nguoivosu

Quan Niệm Về Sống Và Chết

2 bài viết trong chủ đề này

Nghiên Cứu Phật Học - Phật Học Tổng Quát

Viết bởi Nguyên Hiệp

Hầu hết mọi hệ thống tư tưởng, chính trị và triết học chỉ giải quyết vấn đề con người khi sống. Như Khổng Tử nói, “Sống còn chưa biết, làm thế nào biết được chết?”

Hầu hết mọi hệ thống tư tưởng, chính trị và triết học chỉ giải quyết vấn đề con người khi sống. Như Khổng Tử nói, “Sống còn chưa biết, làm thế nào biết được chết?” Từ quan niệm này nên người ta thường cho rằng quan tâm đến những vấn đề liên quan đến con người khi còn sống thì quan trọng và thực tiễn hơn là quan tâm đến những vấn đề về con người sau khi chết. Tuy nhiên, cách trả lời này đã né tránh câu hỏi làm nhiều người thắc mắc là: “Sự thật về cái chết và điều gì sẽ xảy ra sau khi chết?” Thực ra, nếu chúng ta hiểu được những gì xảy ra sau khi chết thì thái độ của chúng ta đối với cuộc sống sẽ có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.

Cần lưu ý là Khổng Tử không nói rằng chết là tận diệt, là hết; ông cũng không nói rằng không có một đời sống tương lai sau khi chết. Đơn giản ông chỉ muốn nói: sống làm một con người có khuôn phép, có đạo đức thì quan trọng hơn đặt câu hỏi về bản chất của đời sống sau khi chết. Tuy thế, hầu hết các tôn giáo đều có lời dạy về cuộc sống sau khi chết. Có hai học thuyết đề cập đến cái chết có ảnh hưởng trong số các tôn giáo trên thế giới: một là học thuyết một đời sống và học thuyết khác là học thuyết nhiều đời sống. Thiên Chúa giáo là một trong các tôn giáo giảng dạy về học thuyết một đời sống. Theo học thuyết này thì cuộc sống của thân thể vật lý bắt đầu tại lúc được sinh ra, nhưng cũng có một thực thể tâm linh được gọi là “linh hồn” cư ngụ trong thể xác đó. Chết là sự hủy bỏ xác thân, nhưng linh hồn thì không. Sau khi chết, linh hồn tùy thuộc vào sự phán xét của đấng Tạo hóa, hoặc sẽ được lên thiên đường, hoặc sẽ bị đọa xuống địa ngục. Điều này hàm ý rằng, mỗi người chỉ có một cuộc sống trên trái đất và sau đó sẽ tồn tại vĩnh cữu hoặc đầy ân phúc trên thiên đường, hoặc chịu khổ đau ở trong địa ngục, hoàn toàn không có cơ may thoát khỏi. Hàm ý này có trình bày một sự hiểu biết trọn vẹn về lời dạy của Thiên chúa hay không thì chưa rõ. Rất có thể Chúa có nhiều điều để thuyết giảng về việc sống chết nhưng ngài không có thời gian để mang đến cho môn đồ của mình một trình độ hiểu biết cao hơn.

Học thuyết về nhiều đời sống cho rằng, sự sinh ra và chết đi của một chúng sinh chỉ là một khoen trong chuỗi mắt xích vô số kiếp sống của chúng sinh đó. Trong nhiều kiếp sống khác nhau, chúng sanh đã đi lang thang trong sáu cảnh giới hiện hữu: cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, cõi ngạ qủy, cõi súc sinh và cõi địa ngục. Sau khi chết, con người sẽ tái sinh vào một trong các cảnh giới này. Người ấy có thể tái sanh trở lại làm người, nhưng cũng có thể làm một vị thiên, súc sanh, a-tu-la hay một chúng sanh trong cõi địa ngục. Sự thay đổi hình thức đời sống hay sự hiện hữu tiếp diễn không hạn định mãi đến khi nào chuỗi mắt xích này bị phá bỏ. Điều này mỗi khi xảy ra thì khái niệm sanh tử không còn ý nghĩa đối với người đó nữa.

Ấn Độ giáo và Phật giáo thừa nhận học thuyết nhiều đời sống này, nhưng có một sự khác biệt tương đối lớn trong quan điểm của họ về sự phá vỡ chuỗi mắt xích. Ấn Độ giáo giữ vững niềm tin rằng vấn đề sanh tử trở nên vô nghĩa khi con người thể nhập với Brahman - Phạm thiên toàn năng. Phật giáo cho rằng con người giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khi đạt được giác ngộ.

Để hiểu được quan niệm của Phật giáo, trước hết chúng ta phải hiểu rằng Phật giáo giải thích vấn đề này ở hai tầm mức. Thứ nhất là tầm mức giác ngộ, đó là lúc mà chân lý tối hậu được chứng nghiệm. Và thứ hai là tầm mức thế tục, tức là ở tầm mức hiểu biết thông thường.

Ở tầm mức giác ngộ, khái niệm về sống và chết không còn được bàn đến nữa. Tôi sẽ giải thích điều này sau. Tuy nhiên, ở tầm mức thế tục, Phật giáo tin vào học thuyết nhiều đời sống và thừa nhận dòng tâm thức của một chúng sanh. Trong trường hợp này, dòng tâm thức có thể tạm so sánh với Linh hồn trong Thiên Chúa giáo và Tự ngã trong Ấn Độ giáo. Trong Phật giáo, tâm thức của một chúng sanh được miêu tả như một dòng suối, trong đó, một khoảnh khắc sau được tạo ra bởi một khoảnh khắc trước. Xin đưa ra thí dụ về xâu chuỗi hạt. Sự di chuyển mỗi hạt chuỗi quyết định sự di chuyển của hạt chuỗi kế tiếp. Tuy nhiên điều quan trọng là những hạt chuỗi này được liên kết lại với nhau bằng một sợi dây; không có một thực thể vĩnh cữu vượt ra khỏi con đường nhân quả.

Như vậy trong Phật giáo, sự tiếp nối của sinh mạng không có nghĩa là thân thể vật lý được chuyển tiếp vào đời sống kế tiếp, hay mọi thứ chứa trong bộ não của con người (nó cũng là một phần của thân thể vật lý) sẽ chuyển sang đời sống kế tiếp. Sự thật, thân thể vật lý thay đổi trong từng sát na. Cái được chuyển tiếp vào đời sống kế tiếp hay những đời sống tương lai, và cấu thành sự miên tục của sinh mạng là sức mạnh ảnh hưởng của những hành vi con người trong đời sống hiện tại này và trong nhiều đời sống trước. Cả Phật giáo và Ấn Độ giáo gọi điều này là nghiệp.

Đến đây, chắc bạn muốn nói: “Điều đó thú vị đấy, nhưng 1: vui lòng chỉ cho tôi thiên giới và địa ngục có thể tìm thấy ở đâu? Và 2: vui lòng chứng minh cho tôi rằng, tôi đã tồn tại trước khi tôi sinh và sẽ vẫn còn hiện hữu sau khi chết như thế nào?”

Để trả lời cho câu hỏi đầu tiên tôi xin được hỏi: Bạn có tin rằng mắt của bạn có thể nhìn thấy được thiên giới hay địa ngục không? Nếu một người nào đó chỉ cho bạn thiên giới hay địa ngục, bạn sẽ không nói rằng đó chỉ là một ảo tưởng, và do đó không tin nó chứ? Nếu bạn đã nghiên cứu về dòng điền từ, bạn có thể đồng ý với tôi rằng mắt con người của chúng ta chỉ có thể nhìn thấy được một phần rất nhỏ của vũ trụ, và có rất nhiều thứ mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy được. Một vài trăm năm trước đây không có người nào có thể nhìn thấy tổng thể cấu trúc bộ xương của một người đang sống, nhưng bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy thông qua dụng cụ rọi X-quang. Chúng ta đang tiến bộ nhanh chống vào thế giới siêu vi cũng như lĩnh vực không gian. Ai biết, có thể trong nhiều năm sau, một thiết bị khám phá mới sẽ được phát minh, và phương tiện đó sẽ giúp con người nhìn thấy một độ sóng dài khác từ sóng ánh sáng mà hiện giờ chưa nhìn thấy được. Lúc đó con người có thể khám phá ra rằng, cái được gọi là địa ngục thì ở ngay trên trái đất này; hay những thiết bị về không gian sẽ gửi trở lại một vài bức ảnh về không gian mà những bức ảnh đó chụp lại một trong những cõi trời hay những thế giới mà Phật giáo đã thừa nhận.

Còn để chứng minh rằng con người đã tồn tại trước đó và vẫn tiếp diễn sau khi chết thì có một số tài liệu đã đề cập đến. Những tài liệu này ghi lại rằng, có những người bình thường đã nhớ lại được những đời sống quá khứ của họ, hoặc cụ thể như các vị Lạt ma Tây Tạng, họ có thể tiên đoán nơi mà họ sẽ tái sanh trở lại.

Nhưng ở đây tôi muốn sử dụng một phương pháp khác để chứng minh điều này. Có một vài hiện tượng trong vũ trụ mà chúng ta có thể dùng để giải thích khái niệm về sanh và tử, và điều này có thể đưa ra một vài đầu mối để trả lời cho câu hỏi đầy bí ẩn mà các bạn muốn hỏi ở trên. Lý do đơn giản đã thuyết phục tôi rằng giải pháp này có giá trị là vì con người chúng ta không khác hơn một sản phẩm của tự nhiên và hoàn toàn bị chi phối bởi những định luật tự nhiên như trọng lực. Do đó, những định luật biểu thị đặc tính của những hiện tượng tự nhiên khác có thể áp dụng thích hợp đối với con người.

Khi tôi nghiên cứu câu hỏi này, thú vị thay, tôi đã tìm ra một vài hiên tượng trong vũ trụ có sự tương ứng thích hợp đối với học thuyết nhiều đời sống. Hiện tượng đơn giản nhất và dễ dàng nhất để chúng ta lãnh hội là sự đa dạng của H2O.

Chúng ta đều biết H2O phải không? Vâng, H2O là công thức hoá học của nước. Nghĩa là cứ hai phân tử Hydro thì có một phân tử Oxy. Công thức H2O không thay đổi dù khi nước bốc hơi tại điểm sôi hay đóng thành băng tại điểm đông đặc. H2O không sai khác khi nó ở dạng hình thể kết tinh trắng, đẹp mà người ta thường gọi là tuyết; hay trong trường hợp chất lỏng, giăng mắc trong không trung và người ta thường gọi là sương.

Đến đây một ý tưởng rất thú vị sinh khởi. Nước biến mất khi nó biến đổi thành hơi nước hay đông thành đá. Bạn sẽ không nói rằng vào lúc đó, nước chết đi và hơi nước hay đá được sanh ra phải không? Hay khi tuyết tan và trở thành nước, vào lúc đó bạn sẽ không nói rằng tuyết bị chết và nước được sanh ra phải không? Điều này sẽ đúng khi nước đơn giản được xem là nước. Tuy nhiên, nếu nước không những được nhận diện là nước mà còn là H2O thì khi đó khái niệm về sinh ra và chết đi không còn là vấn đề nữa. H2O vẫn không thay đổi khi hình thức của nó chuyển từ nước sang hơi nước hay băng và ngược lại. H2O thật sự không bị trãi qua “sống và chết” mặc dầu hình dáng và các đặc tính vất lý của nó có thể biến đổi thành những tên gọi khác nhau. H2O cũng sẽ không bị chết và tái sinh trong tương lai cho dù hình thái và các đặc tính vật lý của nó sẽ thay đổi rất nhiều lần, mãi đến cuối cùng H2O bị phân chia thành Hydro và Oxy.

Từ phép suy loại này chúng ta có thể thấy rằng học thuyết về nhiều đời sống như Ấn Độ giáo và Phật giáo đã đưa ra thì chí lí và gần với sự thật hơn những học thuyết khác. Do đó, tôi suy ra những kết luận sau đây:

1- Trong vũ trụ cũng có một thực thể tương tự như H2O. Thực thể đó, tôi tạm thời gọi

là “X”. Từ X này, biểu hiện ra những hình thức khác nhau của một chúng sanh, tức là: chư thiên, loài người, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh và chúng sanh ở địa ngục. Trong Thiên Chúa giáo và Ấn Độ giáo, X được gọi là linh hồn.

2- Sáu hình thức hiện hữu luôn chuyển đổi vị trí. Như một con người có thể tái sanh làm một vị thiên, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ hay chúng sanh ở địa ngục. Cũng như vậy một chúng sanh ở địa ngục cũng có thể tái sanh ở những hình thức khác nhau bao gồm cả loài người.

3- Theo Phật giáo, một người không thể sống trên thiên giới mãi mãi hay đọa vào trong địa ngục vĩnh hằng. Cuộc sống luôn tiếp diễn, hình thức của nó thay đổi liên tục. Hiện tượng trôi chảy liên tục của chết đi và tái sanh trở lại trong sáu cảnh giới này được gọi là luân hồi tái sanh.

4- Khái niệm về sanh và chết chỉ có nghĩa khi nào con người được đề cập đến như một đối tượng cụ thể. Nếu vấn đề được chuyển đổi trở lại chính bản chất nguyên thủy của đối tượng đó thì khái niệm về sống và chết không còn tác dụng. Nước và H2O là một ví dụ: nước là một đối tượng được xác định cụ thể, nó có thể thay hình đổi dạng, nhưng H2O thì bản chất nó luôn luôn như vậy dù khi nó ở dạng nước, tuyết, hay sương.

5. Đây là điều quan trọng: nếu một người còn chấp chặt mình là một con người có tự ngã thì người ấy còn phải trãi qua sống và chết. Cũng như thế áp dụng đối với nước: nếu nước được nhận diện như là nước thì chúng ta thấy nó có sinh ra và mất đi khi nó thay đổi hình dạng. Nhưng nếu một người nhận mình như là X, thì không có sự chết đi, dù khi hình dạng của X biểu hiện dưới hình thức một con người bị hủy diệt. Như vậy ta thấy, chỉ có một sự thay đổi liên tục về hình thức, trong khi X vẫn không thay đổi. Thêm nữa, áp dụng tương như vậy, nếu nước được xem như là H2O thì nước không có sinh ra mất đi. Do đó, nếu chúng ta khát khao chấm dứt sanh tử luân hồi, điều đầu tiên chúng ta nên làm là xa rời việc chấp thủ tự ngã.

Đáng tiếc thay, điều này hoàn toàn đi ngược lại bản năng dục vọng của chúng ta. Chúng ta xưa này luôn chấp thủ rằng chúng ta là những con người thực hữu, và đó là lí do tại sao chúng ta trầm luân trong luân hồi. Như thế mục đích cốt tủy của lời dạy đức Phật là giúp chúng sanh tự giải thoát ra khỏi luân hồi. Do đó, cốt tủy của Phật giáo là dạy con người nên xem mình như X. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là Phật giáo không dạy chúng ta xem X như là linh hồn. Linh hồn không phải là thực thể tối hậu; nó vẫn bị chết đi, giống như H2O bị phân thành Hydro và Oxy. Phật giáo dạy chúng ta xem bản thân mình như X khi được giải thích ở tầm mức giác ngộ. Ở tầm mức giác ngộ, chúng ta biết rằng X là điều không thể lãnh hội được bằng giác quan con người, mà nó chỉ có thể được thực chứng và được thừa nhận bằng tuệ giác. Nhưng nếu vấn đề là như vậy thì làm sao chúng ta có thể hiểu và giải thích nó đây? May mắn thay, bằng khoa học hiện đại, tôi đã tìm ra một điều mà nó có thể giúp chúng ta rất nhiều nhằm hiểu được việc giải thích về X ở cấp độ giác ngộ. Đó là năng lượng.

Trong khoa học hiện đại mà chúng ta học thì vạn vật ở trong vũ trụ đều là hình thức của năng lượng. Điện, hơi nống, ánh sáng, lửa, âm thanh, phản ứng hóa học, vật chất.., tất cả đều là những biểu hiện khác nhau của năng lượng. Chúng ta không thể nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm, hay xúc chạm năng lượng, nhưng khắp nơi trong vũ trụ những hình thức của nó thì vô số lượng, có thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi được, nếm được, xúc chạm hay nói cách khác là nó được khám phá bằng các giác quan của con người. Do đó, năng lượng được xem như cái cốt lõi của vạn vật.

Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng, năng lượng cũng chỉ là một danh xưng do con người đặt ra. Sự thực, định nghĩa về năng lượng đã được thay đổi từ khi từ này lần đầu tiên được sử dụng. Như vậy, xin đừng chấp chặt cứng nhắc định nghĩa của từ điển về từ ngữ. Tôi có thể lý giải từ này khác hơn những nhà khoa học đã thực hiện. Từ năng lượng, như tôi dùng nó ở đây, được đặt cho một vật nào đó trong vũ trụ mà nó bao hàm toàn thể vạn vật, và không thể nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm, hay xúc chạm bằng các quan năng của con người, nhưng bản thân nó có thể biểu lộ trong trong rất nhiều hình thức khác nhau mà chúng ta có thể khám phá được bằng các giác quan. Bởi vì nó bao hàm trọn vẹn toàn thể vạn vật, nó không thể bị tăng lên hay giảm xuống; nó không có sự chuyển động. Tóm lại: năng lượng là vũ trụ và vũ trụ là năng lượng.

Nếu bạn có thể lãnh hội được những gì tôi vừa trình bày ở trên về năng lượng thì bạn sẽ không gặp mấy khó khăn trong việc hiểu X như đã được giải thích theo Phật giáo ở tầm mức giác ngộ. Theo Phật giáo, dựa vào giác ngộ, con người có thể nhận chân được X của họ, và chính X đó, bao hàm hết thảy vạn vật; X đó là vạn vật và vạn vật là X; X không bị tăng hay giảm; X đó như như bất động, và X đó không ô nhiễm cũng không thanh tịnh. Bởi vì quá khó khăn để giải thích X và lĩnh hội được X, cho nên hơn 2.500năm qua, những nhà Phật học đã đặt cho nó nhiều tên gọi khác nhau trong nỗ lực làm sáng tỏ khái niệm. Thuật ngữ đơn giản nhất, theo ý tôi là “Bản Thể”. Chữ “thể” có nghĩa rằng tất cả thế giới hiện tượng đều phát xuất từ đó, thay vì hiện hữu riêng lẽ. Khác với quan niệm về linh hồn, bản thể không hàm ý sự riêng biệt của một cá thể. Không thể có những bản thể khác nhau: X này là của tôi, là của anh, là của mọi người, và của vạn vật. Do vậy, có thể nào X lại bị chết? làm thế nào có thể áp dụng khái niệm về sống và chết đối với X? Cho nên, bản thể này là điều chúng ta cần nhận biết.

Chúng ta chỉ biết được điều này rõ ràng khi chúng ta giác ngộ và thể tánh của chúng ta được hiển lộ; còn nếu chúng vẫn còn trầm luân trong sinh tử luân hồi thì khó lãnh hội được. Do đó, Phật giáo là một bài học mà chúng ta nên nghiên cứu một cách nghiêm túc, bởi vì nó cung cấp cho chúng ta nhưng phương pháp nhận chân và thừa nhận bản thể của chúng ta. Bằng cách này chúng ta có thể giải thoát chính mình ra khỏi sự sống chết vô cùng tận, là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau.

Tuy nhiên, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, trong đời sống hàng ngày của chúng ta, học thuyết về nhiều kiếp sống thậm chí còn quan trọng hơn cả tuệ quán về X, bởi vì tất cả chúng ta đều chưa giác ngộ và vẫn còn bị luân hồi. Sẽ hết sức sai lầm khi thờ ơ với học thuyết nhiều đời sống và nghĩ đơn giản: “Tôi là vạn vật và vì thế không có sự chết đi”, cho nên khi cái chết đến, chúng ta vẫn còn sợ hãi.

Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin trình bày một vài quan điểm của tôi về hai hiện tượng xã hội quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta:

1. Giết người không có nghĩa là sự loại trừ một đối thủ và giành lấy được chiến thắng như con người thường nghĩ. Bởi vì chỉ có hình thức con người vật lý bị hủy hoại, nên nạn nhân vẫn còn hiện hữu. Do vậy đó không phải là một sự chiến thắng, và điều đó có thể là đầu mối của những vấn đề bất an.

2. Tự sát không có nghĩa là kết thúc khổ đau. Thân thể con người vật lý có thể bị hủy bỏ nhưng đời sống vẫn tiếp tục. Vấn đề đó có thể trở nên phức tạp và nghiêm trọng nhiều hơn từ kết quả của việc tự sát.

Như tôi đã nói ngay lúc bắt đầu buổi nói chuyện này, thái độ sống có thể thay đổi rất nhiều nếu chúng ta biết được những gì xảy ra sau cái được gọi là chết. Những khoa học gia, những chính trị gia và triết gia nào mà làm ngơ với vấn đề quan trọng này thì có thể đang dấn thân vào sự sai lầm nghiêm trọng vì sự thiển cận của mình. Bởi vậy, chúng ta cần phải thận trọng và cân nhắc khi đánh giá một vấn đề./.

Nguyên Hiệp dịch

daitangkinhvietnam

Share this post


Link to post
Share on other sites

Quan điểm Phật Giáo về chết tự nguyện

Quán Như chuyển ngữ

Tình trạng tâm linh lúc chúng ta thở hơi thở cuối cùng vô cùng quan trọng. Đó là bản lề mở ra nhiều hướng khác nhau vì lúc đó sinh lực tụ hiện trong hình sắc. Nếu được trang bị với một tâm linh có kỹ luật và sẵn sàng chấp nhận cái chết, chúng ta mới mong cưỡng kháng lại những thói quen bám víu và cố chấp cũ, khi năng lực của chúng ta đang tàn lụi dần đi. Ý tưởng, cảm thọ và nhận thức kết hợp với nhau trong hơi thở cuối cùng này có một khả năng lớn lao vô cùng (Philip Kapleau Roshi)

Cái hơi thở cuối cùng mà vị thiền sư đề cập ở trên là gì? Hơi thở cuối cùng trước khi chúng ta đi vào trạng thái hôn mê như cây cỏ? Hơi thở cuối cùng trước khi chúng ta dùng máy thở để duy trì sự sống? Hơi thở cuối cùng trước khi tòa án ra lịnh cắt đứt máy thở và sự sống của chúng ta? Chết giữa những kỷ thuật tân tiến bộ quả là một vấn đề phức tạp. Y khoa tây phương cố gắng chữa người bịnh cộng thêm với một nền văn hoá ghê sợ cái chết tạo ra một hoàn cảnh khác thường: người ta sợ hãi mối cô đơn trong cái chết và đau khổ giữa những kỷ thuật vô tình, con người hiện nay đang tranh đấu để có ‘quyền’ được chết.

Chết tự nguyện là một vấn đề đã quá cũ. Đã có nhiều trường hợp nhiều người ta tự hủy mình hay giết những người khác để chấm dứt đau khổ và những hành động đó được xem như là hành động nhân đạo. Trong đầu thế kỷ, người ta giết những con vật bị thương nặng để nó khỏi bị đau đớn. Sau thế chiến thứ 2 nó liên hệ đến phòng hơi ngạt, giết người, quốc xã ...Trên thực tế Euthanasia có nghĩa là một cái chết tốt đẹp. Dĩ nhiên cái chết nào tốt đẹp và cái chết nào không là tùy theo quan điểm của mỗi người.

Cuộc tranh luân hiện nay về một số các vấn đề, từ việc ‘để cho bịnh nhân chết tự nhiên đến những phương pháp làm cho cái chết mau xảy ra’. Từ ngữ chết tự nguyện thụ động thường được dùng để mô tả việc cắt đứt hay không tiếp tục cung cấp máy thở, để cho cái chết đến một cách tự nhiên, mặc dù trên thực tế chúng ta phải can thiệp vào thì cái chết mới xảy ra. (Có nhiều người lý luận là đây không phải là chết tự nguyện, bởi vì không có ai giết ai, không có ai can thiệp vào quá trình tự nhiên của cái chết). Tự nguyện chết tích cực là những phương pháp gây ra cái chết trực tiếp bằng một vài phương tiện, như chích thuốc độc vào cơ thể.

Đối với phật tử, chết tự nguyện đặt ra những câu hỏi mới và đòi hỏi những câu trả lời theo ánh sáng của tư tưởng đạo Phật. Trên lý thuyết đây là lúc mà giới cấm sát sinh và sự phát triển lòng từ bi tương phản nhau. Các phật tử phải đối đầu với nổi phân vân mà từ trước đến nay họ chưa từng gặp phải.

Ở Tây Phương vào đầu thế kỷ chúng ta thường chết sớm ở vào tuổi 50, vì những chứng bịnh hay vết thương mà chúng ta không biết làm thế nào để cứu chữa Và chúng ta thường chết tại nhà, có người nhà săn sóc và bên cạnh. Sau khi chúng ta qua đời, thân nhân tắm rửa cho chúng ta, trông chừng thi thể và chôn cất chúng ta với sự giúp đỡ của thân nhân và bè bạn.

Ngày nay chúng ta sống dai hơn và chết lâu hơn. Kéo dài tình trạng thoái hóa của sự sống bằng các kỷ thuật về y khoa trong những bịnh viện với một thời khóa biểu. Nếu gia đình có thể vào thăm, họ sẽ cảm thấy kinh ngạc hay căng thẳng. Khi chúng ta chết đã có những nhà quàng lo lắng hết mọi chuyện.

Những thay đổi này thường biến cái chết thành một quyết định, thay vì là một biến cố. Dưới hình thức này hay hình thức khác câu hỏi mà thân nhân chúng ta hay hỏi là : ‘chừng nào cho ổng, hay bả đi?’. Hình thức thông thường nhất là cắt đứt máy thở. Bảy chục phần trăm bịnh nhân chết sau khi người nhà đã ‘thương thuyết’ với nhau. Quyết định xem có cần những phương tiện cứu chữa để kéo dài sự sống nữa hay không chỉ kéo dài thêm diễn trình của sự chết.

Dĩ nhiên là ai cũng muốn kéo dài sự sống nếu người bịnh có cơ hội bình phục và lành bịnh. Vấn đề chỉ đặt ra khi bịnh nhân không có cơ hội gì bình phục, hoặc những cách cứu chữa làm người bịnh quá đau đớn, hay biến những ngày cuối cùng của họ thành một cơn ác mộng. Mối quan tâm này làm nảy sinh ra việc để lại di chúc lúc còn sống, những đạo luật về y khoa, những cuốn sách bán chạy về ‘tự giải thoát’, và những bác sĩ giúp đỡ bịnh nhân tự tử và đề nghị hợp pháp hoá những cái chết tự nguyện hay cho phép giết người vì nhân đạo. Đối với nhiều người chủ trương cho bịnh nhân tự chọn cái chết là một hình thức phản kháng cách chết hiện nay của chúng ta. Theo quan điểm Phật Giáo, tất cả những sự rối loạn và sự chú tâm nhìều đến đau đớn cơ thể là do chúng ta không có sự hiểu biết đích thực về bản chất của sự sống và cái chết

Những cái nhìn khác nhau về cái chết

Sự khác biệt giữa thái độ của phật tử và của người thường về cái chết tự nguyện ở chỗ hai bên có quan niệm khác nhau về quá trình cái chết trên bình diện sinh lý. Quan niệm của Phật Giáo và Y Khoa Tây Phương về cái chết rât khác nhau. Một trong những kinh điển của Kim Cương Thừa có mô tả chi tiết về quá trình của cái chết, và trong quá trình kinh nghiệm này có sự giao thoa giữa bình diện sinh lý, tâm lý và tâm linh. Dựa trên một mô thức y khoa, lý thuyết này cho chúng ta thấy mối liên hệ chằng chịt giữa ý thức và cơ thể, cho thấy những sự biến đổi khi chúng ta đang đi dần vào cõi chết. Nói một cách giản dị, trong quá trình của cái chết, khi các phần của cơ thể mà ý thức tùy thuộc bị hủy hoại, ý thức cũng tan rã theo. Càng lúc càng nhiều những phần vi tế của ý thức hiển lộ khi các phần ý thức căn bản tan rã, cho đến khi nhận thức ngưng và lúc đó người chết mất hẳn ý thức trong một thời gian ngắn. Sau đó là phần tinh túy nhất của ý thức hiển lộ. Phần tinh túy này có nhiều tên, tùy theo môn phái và kinh điển,hay bản văn. Một vài tên gồm: vô lượng thọ quang, phật tính, ý thức viên mãn...Theo Tsele Natsok Rangdrol, theo một bản văn cổ điển Tây Tạng vào thế kỷ 17, phần lớn các môn phái đồng ý đó là Bardo thứ nhất (Có nhiều cách giải thích bardo, nhưng cách giải nghĩa thông thường nhất là giai đoạn từ khi chết tới lúc tái sinh. Tử Thư Tây Tạng có mô tả những giai đoạn khác nhau giữa đời này và đời khác). Đây là chân lý tự hiển lộ, và đối với người phật tử Tây Tạng, đây là mốc xác định thời điểm người bịnh chết.

Theo Y Khoa Tây Phương, định nghĩa chết có tính cách pháp lý. Vào năm 1980 một ủy ban do Tổng Thống chỉ định để nghiên cứu những vấn đề đạo đức trong Y khoa và về hành vi của con người đã thiết lập một đạo luật về cái chết. đã xác định như sau: một người được định nghĩa là chết khi (1) hệ thống hô hấp và tuần hoàn ngưng (2) những công năng của não bộ, kể cả vành não chấm dứt.

Định nghĩa này đưa đến một khó khăn là có nhiều khi não chết nhưng những công năng của não vẫn còn hoạt động. Cho nên một người có thể không còn một nhận thức nào nhưng họ vẫn thở, tim vẫn đập để đưa máu vào khắp cơ thể. Và cơ thể của người này vẫn duy trì chu kỳ thức ngủ nếu vẫn được nuôi dưỡng bằng thức ăn. Điều này đã đưa đến nhiều vụ kiện tụng lôi thôi. Như trường hợp của Ann Quinlan đã ‘sống’ như thế đó trong vòng 9 năm sau khi máy thở đã được cắt đứt.

Phương cách định nghĩa khác nhau về cái chết đó đưa đến những ý tưởng khác nhau về định nghĩa của một cái chết ‘tốt’. Theo Tây Phương một cái chết tốt là một cái chết khi người ta không còn ý thức, không biết cái chết đang tới. Chết trong khi ngủ được xem như là một điều may mắn và người ta thường nói: Ít ra là người đó không biết cái chết đang giáng xuống đầu họ! Tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng đúng. Trên thực tế, tư tưởng Do Thái-Ky Tô ảnh hưởng bao trùm văn hóa Tây Phương, một cái chết thình lình như thế là một tai họa. Trong lời cầu nguyện cũ ở Anh: Xin Chúa che chở chúng con khỏi bị hỏa hoạn, lụt lột và bị chết bất đắc kỳ tử. Người ta tin rằng nếu chúng ta chuẩn bị sẵn sàng thì kết quả sẽ tốt. Chỉ khi khoa học vật chất tiến bộ, chết mà không hay biết mới được xem là một cái chết tốt. Và nếu chết là sự chấm dứt con đường thẳng thì lại sao lại không chọn một cái chết nhẹ nhàng.

Đối với phật tử, chết được xem như là một giai đoạn quan trọng trong một chu kỳ tiến hóa, và người phật tử nên đi vào cái chết với nhiều ý thức minh mẫn chừng nào tốt chừng đó. Điều quan trọng là phải biết chuyện gì xảy ra khi chúng ta đang chết.

Nếu chúng ta tin là ý thức không còn nữa khi chúng ta chết, chúng ta sẽ nhìn cái chết một cách khác hơn là khi chúng ta tin rằng ý thức đang thay đổi, và sự thay đổi này có thể ảnh hưởng bởi hoàn cảnh mà trong đó cái chết đang xảy ra.

Tự nguyện chết một cách tích cực gồm việc chích một liều thuốc độc hay bơm thuốc quá liều, sẽ làm người chết mất ý thức nhanh hơn và sẽ đưa đến việc hủy hoại bộ máy bộ máy hô hấp, mục đích là làm người chết hoàn toàn bất tỉnh không còn ý thức lúc chết. Theo mô thức Tây Tạng, còn thêm nhiều giai đoạn trong quá trình chết xảy ra sau khi bộ máy hô hấp đã ngưng. Nếu lúc chết ý thức mù mịt những kinh nghiệm về những giai đoạn này sẽ mê mờ và do đó sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho tất cả những gì xảy ra tiếp đó.

Làm ơn và giải thoát

Phật Giáo quan niệm chết không phải là chấm dứt, và đau khổ không chấm dứt sau khi chết, nhưng vẫn tiếp tục cho đến khi nào giải được tất cả ác nghiệp. Cho nên tự giết mình - hay giúp người khác tự tử - cũng không thể nào trốn tránh việc phải trả cho hết nghiệp (Philip Kapleau Roshi)

Người cổ vỏ cho chết tự nguyện tich cực là Derel Humphreys, tác giả quyển Final Exit, một cuốn sách mô tả cách tự hủy mình. Một người nữa là Bác Sĩ Jack Kevorkian, người đã giúp một số bịnh nhân tự tử bằng một cái máy có tên là ‘máy tự tử’. Hai người này là những người tiền phong trong phong trào cổ võ cho việc hợp pháp hóa việc Bác Sĩ giúp các bịnh nhân chết, một cách giết người để làm ơn.

Luận điệu để hổ trợ cho việc hợp pháp hoá là, việc đi tìm cai chết một cách tự nguyện là một vấn đề do cá nhân tự chủ và tự quyết định. Nếu có một cá nhân nào muốn tìm cái chết như là một giải pháp hợp lý để chấm dứt đau đớn, nên cho phép họ làm điều đó, hay giúp họ làm điều đó, mà không phán đoán điều đó là đúng hay sai về mặt đạo đức. Luận cứ này cho thấy sự khác biệt giữa tư tưởng Phật Giáo và cách suy nghĩ trong các triết lý thông tục. Dù là họ có quan tâm đến việc giải thoát khỏi những đau đớn hay giết người để làm ơn, nguyên lý đạo đức hổ trợ cho chết tự nguyện tích cực không đúng với truyền thống và tin tưởng của phật tử. Phật Giáo cho chuyện sát hại đời sống chúng sinh là ác nghiệp, kể cả đời sống của mình, và mỗi hành động đều gây ra nghiệp và hành động sát hại đó sẽ gây ra đau khổ trong tương lai. Trên thực tế, Phật Giáo dạy là mỗi hành động nhằm tránh đau khổ sẽ tạo ra nhiều đau khổ khác và vấn nạn hiện nay về việc chọn cái chết tự nguyện là một thí dụ tốt của vấn đề này. Những nổ lực để ngưng sự tan rã của thể chất sẽ tạo ra những hoàn cảnh đầy rẫy những khổ đau về tình cảm, tâm lý và tâm linh (cũng như những đau đớn về thể chất sẽ tiếp tục, vì những nổ lực của chúng ta nhằm ngăn chận sự tan rã không giúp chúng ta hết đau đớn thể chất mà chỉ làm cho đau đớn nhiều hơn).

Hiểu lầm về bản chất của đau khổ cũng như không biết tới nguyên lý vô thường, và vì nhắm đánh bại thần chết, khoa học hiện đại đã đã làm tăng thêm những mức độ đau khổ mới trong quá trình của cái chết. Vì lúc nào cũng lo cho bịnh nhân có được sức khỏe tối đa, oái oăm thay, chúng ta lại không có thì giờ an ủi những người đang chết. Để tìm một giải pháp cho những nổi khổ đó, chúng ta đề nghị chích một liều thuốc độc cho bịnh nhân, để giải quyết nhanh chóng vấn đề chết. Theo quan điểm Phật Giáo, giải pháp này sẽ tạo thêm nhiều vấn đề khác.

Đau Đớn Và Ý Thức Mù Mịt

Bardo của một người đang chết rất đau đớn bởi vì tiến trình của cái chết liên hệ đến đau đớn và đau khổ. Mặc dù tiến trình của sự chết nhiều khi rất nhanh chóng và chúng ta nghĩ người chết không có cảm thấy gì, nhưng chắc chắn là luôn có sự đau đớn. Ngay cả khi người chết trong khi còn hôn mê hay trong lúc bất tỉnh, tâm não băo giờ cũng kinh nghiệm đau đớn tế vi trong một biến cố thường được gọi là sự ngắt qtảng của dòng sinh lực (Chokyi Nyima Rinpoche)

Đức Phật Thích Gia dạy là tất cả đau khổ không thể nào diệt được nếu chúng ta không hiểu biết nguồn gốc đau khổ. Đây là một vấn đề rộng lớn và cần một số thì giờ để giải thích tường tận.

Nhưng cái mốc quan trọng nhất là lòng từ bi. Nếu một người đang vật vã trong cơn đau đớn và nỗi đau đớn chiếm trọn cả tâm trí họ, họ sẽ không kinh nghiệm được tiến trình của cái chết. Trong tác phẩm Tạng Thư Về Vấn Đề Sống Chết, Sogyal Rinpoche giải thích là Các Đại Sư trong Phật Giáo thường đề cập đến nhu cầu giữ ý thức minh mẫn trong quá trình chết, không để ý thức bị mờ mịt. Làm thế nào kềm chế được đau đớn mà không làm ý thức của người chết bị mờ mịt là một điều cần thiết và chúng ta có thể giúp cho người chết đạt được điều đó trong giai đoạn khẩn trương nhất của một đời người.

Trong khi việc sử dụng thuốc men một cách không phân biệt có thể gây ra nhiều khó khăn lớn, tuy nhiên việc sử dụng những tiến bộ y khoa hiện đại một cách thông minh và tận tụy, có thể đưa đến những kết quả tích cực. Các khoa chăm sóc những bịnh nhân đến hồi bất trị và giúp họ khỏi bị đau đớn (palliative), chửa trị họ mà không cần gây mê một cách nặng nề, có thể giúp bịnh nhân kinh nghiệm rõ ràng những diễn biến trong quá trình của cái chết. Chú ý đặc biệt về đau đớn và kềm chế những triệu chứng đau đớn đã được sử dụng trong các bịnh viện dành cho những bịnh nhân không còn chữa trị được (hospice), và có những chương trình giúp đỡ dành cho những bịnh nhân không còn muốn được chữa trị nữa là những bước tích cực. Phật Giáo khuyến khích những dịch vụ này để thay thế cho việc áp dụng phương cách tự tử tích cực

Duy trì sự sống hay duy trì cái chết

Dùng những máy móc để duy trì sự sống trong khi bịnh nhân không còn hy vọng hồi phục là một việc làm không đi đến đâu. Tốt hơn là để các người này chết một cách tự nhiên, trong một không khí thanh bình. Ngưng sự sống như thế không có gây ác nghiệp, bởi vì những người đó không có cách gì sống sót được và làm như thế chỉ duy trì sự sống một cách giả tạo (Dilgo Khyentse Rinpoche)

Hành động tự tử thụ động thường xảy ra nhiều hơn và đó là một cách phản kháng việc áp dụng các kỹ thuật y khoa một cách mù quáng. Để quyết định xem là có nên bỏ máy duy trì đời sống không, các lý thuyết thông tục và Phật Giáo đều giống nhau. Nếu kỷ thuật hiên đại Y khoa có khả năng ngăn chặn diễn trình của cái chết, khi nào chúng ta nên can thiệp và khi nào thì không?

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: Theo quan điểm của Phật Giáo, nếu một người bịnh đang chờ chết, nếu có một cơ hội nào để cho họ có những ý tưởng lành mạnh và đạo đức, điều quan trọng là nên để cho họ sống thêm dù chỉ thêm 5 phút. Nếu không có cơ hội nào để họ có những ý tưởng tốt, nếu gia đình của họ chỉ tiêu tiền để kéo dài thêm sự sống, thì làm như thế thật vô ích. Tuy nhiên phải phán xét từng trường hợp một, vì không thể tổng quát hóa một cách dễ dàng.

Hoàn cảnh là một yếu tố quan trọng, Phật Giáo gọi là khế cơ. Thực hành lòng từ bi không có nghĩa là tuân theo những giáo điều cứng nhắc nhưng hành động tương đối tùy theo mỗi hoàn cảnh đặc biệt. Điều này đòi hỏi chúng ta phái đặc biệt chú ý đến người sắp chết và chúng ta phải để thì giờ và năng lực xem cách giúp đỡ nào hữu hiệu nhất.

Theo quan điểm Phật Giáo, nếu một người không có hy vọng gì hồi phục và cái chết sẽ đến tự nhiên nếu không có sự hổ trợ giả tạo của y khoa, tháo bỏ máy thở được xem như là một hành động từ bi, chứ không phải là phạm sát giới. Đó là một cách cứu bịnh nhân khỏi trãi qua một sự can thiệp tàn hại trong quá trình đi về cõi chết, điều quan trọng đối với một người sắp lìa đời. Và việc từ chối tiếp tục được cứu chữa để sẵn sàng chờ đón cái chết được xem như một hành động đúng. Sinh vào cõi người là một đặc ân và dĩ nhiên là chúng ta cũng phải trân trọng và an hưởng đời người, nhưng không có nghĩa là bám víu chặt vào đời sống một cách tuyệt vọng, một hành động đi ngược lại với nguyên lý vô thường.

Trên thực tế rất khó mà biết lúc nào thì nên thôi chữa trị. Có nhiều cách chăm sóc bịnh nhân khác nhau trong quá trình bịnh tật, bị thương hay kiệt sức. Thay vì xem quyết định chọn lựa một cách đen trắng rõ ràng, chúng ta phải đối đầu với một số chọn lựa khi hoàn cảnh đã đổi khác và có nhiều điều kiện mới xuất hiện. Có nên đưa một ống dẫn thức ăn vào? Một người ở trong tình trạng hôn mê bao nhiêu lâu trước khi chúng ta đi đến một quyết định chấm dứt đời sống của họ?. Và nếu có một trẻ sơ sinh bị hư não và tàn tật, cần máy thở và sẽ phải trãi qua những cách chữa trị rất đau đớn thì chúng ta quyết định ra sao?

Chỉ có một nguyên tắc hướng dẫn duy nhất là phải xét từng mỗi hoàn cảnh đặc biệt. Và nền Y Khoa hiện đại không được trang bị để giải quyết từng trường hợp cá nhân.

Đối diện Với Thực tại

Cuộc tranh luận hiện nay về cái chết tự nguyện phát sinh trong một nền văn hóa sợ hãi cái chết. Xã hội Tây Phưong từ chối không chấp nhận vô thường nên đã xem cái chết như là một biến cố bí hiểm, một thất bại, một sự xấu hổ.

Hình ảnh của một người bịnh đang chờ chết và đang được duy trì sự sống bằng một cái máy trong nền Y Khoa hiện đại, bị mắc kẹt trong một hoàn cảnh cô đơn, ồn ào, thiếu những yếu tố tâm linh trong các bịnh viện, là một hình ảnh tượng trưng cho tất cả nan giải về cõi ta bà.

Đã có nhiều người bị tốn tiền và bị thương tổn về tình cảm, nhiều cuộc thưa kiện đã xảy ra ở toà án, những vấn đề đã được mọi người quan tâm và đưa ra mổ xẻ trên các diễn đàn công cộng. Tuy nhiên trong các diễn đàn đó người ta đã quay ra bàn cãi với nhau về quyền và luật lệ, phí tổn của những cuộc chăm sóc trường kỳ cho những người bịnh đang chờ chết, về những cách quản trị việc chấm đứt đời sống. Ngay cả khi người ta bàn cãi về cái chết, những người đó cũng không thực sự bàn cãi về cái chết.

Nếu muốn đứng lùi lại để có một cái nhìn bao quát hơn, chúng ta có thể làm chuyện đó không khó gì lắm. Nhưng khi đứng cạnh bên giường bịnh, thì lại là một vấn đề khác. Khi có một người thân sắp sữa chết, mối kinh hoàng và hoảng hốt khi chính đời sống cá nhân bị hăm dọa, lúc đó chúng ta sẽ thoáng thấy những gì rất thực, không giả đò, không còn che dấu, không còn chọn lựa. Mối quan tâm căn bản của Phật Giáo là đau khổ và thoát khổ. Hiện nay ở Tây Phương, cái chết có nghĩa là khi hàng rào phòng vệ của chúng ta bị phá vỡ, cái chết có thể cung cấp cho chúng ta một cơ hội để hành trì và tuân theo giới luật, để kiểm điểm lại cuộc đời của chúng ta và khi nào thì chúng ta cần duy trì và khi nào thì chúng ta cần buông xả sự sống.

Quán Như chuyển ngữ từ Good Death, của Patricia Anderson, Tricycle, số mùa đông 1992. Patricia Anderson là tác giả Affairs in Order: A Complete Resource Guide to Death and Dying (MacMillan)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay