nguoivosu

Tính Cách Người Nhật Bản !

2 bài viết trong chủ đề này

Tính cách người Nhật Bản

Tính cách người Nhật Bản Là con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu, nên thực tế rất khó nhận định về tính cách của chính mình, của một người khác, huống chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét tiêu biểu của người Nhật.

Người Nhật Bản

Người Nhật là pha trộn của các dân tộc bản địa với người Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, Mãn Châu, Eskimo... thuộc giống da vàng. Dáng người lùn mập, nhưng nay phát triển mạnh về chiều cao cũng như tuổi thọ. Theo thống kê năm 2000, chiều cao trung bình của phái nam là 171,3 cm và phái nữ là 158,4 cm. Theo thống kê năm 2003, tuổi thọ trung bình phái nam là 78,4 tuổi và phái nữ là 85,3 tuổi, là dân tộc gia tăng tuổi thọ nhanh nhất và nay đứng đầu thế giới. Họ rất khỏe mạnh, dẻo dai, ngay phụ nữ cũng có thể đứng làm việc cả ngày, nhiều người 70, 80 tuổi vẫn còn hăng hái làm việc, không phải tham tiền vì họ rất giàu, nhưng vì thích làm việc, đến độ thế giới gọi họ là "labor animal" (con vật lao động).

Đặc biệt phụ nữ thường ngực nhỏ, có người chân rất to, nên được gọi là chân "daikon" (大根, đại căn: củ cải, chân củ cải đối với Việt Nam thì đâu có gì gọi là to, nhưng đây là củ cải Nhật Bản, to gấp 3, 4 lần củ cải Việt Nam, tuy vậy hiện nay cũng ít người có loại chân này), cườm tay phụ nữ Nhật có thể lớn hơn cườm tay thanh niên Việt, đôi khi họ đeo đồng hồ đàn ông cũng vừa. Làn da phụ nữ thường láng mịn, người mình gọi là làn da trứng gà bóc, nhưng người Nhật cho là làn da "mochihada, bánh dầy" (餅肌, bính cơ), và đặc biệt bàn tay của đa số các cô thường nuột nà rất đẹp.

Về khuôn mặt người Nhật, theo các nghiên cứu y học mới đây cho thấy, đã có nhiều biến đổi trong một, hai trăm năm qua. Xem các tranh cổ, nhất là loại tranh thủ ấn họa nổi tiếng của Nhật Bản, thường thấy vẽ phụ nữ Nhật mắt hí một mí, lông mày mỏng, mũi tẹt. Ngày nay mắt họ khá lớn, lông mày rậm hơn, và mũi cũng cao hơn. Thêm một điểm nữa là xưa khuôn mặt vốn tròn, nay thì dài vì cằm của họ dài ra. Y khoa giải thích là thức ăn ngày xưa phải nhai nhiều; nhất là thời ba, bốn ngàn năm trước, số lần nhai gấp từ năm, mười lần so với các thức ăn mềm ngày nay. Do vì nhai ít, bắp thịt cằm làm việc ít nên cằm bị trễ dần xuống. Một điểm khác nữa là người Nhật thường bị thiếu chất vôi (calcium), nên răng hay bị hư và cũng mọc khấp khểnh, nếu đi niềng cho đều sẽ tốn khoảng 5.000 đến 8.000 USD.

Tính cách người Nhật

Bà Ruth Benedict, một chuyên viên Nhân Chủng Học ở Đại Học Columbia đã biên khảo về tính cách người Nhật vào thập niên 40 để làm nền tảng cho chính sách đối ứng của Hoa Kỳ. Bà đã viết nhiều bản tường trình và đúc kết thành tác phẩm "The Chrysanthemun And The Sword" (Kiku To Kitana = Hoa Cúc Và Thanh Kiếm). Theo bà: "Người Nhật vừa hung bạo vừa hiền hòa, vừa nghiêm khắc vừa thơ mộng, vừa cứng ngắc vừa nhu nhuyễn, vừa trung thành vừa phản trắc, vừa can đảm vừa hèn nhát, vừa bảo thủ vừa cấp tiến... và chịu ảnh hưởng cùng lúc của Thần Đạo và tam giáo Nho, Phật, Lão...".

Những điều ấy thoạt nghe có vẻ chung chung, như có gì đó cũng giống người Việt hay các dân tộc khác, nhưng để ý kỹ, khi viết như thế, bà đã nêu bật được tính tích cực, đôi khi dẫn đến cực đoan ở cả hai thái cực của người Nhật. Như người Nhật trước và sau Thế Chiến Thứ 2 đi từ tàn bạo đến hòa bình, ngày xưa họ sẵn sàng chết thì ngày nay họ bảo vệ mạng sống bằng mọi giá, thể hiện qua chính sách của chính phủ cũng như từng người dân. Họ hiền tới độ đi ra nước ngoài thường bị những người không đứng đắn trấn lột, ăn hiếp. Có khi tôi liên tưởng đến hình ảnh những chú gà "nuôi giam", những con thỏ "nhà", dù được thả ra thì lúc nào cũng chậm chạp, không quen đối phó với các bất trắc bên ngoài.

Họ có tinh thần thực dụng và mạo hiểm rất cao, đã tự đi du học và khéo léo đãi lọc văn minh, văn hóa Trung Hoa, mà không du nhập từ chương và khoa cử. Khi thấy những nền văn minh văn hóa rực rỡ ở Âu-Mỹ, họ cũng đã tìm tới học hỏi, làm giàu thêm cái vốn đã rất phong phú của họ, thể hiện song hành tính bảo thủ và cấp tiến. Tất nhiên khi trào lưu Âu-Mỹ tràn tới đất Phù Tang, thì ít nhiều họ cũng mất đi phần nào bản sắc riêng.

Tinh thần kỷ luật đi đối với giáo dục

Người Nhật nổi tiếng là có kỷ luật, cho dù sự kỷ luật đó bắt nguồn từ hoàn cảnh sinh sống khó khăn, từ việc nghĩ tới lợi ích chung hay từ văn hóa v.v... đã trở thành như tự giác, nhưng không phải cứ thế thì 100% con người trong xã hội này sẽ trở thành kỷ luật. Mà những người làm luật, những đoàn thể... đều phải suy tính, ghi ra rất chi tiết các quy luật và phổ biến rộng rãi để mọi người tuân theo.

Những nơi sinh hoạt công cộng luôn thấy đầy những bảng hướng dẫn, thông báọ Cứ nhìn mặt đường của Nhật thì rõ, đâu đâu cũng trắng xóa các lằn kẻ phân luồng xe chạỵ Ở những nơi đông đảo hay dễ gây tai nạn, mặt đường còn được sơn màu cam hay đỏ, sơn tráng loại đá răm... để xe chạy không bị trượt. Ngoài ra còn lót những tấm nhựa chỉ đường và loa phát nhạc báo cho người mù ở một số chỗ băng ngang đường. Tiền giấy cũng có dấu hiệu nổi đặc biệt, ở ga xe điện thì dán bảng ghi bằng chữ nổi dành cho người mù để có thể tự mua vé... Quanh các trường Tiểu Học thì thường có người cầm cờ hướng dẫn các em nhỏ qua đường.

Người Nhật nổi tiếng là dặn dò chi tiết nhất so với các dân tộc khác. Xe điện lúc nào cũng thông báo mở cửa bên nào, xin lưu ý đừng để quên hành lý, khi bước ra coi chừng khoảng cách giữa toa xe và thềm ga...

Tóm lại là sự tự giác chung vẫn luôn luôn cần sự hướng dẫn, giáo dục cụ thể để đáp ứng với hoàn cảnh và sự thay đổi của xã hội theo với thời đại.

Lễ nghĩa – Lịch sự

Ai cũng thấy là người Nhật rất lễ nghĩa, chào nhau không phải một lần mà đôi khi năm lần bẩy lượt. Ăn mặc lịch sự, nói năng nhỏ nhẹ, không phải lúc nào cũng to tiếng như chửi nhau như giữa lính Nhật thời Thế Chiến Thứ 2 với nhau hay với người bị họ thống tri... Trừ một số giới trẻ ăn mặc lố lăng, người đi làm đều ăn mặc lịch sự, nhìn ngoài đường không thể nào đoán được họ làm việc gì, áo quần luôn sạch sẽ, khi vào nơi làm mới thay quần áo làm việc lao động, nên đôi khi chỉ là nhân viên làm vệ sinh, đổ rác.

Phái nam Nhật hầu như không có chuyện thấy người đẹp lạ ngoài đường mà hút gió, ngỏ lời tán tỉnh, chòng/chọc ghẹo... Hầu như không có chuyện không quen mà lẽo đẽo theo nàng về tới nhà rồi trồng "cây si" luôn. Nhưng bạn với nhau thì giữa nam nữ lại có vẻ gần gũi, tự nhiên hơn người Việt. Đi nhậu chung mà nếu một bên say thì bên kia sẵn sàng dìu đi. Vì vậy, đôi khi người Nhật kết hôn trễ, có tới khoảng 50% phải nhờ người giới thiệu, gọi là "miai" (見合い, kiến hợp). Phụ nữ được khen đẹp thì chắc là ai cũng thích, nhưng phụ nữ Nhật thì mắc cỡ, tỏ thái độ khiêm tốn và thường nói: "Cám ơn", còn phụ nữ Việt "đáo để" hơn, thường trả lời: "Sạo", "Đừng có nịnh"... còn người lạ mà khen, có khi bị lườm nguýt cho một phát rồi nói: "Vô duyên!".

Nhật Bản có Ngày Tình Yêu (Valentine), là ngày 14 tháng 2. Theo truyền thống Á Đông, trong truyền thuyết Nhật cũng từng nói tới chuyện có vị thần phái nữ tỏ tình với vị thần phái nam trước, nhưng cho là chuyện không nên, nên phái nữ lúc nào cũng ở thế bị động, khó kiếm chồng. Vì vậy, Ngày Tình Yêu là ngày phái nữ tặng quà cho phái nam, thường là chocolate để phái nữ có cơ hội mạnh dạn lên tiếng. Còn khi hai bên quen nhau thân thì phái nam không những tặng hoa hồng còn tặng quà và phái nữ cũng tặng quà ngược lại nhưng không tặng hoa. Ở Việt Nam cũng mới có ngày này, nhưng phái nam thường tặng phái nữ hoa hồng để tỏ ý thích.

Ngày Trắng (White Day), là ngày 14 tháng 3, phái nam tặng quà đáp lễ cho phái nữ, thường là kẹ. Ở Việt Nam không có ngày này.

Phái nữ Nhật Bản dường như không bỏ lỡ cơ hội "vùng lên" để kiếm chồng này, nên họ chờ ngày 14/02 để "mượn quà thay lời" và mong ngày 14/03 để xem phái nam đáp ứng như thế nào. Phong trào mới chỉ mươi năm nay mà đã như một truyền thống lâu đời ăn sâu trong tâm trí và được hưởng ứng nồng nhiệt. Dịp này phái nữ ào ào đi mua chocolate như bão táp với sự tiếp tay kiếm lời rất đắc lực của các cửa tiệm thương mại. Sở dĩ phái nữ phải làm như vậy bởi đa số phái nam Nhật Bản "cù lần", không biết "tán gái".

Phái nữ Nhật đâu có e dè kiểu thiếu nữ Việt Nam, như trường hợp cô Phan Thanh Tình, 17 tuổi, học sinh Trung Học cấp 3 ở Sài Gòn, trong chương trình "Ajia No Junjo" (アジアの純情, Thuần Tình Của Á Châu) của đài TV Fuji số 8 ngày 2 và 10/2/2004. Cô Tình thích một bạn trai cùng trường, cũng là anh ruột của bạn gái mình. Chuẩn bị cho ngày hẹn hò, cô không dám ngỏ lời nên muốn gởi gấm tâm tư qua món quà. Cô bèn đi mua đồ thêu, về cặm cụi đêm khuya, thêu trên khăn chữ "I LOVE YOU". Hôm hẹn hò, vì còn mắc cỡ nên có cả bạn gái đi theo. Sau cả buổi đi chơi, ngồi cạnh nhau, cuối cùng sau lúc chia tay, món quà ấp ủ bao nhiều tình cảm, ước mơ... vẫn để trong túi không dám đưa ra. Ngược lại, vài phụ nữ Nhật còn độc thân thẳng thẳn yêu cầu tôi giới thiệu bạn trai người Việt, nhưng tôi không dám vì sợ phiền phức sau nàỵ

Họ rất điềm tĩnh trong ứng xử, ít nổi nóng, nhưng khi nổi nóng thì cũng khó can lắm, mà cũng chẳng mấy khi họ can nhau. Tôi đã chứng kiến sinh hoạt các câu lạc bộ thể thao ở Đại Học. Đàn anh thường đì đàn em với một thứ kỷ luật huấn nhục, không phải chỉ trong một tuần mà gần như suốt thời trẻ, có khi kéo dài cả đời nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Người Việt dường như rất khéo léo trong việc la mắng, tuy đôi khi nói bóng gió, nhưng khi la mắng thì nói thẳng vào chỗ sai quấy (tất nhiên có khi chỉ là chủ quan) nhiều hay ít tùy theo lỗi nặng hay nhẹ... Còn với người Nhật, khi rầy la, nhiều khi không nói thẳng và cụ thể nên người bị la không hiểu người la muốn gì mà la rất nặng và rất dai, bất chấp thể diện người đối diện. Có khi mới sáng ra, ông chủ vào hãng là la toáng lên, mà có khi la chung chung kiểu nói: "Mọi người làm cái gì vậỷ", "Đồ cà chớn!", "Không ai chịu làm việc!"... La kiểu này thì không ai biết là ông ta nói gì và muốn gì, nhân viên thì cứ im lặng nghe rồi giải tán, vẫn làm việc như thường, nếu ấm ức quá thì hết giờ làm việc rủ nhau ghé quán nhậu làm vài ly rượu cho nguôi.

Như thường thấy những phóng sự trên TV, có những ông thầy "truyền nghề" nấu mì..., đệ tử sau nghe lời chỉ dẫn, làm xong món ăn đưa lên, ông chỉ liếc qua không cần thử là nói liền: "Như vầy mà đem bán à!?". Thế là đổ ụp vào thùng rác. Ông thầy tiếp tục chửi cho một lúc như tát nước rồi bắt làm lại, đệ tử im phăng phắc nghe chửi, lo đi làm lại mà không biết phải sửa chỗ nào, lâu lâu ông thầy mới chỉ khuyết điểm và bắt làm đi làm lại cả chục lần. Và tuy vậy, thường chỉ có độ 30% là được cấp bằng thôi. Ý của ông thầy là phải tập cho nhuần nhuyễn và chú ý từng chi tiết nhỏ nhất, từ cách rửa xương, rửa rau, nhúng mì, nêm gia vị, trình bày... Với lối dạy này, tôi thấy nhiều đệ tử lớn tuổi có khi ở lớp 50 hay 60, muốn có một nghề làm ăn tự lập đã phải khóc ròng! Còn các trường dạy nghề bình thường thì thu học phí nên chiều học sinh hơn, không dám quá nặng lời như vậy.

Các huấn luyện viên thể thao cũng vậy, luôn miệng la mắng rất nặng các tuyển thủ (vận động viên). Tuyển thủ nào cũng phải nói là huấn luyện viên rất nghiêm khắc, nhưng hầu hết họ chấp nhận, chỉ biết gật đầu làm theo vì họ ý thức rằng muốn tranh đua với người khác hay thế giới thì không cách nào khác hơn là nghe sự hướng dẫn và khổ luyện. Tôi thầm nghĩ chắc chắn là hiếm có người Việt nào có thể chịu đựng những sự la mắng như vậy. Đó là lý do chính giải thích tại sao chẳng có mấy người Việt tham gia trong các câu lạc bộ thể thao Nhật.

Trong công sở, tư sở và các hãng xưởng cũng vậỵ Cấp trên la mắng cấp dưới rất nặng, bất chấp thể diện người bị la mắng, làm cho nhiều khi người ngoài thấy rõ sự khúm núm, sợ sệt của cấp dưới. Và trong nhiều trường hợp cấp dưới thi hành mệnh lệnh mà không cần suy nghĩ gì cả, như chỉ cốt làm vừa lòng cấp trên! Họ cũng rất trọng chủ nghĩa "bái kim" (quá trọng đồng tiền), nên sống có hai mặt, với nhân viên thì gắt gao, mà với khách thì cởi mở, ngọt ngào. Đó là cái giá mà người Nhật đã phải trả để xã hội ổn định và phát triển. Mỗi người phải chịu khép bớt phần đòi hỏi tự do của mình.

Tuy nhiên, trong sinh hoạt bình thường như các nhóm bạn hay hội tự trị... thì họ đối xử với nhau thân thiện và bình đẳng hơn. Đặc biệt người Nhật rất chịu khó hội họp, phát biểu ý kiến và ghi chép khá cẩn thận. Các buổi họp thường kéo rất dài, hầu hết mọi người nắm vững vấn đề rồi mới thi hành.

Khi đánh nhau, người Nhật ít can gián hơn người Việt. Tôi đã chứng kiến cảnh đàn anh đánh đàn em, hay bạn nam sinh đánh nhau rất hung bạo và kéo dài mà những đồng bạn khác vẫn đứng nói chuyện tỉnh bơ, có khi có cả con gái trong đó cũng vậy. Đầu thập niên 70, đã từng có lần trong câu lạc bộ võ Đại Học Takushoku (Thác Thực), khi một đàn em xin ra, đã phải đấu một vòng với mọi người và bị đánh chết. Trường hợp này, pháp luật không trừng trị nặng, vì coi đó là một tập quán trong văn hóa. Các đàn em sợ đàn anh hơn cha mẹ, với đàn anh thì bảo sao cũng nghe, không cần phán đoán đúng sai, còn ở nhà thì hay cãi lại cha mẹ... Hầu như không có chuyện đàn em đánh lại đàn anh, cũng không về mách gia đình hay kéo bạn bè tới trả thù, coi như chuyện trong câu lạc bộ là tự mình gánh trách nhiệm. Có điều, tuy vậy mà họ ít thù vặt và thù dai. Người Việt mà thấy bạn bè cãi nhau hay đánh nhau thường can gián ngay, còn chuyện ai phải ai trái không quan trọng, tính sau.

Các bà mẹ Nhật dạy cho con tính tự lập từ khi chúng mới biết đi. Bà mẹ đi trước, con đi sau, nếu con vấp ngã, kêu khóc, bà mẹ vẫn đứng phía trước chờ chứ không chạy lại đỡ như người Việt. Đứa bé khóc mãi không được mẹ lại đỡ đành đứng dậy đi theo. Cha mẹ chiều con và trẻ em Nhật được tự do, tự lập gần như Âu-Mỹ. Chúng tự quyết nhiều, khoảng 13, 15 tuổi là cha mẹ không được xâm phạm vào đời tư của chúng, không được truy hỏi thành tích học hành ở trường ra sao... Nhưng đôi khi vì chưa đủ trí khôn, chúng làm theo bản năng và bạn bè rủ rê, hay nhất là bị đứa lớn ăn hiếp bắt làm bậy, nên cũng gây ra nhiều tệ trạng, đến khi cha mẹ biết được thì đã trễ rồi.

Lạnh nhạt – Thân thiện?

Có nhiều người đã nhận xét là người Nhật "lạnh nhạt", có lẽ điều đó cũng đúng, nhưng chỉ đúng một nửa với hầu hết những người Nhật mới quen. Còn khi quen lâu thì họ sẽ vượt qua được ranh giới e dè, cởi bỏ được "mặt nạ" và tỏ ra thân thiện hơn.

Giữa thập niên 80, khi tôi lần đầu tiên tự đi thuê phòng ở một dãy nhà nhiều phòng cho thuê gọi là "a-pa-tồ" (apartment), theo tục lệ người Nhật là nên có chút quà mọn như một hộp bánh nhỏ hay khăn vải (người Nhật vốn tính sạch sẽ hay lau chùi nên họ hay tặng nhau món này)... để ra mắt những phòng bên cạnh. Tôi chuẩn bị quà và gõ cửa, tự giới thiệu là người Việt mới dọn tới, nhưng người trong phòng không mở, chỉ nói vọng ra "Thôi được rồi", hay "Không cần" làm tôi cũng hơi áy náy. Ở Nhật cũng có nhiều người hay đi từng nhà, gõ cửa quảng cáo giới thiệu hàng hay chiêu dụ về tôn giáo, nên nhiều nhà phải gắn cả bảng cự tuyệt để khỏi bị làm phiền. Người Nhật dù là đang ở nhà, cũng có thói quen đóng cửa, cài then bên trong để tránh bất trắc. Có lẽ lúc đầu họ cũng coi tôi như một kẻ làm phiền và thấy cũng chẳng có gì cần để tiếp xúc.

Vì nhà Nhật vách mỏng lắm, tôi lo sau này có con nhỏ làm ồn hay mình làm gì không đúng phong tục Nhật sợ bị họ qua kiếm chuyện. Nên nhân một lần đi làm về, tôi thấy hai ông ở mấy phòng bên cạnh đứng nói chuyện với nhau, tôi vội chào rồi vào nhà lấy quà ra và đưa tặng. Khi đó, mặt giáp mặt, hai ông có muốn cũng không thể lánh mặt nữa. Không biết họ nghĩ thế nào về hành động của tôi, nhưng thấy họ đổi thái độ, trở nên thật vui vẻ, cởi mở, và còn nói thêm rằng có gì cần cứ nói, họ sẵn sàng giúp. Như một số người đã nói, tôi nghiệm ra rằng, mình cũng cần kiên nhẫn, đợi dịp tốt để làm quen thì họ sẽ cởi mở hơn.

Tuy nhiên, người ngoại quốc sẽ rất ngạc nhiên khi thấy lần trước nhờ thì họ rất nhiệt tình giúp đỡ mà lần sau họ lạnh nhạt. Vấn đề là người Nhật sẵn lòng giúp đỡ, nhưng họ cũng quen tính tự lập, nên nếu nhờ lần thứ hai một việc tương tự thì họ cảm thấy không vui, không muốn giúp nữa mà muốn người nhờ vả hãy cố gắng tự lập.

Cứng rắn – Hay khóc?

Khi làm việc với người Nhật, ai cũng thấy là người Nhật rất trọng nguyên tắc, đến độ như khó tính và cứng rắn, nhưng mặt khác họ cũng dễ rung cảm với thiên nhiên và nhân tình nên hay khóc lắm, nhất là phụ nữ. Họ trọng kỷ luật, khi tham gia một tổ chức nào là họ tuân thủ mọi điều lệ một cách chặt chẽ. Nơi công cộng, họ luôn kiên nhẫn xếp hàng chứ không chen lên. Hình ảnh thường thấy nhất là các tiệm ăn đông khách, người Nhật sẵn sàng xếp hàng cả tiếng đồng hồ. Trong cuộc sống xã hội công nghiệp, họ thường cố gắng giữ đúng giờ, nhất là trong giao ước làm ăn.

Ai ở Nhật hơi lâu chắc cũng đã từng chứng kiến và thấy người Nhật rất dễ khóc. Như khi họ đến trọ nhà người ngoại quốc hay ngược lại có người ngoại quốc đến chơi vài ngày, khi chia tay thường thấy họ khóc. Khi người Việt tỵ nạn đến các trại tạm cư rải rác khắp nước Nhật, người địa phương thường niềm nở đến giúp đỡ, tặng quà, quần áo... và khi người tỵ nạn ra đi, dù có báo tin hay không, họ cũng tự động đến đưa tiễn và có một số người khóc. Một trường hợp khác nữa, chẳng may có người tỵ nạn bị bệnh qua đời, nếu là thân nhân của mình thì chắc là người Việt sẽ khóc, nhưng nếu chỉ là bạn bè thì cố gắng giúp đỡ an táng chứ hầu như không khóc, trong khi đó, nhiều nhân viên người Nhật chỉ mới quen biết vài tháng mà vẫn khóc, có khi cẩn thận mặc cả tang phục đến dự.

Làm việc có phương pháp, cần cù, cẩn thận, không ganh tỵ

Người Nhật chấp nhận khó khăn, phức tạp và rất kiên nhẫn học hỏi hay chịu đựng, cộng thêm với lối làm việc có phương pháp là bí quyết thành công của họ. Phức tạp như ngôn ngữ của họ, dùng tới 5 loại văn tự khác nhau là chữ Hán, Quốc Tự, Hiaragana, Katakana và La Tinh và có chữ Hán lên tới 20, 25 cách đọc. Làm việc phương pháp ở chỗ hội họp kỹ, nghiên cứu kỹ, phân công kỹ và làm việc kỹ. Đôi khi người ngoại quốc phải sốt ruột là sao họ chuẩn bị lâu thế, và rồi ai cũng phải ngạc nhiên khi bắt tay vào việc, họ làm nhanh thế và kỹ thế...

Các học sinh Nhật đều phải tập về lễ nhập học, nhất là lễ phát bằng tốt nghiệp từ trước. Ngay cả đối với người tỵ nạn Đông Dương ở các trung tâm xúc tiến định cư, khi học Nhật ngữ, Ban Điều Hành bao giờ cũng nói người đại diện viết diễn văn trước để dịch ra tiếng Nhật và tất cả họp tập mọi nghi thức trước một ngày. Khi chụp hình, nhiếp ảnh gia luôn sửa tư thế và chỉ cách để tay cho học sinh, nên chỗ nào cũng thấy hình chụp ngay ngắn, đồng nhất.

Có lần ở nhà thương phụ thuộc Đại Học Nichidai (日本大学, Nhật Bản Đại Học), vợ tôi thấy một bà Nhật làm công việc vệ sinh, khi đổ rác mà thấy bao rác đã dơ thì bà ta thay bao rác mới. Lần đó, sau khi thay bao rác xong, bà đã đi mấy bước mà vẫn còn quay lại ngó, thấy mép bao chưa được đẹp, bà ấy quay trở lại vuốt cho thật thẳng.

Quý bạn đi mua hàng ở Nhật, nhất là vào các cửa hiệu lớn sẽ thấy đúng "Khách là nhất!". Họ tiếp đãi rất ân cần, lịch sự, khách mua thì cám ơn thật nhiều, dù sau khi giở ra xem đủ thứ mà không mua thì cũng vui lòng cám ơn rồi sắp xếp lại chứ không có màn cự nự. Khi khách đưa trả tiền, nhân viên thường nhận bằng hai tay, rồi kẹp ở máy tính tiền để phòng trường hợp nhầm lẫn giữa tiền giấy 5.000 hay 10.000 Yen..., khi nhận cũng như khi thối lậi thường đếm hai lần, đưa tiền thối cũng bằng hai tay, thối xong mới cất tiền giấy của khách đi rồi chắp hai tay cúi chào. Trong giao dịch, lúc trao đổi danh thiếp, đôi khi cũng thấy họ đưa và nhận bằng hai tay, nhất là người có địa vị thấp hơn.

Thời sinh viên, thỉnh thoảng tôi ra "chợ người" ở gần ga Takadanobaba, quận Shinjuku để kiếm việc làm. Có lần làm chung với một thanh niên Nhật, anh ta không đi làm chính thức mà vẫn là thợ phụ như chúng tôi, lang thang ở khắp các công trường xây dựng, có gì làm nấy, sai gì làm nấy, thường là việc dọn dẹp. Một hôm đám sinh viên chúng tôi cùng anh ta được trao việc dọn đống ống chống bằng thép dùng đổ bê tông, mỗi ống nặng khoảng từ 8 đến 10 kg. Chúng tôi thấy đi xa, nên cứ từ từ đem từng ống một cho khỏi mệt, trong khi anh ta thì cứ ba ống một. Khi nhận việc xúc cát từ nguyên một xe cát chở tới, chúng tôi làm độ 30 phút là mệt lử mà mới xúc được độ 1/4 xe, anh ta nhào vào nói để anh ta làm, anh làm liền tay cũng độ 30 phút là hết chỗ còn lại. Khi ra về, mọi người xếp hàng lãnh bao thư, trong có 5.000 hay 6.000 Yen như nhau. Lần nào gặp anh tôi cũng thấy anh làm việc cật lực như thế, tay đầy vết xước mà không bao giờ thấy than mệt hay cằn nhằn chúng tôi sao tà tà thế.

Người Nhật làm việc đến xong chứ không lo canh giờ về và phải xong một cách hoàn mỹ chứ không thấy hết giờ thì làm vội qua loa, và họ rất ngạc nhiên khi thấy khi người Việt làm việc hay than "mệt rồi", không làm nữa. Hầu như không thấy người Nhật vừa làm việc vừa nói chuyện, vừa hút thuốc lá hay uống cà phê. Nói chung họ chủ trương làm chậm mà chắc, muốn sản phẩm luôn được hoàn mỹ, vượt hơn những thứ đã có.

Khi vào làm việc chung, người Nhật không hỏi lương nhau để xem việc mình làm và lương có tương xứng không, không có kiểu thấy nhiều thì yên lặng, thấy ít thì bất mãn hay làm tà tà và rất ít khi họ mượn tiền nhau.

Công chức thì ở đâu cũng "lè phè" hơn tư chức. Nhưng nhân viên hành chánh Nhật nói chung tiếp mọi người rất tử tế, không khác nhân viên một cơ sở thương mại là mấy, nói năng rất khiêm tốn, hầu như không bao giờ thấy họ hách dịch. Chỉ họa hoằn lắm mới thấy có cãi nhau ở Sở Ngoại Kiều (Sở Nhập Quốc, 入国管理局 = Nyukoku Kanrikyoku, Nhập Quốc Quản Lý Cục), thường người lớn tiếng là người ngoại quốc chứ không phải người Nhật. Nhân viên bưu điện làm việc còn tận tụy và chăm chỉ hơn nữa, trong nội bộ cũng luôn có đặt chỉ tiêu gia tăng hiệu suất, ngành này nay đang được dân doanh hóa.

Người ngoại quốc nghĩ gì về người Nhật?

Trong chương trình của CHTV - Tokyo No Sugao (東京の素顔 , Đông Kinh Tố Nhan, Mặt Thật Của Tokyo), phóng viên đã phỏng vấn một số người ngoại quốc, yêu cầu họ cho một lời (一言 = hitokoto, nhất ngôn) cảm nghĩ về Nhật. Cuộc phỏng vấn bất chợt và chớp nhoáng, đôi khi người trả lời nửa đùa, nửa thật, không thể hiện hết mọi sự kiện, nhưng cũng cho chúng ta vài nét khái lược.

- Một phụ nữ Đức: "Người Nhật thân thiện. Ở đây nhiều đồ điện, kỹ thuật quá, tôi muốn một cái gì tự nhiên, giản dị hơn".

- Một phụ nữ Canada: "Người Nhật rất lễ nghĩa. Ở đây ít công viên quá".

- Một phụ nữ Hoa Kỳ: "Ở đây an toàn. Còn cái xấu là ông chồng tôi, ông ta là người Nhật".

- Một đàn ông Hoa Kỳ: "Người Nhật không thân thiện với người ngoại quốc. Ở đây bất tiện vì ít bảng chỉ đường bằng tiếng Anh".

- Một phụ nữ Bỉ (Belgium): "Người đông quá, môi trường bị ô nhiễm, bị kẹt xẹ".

- Một đàn ông Trung Quốc: "Thuê nhà khó khăn, đòi hỏi người bảo lãnh... Sở Nhập Quốc gây khó khăn".

- Một đàn ông Việt Nam (tác giả): "Thuê nhà, cơ sở thương mại khó khăn, thường bị từ chối".

- Một phụ nữ Miến Điện: "Bị đối xử phân biệt".

- Một phụ nữ Lào: "Chỉ thích tiền Nhật."...

Những điều lạ đối với người ngoại quốc

Xin liệt kê 7 điều lạ nhất đối với người ngoại quốc:

1- Cởi giày khi vào nhà (họ đi dép nhẹ trong nhà vì ngày xưa phòng lót chiếu, nay nhà thường lót thảm, hay nhựa, gỗ... nhưng thay giày bằng dép riêng thì giữ cho nhà sạch hơn).

2- Lập tức cám ơn, xin lỗi (tiếp xúc với người Nhật ai cũng thấy họ luôn luôn cám ơn và rất sẵn sàng nhận lỗi, hơi phiền người khác một chút là xin lỗi ngay).

3- Ăn thức ăn sống như cá... (người Nhật ăn cá sống nhiều thứ nhì thế giới sau một nước ở Nam Mỹ).

4- Tặng quà Tết và Trung Nguyên (các cửa hàng lớn đều chưng các các hộp quà định sẵn, người mua chỉ việc trả tiền là quà tới tay người nhận).

5- Ăn mì hay soba húp xùm xụp (người Nhật nổi tiếng lịch sự, nhưng khi ăn mì nước, bún nước... thì họ húp kêu rất to, theo họ, ăn như vậy mới đã).

6- Cầu tiêu kiểu Nhật (nhiều khi vào không biết ngồi quay hướng nào, quay vào hay quay ra, thực ra là quay vào).

7- Không phải trả tiền típ/bo (nếu khách ngoại quốc trả típ sẽ làm họ bối rối, còn nếu tự ý bỏ lại, họ sẽ vội gọi báo cho khách là "để quên tiền".

Người Nhật ngày nay

Những điểm trình bày trên là một số cá tính căn bản của người Nhật, ngày nay vẫn còn và có thể thấy ở bất cứ người Nhật nào. Tuy nhiên, khi xã hội càng phát triển, Âu-Mỹ hóa càng nhiều, tự do càng nhiều thì cũng đã có nhiều sự thay đổi, dễ nhất nhất là ở giới trẻ.

Giới trẻ sống trong xã hội khá đầy đủ, không có chiến tranh, không bị luật lệ hay nhu cầu cấp thiết nào thúc bách, lại quá tự do, nên đôi khi họ sống theo bản năng, tùy tiện, bừa bãi, cá nhân chủ nghĩa nhiều hơn. Có khi tụ họp đi trộm cắp, ỷ đông uy hiếp cả người lớn... có khi mới khoảng 12 tới 15 tuổi đã giết người nữa mà chẳng có lý do chính đáng nào, khiến cả xã hội phải lo âu, ngỡ ngàng.

Trong một số trường hợp, bố mẹ hành hạ con cái, có khi bỏ đói... làm chết con. Có những kẻ thì chuyên đâm lén phụ nữ hay các em gái rồi chạy, đốt nhà, lợi dụng xe điện sờ mó phụ nữ, móc túi những người ngủ gật trên những chuyến xe đêm v.v... Dân chúng phải tổ chức đi tuần, phòng vệ nhiều hơn, các em nhỏ đi học phải mang máy báo động. Tỷ lệ phạm pháp gia tăng một cách đáng ngại. Trong cuộc sống cũng vậy, có khá nhiều trò lừa gạt qua hình thức tôn giáo cũng như thương mại... cứ có lợi là lắm kẻ nhào vào, bất chấp đạo đức, luật lệ. Thượng tầng chính quyền, tài giới, chính giới, quân đội cho tới cảnh sát cao cấp đều có những vụ ăn hối lộ lớn một cách hệ thống, trong khi ở hạ tầng lại tương đối trong sạch.

Nhật Bản vươn mạnh trong thập niên 60, 70 rồi qua thời kỳ đổ vỡ kinh tế bọt đầu thập niên 90 kéo dài tới khoảng 15 năm đến giữa thập niên đầu thế kỷ 21 là kết quả của tổng hợp những điểm mạnh và yếu của họ. Nhật Bản đang cần một cuộc cải cách lớn, sâu rộng về tư duy cũng như về cơ cấu.

Làm ăn với người Nhật

Nói chung, Nhật Bản có kỹ nghệ và kinh tế hàng đầu, sản phẩm cực tốt, được khắp nơi khen ngợi. Giao dịch làm ăn với họ cũng khá an tâm vì họ giữ lời, đúng hẹn. Nhưng trong thế giới giao dịch tài chính, những người nắm tài chính và làm ăn bạc tỷ, không phải chỉ là những đầu óc chân thật bình thường, mà có rất nhiều bàn tay "lem luốc" nhúng vào.

Thống kê về kinh tế Nhật Bản, như càng ngày càng thấy rõ, không phải chỉ là những con số tăng trưởng tốt đẹp. Sự tăng trưởng của những thập niên 70, 80 là có thật, nhưng cũng được giới tài phiệt như ngân hàng và địa ốc thổi phồng để đầu cơ và dẫn dụ người khác, cho đến khi nó xẹp vào đầu thập niên 90. Họ chạy theo "đầu cơ tài chính" (buôn bán chứng khoán và địa ốc) hơn là "đầu tư sản xuất" là sở trường vốn có. Từ đó đến nay, kinh tế Nhật đi xuống dốc không kìm hãm nổi. Chứng khoán Nikkei trung bình năm 2003 có lúc thấp nhất là 7.752 Yen, chỉ còn bằng chưa tới 1/5 của năm 1983 là 38.915 Yen.

Nói chung, Nhật Bản phải trả giá rất đắt cho sự giả tạo này, nhiều công ty và nhiều người bị lỗ nặng và phá sản, nhưng một số tay tài phiệt "ma qủy" đã moi được rất nhiều tiền của người khác và của chính công ty mình, không cần biết công ty đi về đâu, sẽ phá sản khi nào... Nhiều người thuộc loại này đã bị bắt, ngồi tù, những ai cũng biết số bị phanh phui chỉ là một phần nhỏ của tảng băng nổi trên mặt nước mà thôi.

Nhật Bản lại có "truyền thống" là khi các nhân viên cao cấp thuộc các bộ chính phủ về hưu thì đi làm "cố vấn" cho các đại công ty liên hệ. Mục đích là để kiếm tiền chia chác và dễ móc ngoặc. Thường những người này lương rất cao và tiền nghỉ việc ở công ty mới lại càng cao vô lý, gấp bội người thường, họ có thể lãnh vài chục triệu Yen sau khi "ngồi chơi" ở công ty vài năm! Các công ty này chỉ có thể làm ăn theo lối "đi đường tắt" mới có đủ tiền cung phụng cho các ông cố vấn như vậy. Cuối năm 2006, cùng lúc có tới ba Tỉnh Trưởng bị bắt vì nhận hối lộ của các công ty đấu thầu.

Người Nhật bình thường vẫn đôn hậu, tử tế, giữ lời hứa, làm ăn lương thiện, không đưa hoặc nhận hối lộ. Nếu đôi khi có những người ngoại quốc lừa lọc những người Nhật thật thà, thì cũng có một số người Nhật lợi dụng sự được tín nhiệm để lừa lọc người nước ngoài hay người Nhật khác. Nhất là dân làm ăn về dịch vụ, môi giới và người đi chào mời khách gọi là "mizu shobai" (水商売, thủy thương mại) thì chỉ có tiền là trên hết. Họ được học tập kỹ càng, nắm rõ tâm lý đối tượng, lừa có bài bản lắm. Nghe họ nói toàn những lời hay đẹp, nhiều người xuôi tai thò bút ký hay đóng dấu mà không đọc kỹ khế ước, bởi thực tế khế ước dài thòng, chữ li ti không mấy người đọc nổi. Lúc thực thi, không thấy họ làm những điều đã thỏa thuận, khi ấy mới coi lại khế ước thì đã muộn rồi. Nhà người Nhật thường đóng cửa và khóa, trước cửa nhiều nhà thường phải gắn bảng miễn tiếp loại người này.

Kẻ lừa lọc thường nhắm vào người già, vì vừa chậm chạp hoặc thiếu hiểu biết vừa có tiền. Nào là mua cổ phần trồng nấm "linh chi"... có lời lắm, thực ra thì cũng y như vụ "nước hoa Thanh Hương" hồi thập niên 80, "chim cút" đầu thập niên 70 ở Nam Việt Nam hay "cắc kè khô" ở ngoài Bắc Việt Nam khoảng thập niên 40.

Như giữa năm 2005, một công ty sửa chữa nhà cửa nhỏ chỉ có vài người, chuyên đến nhà người già nói là giúp kiểm tra miễn phí hộ xem có an toàn khi động đất không. Họ đánh vào tâm lý người Nhật là ai mà không lo sợ động đất. Sau khi xem xong, họ mới nói là nhà cũ rất nguy hiểm, cần tu bổ... Họ không chịu đi cho đến khi chủ nhà cả nể đồng ý, thế là làm khế ước từ 1 triệu đến 5 triệu Yen, trong khi thực tế có khi không cần sửa và thực chất họ làm chỉ tốn 1/10 hay 1/20 giá ghi. Có một ông già than họ đến nhà tôi tới 4 lần! Với lối làm ăn ma giáo này, trong một thời gian ngắn, họ thu vào vài chục tỷ Yen mới bị phanh phui và bị bắt!

Các công ty về máy điện toán, nối mạng truyền thông cũng vậy, thường cho nhân viên đến các cơ sở thương mại, nói xem giúp miễn phí về việc trang bị máy móc. Sau đó họ cho biết hệ thống đang dùng cũ rồi, nếu muốn nâng cấp thì hãy gắn thêm các thiết bị mới, sẽ nhanh hơn như cáp quang tới 100 lần (thực tế thường chỉ gấp 2, 3, khi hỏi tại sao thì họ nói tại đường dây ở đây xa trạm chính...), tiện lợi hơn, cước nối mạng gọi rẻ hơn... Thế là họ ra sức thuyết phục, có khi như ở lỳ không chịu đi. Thí dụ, mỗi tháng thay vì đang đóng 5.000 Yen, nay chỉ cần đóng thêm độ 5.000 Yen nữa, hay thuê bao cũ 5 năm, đã được 4 năm rồi thì cũng trả trên mức đó chút thôi, nhưng ký một khế ước thuê bao 5 năm mới. Khi khách hàng đã xuôi tai đồng ý, có khi lại lòi thêm ra những thứ khác... được tính riêng. Thế là suốt 5 năm trời, khách hàng è cổ trả tiền thuê bao (lease)!

Vì vậy, nên cảnh giác ít nhiều đối với giới người này. Đã có những công ty Việt Nam vì quá tin tưởng vào người Nhật sau mấy lần giao dịch, đã bán thủy sản gối đầu lấy tiền sau... bị họ quịt mất. Năm 2005, tòa xử phía Việt Nam thắng kiện và kẻ gian phải trả tiền, nhưng phía người Việt cũng đã phải rất vất vả từ Việt Nam qua theo đuổi kiện mấy năm trời. Tiền cũng chưa thu về ngay được, nên người Việt đi kiện tại Nhật không dám về Việt Nam vì sợ bị giết, vì lấy tiền đâu ra trả các nơi đã bán cá cho mình, mà rồi không có tư cách ở Nhật, ở quá hạn nên lại bị Sở Nhập Quốc bắt giam!

Cái tinh ma thâm độc của họ khác với cách xảo trá ngô nghê hay dối quanh của người Việt, nên lúc đầu rất khó nhận ra.

( theo: http://duhoc.viet-sse.vn/index.php?o...73&Item id=67)

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Quan hệ Việt -Nhật (1973-2010): Lịch sử và triển vọng

37 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – NHẬT BẢN (1973 – 2010)

Võ Minh Tập

Cao học, ĐHSP.TP.Hồ Chí Minh

Việt Nam và Nhật Bản là hai nước châu Á có nhiều nét tương đồng về địa lý tự nhiên và đời sống văn hóa - xã hội nên từ nhiều thế kỷ qua, đã có các mối quan hệ giao lưu, phát triển trên nhiều lĩnh vực. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày thiết lập chính thức quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam- Nhật Bản (21-9-1973 - 21-9-2010), bài viết sẽ phân tích khái quát tiến trình phát triển của mối quan hệ hợp tác về chính trị, kinh tế, văn hóa giữa hai nước, nhất là từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đến nay.

Quan hệ chính trị

Từ năm 1993 đến nay, đã có nhiều cuộc thăm chính thức lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước. Về phía Nhật Bản, Thủ tướng Nhật Bản và phái đoàn chính phủ chính thức sang thăm Việt Nam 5 lần. Đó là các chuyến thăm của Thủ tướng T.Mu-ra-y-a-ma (tháng 8-1994), Thủ tướng R.Ha-si-mô-tô (tháng 1-1997), Thủ tướng K.O-bu-chi (tháng 12-1998), Thủ tướng J.Côi-dư-mi (tháng 4-2002) và Thủ tướng S.A-bê (tháng 11-2006). Hoàng tử Nhật Bản K. A-ki-si-no cũng đã thăm Việt Nam (tháng 6-1999). Kể từ chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tháng 3-1993), hằng năm liên tục có các chuyến thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước.

Về phía Việt Nam, đó là chuyến thăm của các đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười (tháng 4-1995); Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-1999; tháng 6-2001, tháng 4-2003, tháng 12-2003, tháng 6-2004 và tháng 7-2005); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 5-2002); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (tháng 10-2002).v.v..

Sau các chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản J.Côi-dư-mi (tháng 4-2002) và chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh (tháng 10-2002), quan hệ giữa hai nước đã được nâng lên một nấc thang mới với tinh thần: "Cùng hành động, cùng tiến bước, thúc đẩy quan hệ ổn định lâu dài và tin cậy lẫn nhau". Năm 2004, hai nước ký Tuyên bố chung vươn tới tầm cao mới của quan hệ đối tác bền vững. Tháng 10-2006, sau chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. Hai bên cũng quyết định tiến hành cuộc Đối thoại Đối tác Chiến lược Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất vào tháng 12 năm 2010 nhằm thảo luận một cách toàn diện về các vấn đề chính trị, ngoại giao, quốc phòng và an ninh. Đối thoại trên đã đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định và phồn vinh trong khu vực.

Chuyến thăm của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 11-2007 là chuyến thăm Nhật Bản lần đầu tiên của Nguyên thủ Nhà nước Việt Nam kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973. Sự kiện quan trọng và có ý nghĩa to lớn này đã tạo động lực mới, bước phát triển mới, củng cố sự tin cậy và mở rộng quan hệ giữa hai nước. Với quyết tâm thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và tân Thủ tướng Nhật Bản Y. Phư-cư-đa đã ký Tuyên bố chung và thông qua "Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Nhật Bản".

Trong những năm qua, Việt Nam và Nhật Bản đã tạo dựng và liên tục phát triển cơ chế đối thoại ở nhiều cấp trong các hoạt động ngoại giao chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác. Đồng thời, các hoạt động giao lưu hợp tác giữa các ngành, địa phương và các tổ chức kinh tế - xã hội cũng không ngừng được mở rộng. Nhờ đó, các mối quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - kỹ thuật... giữa hai nước ngày càng phát triển mạnh hơn.

Đến nay, Nhật Bản luôn là nước tích cực ủng hộ công cuộc đổi mới của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới; vận động Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) giúp Việt Nam về kỹ thuật, các ngân hàng, các quỹ tài chính quốc tế, khu vực tài trợ cho công cuộc tái thiết đất nước Việt Nam sau chiến tranh. Nhật Bản luôn coi trọng quan hệ hợp tác toàn diện và tin cậy vào đối tác Việt Nam, mong muốn Việt Nam ủng hộ Nhật Bản trở thành ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc...

Quan hệ kinh tế

Tháng 11-1992, Chính phủ Nhật Bản là nước phát triển đầu tiên tuyên bố nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Cũng kể từ thời điểm này, Nhật Bản luôn là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực thương mại, du lịch, đầu tư, viện trợ phát triển...

Hợp tác thương mại

Trong gần hai thập niên qua, Nhật Bản luôn là bạn hàng và là thị trường lớn nhất của Việt Nam. Những năm gần đây, do tương quan cạnh tranh giữa các đối tác thay đổi nên Nhật Bản đứng ở vị trí thứ 2 hoặc thứ 3, sau Trung Quốc từ năm 2005 và sau cả Mỹ từ năm 2006.

Trong 5 năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hằng năm giữa hai nước luôn ở mức từ 5 tỉ đến 9 tỉ USD, chiếm tỷ trọng khoảng 14% - 16% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với tất cả các nước khác trên thế giới. Đáng lưu ý, kim ngạch xuất khẩu của ta sang Nhật Bản luôn tăng trưởng với tốc độ cao, trung bình từ 15% - 20% và từ nhiều năm qua Việt Nam là nước xuất siêu sang Nhật Bản. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 12,5 tỉ USD, tăng 26,1% so với năm 2006. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt khoảng 6,5 tỉ USD, tăng 16,7% so với năm 2006. Trong quan hệ thương mại với Nhật Bản năm 2007, Việt Nam vẫn đạt thặng dư thương mại với hơn 500 triệu USD. Việt Nam có khả năng xuất khẩu khá nhiều mặt hàng như dầu thô, nông sản, thủy sản, đồ gỗ, may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ... Ngược lại, Nhật Bản cung cấp cho ta máy móc, thiết bị điện, sản phẩm công nghệ cao, sắt thép, hóa chất...

Các hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của cả hai nước, đặc biệt là đối với Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, so với nhu cầu và tiềm năng phát triển, quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn chưa được khai thác triệt để. Trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản, hàng hóa Việt Nam đến nay vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ bé chưa đến 1%, trong khi đó tỷ trọng của Trung Quốc hơn 13%, Thái Lan và Ma-lai-xi-a gần 3%... Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản còn đơn điệu, chủ yếu là nguyên liệu thô và sản phẩm mới qua sơ chế (trên 50%). Nhật Bản đã và đang dành cho Việt Nam chế độ ưu đãi thuế quan GSP; tuy nhiên, hàng Việt Nam vào thị trường Nhật Bản vẫn hay gặp phải khó khăn là hệ thống kiểm tra phi thuế quan chặt chẽ, đặc biệt là các quy định khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh, kiểm dịch. Trong quan hệ song phương hai nước đã dành cho nhau ưu đãi MFN về thuế, song khó khăn lớn nhất hiện nay đối với Việt Nam là phía Nhật Bản vẫn chưa ký kết Hiệp định Thương mại tự do. Khó khăn này đang được cả hai bên nỗ lực giải quyết. Trong tương lai không xa, hai nước Việt Nam - Nhật Bản sẽ chính thức ký kết một Hiệp định song phương đối tác kinh tế toàn diện (VJEPA), và do đó sẽ hoàn tất ký kết một Hiệp định song phương thương mại tự do Việt Nam - Nhật Bản (VJFTA). Khi đó, chắc chắn sẽ càng tạo cơ hội và động lực cho sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai nước. Hy vọng mục tiêu đạt 15 tỉ USD trong kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Nhật Bản như các nhà hoạch định chính sách và giải pháp phát triển thương mại của cả hai nước đã đề ra cho năm 2010 sẽ trở thành hiện thực.

Hợp tác du lịch

Hơn thập niên qua, lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Năm 1990, có khoảng 1.390 lượt khách Nhật Bản du lịch Việt Nam, nhưng đến năm 2005 con số đó đã đạt tới 338.509 lượt... Năm 2007, trong bảng Top 10 quốc gia và vùng lãnh thổ có nhiều khách du lịch đến Việt Nam, Nhật Bản giữ ở vị trí thứ 2. Liên tục từ năm 2000 đến nay, Nhật Bản luôn nằm trong danh sách 5 thị trường gửi khách lớn nhất nước ta và đã trở thành thị trường khách nước ngoài hàng đầu của du lịch Việt Nam về hiệu quả kinh tế, chỉ đứng sau Trung Quốc về lượng khách.

Tuy nhiên, theo thông báo mới đây của Tổng cục Du lịch, trong 5 tháng đầu năm nay, có khoảng 169.640 lượt du khách Nhật Bản đến Việt Nam, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Đây là động thái trái ngược với 4 năm trước đó khi lượng du khách Nhật Bản tăng đều đặn với tốc độ 27,5% trong năm 2004, 20% trong năm 2005, 13,4% trong năm 2006 và 9% trong 2007.

Nguyên nhân của tình hình trên chủ yếu do kinh tế Nhật Bản đang trong tình trạng suy thoái chung toàn cầu nên nhiều người Nhật phải tiết kiệm chi tiêu. Mặt khác, do phía Việt Nam còn có những khiếm khuyết trong công tác tiếp thị, quảng bá du lịch và nhất là do chi phí cho các tour du lịch tại Việt Nam tiếp tục gia tăng, do vậy đã không khuyến khích khách Nhật đến Việt Nam.

Tiềm năng và triển vọng của thị trường khách Nhật Bản du lịch vào Việt Nam còn rất lớn. Hằng năm, du khách Nhật Bản có nhu cầu du lịch nước ngoài lên tới 17 triệu - 18 triệu người, riêng đối với khu vực ASEAN là khoảng 3,7 triệu - 4 triệu người. Trong số đó, du khách Nhật Bản đến Việt Nam mới chỉ trên dưới 0,3 triệu người. Điều này chứng tỏ, thị trường Nhật Bản là tiềm năng rất lớn nếu ngành du lịch Việt Nam tập trung mọi nỗ lực để khai thác.

Một trong những giải pháp quan trọng đang được phía ngành du lịch Việt Nam xúc tiến đó là khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản thành lập các công ty liên doanh du lịch giữa hai nước. Ngoài ra du lịch Việt Nam còn phối hợp với ngành thông tin - văn hóa và với nhiều cơ quan hữu quan khác của Việt Nam... để tăng cường nhiều hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam tại thị trường Nhật Bản. Hy vọng, mục tiêu đón 500.000 lượt du khách Nhật Bản/năm vào năm 2008 - 2009 và đón 1 triệu lượt khách Nhật Bản vào năm 2010 có thể trở thành hiện thực.

Hợp tác đầu tư (FDI)

Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản (JDI) đã vào Việt Nam kể từ năm 1993, khi các tổ chức quốc tế nối lại việc cung cấp ODA cho Việt Nam (với nguồn cung cấp ODA lớn nhất là từ Nhật Bản). Tính đến cuối tháng 5-2002, Nhật Bản là nước đứng thứ 3 trong số các nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số 386 dự án được cấp phép, vốn đăng ký đạt 4,3 tỉ USD. Tuy đứng thứ 3 (sau Đài Loan và Xin-ga-po) về vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam, nhưng Nhật Bản lại đứng đầu về vốn thực hiện (đạt 3,04 tỉ USD). Do đó, xét thực chất đầu tư, ngay từ năm 2002, Nhật Bản đã ở vị trí số 1 tại Việt Nam và do đó đã có nhiều đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và của cả hai nước.

Nguyên nhân cơ bản khiến nhiều nhà đầu tư Nhật Bản chọn Việt Nam làm địa điểm đầu tư là vì Việt Nam có thể chế chính trị - xã hội ổn định, nhịp độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cao, lao động dồi dào, giá rẻ, có nhiều điểm tương đồng về văn hóa và có quan hệ hợp tác phát triển từ nhiều năm qua... Chính vì thế, sau khi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới ban hành của Việt Nam đã có hiệu lực thực thi kể từ ngày 1-7-2006, đồng thời với việc chính phủ hai nước tiếp tục thực hiện giai đoạn 3 của Chương trình hành động "Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản" về cải thiện môi trường đầu tư đã khiến làn sóng đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam càng trở nên sôi động. Đó cũng là lý do chính khiến năm 2006 là năm đột phá, đánh dấu bước chuyển lớn về đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam (có tới 160 dự án, với số vốn đầu tư đăng ký lên đến hơn 1,5 tỉ USD). Tổng số dự án còn hiệu lực của Nhật Bản tại Việt Nam tính đến hết tháng 12-2007 là 928 dự án với tổng vốn đầu tư là 9,03 tỉ USD. Tuy về lượng giá trị tuyệt đối không bằng so với tổng vốn đầu tư của Hàn Quốc, Xin-ga-po và Đài Loan đều trên 10 tỉ USD, nhưng nếu xét về vốn đã thực hiện có hiệu quả thì tổng vốn đầu tư của Nhật Bản lên tới gần 5 tỉ USD, vượt xa các đối tác khác.

Gần đây, theo điều tra hằng năm của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tiến hành trên 1.745 doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại châu Á, Việt Nam được đánh giá rất cao về triển vọng đầu tư cả trung và dài hạn. Về trung hạn, có 92,6% số doanh nghiệp sản xuất và 88% số doanh nghiệp dịch vụ dự định mở rộng kinh doanh tại Việt Nam trong vòng 1 - 2 năm tới. Về dài hạn, trong vòng 5 - 10 năm tới, Việt Nam được các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá là địa điểm sản xuất tốt nhất ở châu á. Phát biểu tại Hội thảo toàn cầu của Liên đoàn Hiệp hội quản lý Nhật Bản lần thứ 9 tổ chức ở Hà Nội ngày 3-7-2008, ông Yo-si-ô To-mi-xa-ka, Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên đoàn Hiệp hội quản lý Nhật Bản (JMA Group) cho rằng, Việt Nam đã gia nhập WTO, thị trường Việt Nam đang có tiềm năng rộng mở với chi phí lao động thấp, ổn định về chính trị... Đây là những điều quan trọng đối với doanh nghiệp Nhật Bản. Các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ đến Việt Nam rất nhiều trong thời gian tới.

Tuy nhiên, hiện nay không ít nhà đầu tư nước ngoài, kể cả của Nhật Bản vẫn còn băn khoăn là liệu môi trường đầu tư của Việt Nam có ổn định lâu dài và nhất là một số hạn chế, bất cập lâu nay tồn đọng có nhanh chóng được tháo gỡ như: kết cấu hạ tầng của nhiều địa phương, địa bàn đầu tư quá yếu kém, thủ tục hành chính còn cồng kềnh, phiền hà, trong khi đó giá cả thuê đất, văn phòng, nhà xưởng, một số dịch vụ kèm theo cần thiết khác lại quá đắt so với tương quan chung khu vực... Những băn khoăn này đã được nhiều doanh nhân Nhật Bản trao đổi và đề nghị tại một số cuộc hội thảo về đầu tư vào Việt Nam đã được tổ chức tại Tô-ky-ô ngày 20-2-2006; tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (Hà Nội, 6-6-2006); tại Hội khảo kinh tế Việt Nam - Nhật Bản và Lễ ra mắt Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - Nhật Bản (Hà Nội, 21-8-2006); tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ (Hà Nội, 2-6-2008).

Trên thực tế, để tiếp tục tháo gỡ những trở ngại đó, hiện nay cả hai phía Việt Nam và Nhật Bản đều đang tích cực triển khai giai đoạn 3 của Chương trình hành động "Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản" về cải thiện môi trường đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam.

Hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản

Nhật Bản là nước đã tích cực hỗ trợ phát triển tài chính để góp phần khai thông mối quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt vào cuối năm 1992. Từ đó đến nay, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản còn gặp nhiều khó khăn, nhưng Chính phủ Nhật Bản luôn là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm 40% tổng nguồn ODA của các nước và các tổ chức quốc tế cung cấp cho Việt Nam. Tính đến cuối năm 2005, tổng số ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã xấp xỉ 10,5 tỉ USD, trong đó trên 10% là viện trợ không hoàn lại, phần còn lại là các khoản tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp và thời gian tài trợ dài. Tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) những năm qua, Nhật Bản đều tiếp tục khẳng định vị trí là nhà tài trợ đứng đầu ở Việt Nam. Vì thế, ODA của Nhật Bản trong năm 2006 cho nước ta đã đạt mức cao, trị giá 835,6 triệu USD. Năm 2007, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng, đạt 1,1 tỉ USD/năm trong khi ODA của Nhật Bản dành cho quốc tế nói chung đã giảm. Năm 2008, mặc dù trong bối cảnh khó khăn suy thoái chung của kinh tế thế giới và khu vực, trong đó Nhật Bản còn đang gặp nhiều khó khăn, thách thức cả về chính trị, kinh tế và xã hội, song Chính phủ Nhật Bản vẫn cam kết tiếp tục ưu tiên vốn ODA dành cho Việt Nam là 94.353 triệu yên (khoảng 994 triệu USD). Năm 2009, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đã đạt 155 tỷ yên, cao nhất từ trước đến nay. Khoản vốn vay này sẽ được đầu tư cho 6 dự án lớn: Xây dựng đường tàu điện ở Thủ đô Hà Nội; Đường vành đai 3 Hà Nội; Đường tàu cao tốc từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Dầu Giây; Cải thiện môi trường nước Thành phố Hồ Chí Minh, Cải thiện môi trường nước ở thành phố Huế; và Dự án xây dựng mạng lưới truyền tải điện.

Thông qua các nguồn ODA, Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng nhiều công trình hạ tầng kinh tế - xã hội như: khôi phục Bệnh viện Chợ Rẫy (Thành phố Hồ Chí Minh), xây dựng Cảng cá Cát Lở (Vũng Tàu), nâng cấp Bệnh viện Bạch Mai, xây dựng hệ thống cấp nước ở Gia Lâm (Hà Nội) và Hải Dương, xây dựng các cầu nhỏ ở nông thôn, và hơn 200 trường tiểu học ở vùng bão, nâng cấp và xây dựng nhiều công trình như: quốc lộ 5, quốc lộ 18, quốc lộ 10, các cầu trên quốc lộ 1, Nhà máy nhiệt điện Phả Lại 2, Phú Mỹ 1, Nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi, đại lộ Đông - Tây (Thành phố Hồ Chí Minh), cầu Bãi Cháy (Quảng Ninh), cầu Thuận Kiều (Hải Phòng), cầu Thanh Trì (Hà Nội), đường hầm xuyên đèo Hải Vân v.v.. Đáng lưu ý, cầu Bãi Cháy hiện đang là cầu lớn và hiện đại nhất không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Đông - Nam Á, và là một trong 5 cầu hiện đại nhất thế giới.

Hiện nay, Nhật đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng các dự án: Dự án Sân bay quốc tế Long Thành, Dự án đường cao tốc đoạn Ninh Bình - Bãi Vọt, đường cao tốc Nha Trang-Phan Thiết, và các dự án tuyến đường tàu điện ngầm mới của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.như đường cao tốc Bắc-Nam, Khu công nghệ cao Hòa Lạc, nghiên cứu khả thi hai đoạn đường sắt cao tốc: Hồ Chí Minh - Nha Trang và Hà Nội – Vinh, Dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi, hỗ trợ Dự án Sân bay quốc tế Long Thành, Dự án đường cao tốc đoạn Ninh Bình - Bãi Vọt, đường cao tốc Nha Trang-Phan Thiết, và các dự án tuyến đường tàu điện ngầm mới của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Về việc phát triển nguồn nhân lực, công tác giáo dục - đào tạo và thúc đẩy các hoạt động giao lưu văn hóa của Việt Nam đã được Chính phủ Nhật Bản hỗ trợ tích cực. Hằng năm, thông qua nguồn ODA từ nhiều quỹ tài chính khác nhau, Nhật Bản đã cung cấp một số lượng đáng kể học bổng để đào tạo đại học và sau đại học cho các sinh viên và cán bộ khoa học - kỹ thuật của Việt Nam. Một số lượng lớn chuyên gia và tình nguyện viên Nhật Bản hiện đang hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo.

Thông qua ODA, Nhật Bản còn hỗ trợ Việt Nam với nhiều sáng kiến hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, ASEM, tiểu vùng Mê Công mở rộng...

Về năng lượng, phát triển tài nguyên thiên nhiên và biến đổi khí hậu

Từ các quan điểm an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường toàn cầu, hai bên công nhận tầm quan trọng của hợp tác trong lĩnh vực sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình. Hai bên sẽ tăng cường hợp tác song phương trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân và đưa quan hệ hợp tác này lên một tầm cao mới bao gồm cả phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình với nhận thức về sự cần thiết bảo đảm không phổ biến hạt nhân, bảo đảm an toàn và an ninh hạt nhân phù hợp với những qui định của các Điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam và Nhật Bản là thành viên. Hai bên hoan nghênh việc kết thúc thành công cuộc đàm phán trên nguyên tắc về nội dung của Hiệp định Việt Nam - Nhật Bản sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình.

Chính phủ Việt Nam đã quyết định chọn Nhật Bản là đối tác hợp tác xây dựng 2 lò phản ứng hạt nhân tại địa điểm nhà máy điện hạt nhân thứ 2 thuộc tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam, sự hợp tác của Nhật Bản trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, than, dầu và khí tự nhiên, dự trữ dầu, điện, bảo tồn và tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng sạch và ICT. Hai bên khẳng định hai nước sẽ thúc đẩy hợp tác để phát triển ngành công nghiệp đất hiếm ở Việt Nam, dưới hình thức phối hợp khảo sát địa chất, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường nhằm phát triển nguồn tài nguyên bền vững và chương trình nghiên cứu và phát triển chung trên cơ sở giữa hai Chính phủ.

Sự hợp tác hiện nay giữa hai nước trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, như hợp tác liên quan tới rừng, xây dựng các công trình hạ tầng ứng phó với nước biển dâng…sử dụng công nghệ tiên tiến liên quan tới bảo tồn năng lượng, phát triển năng lượng sạch và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực công nghiệp và các lĩnh vực khác là điều quan trọng chủ yếu trong việc tạo ra tính tương hợp giữa môi trường và nền kinh tế cũng như trong việc giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu đồng thời đạt được sự tăng trưởng bền vững. Hai bên nhất trí giao các Bộ ngành liên quan của hai nước trao đổi ý kiến để thực hiện các mục tiêu trên, bao gồm khả năng thành lập một cơ chế tín dụng bù trừ song phương.

Về hợp tác khoa học và kỹ thuật

Hai bên nhắc lại và hoan nghênh kết quả đạt được của cuộc họp Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - Nhật Bản về Khoa học và Kỹ thuật được tổ chức tại Hà Nội ngày 19 tháng 6 năm 2009.

Phía Việt Nam hoan nghênh các nỗ lực của Nhật Bản nhằm thúc đẩy hợp tác song phương về vũ trụ.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Nhật Bản xem xét khả năng thiết lập một trường Đại học chất lượng cao tại Việt Nam, và bày tỏ tin tưởng rằng đây sẽ là nội dung hợp tác thiết thực và có ý nghĩa đặc biệt đối với quan hệ Việt Nam - Nhật Bản về lâu dài. Phía Nhật Bản bày tỏ ý định sẽ xem xét đề nghị trên của phía Việt Nam.

Về hợp tác khu vực và quốc tế

Hai bên hài lòng nhận thấy quan hệ và hợp tác giữa Nhật Bản và các nước khu vực sông Mê Công trong mấy năm qua đã đạt được tiến triển đáng kể trong nhiều lĩnh vực như chính trị và kinh tế, đóng góp thiết thực cho hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực.

Hai bên hoan nghênh kết quả Hội nghị Cấp cao Mê Công-Nhật Bản lần thứ hai tổ chức vào ngày 29 tháng 10 năm 2010, ghi nhận kết quả đáng kể trong việc triển khai “Kế hoạch Hành động 63 Mê Công-Nhật Bản” và những sáng kiến khác do các nước khu vực sông Mê Công đề xuất. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao Sáng kiến “Một Thập kỷ hướng tới Mê Công xanh” và “Chương trình Hành động Sáng kiến Hợp tác Kinh tế Công nghiệp Mê Công-Nhật Bản”, bày tỏ hy vọng những sáng kiến này sẽ được thực hiện có hiệu quả.

Hai bên chia sẻ nhận thức về tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác giải quyết các thách thức khu vực và quốc tế. Thủ tướng Na-ô-tô Can ca ngợi vai trò xây dựng của Việt Nam với tư cách Chủ tịch ASEAN 2010. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao vai trò của Nhật Bản với tư cách Chủ tịch APEC 2010 và khẳng định rằng Việt Nam sẽ hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản để đảm bảo thành công của Hội nghị các Nhà lãnh đạo Kinh tế APEC lần thứ 18 vào tháng 11 năm 2010.

Hai bên nhấn mạnh lại tầm quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ nhằm thúc đẩy hơn nữa những khuôn khổ khu vực hiện có như ASEAN-Nhật, ASEAN+3 và Hội nghị Cấp cao Đông Á; tái khẳng định quyết tâm thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực cùng quan tâm; khuyến khích các nỗ lực hội nhập khu vực tại Đông Á, trong đó bao gồm các nghiên cứu về Quan hệ Đối tác Kinh tế Toàn diện ở Đông Á (CEPEA) và sự đóng góp hiệu quả của Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN - Đông Á (ERIA).

Hai bên khẳng định quyết tâm thúc đẩy hợp tác nhằm sớm cải tổ Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trong đó bao gồm việc mở rộng thành viên thường trực và không thường trực, để tăng tính đại diện, tính chính đáng, hiệu quả và khả năng đáp ứng thực tế của tổ chức này đối với cộng đồng quốc tế trong thế kỉ 21. Phía Việt Nam khẳng định lại việc Việt Nam ủng hộ Nhật Bản trở thành Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Hai bên khẳng định lại sự ủng hộ đối với việc phi hạt nhân hóa hoàn toàn và có thể kiểm chứng trên Bán đảo Triều Tiên, phù hợp với Tuyên bố chung tháng 9 năm 2005 của đàm phán 6 bên và các Nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế về vấn đề nhân đạo.

Hai bên bày tỏ sự hài lòng đối với kết quả chuyến thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên của Thủ tướng Na-ô-tô Can và cho rằng chuyến thăm đã mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Triển vọng phát triển

Tuy còn có những hạn chế, bất cập trong từng lĩnh vực hợp tác cụ thể, song nhìn lại toàn bộ chặng đường phát triển quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 35 năm qua, sự tiến triển này ngày càng khả quan hơn.

Hướng tới kỷ niệm trọng thể 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, nhiều hoạt động kỷ niệm phong phú như trao đổi đoàn các cấp, các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa, thương mại, đầu tư, du lịch giữa hai nước đã được tổ chức tại Việt Nam và Nhật Bản. Đặc biệt mới đây, Đại nhạc hội Việt Nam - Nhật Bản với tên gọi "Giấc mơ về một nền hòa bình" đã diễn ra thành công tốt đẹp tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong hai đêm 24 và 26-5-2008. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ song phương, có một chương trình âm nhạc lớn được dàn dựng trọng thể và rất công phu tại Việt Nam với sự tham dự của nhiều ca sĩ Nhật Bản nổi tiếng; và cũng là lần đầu tiên nhiều ca sĩ tên tuổi của Việt Nam đã được giới thiệu tới công chúng Nhật Bản qua các kênh truyền hình trung ương của cả hai nước, được đông đảo công chúng hoan nghênh...

Vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay và triển vọng cho cả hai nước là làm thế nào tiếp tục nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của quan hệ hợp tác phát triển toàn diện về nhiều lĩnh vực sao cho phù hợp với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu phát triển thực tiễn của cả hai nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa; vừa hợp tác vừa cạnh tranh đang diễn ra mạnh mẽ, sôi động. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho không chỉ của các vị lãnh đạo cấp cao, các nhà quản lý, các cơ quan chức năng liên quan, mà còn của các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách và giải pháp hợp tác phát triển giữa hai nước. Thiết nghĩ, nước ta cần chủ động xây dựng một chiến lược hợp tác phát triển toàn diện dài hạn với Nhật Bản từ nay đến năm 2020, trước hết là phối hợp cùng với phía Nhật Bản thúc đẩy nhanh việc sớm ký kết VJEPA, và coi Nhật Bản là một trong số không nhiều những đối tác quan trọng hàng đầu mà hiện nay chúng ta đang có quan hệ hợp tác phát triển.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay