, hợp hai việc có-không đã không thành là một vấn đề. Ở đây, lại là một vấn đề khác nữa trong việc cộng hai khái niệm này lại để có Niết-bàn hiện hữu, thì làm sao chúng ta có thể làm được. Vì sao? Vì có-không chúng tự tương phản mâu thuẫn nhau nên không thể cùng hiện hữu một nơi được. Như ánh sáng và bóng tối, không thể nào cùng hiện hữu cùng một lúc được. Khi nào Có hiện hữu thì Không sẽ không hiện hữu, ngược lại khi nào Không hiện hữu thì có sẽ không hiện hữu. Vậy thì làm sao có-không cùng hợp nhau lại mà gọi là Niết-bàn ?

Lại nạn vấn :

Nếu Có-Không cùng hợp nhau lại không là Niết-bàn, thì bây giờ chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn được không ?

Ngài bảo :

Nếu chẳng có chẳng không,

Gọi đó là Niết-bàn;

Chẳng có chẳng không này,

Làm sao mà phân biệt ?

* Phúc Lộc Thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites


3. Thế Giới Bên Kia (A WORLD BEYOND)

(Phần 3)


Khi chúng ta tham thiền là chúng ta được gần Thượng-Ðế, chúng ta gặp Thượng-Ðế ở trong chúng ta. Càng thiền được nhiều trong cõi hữu hình, thì càng tiến nhanh trong cõi vô hình. Nên nhớ là khi tham thiền, bắt đầu phải thở cho sâu, để tống r a những hơi độc tích tụ trong thân hình. Ðọc một câu chú, rồi nghĩ rằng mình hòa đồng với Vũ-trụ. Hãy tự coi mình là một phần của tạo Vật, của tinh hoa Thượng-Ðế, hãy quên cá tính mình đi, tưởng tượng như mình với Vũ-trụ chỉ là một. Sau một thời gian, sẽ cảm thấy mình nhẹ bỗng, tựa hồ như một tâm linh bay vơ-vẫn trong một bầu trời xa lạ. Hãy thí nghiệm, luôn luôn giữ ý nghĩ hợp nhất hoàn toàn, chẳng bao lâu sẽ cảm thấy hòa đồng với Tạo Vật. Rồi tiến sâu hơn, hãy để cho tâm linh Thượng Ðế tràn ngập vào tâm khảm mình. Hãy dành ra ít nhất 15 hay 20 phút mỗi ngày giữ yên lặng như thế. Hãy đón nhận lời của Thượng Ðế. Cầu nguyện khác hẳn với tham thiền. Cầu nguyện là tác động, không phải thụ động như tham thiền, mong cảm đến trái tim của Thượng-Ðế. Nghĩ điều thiện thì Thượng Ðế ở kề bên. Hãy cầu nguyện cho một mục tiêu tốt đẹp, không phải cho lợi riêng m ình. Nên nhớ rằng cầu nguyện để hại người khác, thắng địch thủ, hơn bạn bè là vô ích. Khi một linh hồn mong đợi gần Tâm của Thượng-Ðế, nó sẽ nâng cao ý nghĩ đến độ cảm thấy mình như bay bổng và đầy khoái lạc. Cảm giác mạnh đến nổi quên cả mình trong thế giới tâm linh, bấy giờ thấy rằng khoái lạc xác thịt không còn có nghĩa g ì nữa. Rồi từ đó sẽ tiến lên, không phải trở lại đời vật chất nữa. Trên tầng cao hơn, ta chỉ còn là tâm thức, không còn nghĩ đến cá tính nữa. Tầng nầy chưa phải là tầng cao nhất, chỉ là một nấc thang trên đường tiến hóa. Chúng ta đi trong ánh sáng, ánh sá ng của Chân-Lý Vũ-trụ. Cũng không ở luôn mãi đó, mà tiến mãi đến toàn thiện. Ông Ford nói đến một người, lúc sống đã học hỏi, hiểu biết và tham thiền linh hồn thoát xác được sáng suốt ngay. Sau khi chào hỏi bạn bè thân thuộc y tham thiền trong khi rung động của vũ-trụ tràn ngập y với cảm giác sung sướng lạ lùng. Y tìm ngay những hồn mới đến, lạc lõng hoặc mê man để giúp đỡ. Y không mất một giây phút thương tiếc cho cái thân xác đã mất, y biết rằng sẽ gặp lại người thân trong cõi-vô-hình, y đã để lại mọi việc tốt đẹp trên đời, nay y tiếp tục tiến hóa. Có nhiều người được như thế, không phải ai nấy đều biết rõ những gì chờ đón họ, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận mọi điều Thượng Ðế ban cho, và rất vui mừng rằng vẫn được tiếp tục hoạt động với nhiều việc để làm. Người nầy sẽ tiến rất nhanh, sẽ sớm có dịp trở lại thân hình khác, hoặc tiến lên tầng cao hơn. Nếu muốn tiến lên, thì phải học các thầy tiến hóa. Các thầy sẽ dạy cách thay đổi tần số rung động để dần dần hòa nhịp với với rung động ở tầng trên. Khi tần số rung động của họ đã cao và lên được tầng trên, thì chúng tôi sẽ không thấy họ nữa, mặc dù họ vẫn ở đây, họ vẫn thấy chúng tôi, đại-khái cũng như người trần không thấy chúng tôi mà chúng tôi vẫn thấy người trần. Nhưng nếu họ muốn thì họ vẫn có thể hạ thấp rung động để cho chúng tôi thấy. Trong đoạn sau, ông Ford sẽ nói đến những tầng trên rõ ràng hơn. Ông Ford trước kia đã được lên tầng trên, nhưng tự ý muốn trở lại thế gian để thực hành những điều đã học hỏi. Vì thế khi ông là mục sư ở trong trại lính, ông đã trông thấy danh sách những người chết đêm trước khi ông mới ngủ giậy còn ở trong phòng (xem trang 13) vì đã có khả năng nhận tin tức từ khắp nơi. Trái lại, một người không tin, lúc sống cho rằng chết là hết không còn gì nữa, khi mở mắt ra thấy có nhiều người quanh mình khuyên nhủ và giúp đở, lại cho là ảo-ảnh, là tưởng tượng, không phải thực, nên nhắm mắt lại. Khi mở mắt ra thì không thấy ai nữa, mà thấy mình rơi vào vực thẩm đen tối, ở trong tình trạng rất sợ hãi. Tình trạng nầy thường kéo dài rất lâu, đến khi nào lòng tin trở lại, cầu Thượng Ðế cứu, bấy giờ lại được thấy nhiều người đến giúp đở. Những linh hồn nầy khi tỉnh ngộ rồi thì cố gắng học hỏi, giúp đỡ những hồn khác và sẽ tiến hóa nhanh. Còn những hồn cố chấp không tỉnh ngộ thì cứ ở trong cảnh đen tối hàng ngàn năm. Kẻ sát nhân cố tình giết hại người khác để thỏa mãn ác ý của mình, thì ở trong tình trạng như chết một thời gian lâu, đến khi tỉnh giậy thấy mình ở trong địa ngục mà chính mình đã tạo nên. Không phải là trông thấy quỷ sứ, nhưng thấy chính mặt y bị biến dạng vì thù hằn, tham lam, ác độc. Y sợ rúm lại tưởng mình bị quỷ nhập. Y thất đảm khi nhận ra rằng không những y đã bỏ phí một đời không tiến, mà còn thụt lùi trở lại nhiều đời nữa mới có thể chuộc được tội y. Bấy giờ y nhớ lại ý muốn của y là vượt qua mọi sự cám dỗ khi y bước vào cuộc đời, khốn nỗi y đã làm trái ngược với ý muốn ấy. Linh hồn nầy bị đau khổ trong thời gian rất dài. Ðến khi thất vọng cùng cực, y rên xiết cầu Thượng-Ðế cứu. Nếu y thực tâm hối hận, những linh hồn khác sẽ đến giúp y, và dần dần y sẽ tiến lên rất chậm, rất chậm, cho đến khi hiểu biết cái hình phạt vì đã lấy đi một mạng sống do Thượng Ðế ban cho. Như Lee Oswald đã bắn John Kennedy, và Jirhan đã bắn Bobby Kennedy, sẽ còn phải đau khổ lâu lắm trong sự hối hận. Ðến như Hitler thì chẳng khác nào y bị trơ-trọi trên một cù-lao đen tối không nhà cửa , và sẽ không bao giờ rữa sạch được tội ác của y. Người tự sát trong một giây phút thất vọng, đã lầm tưởng rằng chết là giải quyết được vấn đề, không biết rằng đâu có dễ-dàng giải quyết như thế, và chúng ta không có quyền dập tắt ngọn lửa sống mà Thượng Ðế đã thắp sáng lên. Ðược mang cái thân xác thịt là đặc-ân Thượng Ðế ban cho để trả nợ nghiệp chướng. Nhiều hồn khác còn phải chờ đợi để được trở lại làm người, nay ta đã được rồi lại hủy bỏ cái đặc-ân ấy, thì nghiệp chướng sẽ tăng lên gấp mười, và phải chờ đợi rất lâu mới lại được đầu thai. Những nạn nhân bị sát hại không mang mối hận thù kẻ đã hại mình. Ở trong cõi vô hình mà còn hận thù thì sẽ bị thoái hóa rất nhiều, có khi hàng vạn năm. Họ hiểu rằng như thế là họ đã trả được nghiệp chướng, trả được tội lỗi quá khứ, và sẵn sàng tha thứ. Ông Ford nhắc lại rằng không có tòa án xử tội, ngoại trừ chính lương tâm chúng ta, lương tâm ấy lại chính là Thượng Ðế. Khi tấm màng che mắt ta không còn nữa, thì ta thấy rõ đâu là trái đâu là phải. Ta rất vui mừng khi nhận thấy rằng những việc giúp đở nhỏ mọn, một lá thơ hay một nụ cười an-ủi, những việc mà ta đã quên, lại giúp ích cho ta tiến hóa nhiều hơn. Trái lại những hành động mà ta tin rằng có lợi cho ta lại làm cho ta chậm tiến, vì ta đã làm một cách rầm-rộ, khoa trương, để được hãnh diện, được khen ngợi. Hãy giúp người chỉ vì người ta cần giúp, tùy theo khả năng của mình, xong rồi quên đi đừng mong cảm ơn và báo đáp, cũng không cần ai biết cả. Hãy coi mình như một cái giếng, lúc nào cũng tràn đầy tình thương. Chỉ có thể chữa bỏ những thói hư tật xấu ở trong đời hữu hình. Ở cõi vô hình không làm gì được cả vì không có những cám dỗ. Trường học gian khổ là đời vật chất, có nhiều cám dỗ mà ta phải vượt qua. Có người lấy làm lạ tại sao có những linh hồn tiến hóa cao luôn luôn giúp đỡ người khác, lại có những linh hồn cục-cằn không hơn thú vật. Sự đó có thật. Lúc mới đầu chúng ta đều như nhau, là những tàn lửa của Thượng Ðế, nhưng trải qua những đời sống trên trái đất, mỗi linh hồn phản ứng với hoàn cảnh một cách khác nhau. Chớ nên mắc vào thói hư tật xấu, luôn luôn giúp đở người khác, nhớ mục tiêu là trở về với Thượng Ðế. Ðừng mong tiến hóa lấy riêng mình, không thể nào có chuyện ấy. Nếu muốn chạy đua vượt lên trước người khác, thì không bao giờ đến được thượng đỉnh. Bỏ lại người khác là cách tốt nhất để thục lùi, rồi phải bắt đầu trở lại. Cần phải thương yêu lẫn nhau, giúp đở người khác cùng tiến với mình. Tự ta ghi chép lấy vào cuốn sổ của ta. Không có tòa án, không có quan tòa râu bạc nào, ngoài lương tâm của chính ta, không thể che đậy gì được, không thể trốn chạy đâu được. Những tầng cao hơn có nghĩa là những trình độ thức-giác cao hơn, chứ không phải là ở tầng lớp cao hơn, vì các giới cùng ở một nơi. Muốn được tiến lên tầng cao, cần nhiều công phu học hỏi, những người ở tầng trên mà muốn xuống tầng dưới thì rất dễ-dàng. Người ở tầng dưới không thấy được người ở tầng trên, nhưng người trên thấy rõ người dưới, đại khái cũng như chúng tôi đối với người ở cõi trần. Không thể lấy lời nói của trần gian để tả trình độ sáng suốt ở mỗi tầng. Ví như một quả bóng thổi phòng bằng khinh khí, khi còn ở dưới đất là còn trông thấy và sờ mó được, nhưng khi đã cắt dây thì quả bóng bay lên, cũng như sợi dây bạc nối hồn với xác, khi chết dây đứt thì hồn lìa khỏi xác. Quả bóng lên cao trên thượng tầng không khí, người dưới đất không trông thấy nữa, nhưng ở trên cao vẫn trông thấy ở dưới. Ðó là thí dụ rất thô sơ, nhưng khó nói rõ hơn, vì tâm chí người ta bị hạn chế, không thể hiểu xa hơn được. Chúng tôi hiện nay ở cõi trung-giới, còn có liên lạc với đời vật chất, những người ở tầng trên đã đoạn tuyệt với trần gian. Chúng tôi học hỏi ở đây, có thể lựa chọn hoặc trở lại luân hồi, hoặc tiến lên tầng trên. Tầng trên ví như tầng không khí loãng, trong một thời gian không còn liên lạc với những hồn khác và với cõi trần. Chúng tôi như là bay bổng trong một bầu khí quyển mà tần số rung động rất cao. Tạm giải thích như vậy, thật ra không có lời nào tả được. Ở đấy không khí rất mạnh, hay đúng ra là không có không khí, không có gì che đỡ những tia sáng chói lọi. Chúng tôi phải cố gắng chịu đựng ở đó, rồi lại học hỏi để tiến xa hơn nữa. Rồi sau chúng tôi đi qua từ tinh cầu nầy sang tinh cầu khác. Chúng tôi đi trên mặt tinh cầu như người trần đi trên mặt trái đất, chỉ khác là không còn thân xác thịt nặng nề. Chúng tôi chỉ còn như là ý nghĩ (theo kinh Phật thì có lẽ đây là H ữu-tưởng-giới). Lên trên nữa thì chúng tôi chỉ còn là ánh sáng, tuy nhiên chúng tôi vẫn là chúng tôi, cái ta vẫn còn. Những tầng trên có thể gọi là tầng thứ ba và tầng thứ bốn, những tầng chỉ khác nhau về tần số rung động. Chúng tôi phải học hỏi để có thể thích hợp được với những làn sóng ánh sáng và tiếng động nó mạnh đến độ có thể làm mù hoặc điếc những người ở cõi trần. Chúng tôi bấy giờ ở trong tình trạng như một chất dịch-thể, tuy nhiên không phải là một chất lỏng. Chúng tôi được đổ vào cái khuôn Vũ-trụ "nói thế cho dễ hiểu" và gần như hợp nhất với Vũ-trụ. Ðó là tầng thứ ba. Tầng thứ bốn là lên ở những tinh cầu khác như Hỏa-tinh, Thủy-tinh, Mộc-tinh, Kim-tinh, Thổ-tinh..v.v. nhưng không phải là thân vật chất, mà là trình độ giác-thức cao hơn. Trên những tinh cầu đó cũng có hình thể sinh vật, nhưng khác hẳn với hình thể trên trái đất, trình độ tiến hóa các sinh vật ấy cũng khác nhau. Nếu một linh hồn tội lỗi nhiều kinh khủng đến độ cần phải tới ngàn triệu đời sống mới chuộc được, thì linh hồn ấy sẽ ở trong tình trạng tuyệt vọng nơi trái đất nầy (thí dụ như Hitler). Linh hồn ấy có khi phải nhận lấy một thân hình hoàn toàn khác mà chúng ta ở trái đất không gọi là người, ở trên một tinh cầu khắc khổ bội phần, để có thể đền bù tội lỗi nhanh chóng hơn. Những tâm linh ở trái đất muốn tiến hóa lên những tầng cao, phải mất nhiều công phu học hỏi nâng cao tần số rung động của mình, để không những lên cao mà còn phóng mình sang tinh cầu khác. Cuộc viễn-du nầy khiến họ học hỏi được nhiều về nhữ ng định luật của Vũ-trụ. Và khi lên đến tầng thứ bốn và thứ năm, thì có thể ở trên nhiều tinh cầu cùng một lúc, vì khi đó với thức-giác cao, hồn có thể phân thân ra nhiều nơi. Cao hơn hết là tầng thứ sáu, linh hồn đã đạt tới toàn thiện, có thể hợp nhất với Thượng-Ðế. Tất nhiên chúng tôi còn xa quá chưa thể biết được, nhưng được dạy cho biết rằng khi một linh hồn gần đến mức toàn thiện, phải kiểm điểm lại tất cả bao nhiêu đời đã qua, từ đời trước nhất, không còn gì vướng mắt nữa. Chúng tôi chỉ được nghe nói thế thôi, những linh hồn đó không bao giờ quay ngược bánh xe vận mệnh vòng trở lại nữa. Sáu tầng trên đây có lẽ cũng là những giới nói trong kinh Phật. Tầng thứ nhất là cõi Dương thế mà chúng ta đương sống, có thân hình vật chất, có dục tính, thường gọi là hạ giới, kinh Phật gọi là Dục giới. Tầng thứ hai là cõi âm, cõi của những linh hồn mới bước qua bên kia, gọi là trung giới, kinh Phật gọi là Sắc giới. Tầng thứ ba linh hồn không còn sắc chất, là Vô Sắc giới. Tầng thứ tư chỉ còn ý nghĩ, là Hữu Tưởng giới. Tầng thứ năm chỉ còn ánh sáng, là Vô Tưởng giới. Tầng thứ sáu linh hồn đạt tới toàn thiện, là Phi-Hữu-Tưởng-Phi-Vô-Tưởng-Giới, có lẽ là giới của các vị Giáo chủ: Phật, Chúa ..v.v.. Trên hết là Thượng Ðế, có thể gọi là tầng thứ bảy. Ðó là lấy trí nhỏ mọn của tôi đoán phỏng như thế. Sau hết, ông Ford nhắc lại rằng trong cõi trung-giới mà ông đương ở, không có thời gian: Chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi tồn tại luôn luôn, vô thủy vô chung. Chúng tôi có thể thấy một khoảng thời gian dài hơn người đời thấy rất nhiều, nhưng vẫn không thể biết được đâu là khởi đầu đâu là tận cùng. Chúng tôi chỉ hiểu biết rộng hơn người trần gian về mục tiêu của Thượng Ðế, nhưng chúng tôi chưa phải là hoàn toàn sáng suốt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bằng các sự thật giao tiếp giữa linh hồn (tạm gọi là Thần) với những người đang sống thông qua các nhà ngoại cảm với các kết quả khả quan về một sự thật tồn tại của Thần. Với khả năng nhận biết về quá khứ, hiện tại và một phần tương lai của đương sự làm nảy sinh một câu hỏi: Sau khi ta chết Thần vẫn tồn tại và có nhiều năng lực đặc biệt thì rõ ràng ngay khi ta sống Thần cũng phải có năng lực tượng?. Điều này chỉ ra dưới thân xác, con người đã bị giới hạn một số năng lực nhận biết hơn là sau khi chết. Như vậy, ta hình dung ra như sau: Thần không phát huy được do mối ràng buộc với thân xác như thất tình, lục dục... và nếu chúng ta có thể "dừng" mối quan hệ này thì rõ ràng Thần sẽ xuất hiện trong ta hay chúng ta có thể giao tiếp với người đã mất không cần qua trung gian Nhà ngoại cảm - theo tôi nó chính giác quan thứ 6 mà mọi người hay gọi. Thực tế chứng minh điều này qua các pháp môn đặc biệt của các tôn giáo?. Quay trờ lại mối quan hệ Thần và thân xác - dựa theo thuyết âm dương ngũ hành chúng ta sẽ suy luận như thế nào?. Với việc Thần tồn tại sau khi chết thì ta dễ dàng nhận thấy rằng Lục thập hoa giáp (Lạc thư hoa giáp) là quy tắc áp dụng cho thân xác con người chứ không phải cho Thần. Tuy nhiên, sau khi phân tích về nguyên tắc xây dựng Thập điện Diêm Vương về các lớp vỏ bọc vật chất của Thần và nguyên lý vận động ngũ hành - vật chất chỉ chuyển trạng thái chứ không mất đi thì Thần (Linh hồn) vẫn nằm trong quy luật vận động của vật chất. Như vậy Thần không thể tách rời vật chất và ngược lại ngay khi vật chất biến đổi trong vòng chuyển hóa âm dương ngũ hành hay hoặc Thần nằm trong không gian trái đất hoặc trong toàn thể vũ trụ này. Giả sử thần chính là vật chất thì rõ ràng sau khi chết Thần đã chuyển qua trạng thái vật chất khác mà tại sao còn nhận biết được mọi thứ hơn cả người sống?. điều này chứng tỏ rằng bản chất của Thần khác với vật chất. Vật thì thế giới không chỉ bao hàm vật chất, không thời gian mà còn bao hàm cả Thần. Tiếp tục nhận thấy quan hệ giữa nam và nữ sẽ sinh một người mới tức tạo ra Thần mới, vậy thì tổng hợp lại thì Thần và Người chỉ là một phù hợp với nhận định in đậm trên.

Ta tạm gọi Thần là "Tuyệt đối" hay "Bản thể" trong mối quan hệ Tinh - Khí - Thần (phân tích sau). Như vậy động lực nào xây dựng nên sự vận động có quy luật của vũ trụ này (hoặc cho con người).

Không còn cách nào khác, thấy rằng Thần chính là trục xương sống của vật chất bởi tính bất biến theo không thời gian của nó, trong khi đó vật chất lại chịu sự chi phối của luật âm dương ngũ hành cũng như giữa Thần và vật chất là mối quan hệ không tách rời. Vậy thì sự vận động âm dương ngũ hành trong vũ trụ được "tự điều khiển và cân bằng" qua trục xương sống Thần.

Chúng ta cũng đã biết âm dương ngũ hành vận động chuyển hóa liên tục, nhanh hay chậm tùy sự ổn định và bền vững trong môi trường vũ trụ, con người hoàn toàn phụ thuộc mà không thể ngăn cản, chỉ có thể tác động đến một thành phần nào đó rất nhỏ bé. Vậy thì ta cũng có thể xem âm dương ngũ hành là thuộc tính của Bản thể vận động theo nguyên Lý: Bản thể - Lý - Tượng.

Từ đây, nếu mỗi cá nhân nếu có thể làm chậm sự vận động của âm dương ngũ hành của bản thân thì không bị ràng buộc vào quy luật tổng thể vũ trụ. Chúng ta cũng thấy sự tồn tại sau khi chết thông qua các giao tiếp, chứng tỏ "suy nghĩ - nhận thức" chính là vật chất, vật thì Nhận thức không phải là bản thể hay như tạm nhận xét trên nó là thuộc tính của bản thể. Vậy, để ngăn cản ta phải "dừng suy nghĩ - hay vọng khởi", tuy nhiên do Bản thể tồn tại vĩnh viễn cho nên suy nghĩ cũng phải tồn tại vĩnh viễn, vậy chỉ còn cách nhận thức của ta luôn luôn hiểu rõ quy luật này và luôn có yêu đời, yêu người chính là chúng ta đang ở thiên đường vậy, không còn ở Thập điện Diêm Vương nữa.

Mỗi chúng ta sẽ sống mãi: sung sướng hay khổ đau là do chính nhận thức này mà thôi.

Tinh - Khí - Thần sẽ được luận tiếp.

Thân mến.

* Phúc Lộc Thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites

KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC

đăng 07:21 07-12-2009 bởi VĩnhSơn Nguyễn

Mục tiêu học tập

1. Trình bày được khái niệm cơ bản của tâm lý.

2. Trình bày được bản chất của các hiện tượng tâm lý .

3. Trình bày được các phương pháp nghiên cứu cơ bản trong tâm lý học

I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ

1 Bản chất của hiện tượng tâm lý

Trong đời sống hàng ngày chữ “tâm lý” dùng ở đây mới có thể mới được hiểu theo nghĩa hẹp, để chỉ thái độ, cách cư sử của con nguời. Để hiểu chính xác và khoa học tâm lý là gì, từng hiện tượng tâm lý nẩy sinh và phát triển ra sao, vận hành theo quy luật nào…, loài người đã phải trải qua một thời gian dài nghiên cứu, thử nghiệm; đã phải chứng kiến biét bao cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các khuynh hương khác nhau.

Tóm lại tâm lý con người là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan, có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nẩy sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó với các quan hệ xã hội lịch sử.

1.1 Tâm lý là bản chất của vật chất cao cấp

Chủ nghĩa duy tâm cổ đại cho rằng, hiện tượng tâm lý là bản chất siêu hình đặc biệt của sinh vật và được gọi là linh hồn. Theo nhà triết học duy tâm cổ đại Hy lạp là Platon (427-347 trước công nguyên ), linh hồn là siêu hình và độc lập với thể xác; con người sống được là nhờ linh hồn liên hệ với thể xác. Khi con người sống, linh hồn là nguyên nhân sinh ra quá trình sống của cơ thể và nó truyền đạt tất cả các hiện tượng tâm lý vốn có của con người. Các nhà duy tâm khách quan, như G. Berkeley ( 1685 – 1753) cho rằng, thế giới ý niệm ra vạn vật, sinh ra thế giới vật chất. Còn các nhà duy tâm chủ quan cho rằng, vốn dĩ có thế giới vật chất, những vật chất cụ thể là do cảm giác của con người mà có. Thuyết linh hồn của Platon ở phương tây, thuyết tâm của đạo khổng phương đông đều tuyệt đối hóa thuộc tính tinh thần của tâm lý, hoàn toàn tách biệt tâm lý khỏi vật chất.

Những người theo trường phái “nhị nguyên luận” như Decarte ( 1596 - 1650), đã dùng khái niệm phản xạ để giải thích các hoạt độngcủa cơ bắp đơn giản của động vật, của con người và cho rằng những hoạt động chủ định, có ý thức của con người và là do linh hồn điều khiển. Theo J.Lock tâm lý con người là những kinh nghiệm. Kinh nghiệm bên ngoài do tác động bên ngoài vào giác quan mà có; kinh nghiệm bên trong được sinh ra từ “ ý thức bên trong”, tự nó hoạt động, chỉ tự nó mới biết được nó. Quan niệm nhi nguyên là sự biến dạng của chủ nghiã duy tâm.

Đối lập với quan điểm của chủ nghiã duy tâm là chủ nghĩa duy vật. Theo họ, trong vũ trụ bao la chỉ có vật chất là tồn tại mãi mãi và luôn luôn biến đổi, với những tính chất muôn hình muôn vẻ. Tâm lý không tồn tại ngoài vật chất.

Quan điểm duy vật thô sơ cho rằng tâm lý là một thứ vật hoặc do các vật chất khác sinh ra như lửa, nước, không khí...

Démocrit: Não là chỗ trú ngụ của linh hồn, là trung tâm hoạt động của tâm thần.

Aristot (384-322 trước CN): Cảm giác do tác động của vật vào giác quan gây ra, tinh thần là chức năng của thân thể, thị giác là chức năng của mắt.

Các nhà duy vật Trung Quốc đã từng dùng thuyết ngũ hành để giải thích nguồn gốc của

vật chất (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Tuân Tử ( 315-230 trước CN) cho rằng: Thân thế con người sinh ra tinh thần và cái tốt, cái xấu ... đều nằm trong thân thế con người.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tâm lý là biểu hiện của vật chất, là sản phẩm dưới dạng đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người. Sự phát triển của tâm lý luôn gắn với sự phát triển của hệ thống thần kinh.

Thế giới vật chất vận động và biến đổi không ngừng từ vô cơ thành thể hữu cơ, từ hữu cơ thành sự sống . Sự phát triển đó liên tục, ngày càng phức tạp, hoàn chỉnh dần và cuối cùng thành sự phản ảnh thế giới khách quan của những sinh vật có hệ thống thần kinh , có não bộ. Mặt khác, sự phản ánh của sinh vật với thế giới xung quanh cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Những sinh vật đầu tiên có bản tính kích thích, biến đổi để thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhờ đó cảm giác phát triển, đó chính là sự bắt đầu của phản ảnh tâm lý. Những phản ảnh ban đầu mang tính chung chung, đơn giản, sau đó phát triển dần thành những cảm giác chuyên biệt ( thị giác, thính giác , xúc giác…). Những sinh vật càng tiến hóa, hoạt động càng phức tạp thì phản ánh tâm lý của chúng càng phong phú và hoàn thiện, với những hình thức như: tưởng tượng, tư duy, xúc cảm, tình cảm…Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người.

1.2 Tâm lý có bản chất là phản xạ

Hệ thần kinh động vật hoạt động theo cơ chế phản xạ. Những phản xạ này bao gồm các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.Phản xạ có điều kiện là cơ chế hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, của vỏ não. Hoạt động của hệ thần kinh gắn liền với hoạt động nội tiết của cơ thể và vỏ não là bản chất thực tế bản chất tâm lý.Vì vậy, tất cả các hiện tượng tâm lý đều mang tính chất phản xạ. Các phản xạ được hình thành nhằm đáp ứng mọi kích thích của thế giới bên trong hoặc bên ngoài cơ thể.

1.3 Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan

Tâm lý có nội dung là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan. Sự phản ánh này là muôn màu muôn vẻ và phức tạp. Phản ảnh là một quá trình đi từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính rất phức tạp để nhận biết bản thân sự vật hiện tượng từ thuộc tính bên ngoài đến bản chất.

Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động trong không gian và thời gian và thường để lại những dấu vết của nó.Phản ánh tâm lý là những phản ánh đặc biệt tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới khách quan vào bộ óc con người (là vật chất được biến vào con người, là bản sao sinh động, sáng tạo, mang tính chủ thể, các chủ thể khác nhau phản ảnh khác nhau)

Trong mối quan hệ qua lại với thế giới xung quanh, con người không chỉ nhận cảm, suy nghĩ, nhớ lại hoặc tưởng tượng ra mà còn thực hiện những hành động khác nhau gây nên những biến đổi thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên của mình.

1.4. Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử

Đây là điểm khác nhau giữa tâm lý người và tâm lý động vật. Con người khi sống trong xã hội lời người đã giao tiếp với nhau, cùng nhau lao động và phát triển xã hội.Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử, phản ảnh sự hình thành và phát triển của lịch sử xã hội.Trong hoạt động, nhất là trong hoạt động sống, con người đã chuyển các hiện tượng tâm lý của mình vào những sản phẩm vật chất hoặc tinh thần. Ngược lại, khi con người sử dụng các sản phẩm, các công cụ lao động ... con người lại bóc tách những tinh túy tâm lý mà loài người, xã hội gửi gắm vào đó thành hiện tượng tâm lý của riêng mình. Vì vậy, trong mỗi hiện tượng tâm lý của con người đều mang dấu ấn của xã hội mà con người đang ssống và thay đổi theo lịch sử phát triển xã hội mà con người đã trải qua.Con người trên thực tế nếu thoát khỏi

các mối quan hệ xã hội thì con người sẽ bị mất bản tính người.

Tham gia vào sự hình thành và phát triển tâm lý con người có những yếu tố cơ bản sau: bẩm sinh, di truyền về mặt sinh học hoặc truyền lại cho nhau qua công cụ, đồ vật, hoạt động giao tiếp, giáo dục và tự giáo dục, điều kiện và hoàn cảnh sống…

2 Đặc điểm chung của hiện tượng tâm lý

Hiện tượng tâm lý là hình ảnh của thế giới khách quan trong óc người. Là hiện tượng chủ quan nhưng là hình ảnh của hiện tại diễn ra ở thế giới bên trong của con người. Hiện tượng tâm lý có các đặc điểm:

2.1. Tính chủ thể

Sự phản ánh tâm lý khác với sự phản ánh cơ giới vào sinh vật, bao giờ nó cũng mang dấu vết riêng của chủ thể phản ảnh. Mỗi chủ thể phản ảnh hiện tượng tâm lý đều thông qua kinh nghiệm, thái độ, xúc cảm riêng của chủ thể, phản ảnh trình độ nghề nghiệp, trí thức và tâm lý riêng của chủ thể. Tính chủ thể khiến cho hiện tượng tâm lý ngoài cái chung ra, còn luôn luôn mang màu sắc riêng của mỗi cá nhân.

2.2. Tính tổng thể của đời sống tâm lý

Mọi hiện tượng tâm lý không đứng riêng lẻ mà luôn liên quan tới mọi hiện tượng tâm lý khác. Đời sống tâm lý của cá nhân là trọn vẹn và mỗi hiện tượng tâm lý cũng mang tính toàn vẹn, chủ thể.Mọi hiện tượng tâm lý đều có mối liên quan chặt chẽ đến nhau và chịu sự chỉ đạo tập trung của não bộ.

2.3 Sự thống nhất giữa hoạt động tâm lý bên trong và bên ngoài

Tâm lý là hiện tượng thuộc về thế giới bên trong song có liên quan chặt chẽ với thế giới bên ngoài qua những sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài mà nó phản ảnh. Thông qua bản thể vật chất của nó là não bộ và những biểu hiện bên ngoài như hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ vẻ mặt dáng điệu... chúng ta có thể xét đoán được tâm lý bên trong.

“Cùng trong một tiếng tơ đồng

Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm” (Nguyễn Du)

3 Chức năng của hiện tượng tâm lý

Tâm lý phản ảnh thế giới khách quan nhưng khi đã hình thành thì tác động trở lại thế giới hiện thực khách quan.Hiện tượng tâm lý liên quan chặt chẽ với các hiện tượng khác trong đời sống như chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội... Cùng với các hiện tượng khác, hiện tượng tâm lý giúp con người định hướng, điều khiển, điều chỉnh mọi hoạt động của mình làm cho các hoạt động đó thích nghi với thế giới, tiến tới cải tạo thế giới, hoàn thiện thế giới và hoàn thiện cá nhân mình.

Hiện tượng tâm lý còn có vai trò lịch sử, vai trò giáo dục nhằm phát triển nhân cách. Trong y học có vai trò chẩn đoán và chữa bệnh.

4 Phân loại các hiện tượng tâm lý

Hiện tượng tâm lý có thể được phân thành nhiều loại khác nhau tùy theo dấu hiệu của hiện tượng tâm lý:

4.1 Chia theo thời gian tồn tại của các hiện tượng tâm lý

+ Các quá trình tâm lý: Bao gồm những hiện tượng tâm lý có mở đầu, có kết thúc và tồn tại trong thời gian ngắn (vài giây, vài phút) như quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ, cảm xúc, ý chí.

+ Các trạng thái tâm lý: Bao gồm những hiện tượng tâm lý diễn ra không có mở đầu, kết thúc và tồn tại trong thời gian tương đối dài (vài chục phút, có khi hàng tháng trời) làm nền cho các hiện tượng tâm lý khác diễn ra: như trạng thái: lo âu, băn khoăn, lơ đãng, buồn phiền...

+ Các thuộc tính tâm lý: Bao gồm những hiện tượng tâm lý hình thành trong một thời gian

tương đối dài, tạo nên những nét riêng, đặc trưng cho mỗi cá nhân và chi phối các hiện tượng tâm lý khác: như các thuộc tính tâm lý tạo nên xu hướng, khí chất, tính cách, năng lực...

4.2 Chia theo dấu hiệu của từng người hay nhóm người

+ Những hiện tượng tâm lý cá nhân

+ Những hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận xã hội, tập quán, phong tục mốt...

4.3 Chia theo chức năng hiện tượng tâm lý

+ Các hiện tượng tâm lý vận động - cảm giác như thị giác, thính giác, xúc giác sự co duỗi của tay chân...

+ Trí tuệ: bao gồm các quá trình tiếp nhận và sử dụng tri thức như cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ...

+ Nhân cách: bao gồm các thuộc tính tâm lý qui định hành vi, giá trị xã hội của con người.

4.4 Chia theo mức độ nhận biết của chủ thể

Căn cứ những hiện tượng tâm lý được chủ thể nhận biết được

+ Ý thức: Bao gồm những hiện tượng tâm lý có ý thức nhận biết, ví dụ: đang suy nghĩ, đang tri giác, đang liên tưởng...

+ Vô thức: Gồm những hiện tượng tâm lý của bản thân mà không được cá nhân mình nhận biết như: giấc mơ, bản năng tự vệ...

+ Tiền ý thức: Gồm những hiện tượng tâm lý nằm ở giữa vùng ý thức và vô thức, còn gọi là hoạt động tiền ý thức. Ví dụ: Giấc mơ báo hiệu bệnh tật,...

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHOA HỌC TÂM LÝ

1.Sơ lược lịch sử tâm lý học

Từ xa xưa,chỉ bằng quan sát và tự thử nghiệm, con người đã có những nhận xét tinh vi, sâu sắc về hiện tượng tâm lý. Tất nhiên những cách lý giải, mô tả lúc bấy giờ mới chỉ là những hiểu biết kinh nghiệm.

Thế kỷ XVII, các khoa học tự nhiên phát triển mạnh. Những quan sát của khoa học này đã chỉ ra mối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý và môi trường bên ngoài. Một loạt khái niệm khoa học và phi khoa học đã nẩy sinh ra trong thời kỳ này, như khái niệm về phản xạ, về “ lý tính tối cao” về tâm lý học kinh nghiệm, về sự nảy sinh hiện tượng tâm lý một cách tự nhiên từ vật chất …

Đến thế kỷ XIX, thuyết tiến hóa sinh vật của Darwin ra đời, góp phần giải thích nguyên nhân nẩy sinh, phát triển hiện tượng tâm lý từ thấp đến cao, kể cả hành vi bản năng. Sự phát triển của sinh lý học giác quan và sinh lý học bộ não đã chứng minh mối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý với hoạt dộng của não và của toàn cơ thể. Khoa học tự nhiên phát triển đã góp phần tích cực vào sự hình thành và phát triển các khoa học về tinh thần. Dựa vào khoa học đó, ngừoi ta đã đi sâu nghiên cứu tâm lý động vật, tâm lý trẻ em, tâm lý người chậm phát triển trí tuệ…

Cuối thế kỷ XIX, tâm lý học tách khỏi triết học thành khoa học riêng với tính cách là một khoa học thực nghiệm, mô tả của vật lý học và sinh lý học để nghiên cứu các hiện tương tâm lý

Cuộc khủng hoảng về phương pháp luận của tâm lý học truyền thồng đầu thế kỷ XX đã làm nẩy sinh nhiều trường phái tâm lý học. Có trường phái dùng quan điểm sinh vật học để nghiên cứu tâm lý người, như tâm lý học hành vi của Watson ( 1878- 1958) và một số người khác.

Trường phái phân tâm học của Freud ( 1858- 1939) dựa trên quan điểm duy tâm, đã quy tâm lý vào bản năng vô thức và cia tâm lý làm ba phần: cái nó ( là cái vô thức, gồm những bản năng) là phần quan trọng nhất, thực chất nhất của tâm lý; cái tôi, là cái hoạt động nhằm thỏa mãn các bản năng vô thức; cái siêu tôi hay là cái tôi lý tưởng, là sự rang buộc của xã hội, của đạo đức…

Triết học Mác – lênin đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý học. Lý luận phản ánh của các ông đã vạch ra nguồn gốc, bản chất của tâm lý , ý thức của con người, đồng thời chỉ ra đối tượng, nhiệm vụ và phưong pháp của tâm lý học khoa học. Luận điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định tâm lý là chức năng của não và phải nghiên cứu tâm lý con người trên quan điểm xã hội- lịch sử .

Cùng với sự phát triển của khoa học khác, tâm lý ngày nay đã lớn mạnh cả về lý thuyết lẫn thức hành. Nhiều ngành tâm lý học mới ra đời( như tâm lý học lao động, tâm lý học thể thao, tâm lý học y học…), một mặt nhằm phục vụ từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của con người, mặt khác giúp con người tiếp cận bản chất đích thực của hiện tượng tâm lý nói chung và của bản chất tâm lý con ngừơi nói riêng tốt hơn.

2. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của tâm lý

2.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là hiện tượng tâm lý

Tâm lý học nghiên cứu xem con người nhận thức thế giới bằng con đường nào (cảm giác? tri giác? tư duy? tưởng tượng?) thái độ xác cảm, tình cảm... của con người đối với những cái mình thấy, những điều mình nghĩ...? Nghiên cứu xem trạng thái tâm lý, kỹ năng, kỹ xảo, ý chí hoạt động của con người.Nghiên cứu tâm lý người, tâm lý động vật, tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội...

Tâm lý học giới thiệu nội tâm bằng một hệ thống các khái niệm, sự kiện, qui luật, cung cấp những tri thức cần thiết để con người nhận thức, cải tạo thế giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.

<a name="222">2.2. Nhiệm vụ của tâm lý học

2.2.1. Nhiệm vụ chung: Nghiên cứu những qui luật khách quan của các hiện tượng tâm lý, bản chất tâm lý cá nhân và những đặc điểm tâm lý các hoạt động của con người.

2.2.2. Nhiệm vụ chủ yếu của các ngành tâm lý chuyên biệt:

- Tâm lý Đại cương: Nghiên cứu các qui luật chung của tâm lý

- Tâm lý học cá nhân: Nghiên cứu đặc điểm tâm lý cá nhân

- Tâm lý học xã hội: Nghiên cứu sự tác động qua lại giữa tâm lý nhóm và tâm lý cá nhân.

- Tâm lý học lứa tuổi: Nghiên cứu đặc điểm tâm lý các lứa tuổi.

- Tâm lý học sư phạm: Nghiên cứu tâm lý trong hoạt động giảng dạy và giáo dục

-Tâm lý học lao động: nghiên cứu những đặc điểm tâm lý của hoạt động lao động nhằm mục đích hợp lý hóa các hoạt động lao động và tổ chức dạy nghề.

- Tâm lý học y học: Nghiên cứu những đặc trưng tâm lý của người bệnh, của nhân viên y tế trong phòng bệnh và chữa bệnh.

Ngoài ra còn nghiên cứu đặc điểm tâm lý trong các hoạt động cụ thể khác như tâm lý

học thể thao, tâm lý học nghệ thuật, tâm lý học hàng không, tâm lý học quân sự...

2.3. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học

2.3.1 Những nguyên tắc cơ bản trong nghiên cứu tâm lý học

- Nguyên lý về sự thống nhất giữa ý thức nhân cách và hoạt động

- Nguyên lý về cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý là hoạt động thần kinh cấp cao và tâm lý người có bản chất xã hội - lịch sử.

- Nguyên lý về sự vận động, phát triển của hiện tượng tâm lý.

- Nguyên lý về mối liên hệ thống nhất giữa các hiện tượng tâm lý với nhau, giữa các hiện tượng tâm lý với các hiện tượng khác, giữa nội tâm và thế giới thực tại khách quan.

2..3.2 Các phương pháp nghiên cứu tâm lý thường được sử dụng

- Phương pháp Quan sát và tự quan sát.

- Phương pháp đàm thoại, trò chuyện

- Phương pháp điều tra

- Phân tích sản phẩm

- Phương pháp thực nghiệm

- Phương pháp trắc nghiệm

- Phương pháp mô hình hóa

- Phương pháp chuyên gia

Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm nhất định. Tùy từng đối tượng nghiên cứu, tùy mục đích nghiên cứu, điều kiện và hoàn cảnh mà lựa chọn cho thích hợp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tìm hiểu bản chất của ý thức

Từ khi loài người hình thành, tiến hóa, biết lao động kiếm sống, ý thức phát triển song song với khả năng giao tiếp, ngôn ngữ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều triết thuyết của phương Đông và phương Tây bằng con đường minh triết và duy lý, về quá trình phát sinh của ý thức.

Ở Việt Nam có công trình của triết gia Trần Đức Thảo về ý thức được đánh giá cao bằng giải thưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên bản chất của ý thức là gì thì đến nay vẫn còn là vấn đề tồn tại cần được làm sáng tỏ. Phải chăng tùy theo cách nhận thức vấn đề này mà các triết gia xếp thành hai chiến tuyến đối lập - duy tâm và duy vật?

Tuy nhiên từ lâu, dù thuộc ý thức hệ nào người ta cũng sẵn sàng tin rằng ý thức, cảm xúc có sức mạnh vật chất to lớn. Sự khác nhau còn lại phải chăng là ở chỗ có người coi ý thức là phi vật chất, họ vạch đường ranh mơ hồ nhưng dứt khoát giữa hai thế giới vật chất và tinh thần? Có lẽ vấn đề nan giải này chưa thể làm sáng tỏ chừng nào khoa học chưa có khả năng khám phá đến cùng cấu trúc của vật chất. Các nhà y học quan tâm đến vấn đề này có lẽ không phải vì muốn biến thành các nhà triết học, từ bỏ việc chữa bệnh cứu người, để tham gia cuộc tranh luận về ý thức hệ. Ở phương Đông đã nhiều thế kỷ nay, nếu không muốn nói nhiều thiên niên kỷ, nhiều vấn đề về y lý, chẩn đoán và điều trị đã được ứng dụng có ích cho nhân loại, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thực tiễn như thuyết âm dương, châm cứu, bấm huyệt, năng lượng sinh học, điều trị từ xa... Một loạt vấn đề khác cũng chưa được giải thích bằng nguyên lý của khoa học chính thống hay bằng lý luận y học phương Tây.

Sự sống vẫn tiếp tục, khoa học phải phát triển, như dòng suối mạnh chảy liên tục. Điều gì phải đến đã đến.

Từ nửa đầu thế kỷ XX đến nay đã xảy ra những cuộc cách mạng vĩ đại trong các ngành khoa học cơ bản như Vật lý học, Sinh học và các ngành khoa học khác như Vật lý lượng tử, Cận tâm lý học, Tin học, Vi điện tử, Công nghệ sinh học cao... Trên cơ sở khoa học kỹ thuật phát triển ấy đã đến lúc có thể đặt ra tham vọng tìm hiểu bản chất và vai trò của những cấu trúc vô hình và khung năng lượng của cơ thể con người. Cùng với cơ thể vật lý chúng tạo nên ý thức, tính cách, các khả năng đặc biệt của con người ở trình độ tiến hóa ngày nay.

Ngành Sinh - Y học quan niệm rằng ý thức là sản phẩm của não bộ, nói chi tiết hơn, ý thức là sản phẩm “cơ - hóa - điện” của “thân thể + não + hệ thần kinh” (Body + Brain + Nervous system, gọi tắt là BBNS). Nhưng chắc chắn không phải theo kiểu mật là sản phẩm của túi mật, tinh trùng là sản phẩm của tinh hoàn, khi người chết thì mật và tinh trùng đầu chết, BBNS chết thì ý thức cũng chết. Các công trình nghiên cứu khoa học Cận tâm lý đã chứng minh bằng thực chứng rằng sau khi thể xác chết phần ý thức - tinh thần vẫn tồn tại ở một dạng khác, ở một nơi khác. Các thành tựu của Vật lý lượng tử của Einstein, Planck, Bohr, Heisenberg đã cho phép đi đến quan niệm mới về cấu trúc của vật chất khác với quan niệm của vật lý cổ điển dẫn đầu bởi Newton. Theo vật lý hiện đại, dưới đơn vị nguyên tử của vật chất còn có hàng loạt các đơn vị cấu trúc nhỏ hơn như electron (10-5m), Hadron (10-8m) với thuộc tính hai mặt - sóng và hạt, khi thì hữu hình, khi thì vô hình. Các nhà vật lý cũng giả thiết rằng cấu trúc hạt nguyên tử với kích thước khoảng 10-33m là cơ sở vật chất của năng lượng sinh học.

Lượng tử ánh sáng (quang tử photôn) không có khối lượng, không có kích thước, phát tán trong không gian với tốc độ ánh sáng. Tuy không nắm bắt được photôn nhưng sự tồn tại của chúng trong tự nhiên thì không phải bàn cãi nữa. Trường lượng tử và cơ thể vật lý là hai thực thể song song tồn tại và liên quan chặt chẽ với nhau.

Các hiện tượng trong trường lượng tử vô hình. Do đó các nhà vật lý lượng tử rút ra những điểm tương đồng giữa trường lượng tử và ý thức. Nếu không có trường lượng tử thì các cơ chất như nguyên tố hóa học, electron không thể tồn tại. Cũng như vậy, thân thể người ta không phải là một đống vật liệu đạm, đường, mỡ, khoáng, vitamin... tự sắp xếp lại thành hình hài con người, mà điều đó chỉ có thể xảy ra trong trường lượng tử, kể cả các hoạt động sống và tư duy. Các khái niệm như xung động, năng lượng, điện tích, từ trường, tần số, sóng, hạt, chiều dài làn sóng, v.v... đều chỉ là những danh từ quy ước do ý thức con người đặt ra để lập một trật tự trong cái hỗn mang của cơ man thực thể quanh ta.

Như vậy có sự liên hệ hữu cơ giữa vật chất và ý thức, giống như giữa vật chất và năng lượng.

Có cái gì chung giữa phân tử vật chất và ý thức?

Ý nghĩ và cảm xúc giống với các hiện tượng trong thế giới lượng tử ở chỗ tất cả chúng đều vô hình và đều không thể nắm bắt được, mặc dầu chúng là vật chất, khi tồn tại ở dạng hạt, khi thì ở dạng sóng. Các nhà vật lý lượng tử châu Âu đến với ý tưởng tạo mô hình ý thức, vốn dĩ là đối tượng siêu hình, gọi là “mô hình năng lượng - thông tin” dựa trên các tiến bộ khoa học hiện đại của Vật lý lượng tử, Nhiệt động học, Sinh học, Toán học... Tuy nhiên cấu trúc mô hình ý thức không tránh khỏi ít nhiều tính siêu hình. Để biện minh điều này nhà vật lý lượng tử hàng đầu M.Planck nói: “Khoa học không thể không hàm chứa trong bản thân nó một phần siêu hình”. Còn Toshiko Izutsu (Nhật) thì thừa nhận trong chiều sâu của ý thức, ở phía bên kia của sự vật, tồn tại một cơ sở căn bản phi hiện tượng, siêu hình... (xem SK&ĐS, Xuân Ất Dậu, tr.60).

Chung quy sự sống được hiểu là sự tích lũy không ngừng các thông tin, mà nguồn tạo ra thông tin chính là ý thức. Thông tin được chuyển tải bằng năng lượng. Theo Viện nghiên cứu cơ khí chính xác quốc gia Nga ở St.Peterburg cơ sở của thông tin là “trường xoắn” (Torsional field). Bằng những công cụ tân kỳ các nhà khoa học Nga đã đo lường được “trường xoắn”, cũng như chứng minh được vai trò quyết định của nó trong khả năng ngoại cảm của con người. Các tính năng quan trọng của “trường xoắn” là tác động xa, với tốc độ lớn hơn tốc độ ánh sáng.

Như vậy, “thông tin - ý thức”, “năng lượng - vật chất”, là những hòn đá tảng xây nên vũ trụ và đồng thời là những biểu hiện cơ bản của các tính năng của tạo hóa.

Trong một hệ thống sống như cơ thể con người bao giờ cũng giàu tính thông tin, nghèo năng lượng, cuối cùng chuyển sang giai đoạn tinh thần của sự sống.

Theo Viện sĩ Nga Mundasep tác giả cuốn “Chúng ta thoát thai từ đâu” (NXB Thế giới -2002, Hà Nội) Sambala trong lòng núi Hymalaya là nơi có những Xo-ma-chi. Họ là những tu sĩ đến từ Ấn Độ, Nepal. Bằng cách thiền định sâu sắc, nhờ năng lượng tinh thần, quá trình trao đổi chất trong thân thể họ hạ xuống điểm 0, thân xác họ trở nên bất động, rắn như đá (stone still state). Có người sau một thời gian dài tính bằng tháng, bằng năm, trở lại trạng thái bình thường. Có người mãi mãi tồn tại ở trạng thái ấy. Có lẽ hai vị sư “tượng táng” tại chùa Dâu nước ta, mà chúng ta được hân hạnh chiêm ngưỡng ngày nay, thuộc về số Xo-ma-chi ấy chăng? Lúc đó cơ thể vật lý sẽ không đóng vai trò nữa. Ý thức - phần chính của linh hồn - chuyển sang một thế giới vật chất khác - thế giới tế vi - để thực hiện chức năng bảo tồn tính cá thể của một con người trong vũ trụ mà có thời đã sống trên mặt đất.

Trong thế giới vật chất có thể xảy ra hiện tượng chuyển pha. Hãy chú ý quan sát một cục nước đá nằm trong đĩa đặt ở nhiệt độ phòng. Cục nước đá chảy thành nước. Nếu cứ để nguyên nước ấy tại chỗ thì nước sẽ mất đi do bốc hơi. Hơi đi đâu mà ta không thấy? Hơi ở trong không khí trong phòng kín. Trong phòng có một ống kim loại dẫn nước lạnh. Trên bề mặt của ống người ta thấy xuất hiện những giọt nước ngưng tụ. Thu nước ngưng tụ vào đĩa rồi đặt đĩa vào ô đá tủ lạnh thì ta sẽ thấy một cục đá tái xuất hiện trong đĩa. Thì ra cục nước đá không mất đi, chỉ trải qua một số pha chuyển tiếp: đá -> nước -> hơi nước -> đá. Mắt ta chỉ nhìn thấy một số pha và không thấy một số pha khác.

Trạng thái ý thức có thể biến đổi. Khi ý thức biến đổi sang một trạng thái khác thì con người tiếp nhận thế giới xung quanh một cách khác. Chẳng hạn trong khi ngủ trạng thái ý thức biến đổi người ta thấy thế giới xung quanh một cách khác thường trong giấc mơ mà ở đó không gian nhiều hơn 3 chiều. Thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai xảy ra cùng một lúc...

Các nhà tu hành trong khi thiền định, các nhà Yoga, có thể chủ động làm biến đổi trạng thái ý thức của mình một cách sâu sắc, đưa ý thức lên một tầng cao khác với người thường. Khi ấy họ có khả năng tiếp nhận vũ trụ, thế giới xung quanh một cách khác, họ có những khả năng đặc biệt khác với người thường.

Điều tương tự cũng xảy ra với người mộng du. Tất cả điều đó là hiện thực, không phải dị đoan.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay