Posted 18 Tháng 3, 2011 Huyện Đông Lan tỉnh Quảng Tây Trung Quốc là nơi bảo lưu sâu sắc nhất kế thừa văn hóa trống đồng của lưu vực sông Hồng. Trong các bảo tàng trên toàn thế giới hiện có 2400 trống đồng, còn ở huyện Đông Lan hiện thừa kế và sử dụng 612 trống đồng, gần bằng 1 phần 3 số trống đồng của thế giới, trong người Choang và người Dao, là cư dân chủ yếu của huyện này. Trống đồng trong lòng người Choang và người Dao ở đây là biểu trưng cho cát tường phú quí và quyền lực. Năm 2008 huyện Đông Lan được gắn danh hiệu “Khu du lịch di sản văn hóa dân gian của Trung Quốc”. Tháng 3-2009 được bộ văn hóa Trung Quốc công nhận danh hiệu “Làng nghệ thuật trống đồng dân gian dân tộc của Trung Quốc”. Ngày 26-1-2010 Đông Lan đã đúc thử thành công một trống đồng đường kính 1,8m. Tháng 8-2010 thành phố Hà Trì được sự giúp đỡ của Đông Lan cũng xây dựng khu bảo vệ sinh thái văn hóa trống đồng, nay đang tiếp tục đầu tư xây dựng. Những năm gần đây công việc khai quật khảo cổ ở huyện Đông Lan, nơi được coi là phát tích của văn hóa trống đồng, được tiến hành sôi động, với sự tham gia của các chuyên gia Nhật Bản, Pháp, Nga, Singapo để khảo sát và nghiên cứu văn hóa trống đồng. Trong hai ngày 30 và 31 tháng 3-2011 sắp tới tại huyện Đông Lan sẽ tổ chức “Ngày du lịch quốc tế văn hóa trống đồng”, trong đó sau phần lễ trống đồng có hội thảo văn hóa trống đồng thế giới tại viện bảo tàng trống đồng, phần hội có biểu diễn ca múa nhạc các dân tộc miền Tây Trung Quốc, hội chợ nông sản, phố ẩm thực. Ngày 17-3-2001 đã có cuộc họp báo công bố chương trình của “Ngày du lịch quốc tế văn hóa trống đồng”, với chủ đề là “Thiên Niên Đồng Cổ, Thịnh Thế Hòa Minh” 新闻发布。广西新闻网记者 陶媛摄 Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 4, 2011 UẤT XỨ TRỐNG ĐỒNG ? I- VĂN HÓA ĐÔNG SƠN Văn hóa Đông sơn được lấy tên từ làng Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa - Việt Nam là một nền văn hóa đồng rực rỡ gồm vũ khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt , đặc biệt là trống đồng nổi tiếng . Học giả người Áo R.H.Gelden đã đề nghị gọi nền văn hóa đồ đồng ở Việt Nam là “ Văn hóa Đông Sơn” Các bài nghiên cứu về trống đồng của LS Cung đình Thanh và Nguyễn Đức Hiệp cho thấy một trong các loại vũ khí Đông Sơn là dao găm và kiếm ngắn có cán hình tượng người tay chống nạnh, đeo khuyên tai, đầu đội mũ , loại vũ khí này cũng được tìm thấy trong ngôi mộ Thụ Mộc Lĩnh ở Trường sa thuộc Hồ Nam là địa bàn của nước Sở. Các nhà khảo cổ quốc tế cũng gọi dao găm ở Trường sa là dao găm Đông Sơn. Học giả Pháp L.Bezacier cho rằng những đoản kiếm tìm thấy ở Pékin, những dao găm ở Hồ Nam có cùng nguồn gốc văn hóa với những dao đã đào được ở Sơn Tây- Việt Nam. Loại rìu đồng Đông sơn Việt nam đồng dạng với loại rìu xéo được tìm thấy ở Chiết giang thuộc nước Việt của Việt vương Câu Tiễn trước kia , loại rìu này có hình đôi giao long quấn vào nhau, trên cán có hình bốn người đang trong tư thế chèo thuyền Tại khu mộ cổ Thượng mã Sơn - Chiết Giang thuộc đất của Việt vương Câu Tiễn người ta tìm được một chiếc trống đồng giống hệt chiếc trống Lãng Ngâm khai quật được tại di chỉ Lãng Ngâm thuộc tỉnh Hà Bắc – Việt Nam. Loại trống này và loại rìu xéo có hình đôi giao long quấn vào nhau, trên cán có hình bốn người đang trong tư thế chèo thuyền cho thấy bờ biển phía đông nam Trung hoa và miền bắcViệt Nam có chung một nền văn cho hoá Đồ đồng Đông Sơn, đặc biệt là trống đồng là vật tiêu biểu của các nền văn hóa phát triển từ thời đại đồng thau sang thời đại đồ sắt ở một số nước thuộc vùng Đông nam Á. Các khu vực đã tồn tại trống đồng Đông sơn như : Việt Nam , phía nam Trung quốc, Indonesia, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippine, Nhật Bản. Về niên đại hiện nay tuy chưa có sự thống nhất nhưng các nhà khảo cổ cho rằng trong khoảng thế kỷ 8BC - 9BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên Về nguồn gốc R.H.Geldern cùng các học giả có tiếng tăm khác như V.Goloubew, E.Kalgren, O.Janse cho rằng nền văn hóa này không phát triển từ bản địa mà có thể bắt nguồn từ vùng sông Hoài phía bắc Trung hoa , có thuyết cho rằng đồ đồng Việt nam có nguồn gốc từ tây phương, khoảng giữa vùng Daube ( Trung âu) và Caucase ( Nam Nga), các giống dân vùng này trong một cuộc di cư sang Đông phương đã băng qua Trung Á đến Vân Nam rồi xâm nhập bán đảo Ấn Trung ( khoảng 600 BC ) trong lúc tại đây chỉ có văn minh cự thạch bi của giống người Úc-Á , lại có thuyết cho rằng tổ tiên của người Việt là giống Indonesien đã học được kỹ thuật đúc đồng của người Trung quốc , tiến sĩ Solhelm II thì cho rằng một số đồ đồng được tìm thấy ở Đông sơn có thể có nguồn gốc từ Địa Trung hải. Vì sao nhiều học giả phương tây cho rằng văn hóa Đông sơn không phải là văn hóa bản địa ? Một số học giả Việt nam cho đó là do cái nhìn kẻ cả của người phương tây đối với các nước phương đông , tuy nhiên theo thiển nghĩ những nhận xét của các học giả phương tây không phải hoàn toàn sai, các tác giả biên khảo về người tiền sử đã nhận xét do điều kiện tiến hóa của loài người nhìn chung đều giống nhau, các trung tâm văn minh lớn có nhiều điểm tương đồng. Dù ở Ai Cập hay Trung Hoa con người cũng làm ra đồ gốm, dụng cụ, đóng xe, thuyền, kiến trúc nhà cửa, mài đá, đúc đồng, phát minh văn tự, chế định tôn giáo. Những điểm tương đồng đó không rõ ràng đến nỗi các nhà khảo cứu phân vân không biết vùng này có bắt chước vùng kia hay không, văn minh loài người có xuất phát từ một điểm duy nhất rồi phân tán đi khắp nơi hay không? Ví dụ đã có lúc người ta nghĩ rằng văn tự và đồ đồng Trung Hoa đã từ Mesopotamie truyền tới và cả người Trung Hoa hiện tại cũng là giống người từ phía tây di cư sang Trung hoa vào cuối thời đại đồ đá mới. Một nguyên nhân nữa khiến người ta cho rằng văn hóa Đông sơn không phải là văn hóa bản địa là do giữa văn hóa Hoà Bình và văn hóa Đông sơn có khoảng cách rất xa , mặc dù các học giả Việt nam đã chứng minh rằng văn hóa Đông sơn là nền văn hóa bản địa, bắt nguồn từ văn hóa Phùng Nguyên đến văn hóa Đồng Đậu, đến Gò Mun rồi đến Đông sơn dựa vào kiểu dáng và nét hoa văn giống nhau trên đồ đá, đồ gốm của văn hóa Phùng Nguyên với hoa văn trên đồ đồng Đông sơn nhưng vẫn còn một dấu hỏi lớn là nguồn gốc của người Phùng Nguyên vẫn còn chưa rõ. Vậy người Phùng Nguyên đã từ đâu đến ? Dựa vào kết quả khảo cổ sau khi phân tích 30 di cốt ở khu mộ cổ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình, tiến sĩ M. Oxenham - Đại học Quốc gia Úc cho rằng: “Người Việt từ trước thời đá mới đã có biểu hiện của giống người Úc châu [Nam đảo] hay Đa đảo Melanesian, nhưng người Việt từ đầu thời Đồng thau đã có biểu hiện đặc trưng của giống người Ðông Nam Á. Sự hiện diện của cả hai nhóm sắc tộc này sát cánh nhau trong khu mộ táng cho thấy đã có sự hỗn hoà giữa hai chủng ở mức độ đáng kể, có thể là đánh dấu những nguồn gốc sớm nhất về dân cư Việt hiện thời, vốn đã tương đối ổn định khoảng năm 2000 TCN.” Các nghiên cứu khác cũng cho thấy vào thời đại Đá Mới, dân cư trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau. Nghiên cứu đồ đồng Đông Sơn và chứng cứ khảo cổ khai quật được ở Chiết Giang, các nhà nghiên cứu cho rằng tại bờ biển phía đông nam Trung hoa và miền bắcViệt Nam có chung một nền văn hoá , vì thế có khả năng người Phùng Nguyên đã từ Chiết Giang dời đến khoảng 2000TCN trong phạm vi lãnh thổ của họ Hồng Bàng . Dòng dõi họ Hồng Bàng gồm con cháu họ Thần Nông là Việt tộc thuộc chủng Austrloid giả định đã từ Địa trung hải đến Trung hoa khoảng 3200-3000 BC, hỗn chủng với Nam Mongloid ở phương Bắc (Mongloid-Caucasian-Melanesian) ở lưu vực sông Vị sau đó con cháu ba đời của họ Thần Nông xuống Hoa Nam hỗn chủng với người Lão ở bản địa thuộc chủng Melanesien thành họ Hồng Bàng được cho là giống Mongloid phương nam. Vào năm 2989 BC nước Xích Quỷ có ranh giới từ sông Trường giang Núi Ngũ Lĩnh trở xuống được thành lập sau khi Lộc Tục lên ngôi, lấy hiệu là Kinh Dương Vương. II- Kỹ thuật xây thành đất của người Việt cổ : Vào năm 2006 người ta đã khai quật một di chỉ ở Yuyang-Chiết Giang , phát hiện được những tường thành rộng từ 4 đến 6 mét có niên đại khoảng 2000 TCN. Các nhà khảo cổ tìm thấy một con mương rộng 40 mét ( ?) xây bằng đất cứng, bên trong là một lượng lớn những mảnh gốm vỡ. Các nhà khảo cổ đã đào một lỗ sâu trên con đê phía đông con mương, họ ngạc nhiên khi thấy một vùng rộng lớn được xây bằng đất tạp và đá cuội nhồi nhét vào. Đào bới xa hơn nữa cho thấy con mương này là con kênh ở bên ngoài thành và khu vực phía đông của nó là tàn tích một phần của tường thành . Những bức tường trải dài 1500-1700m từ đông sang tây và 1800-1900m từ phía bắc - nam . Phương pháp đắp tường thành bằng đất tạp cũng được phát hiện ở thành cổ Luy Lâu thuộc Bắc Ninh-Việt Nam là nơi các nhà khảo cổ đã đào được hàng trăm lò nấu kim loại. Người ta cũng đã đào được một mảnh khuôn đúc trống đồng nẳm ở giữa đoạn tường thành. Các nhà khảo cổ cho rằng tường thành được đắp vào giữa thế kỷ 2-5. Lần đầu tiên các nhà khảo cổ đã tận dụng một đoạn tường thành bị đào phá để xẻ một lát cắt ngang qua thân tưòng, tiếp cận với kỹ thuật xây thành bằng đất của Luy Lâu. Người Luy Lâu xưa đã đào một rãnh nhỏ nông và kéo dài ở giữa rồi mới đắp hai bên cao lên như hai con đê bằng những lớp đất sét cứng, sau đó họ tận dụng đất tạp có lẫn tro đổ đầy vào khoảng giữa hai con đê, lấp luôn cả rãnh đào ở dưới, khi đã đạt chiều cao gần 2 m họ mới đổ một lớp đất sét cứng trùm lên cả hai con đê tạo nên thân thành rất bề thế và vững chắc. Việc đào rãnh nhỏ trong kỹ thuật xây thành như trên đang là một bí ẩn mà nhà khảo cổ học Nishi về nước sẽ tham khảo thêm ý kiến của các chuyên gia Nhật Bản và Hàn Quốc. Những thông tin trên cho thấy kỹ thuật xây thành bằng đất cách đây 4000 năm ở Chiết giang có thể là của tổ tiên người Việt đã được truyền đời trên hai ngàn năm vẫn còn áp dụng. Nó cũng cho thấy rằng thời Lộc Tục , nước Xích Quỉ có lãnh thổ trải dài từ sông Dương Tử cho đến đồng bằng Bắc bộ , sau đó là nước Việt Thường, nước Văn Lang cũng vẫn cùng phạm vi trên, khi Văn Lang tan rả sử Trung Hoa gọi những người sống trong phạm vi ấy là dân Bách Việt. III- Ai đã sáng chế trống đồng ? Như đã nói trên, đồ đồng Đông Sơn không chỉ xuất hiện ở đồng bằng Bắc bộ VN mà còn xuất hiện bên bờ sông Dương Tử. Riêng trống đồng thì không những xuất hiện trong phạm vi của dân Bách Việt mà còn trải rộng khắp vùng Đông Nam Á, Nhật Bản theo đường di cư của người Bách Việt , do đó có thể nói trống đồng là di vật của dân Bách Việt. Khoảng đầu thế kỷ 20 nhiều học giả phương tây bắt đầu nghiên cứu trống đồng trong đó ông F.Heger học giả Đức cố vấn cho Hội nghiên cứu Viễn Đông Bác Cổ đã phân trống đồng thành các loại I ; II ; III ; IV. Các học giả Việt Nam dựa vào phân loại của Heger thấy rằng trống lớn nhất, sớm nhất, đẹp nhất đều là trống loại I , những trống loại I nổi tiếng nhất và đẹp nhất đều được tìm thấy ở Việt Nam do đó cho rằng quê hương của trống đồng là ở Bắc phần và Bắc trung phần Việt Nam, phần nhánh là Hồ Điền ở Vân Nam thuộc Trung Hoa vì thời ấy Trung hoa chưa khai quật được nhiều trống đồng loại I. Ở Trung Hoa thời phong kiến, trống đồng đã được nhắc đến như là sản vật của dân Man di, là giống dân phải nhờ có sự khai hóa của người Mongloid phương bắc mới được như ngày nay, trống đồng khi ấy không được coi là vật có giá trị. Tuy nhiên khoảng 1950 khi đã nhận ra giá trị của trống đồng học giả Wen you khẳng định : “Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh em ruột thịt thiểu số phương Nam Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là trống đồng” ......... “ Đó là tài sản chung của dân tộc Trung Hoa” Vào khoảng 1970 Trung Hoa đã tìm đươc nhiều trống đồng được cho là thuộc trống Heger loại I hầu hết được tìm thấy ở Vân Nam, gọi là trống đồng Wanjiaba, trong 29 trống Wanjiaba có 26 trống tìm thấy ở Vân Nam, 1 trống tìm thấy ở Việt Nam và 2 trống tìm thấy ở Thái Lan . Các học giả Trung hoa đã tranh cãi trong nội bộ về nơi xuất phát của trống đồng ở một trong hai tỉnh Quảng Tây hoặc Vân Nam , nhiều học giả Trung Hoa đồng ý Wanjiaba là loại trống đồng sớm nhất trên thế giới và khu tự trị Sở Hùng ở Vân Nam là nơi xuất phát trống đồng. (http://en.wikipedia.org/wiki/chuxiong) Có thể nhận định trên của các học giả Trung Hoa là đúng đắn nhưng cũng có thể sau khi có thêm nhiều di vật khác được tìm thấy sau đó, kết quả sẽ khác đi . Hiện giờ vấn đề cần đặt ra là : Dân tộc nào đã sống ở khu tự trị Sở Hùng vào thời điểm trống đồng được tạo ra ? Vì sao gọi là Sở Hùng ? Hãy trở lai với mối quan hệ của người nước Sở, 18 vị vua đầu tiên trên đất Sở ( Đan Dương) bắt đầu từ thời Chu Thành Vương 1112 BC đều mang họ “Sở Hùng”, đời vua thứ 6 là Sở Hùng Cừ đã tuyên bố : “ Ta là Man di không cùng hiệu thụy với Trung quốc”. Đến đời vua thứ 19 trở đi hoàn toàn không còn thấy chữ Hùng trong tên họ của các vị vua. ( xem http://www.chinaknowledge.de/History/Zhou/rulers-chu.html ) Vị vua thứ 19 là Sở Thành Vương - 671 BC, vị vua đầu tiên thuộc dòng dõi con cháu Viêm Hoàng của dòng “Cơ Sở” đã nhận lệnh vua nhà Chu của dòng Cơ Khương giao cho là phải dẹp cho được loạn Di Việt không cho chúng xâm lược Trung Quốc. Nhờ thế lực của dòng Cơ Khương mà dòng Cơ Sở đã đánh bại họ Sở Hùng. Qua các bài viết về trống đồng, học giả Trung Hoa không chỉ muốn nhận di vật trống đồng của người anh em ruột thịt thiểu số phương Nam làm tài sản chung của dân tộc Trung Hoa, học giả ấy còn cho rằng hình ảnh chim khắc trên trống đồng là loài sếu ( Crane) đã tìm thấy trong những ngôi mộ Sở là linh hồn của trống đồng ở đồng bằng Hoa Bắc và ý tưởng đó truyền bá xuống khu vực Sở phía nam Trung Hoa sau đó được những tộc người phía Nam bắt chước theo. Học giả ấy không nhớ là trước kia ở đồng bằng Hoa Bắc cũng đã từng có những người Man sinh sống đó là tổ tiên của dòng họ Sở Hùng , Dục Hùng (Yu Xiong) là thầy dạy học cho họ Cơ nên được vua Văn vương phong cho đất Shangdang và đia vị công thần, đến đời cháu nội là Hùng Dịch (Xiong yi) vị vua đầu tiên của họ Sở Hùng , khỏang năm 1112 tr.cn được vua Chu Thành Vương phong cho tước hiệu và phong cho đất Đan Dương . Hùng Cừ là vị vua đời thứ 6 đã nhìn nhận mình thuộc dòng dõi Man di không cùng hiệu thụy với trung quốc. Như vậy trống đồng xuất hiện trong ngôi mộ Sở, truyền thống trang trí trống với hoa văn chim sếu bay ở đồng bằng Hoa Bắc chung qui cũng là nét văn hóa của họ Sở Hùng thuộc dòng dõi man di không cùng hiệu thụy với Trung quốc.. Nói xa hơn về nguồn gốc họa tiết chim sếu bay và địa danh Anshan ở Trung hoa có lẽ phải liên hệ tới vùng Địa Trung Hải . (http://Persianwonders.com/page10.html) Trong trang này ngoài hình ảnh đàn chim bay còn có thể thấy Ziggurat ba tầng ở đây trông giống đàn Nam Giao là nơi làm lễ tế trời của dân tộc Việt Nam, tượng trưng cho Thiên-địa-nhân, chỉ khác một điểm theo mô tả tầng trên cùng của đàn Nam Giao có hình tròn gọi là viên đàn tượng trưng cho trời, hai tầng dưới hình vuông tượng trưng cho đất và người . Ziggurat ba tầng hình vuông trên là loại ziggurat khắc trên chiếc cốc khai quật được tại Jiroft 3000 BC . ( http://www.cabanova.com/action/gallery/980747/128291/0/jtreasure_jiroft_zigu.jpg) ( http://www.cabanova.com/action/gallery/980747/145306/0/gallery_PW_15.jpg ) Theo Pierre Amiet,ở vùng Lưỡng Hà, khi đến với thần linh người xưa khấn vái trước một cái khám thờ nhiều tầng có một cái thang kề vào, giống một cách kỳ lạ những tháp tầng mà người Assyrie sau này mới xây dựng ở thiên niên kỷ I. Cũng theo Pierre Amiet vào thời đại Uruk (3700-3100BC), thành Uruk được xây dựng trong giai đoạn Obeid (trước 3700BC) là một di chỉ “kép” chịu sự chi phối của hai nền văn hóa ở trung tâm là di chỉ Eanna, xưa kia dâng cho nữ thần Inanna của sao Kim và vùng phía tây là di chỉ Kullab dâng cho thần trời Anu. Các kết quả phân tầng ở hai di chỉ này khó phối hợp với nhau, di chỉ Eanna vẫn được coi là căn cứ chính. Ở di chỉ Eanna tương ứng với giai đoạn Uruk mới khoảng 3400-3100BC người ta tìm được chứng cứ của một hình thức kế toán sơ sài sau này có thể là đã tiếp tục phát triển ở Susa cũng như sự xuất hiện của chữ viết ở di chỉ Eanna cùng với một số rải rác ở Susa. Ông nhận xét : “ Như vậy là xứ Susiane có được những bước phát triển minh họa bằng hình tượng nhân vật “sắp thành vua” đã cùng miền Hạ-Lưỡng Hà đi vào một quá trình lịch sử có chứng cứ khảo cổ” Nữ thần Inanna ở vùng Lưỡng Hà có tên gọi giống với một vị nữ thần được thờ nhiều nơi ở Việt Nam : Người Chăm có đền thờ ở Khánh Hòa gọi bà là PoNagar Người Việt Nam có điện thờ ở Hòn Chén gọi bà là Thánh mẫu Thiên YANA cai quản vùng trời còn được gọi là Mẫu Thiên, ở An Giang gọi là Bà Chúa Xứ, ở Nha trang -Khánh Hòa gọi là Mẹ Xứ Sở ( chữ “Xứ Sở” đồng âm với “Susa” trong đó từ “Su” theo chữ viết Proto-Elammitte nghĩa là “nước” được viết giống như chữ “ sui=thủy” trong văn giáp cốt đời Thương) (http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_H%C3%B2n_Ch%C3%A9n) Khám thờ ở vùng Lưỡng Hà có nhiều tầng có thang kề vào được mô tả giống như đàn Nam Giao ở việt nam có ba tầng tượng trưng cho Thiên -Địa-Nhân . Người Việt Nam và người Trung Hoa gọi Thiên Địa Nhân là thuyết Tam Tài nên có thể có mối liên quan nào đó giữa Ziggurat với danh xưng “Hatamti” của người Elam, có mối liên quan nào đó giữa danh xưng Hatamti với người Hạ ở trung Hoa. Một manh mối nữa là địa danh Anshan ở Tali Malyan của xứ Tiền Elam cũng đã được mang đến Trung Hoa , một Anshan ở phía bắc Trung hoa thuộc bán đảo Liêu Đông , một Anshun ở phía nam Trung Hoa thuộc Quí Châu .Có khả năng tổ tiên người Việt Nam ngày nay đã từng sống ở phía nam Anshun hoặc đã từng sống ở Anshan trong khu vực phía nam Trung Hoa nên được gọi là dân An Nam. http://en.wikipedia.org/wiki/Anshan_%28Persia%29 http://www.chinaculture.org/gb/en_map/2003-09/24/content_21634.htm Đồ gốm Susa cũng giống đồ gốm Trung hoa, như đã nói ở bài trước, đồ gốm tô vẽ ở Trung hoa được người ta cho rằng giống hệt đồ gốm ở Suse, Anau, và giống cả đồ gốm ở Mesopotamie. Đồ gốm tô vẽ được tìm thấy ở các di chỉ miền bắc Trung hoa được cho là đồ gốm đẹp nhất thế giới và người ta chưa thể xác định nó có phải là nét văn hóa của cư dân Hòa Bình thuộc tiền Đông nam Á. Qua chứng cứ khảo cổ có thể thấy được một cách tương đối là văn hóa gốm của cư dân Hòa Bình cho đến năm 3000 tr.cn ở Việt Nam và Trung Hoa là lọai gốm có hoa văn khắc chìm, gốm tô vẽ chỉ bắt đầu xuất hiện khỏang năm 3000 tr.cn, trong khi đó ở vùng Mesopotamie thời kỳ Obéid và Suse I đã có đồ gốm tô vẽ trước thiên niên kỷ V. Đến cuối thiên nhiên kỷ V ở vùng Lưỡng Hà không còn đồ gốm tô vẽ, thay vào đó là lọai đồ gốm không tô vẽ gọi là gốm Uruk (3700 – 3100 tr.cn ) được làm trên bàn vuốt hoặc nặn bằng tay. Riêng ở Susa lọai đồ gốm tô vẽ vẫn còn duy trì ở thời kỳ sau hồng thủy ( 3500 -2800 tr.cn). Điểm này cho thấy đồ gốm tô vẽ là nét văn hóa đặc trưng của vùng Ai cập, Lưỡng Hà có từ trước 4000 tr.cn. Đồ gốm tô vẽ ở Trung Hoa có thể do người dân Tiền Elam mang đến mà người dẫn đầu là vua Thần Nông , theo truyền thuyết là vị thần mình người đầu trâu đến từ phía tây Trung hoa. ( http://en.wikipedia.org/wiki/Elam) Có thể giả định rằng dân Tiền Elam đã đến Harappa khoảng 3300BC mang theo đồ gốm tô vẽ của vùng Địa Trung Hải đến nơi này. Sau đó vào Trung Hoa. - Đồ gốm Suse Http://Persianwonders.com/page32.html Đồ gốm tô vẽ ở Harappa - Ấn Độ : 3300 BC . Thứ đồ gốm này tuy là di tích duy nhất cũng đủ để chứng minh một di tích văn minh tương đương với văn minh Uruk ở Mésopotamie, còn văn minh Amri thì có điểm tương đồng với văn minh Jemdet Nasr http://pubweb.cc.u-tokai.ac.jp/indus/english/1_2_02.html -Đồ gốm tô vẽ ở Trung Hoa tập trung ở lưu vực sông Vị Thủy có niên đại trên 3000 BC tại các di chỉ trước đó đã có người ở như Majiayao, Dadiwan, Miaodikou, Yangshao; sau đó đến các di chỉ trước đó đã có người ở như Daxi ở Hồ Bắc và Chengtoushan ở Hồ Nam . Muộn nhất là chiếc chậu trong lòng có vẽ hình con rắn khoanh tròn ở di chỉ Taosi-Sơn Tây khoảng 2500 BC (http://www.chinaculture.org/gb/en_artqa/node_430.htm) Dân Tiền Elam là một cộng đồng dân cư ở vùng cao và vùng đồng bằng sống hòa nhập khắng khít với nhau. Người dân ở vùng Susa có lẽ đã đến từ Uruk hoặc Jiroft là những người thạo về nghề sông nước và chế tạo đồ gốm chạm khắc khác với đồ gốm sơn vẽ của người bản địa, Người ta dã tìm được ở Suse một chiếc bình chạm hình vị thần mình người đầu trâu có cùng kiểu dáng như những lọ bình ở Jiroft. Vị thần mình người đầu trâu được người Trung Hoa cổ gọi là Thần Nông, là tổ tiên của dòng Sở Hùng và là một trong hai vị tổ tiên của dòng Cơ Sở. Trở lại với Sở Hùng để tìm giải đáp cho câu hỏi : Dòng dõi Sở Hùng là những ai ? Họ là những người mà cổ sử Trung Hoa gọi là Tam Miêu, hậu duệ của Thần Nông và Xuy Vưu đã bị đày ra núi Tam Nguy ( Đôn Hoàng ) thời vua Thuấn. Theo Trúc thư kỷ niên, Tam Miêu là những người đã sống trên vùng đất sau này là nước Sở, họ đã bị vua Thuấn đày đến núi Tam Nguy phía tây Trung Hoa tận Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay để trừng phạt họ vì đã giúp đỡ con trai của vua Nghiêu (Đan Chu) trong việc nổi dậy chống vua Thuấn. Theo nghiên cứu của Nguyên Nguyên, chữ “ trãi” được ghép vào chữ Lạc còn được đọc là He, Ho, Mo , do đó có khả năng nhóm trãi là Tam Miêu trong đó có người Việt ở núi Hùng Nhĩ Sơn sau khi bị đày ra Tam Nguy cạnh sa mạc Đôn Hoàng đã theo ngả tây nam trở vào Trung Hoa khoảng 1200BC, một nhóm pha YueZhi (Turkey) vào Ba Thục hình thành văn hóa Sanxingdui, một nhóm trở về quê hương cũ là đất Sở ở di chỉ Panlongcheng tại Hồ Bắc , một nhóm người Lão-Việt gốc Sơn Đông là người Hẹ (Đông di) vào Giang Tây vùng Hoa nam ở di chỉ Tân Can ( Xingan) khoảng 1200 BC. Dòng Sở Hùng còn là những người Việt hậu duệ của Du Võng từng sống ở núi Hùng Nhĩ sau đó đến Sơn Tây khoảng năm 2500 BC cùng chung sống với Mongloid họ Cơ trong liên minh Viêm Hoàng, từ khi nhà Hạ bị Thành Thang của nhà Thương lật đổ khỏang 1500BC ( niên đại theo nghiên cứu của Eberhard ) con cháu nhà Hạ chia thành 3 nhóm : nhóm thứ nhất là những người Hạ sống ở Khúc Phụ vẫn ở lại sống chung hòa bình với nhà Thương, nhóm thứ hai chạy về phía bắc thành giặc Hung nô,nhóm thứ ba chạy về phía Nam trở thành Kinh, Sở. Dựa vào chứng cứ khảo cổ có thể thấy nhóm chạy về phía nam đã sống tại di chỉ Bàn Long Thành (Panlongcheng -1500BC) và sau đó phát triển thành nàng Âu Cơ ( DU-CƠ ?) thuộc dòng Sở Hùng và dòng Cơ Sở của những người tự xưng là con cháu Viêm Hoàng. Còn Khương tộc có lẽ định cư ở di chỉ Ngô Thành (Wucheng)- Giang Tây có niên đại khoảng 1500BC-1100BC sau đó phát triển thành nước Ngô của Phù Sai. Hiện nay các nhà khảo cổ thường đưa ra những thắc mắc rất đáng chú ý, Gina L.Barnes trong quyển Trung quốc-Triều Tiên-Nhật Bản - Đỉnh cao văn minh Đông Á đã đặt ra câu hỏi : “bằng cách nào để chúng ta hiểu được các di chỉ văn hóa tại Panglongcheng (Bàn long Thành) ở Hồ bắc và di chỉ Tân can (Xingan) ở Giang tây trong sự tương quan với nhà Thương”. Nghiên cứu đồ đồng thời ấy có thể thấy các di chỉ Phong Châu, An Dương, Bàn Long thành, Tân Can đều có chung nguồn gốc tuy nét văn hóa có khác nhau đôi chút. Đồ đồng thuộc di chỉ Panglongcheng ở Hồ Bắc mang nét văn hóa của dòng Sở phía Bắc, là văn minh Hoa Hạ của những người thuộc giống Australoid - Mongloid nói tiếng Austro-asiatic Việt Mường (Sở Hùng) và giống Mongloid-Australoid nói tiếng Sino-Tibetan (Cơ Sở) với đỉnh đồng có dạng tròn , ba chân được phát triển từ chiếc đỉnh gốm ba chân danh tiếng của người Hạ Đồ đồng thuộc di chỉ Tân Can ở Giang Tây mang nét văn hóa của dòng Sở phía Nam là văn minh Hồng Bàng của người Lão-Việt gắn với Đông di thuộc giống Australoid – Melanesien nói tiếng Tai-Kadai, Autro-Tai và Austro-asiatic Việt Mường với đỉnh đồng hình chữ nhật có bốn chân , đôi khi có đúc nổi hình ảnh thuộc giống dân tiền Đông nam Á Đỉnh đồng ở di chỉ Wucheng - Giang tây có dạng tròn, ba chân , nhưng hoa văn khác với đỉnh đồng ở Panlongcheng của Sở do đó có lẽ các đỉnh đồng ở Wucheng mang nét văn hóa của tộc Hạ, Khương thuộc Tam Miêu nói tiếng Autroasiatic Môn Khmer. Dòng giống của những người sống ở Panlongcheng và Xingan là dòng Sở Hùng nói tiếng Austro-asiatic Việt Mường , ở Panlongcheng dòng Sở Hùng sống cùng với một dòng khác là dòng Cơ Sở thuộc nhóm con cháu Viêm Hoàng là người Hoa Hạ nói tiếng Hán Tạng Sino-Tibetan , cả hai dòng cùng chung sống trên đất Sở , trong khi đó một nhóm những người nói tiếng Autroasiatic nhánh Viêt Mường và nhánh Môn Khmer tập trung ở đất Kinh Vào năm 887 BC , vị vua Sở Hùng đời thứ 6 là Hùng Cừ đem binh đánh lấy đất Đông và Dương Việt rồi cho con trưởng là Khang ( Wukang) ở đất Câu Đản, cho con thứ hai là Hồng ( Zhihong) đất Ngạc ở Hồ Bắc, cho con thứ ba là Chấp Tỳ làm vua ở nước Việt Chương là Việt Thường trước kia. Dòng Sở Hùng làm vua truyền được nhiều đời , sau đó thì suy và mất chủ quyền về tay Sở Thành Vương của dòng Cơ Sở. Hậu duệ của Sở Hùng Cừ (Tam Miêu) thuộc nhánh Wukang ở Câu Đản vào khoảng 771BC có thể kết thông gia với Khuyển Nhung thành “Lạc” đã tấn công vào Cảo Kinh, sau khi thất bại có lẽ sang Bengal rồi quay về ở Vân Nam giáp Ba Thục sống tập trung ở nơi này thành khu tự trị Sở Hùng , hậu duệ của Sở Hùng Cừ thuộc nhánh Chấp Tỳ (Hồng Bàng) ở Việt Thường khoảng 671BC có lẽ bị Sở Thành Vương đánh bại đã chạy xuống Quí châu-Ba Thục sống tại di chỉ Hechang . Khi hậu duệ của Sở Thành vương ( Đế Lai ?) đem quân và dân lấn xuống phía nam , Lạc Long quân ( hậu duệ Lạc Long Quân ?) đánh đuổi Đế Lai, mang nàng Âu Cơ về ở cùng khoảng 500BC rồi sau đó lại chia tay đi về phía biển ở Chiết Giang thành tổ tiên của Việt Vương Câu Tiễn, nàng Âu Cơ buồn muốn trở về nhưng phương bắc không cho về , do đó có khả năng nàng Âu Cơ là người Kinh Bắc gốc Sơn Tây – Hà Bắc ở Trung Quốc đã xuống Sở Hùng Thị ở Vân Nam, sau đó mang địa danh Hà Bắc xuống đồng bằng sông Hồng sống tại làng Lim Kinh Bắc, nơi con sông Cầu chảy qua êm đềm thành lời thơ lời nhạc, vào ngày hội Lim những làn quan họ giao duyên đã trở nên bất hủ trong lòng mỗi con người. http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i_Lim http://vi.wikipedia.org/wiki/X%E1%BB%A9_Kignh_B%E1%BA%AFc Nói rằng khu tự trị Sở Hùng ở Vân Nam là nơi xuất phát trống đồng có nghĩa trống đồng là di vật của họ Sở Hùng là Việt tộc đã từng sống ở núi Hùng Nhĩ và nơi xuất phát trống đồng trước tiên có thể là ở vùng Kinh Sở từ thời Hùng Dịch 1112BC hoặc chậm nhất là vào thời vua Hùng thứ 6 là Hùng Cừ 887 BC, tuy nhiên người Việt cũng đã hỗn chủng với người Lão bản địa ở Hoa Nam nên trống đồng là di vật của người Âu nói chung mà người ta có thể phân biệt được dựa vào hoa văn thể hiện nét văn hóa riêng của từng tộc người. Theo tôi nét văn hóa Việt được thể hiện với hoa văn hình người trang phục cánh chim khắc trên rìu xéo, hoa văn thuyền hình lưỡi liềm trên trống đồng với hình người mặc trang phục cánh chim có thể là hình ảnh các vị thần, và tuơng tự như ở vùng Địa trung Hải người lãnh đạo cầm trên tay một chiếc rìu tượng trưng cho quyền lực . Những hình ảnh trên còn được thấy trên thạp đồng Đào Thịnh ở Đông Sơn và thạp đồng Nam Việt trưng bày trong lăng mộ Việt Vương tại Quảng Châu. Còn lại những loại rìu hình chữ nhật có hoa văn nai, cá và chim, những hình ảnh các giống vật như cóc , voi, ốc, cá sấu , những hoa văn thuyền với hình người trên trống đồng không có trang phục cánh chim, tay cầm cung tên là nét văn hóa của Việt tộc pha trộn với nét văn hóa của các dân tộc thuộc Bách Việt Trống đồng, theo cổ sử Trung hoa, là vật sở hữu của trung đoàn, được tướng lĩnh dùng để điều khiển trận đánh , các chiến sĩ trước khi ra trận thường có buổi lễ long trọng kèm theo những con vật được hiến tế, máu súc vật được tưới xuống rãnh để đất có thể làm chứng cho sự hiến tế trên, phần máu còn lại được xoa lên môi của những người ra trận và xoa lên chiếc trống của trung đòan. Khi ra trận, người chiến sĩ hành quân theo tiếng trống và rút lui khi nghe tiếng “gong” ( cồng ?), ngoài ra dân tộc thiểu số còn dùng trống đồng để cầu mưa. Sự kiện trống đồng được tìm thấy ở Trung hoa nhiều hơn ở các nước ở vùng Đông nam á cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa văn hóa đồng rực rỡ ấy là tài sản của Trung hoa mà đó là tài sản Trung Hoa thừa hưởng được từ giống dân tiền đông nam á đã từng sống và phát triển trên đất Trung hoa, người Trung hoa hiện nay cũng mang trong mình dòng máu của người Đông nam á , trong đó tộc người xử dụng rìu làm vũ khí giữ vai trò chủ đạo trong việc kiến tạo nền văn minh Trung hoa , và thời đại trống đồng khởi đầu được chế tạo ra như đã nói trên có thể vào thời đại Hùng vương hay nói cách khác vào thời đại của các vị vua dòng Sở Hùng khi còn sinh sống xung quanh vùng Động Đình hồ . LƯƠNG TRÂM Share this post Link to post Share on other sites