Thiên Sứ

Thơ Ca Và Nguy Cơ Một Cuộc Chiến Tranh

1 bài viết trong chủ đề này

Thơ ca và nguy cơ một cuộc chiến tranh

Tác giả: Nguyễn Quang Thiều

Tuanvietnam.vn

Bài đã được xuất bản.: 22/02/2011 06:00 GMT+7

Tôi nhớ đến bài thơ Đêm tác giả của nữ nhà thơ Ba Lan, giải Nobel vănhọc, Wislawa Szymborska do dịch giả Tạ Minh Châu chuyển ngữ rất thành công. Bài thơ kể về một đêm thơ của một nhà thơ. Trong phòng đọc thơ có hơn chục người. Một nửa số người đó là người thân, bạn bè của nhà thơ. Một nửa là người qua đường ghé vào tránh mưa. Trong khi nhà thơ đang đọc thơ thì người thân, bạn bè chỉ mong cho nhanh kết thúc để tặng hoa và uống rượu. Những người tránh mưa thì nhìn ra ngoài xem trời tạnh chưa để ra đi. Chỉ còn một ông già ngôi nghe thơ và chìm vào một giấc mơ và trong giấc mơ đó ông gặp lại người vợ đã chết trở về nướng cho ông một chiếc bánh. Đấy là sức mạnh của thơ ca cho dù nó thật mơ hồ và thật mong manh.

Đêm ngày 1 tháng 11 năm 2010, Nhà thơ Mai Văn Phấn và tôi lên đường đến Hàn Quốc tham dự Liên hoan thơ của các nhà thơ Châu Á. Lúc đó, tình hình giữa Hàn Quốc và Triều Tiên đang căng lên từng giờ. Qua báo chí Việt Nam, người ta cứ tưởng một cuộc chiến tranh sẽ nổ ra ngay sau đó. Đây là lần thứ 4 tôi lên đường đến một đất nước mà nguy cơ một cuộc chiến tranh hay một cái gì đó tương tự sẽ xảy ra.

Lần thứ nhất là năm 1979. Lần đó tôi đến Cămpuchia chỉ sau mấy tháng khi đất nước này được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng. Dọc đường đến Pnongpenh, chúng tôi vẫn phải lăm lăm súng trên tay và quan sát hai bên đường cảnh giác tàn quân của Pol Pot phục kích. Đã có những chiếc xe của lính Việt Nam bị tấn công bằng súng chống tăng B40. Một người quen của tôi đã hy sinh trong một trận phục kích như thế. Lần thứ hai là chuyến đi Pakistan cách đây hơn tám năm. Khi nhà báo Như Phong và tôi chỉ còn cách Kabul của Afghanistan chừng 200 km thì quân đội Mỹ tấn công thành phố này. Lần thứ ba tôi đến Bangkok cách đây mấy năm khi bạo động xảy ra ở Bangkok. Và lần thứ tư là chuyến đi Hàn Quốc.

Cả hai chúng tôi lên đường với những chiếc vali quá nặng bởi các tập thơ và quần áo chống rét. Ban tổ chức thông báo thời tiết ở Seoul rất lạnh. Những năm trước kia cho dù đến một nước Châu Âu trong mùa đông tôi cũng không chuẩn bị nhiều quần áo như thế. Nhưng lần này thì khác. Mùa đông thì vẫn thế. Nhưng tôi đã khác xưa. Tôi đã già đi và cảm thấy thế gian này lạnh hơn trước. Thi thoảng gặp nhau, bạn bè hỏi dạo này thế nào, tôi đùa: đang đến gần cái chết hơn. Có người trừng mắt: đừng có nói linh tinh. Nhưng thực ra là như thế. Chúng ta ai cũng vậy, mỗi ngày sống là mỗi ngày đến gần hơn cái chết của chính mình. Điều đó thực ra không làm cho chúng ta sợ hãi mà làm cho chúng ta thấy cuộc sống có gì đó ý nghĩa hơn và kỳ diệu hơn chúng ta tưởng. Nhưng cuối cùng, những chuyến đi xa luôn luôn kỳ lạ. Hơn thế, chuyến đi này tôi được tháp tùng nhà thơ Mai Văn Phấn, một thi sỹ mà tôi luôn luôn kính trọng sự sáng tạo của ông.

Posted Image

Nhà thơ Mai Văn Phấn. Ảnh: NQT

Chúng tôi đến Seoul như những thượng khách. Chúng tôi ở một phòng rộng như nhà mình của khách sạn Grand Hotel. Buổi tối, những cái cây quanh khách sạn được trang hoàng ánh điện và biến thành những cái cây ánh sáng. Những nhà thơ Hàn Quốc đã đón chúng tôi như đón các sứ giả của Cái đẹp. Có lẽ, trong tất cả các cuộc đón tiếp của con người với nhau thì những cuộc đón tiếp của các nhà thơ không bao giờ chứa đựng những ý tứ thăm dò, những nụ cười " khuôn phép", những lịch sự trống rỗng và những mặc cả phía sau. Trên chiếc xe đón các nhà thơ tại sân bay quốc tế ở Hàn Quốc có dán áp phích về Liên hoan thơ ở hai bên chứ không phải là những pano quảng cáo một sản phẩm Hồng sâm nào đó. Và trênchiếc xe đó là những thùng giấy đẹp đựng tuyển tập thơ và tiểu luận của các nhà thơ tham dự Liên hoan thơ.

Đêm khai mạc Liên hoan thơ thật trang trọng. Trong video chiếu liên tục lên tấm phông lớn của phòng khánh tiết một tòa nhà lớn có phong cảnh Việt Nam cùng với một số làn điệu dân ca Việt Nam. Đấy là cách mà những người tổ chức bày tỏ sự yêu mến và tôn trọng văn hóa dân tộc của các nhà thơ tham dự Liên hoan. Cũng trong đêm khai mạc ấy, các nhà thơ Việt Nam được mời đọc thơ trước tiên và nhận những món quà kỷ niệm trước tiên. Món quà là những bức ký họa hai nhà thơ Việt Nam do các họa sỹ của một Gallary danh tiếng tại Seoul thực hiện.

Seoul buổi tối thật lộng lẫy bởi ánh sáng. Quả thực, tôi cố để ý xem có dấu hiệu gì của một cuộc chiến tranh có thể xảy ra không cho dù ai cũng cầu nguyện cho cuộc chiến tranh đó không xảy ra. Nhưng tôi đã không tìm thấy gì ngay cả một đống rác ai đó vứt bừa bãi trên hè đường như ở Hà Nội ngoài vẻ đẹp, sự sạch sẽ và một không khí yên bình của Seoul. Suốt những ngày ở Seoul, trong mọi cuộc thảo luận hay đọc thơ, tôi không thấy một nhà thơ nào nói về cuộc chiến tranh có thể xảy ra giữa hai miền của một đất nước. Tất cả chỉ nói về cái đẹp của đời sống và thi ca, chỉ nói về sự kỳ diệu của sáng tạo, chỉ mở ra những bí ẩn của đời sống qua những câu thơ, chỉ nói về một tương lai lộng lẫy của thế gian bởi chủ nghĩa nhân văn và trí tưởng tượng huyền ảo...

Nhưng không phải mọi người không nghĩ về nguy cơ của một cuộc chiến tranh có thể xảy ra cho dù không ai muốn, đặc biệt là những con người đang sống trong một đất nước đẹp, sạch, văn hóa và văn minh như Hàn Quốc. Ở một thành phố cách Seoul chừng hai giờ chạy xe trên đường cao tốc, có một người phụ nữ Việt Nam dắt một đứa con trai đến buổi đọc thơ. Và hai mẹ con đã cùng nhau đọc thơ của nhà thơ Mai Văn Phấn bằng hai thứ tiếng Hàn và Việt. Đó là một buổi đọc thơ vô cùng ấn tượng. Người phụ nữ Việt Nam đó lấy chồng Hàn Quốc và sống ở Hàn Quốc đã 15 năm. Hai mẹ con chị đã tập đọc bài thơ của nhà thơ Mai Văn Phấn trong nhiều ngày.

Hôm đó, chị đến trường xin nghỉ học cho con trai để tham dự buổi đọc thơ. Sau buổi đọc thơ, chị nói với chúng tôi về nỗi lo sợ một cuộc chiến tranh. Chị nói, có lẽ người Việt Nam là những người hiểu nhất sự kinh hoàng và mất mát vô bờ của chiến tranh là gì. Chị nói với chúng tôi chồng chị, một người đàn ông Hàn Quốc, đã chuẩn bị cho những đứa con của họ sơ tán về quê ngoại Việt Nam nếu chiến tranh xảy ra. Tôi hỏi chị có hiểu bài thơ của nhà thơ Mai Văn Phấn không, chị nói: chị không phải người làm thơ và cũng không phải người nghiên cứu văn học. Chị chỉ là mộtngười yêu văn học mà thôi.

Chị nói chị không hiểu hết ý tứ của bài thơ mà chỉ biết khi đọc xong bài thơ đó chị thấy thế gian này có gì đó rất lạ lùng và thiêng liêng mà chị chưa nhìn thấy một cách cụ thể, chị chỉ biết khi đọc xong bài thơ đó hay một số những bài thơ khác của các nhà thơ Hàn Quốc chị bỗng muốn nấu một bữa tối thật ngon và thật yêu thương cho chồng con chị. Nghe chị nói vậy, tôi giật mình. Sứ mệnh của thơ ca là chính đó. Và cũng vì lúc đó, tôi nhớ đến bài thơ Đêm tác giả của nữ nhà thơ Ba Lan, giải Nobel vănhọc, Wislawa Szymborska do dịch giả Tạ Minh Châu chuyển ngữ rất thành công. Bài thơ kể về một đêm thơ của một nhà thơ. Trong phòng đọc thơ có hơn chục người. Một nửa số người đó là người thân, bạn bè của nhà thơ. Một nửa là người qua đường ghé vào tránh mưa. Trong khi nhà thơ đang đọc thơ thì người thân, bạn bè chỉ mong cho nhanh kết thúc để tặng hoa và uống rượu. Những người tránh mưa thì nhìn ra ngoài xem trời tạnh chưa để ra đi. Chỉ còn một ông già ngôi nghe thơ và chìm vào một giấc mơ và trong giấc mơ đó ông gặp lại người vợ đã chết trở về nướng cho ông một chiếc bánh. Đấy là sức mạnh của thơ ca cho dù nó thật mơ hồ và thật mong manh.

Không có gì và không có ai có thể biện minh cho một cuộc chiến tranh giữa hai miền của đất nước này nếu nó xẩy ra. Một cuộc chiến tranh, nghĩa là sự thù hận và giết chóc, thật dễ hiểu vì sao và thật không hiểu nổi khi chúng ta nhìn cuộc chiến tranh đó bằng một đôi mắt của văn hóa. Tại sao không chỉ là thơ ca? Tại sao vậy? Câu hỏi tưởng ai cũng trả lời được mà đến tận bây giờ chúng ta vẫn không làm sao để ngăn cản được các cuộc chiến tranh. Có một bạn đọc Hàn Quốc nói với tôi rằng nhiều lúc ông thấy hoàn toàn thất vọng về thế gian này, các nhà thơ vẫn đọc thơ, người yêu thơ vẫn nghe thơ và những người khác vẫn cứ tiến hành chiến tranh để giết nhau một cách man rợ.

Nhưng tôi lại nhớ đến câu trả lời của nhà thơ Colombia, Chủ tịch Liên hoan thơ quốc tế lần thứ 20 ở Medellin, Colombia khi tôi hỏi ông về đất nước Colombia với những người yêu thơ một cách kỳ lạ nhưng cũng là một đất nước nổi tiếng của bạo lực, ma túy và mại dâm. Ông nó: Đất nước Colombia giống như hai dãy phố của một con phố. Dãy bên này là những nhà thơ và người yêu thơ. Dãy bên kia là bạo lực, ma túy và mại dâm. Sự thật, những nhà thơ và người yêu thơ khó có thể chiếm được dãy phố bên kia, nhưng họ phải chiến đấu để những kẻ từ dãy phố bên kia không tràn sang chiếm dãy phố bên này.

Có lẽ là vậy. Các nhà thơ và người yêu thơ phải chiến đấu không được phép ngưng nghỉ dù một phút cho hòa bình cho chủ nghĩa nhân văn và những vẻ đẹp của đời sống thế gian này. Nếu họ ngừng cuộc chiến này một phút thì những kẻ từ dãy phố bên kia sẽ tràn sang một phút. Có lẽ vì sứ mệnh có vẻ rất mơ hồ đó mà thơ ca không bao giờ chết. Cho dù có lúc nó đã bị hiểu lầm là: thơ ca phải là hoặc chỉ là những văn bản hóa mà chúng ta gọi là những bài thơ. Nó không thô thiển như vậy. Nó ẩn chứa và lan tỏa trong mọi ngóc ngách của đời sống này và thường xuyên chối từ cái vòng quây của chữ nghĩa trống rỗng và thời thượng mà không ít người sáng tác yên trí là đã "thuần phục" được nó trong cái vòng quây mang hình thức một bài thơ trong khi nó lại đang hiển lộ và ngân vang trong một góc phố chứa một nửa bóng tối vọng ra một tiếng kêu tuyệt vọng phi văn bản.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay