Thiên Luân

Chữ Kiếm Trong Thanh Gươm Của Việt Vương Câu Tiễn

3 bài viết trong chủ đề này

Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn

Nhạn Nam Phi


- Là bàiViết Khảo Cứu Hán-Nôm.

- Là bàiviết chứng minh chữ Nôm có trước.

- Chứng minh tiếng Việt là chủ thể tạo nên Hánngữ.(*Phát biểu khẳng định của nhà văn Hà Văn Thùy).


越王鳩淺自乍用劍”(Việt Vương Câu-Tiễn TựTác Dụng Kiếm) là 8 chữ đã được chạm-khắc trên thanh Gươm của việt Vương Câu-Tiễn

Posted ImagePosted Image

Kiếm-劍 và Gươm-Posted Image




Chữ Kiếmvà Gươm giống nhau! Nhân loại cùng 1 gốc; Phát âm “Gươm” cổ xưa hơn, vì có liênquang đến “kim” loại là vàng, mà VÀNG/Kim được thế giới với ngôn ngữ khác gọilà “Gold” / tiếng Anh, Pháp, Ý, Đức; Ginto/ Philipino_Guld / Thủy Điển v v…(Ngôn ngữ dần dần phân nhánh do sự thiên di của nhân loại, Các Phát âm càng cổxưa của các ngôn ngữ, là càng gần với gốc “khi chưa phân nhánh” thì tự nhiên làgiống nhau!).Với tiến bộ của khoa học, ngày nay, người ta cho rằng đường thiêndi của nhân loại bắt nguồn từ Châu Phi, Tôi ví dụ, là có 1 từ “Mẹ” đã sinh ra 2nhánh con rất giống nhau đi về 2 hướng là “Gold” và “Gươm”…

Chữ Kiếmngày nay như thế nầy: 劍-Kiếm.

(Ngoài ra, còn 2 chữ “kiếm” khác là : "Posted Imagekiếm” và“-Kiếm”)


Khoảng 2500 năm trước, và trước nữa thì chữ“Kiếm” lại là chữ “Gươm”! Cho nên, Chữ “Kiếm” trong thanh Gươm của Việt VươngCâu Tiễn lại chính là chữ “Posted Image-Gươm”! Và Chữ “Gươm” nầy lại làphù hợp hoàn toàn với cách đọc là “Kiếm”! Bỡi vì nó được ghép lại bỡi chữ “Kim”+ “Kiếm” = Kiếm:

Kim-金: Kim loại, Vàng, (Gold / Anh Ngữ…)

Kiêm-兼: Gấpđôi, kiêm nhiệm ( Thêm ).

-Kim” + “-Kiêm” =Posted Image -Kiếm.

Chữ "Posted Image"-Kiếm” nầy là Cách luyện Kim loạithành Kiếm ngày xưa: Thợ rèn nung cho kim loại Nóng rồi dùng búa của thợ rèn đậpcho kim loại dẹp-mỏng-dài, sau đó uống cong, xếp gấp-đôi kim loại, gập lạithành 2 lớp, tiếp tục nung nóng, rồi lại tiếp tục bẻ kim loại gấp đôi 2 lớp chồnglên nhau, Để có 1 thanh “báo kiếm” thì số xếp-gấp chồng lên nhau là khoãng trên30.000 lần…, Cho nên thanh kiếm sắc bén, mà lại có tính đàn hồi, khó gẩy, vàngười dùng kiếm nhờ kiếm có tính đàn hồi, nên bớt bị đau tức khi bị chấn động mạnhvào kiếm do chém Hay chống đỡ mạnh khi dùng kiếm.

“Kim-金”loại + “kiêm-”-nhiệm nhiều lớp …thành ra “Kiếm-Posted Image"Chữ“Kiếm” ngày xưa quả là Tuyệt! và đó chính là chữ “Gươm-Posted Image"-khiđọc theo phát âm của “chữ Nôm”!

2500 trước và trước nữa thì chữ Kiếm hay Gươm là như Vậy Posted Image ! Sau nầy, và cho đến ngày nay, chúng ta lại thấy chữ “Kiếm” khác! Là “Kiếm-”.

- Chữ“Kiếm” nầy được thể hiện bằng chữ “Thiêm-僉” + “Đao-刀” =“Kiếm-” …và Chữ “Đao-” lại được đơn giãn hóa thành ra“Đao-”, thành ra chữ của ngày nay là :“Kiếm-”.

chữ “--Kiếm”nầy quá mới! Nó không có, và không thể tìm trong sách “Thuyết Văn” giãi tự thờixưa của 2000 năm trước! 1 số Web site cho rằng “Thuyết Văn Giãi Tự” có ghi ghinhư vầy như vầy về “-kiếm” vv…, Việc giãi thích như vậy, để giãi thích về chữ “-Kiếm”trong 1 phiên bản của sách “Thuyết Văn” do tác giả Đoàn Ngọc Tài/Đời Mản Thanh làkhó tin!!! Vì nếu tra cứu thẳng chữ “-Kiếm”trong “Thuyết Văn Giãi Tự” của Hứa thận( Và các phiên bản do người khác hiệu đính) là tìm không thấy!

Bản chínhcủa sách “Thuyết Văn” đã mất, nhưng nhờ có nhiều sách khác đã ghi chú, diễngiãi các chữ bằng cách trích dẫn sách “Thuyết Văn”, Cho nên sau nầy người ta đãgôm góp, tổng hợp lại mà tái tạo sách “thuyết văn”, Ít nhất là 4 học giả củacác thời sau nầy đã biên soạn và hiệu đính sách “Thuyết văn”; Và chỉ có “Thuyết văn” giãi tự do Đoàn Ngọc Tàihiệu đính vào thời Mản Thanh thì có ghi chú chữ “-Kiếm” nầy! Các bản “Thuyết văn” khác thì không có chữ“-Kiếm” nầy để tra cứu .



“Thuyết Văn Giãi Tự” của Đoàn Ngọc Tài đời Mản Thanh ghi“-Kiếm”như sau :

[<說文解字>:劍,人所帶兵也。從刀僉聲/ Kiếm, Nhân sở đới binh dã. Tùng Đao thiêm thanh { Kiếm, người đeo nó (là)Lính vậy.}

Phầngiãi thích “劍-Kiếm”của“段玉裁-ĐoànNgọc Tài” khi hiệu đính sách “Thuyết Văn” nêu trên - có được đưa vào “Khang HyTừ Điễn”.

Nhưng, “Thuyếtvăn Giãi Tự”… xưa hơn (2000 năm trước), không do Đoàn Ngọc Tài Hiệu đính thì chỉcó chữ “-Kiếm”như thế nầy! Ngày nay người ta đọc chữ nầy là : “-Kiệp” ( nghĩa là cái “Kìm gấp”/Kẹp hay “thanhgươm”!!!) Thật ra, đây là chữ “Kiếm” đã được Khuất Nguyên của nước Sở dùngtrong thơ của “Sở Từ”:ví dụ…

帶長之陸離兮。――《楚辭·涉江》

Đới trườngkiếm chi lục ly hề. ( Đeo trường kiếm cho đẹp nầy.)- - “Sở Từ-Thiệp Giang”

Nhưng chữ “-Kiếm” nầy vẫn là mới! …Củ hơn, Và xưa hơn là,2500 năm trước thì chữ “kiếm” được chạm khắc trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn lại là chữ "Posted Image-
Kiếm”khác! Đó lại là chữ “Gươm” của “chữ Nôm”! …chữ Nôm của người Việt-Nam thì chữ nầyđược đọc là "Posted Image - Gươm"!

***Chúng ta thấy gì khi khảo cứu về chữ “Kiếm” hay “Gươm” ???

Ai nghĩ rằngchữ “Nôm” mới có sau nầy thì xin khảo cứu về chữ "
Posted ImageGươm”hay “-Kiếm”!

Chữ Gươm- Posted Image của“Nôm”/Việt-Nam lại là chữ " Posted Image-Gươm/Kiếm”của thuở xa xưa vào thời của Việt Vương Câu-Tiễn!

Xin hảy xem kỷ chữ “Kiếm” khoãng 2500 năm về trước-trong thanh “kiếm”/”Gươm”của Việt Vương Câu-Tiễn –Hình / photo-chính là chữ "Posted Image"- Gươm” của chữ “Nôm”/Việt-Nam là giống nhau!


Posted ImagePosted Image



.


Xem hình: Chữ thứ 4 của hàng bên trái / phía dưới chót: là Chữ “Gươm Posted ImageKiếm” được khắc trong thanh Gươm/Kiếm của Việt Vương Câu Tiễn.

Posted Image = Posted Image“Gươm”- Bên trái là chữ “金-Kim”, và bên phải là chữ “兼-Kiêm” = Posted Image- Kiếm.( Chữ “Gươm/Kiếm” nầy vẽ rỏ hình chữ “kim” bên trái và cái “lò” rèn bên phải” (cũng có người nhìn vào hình mà suy ra chữ “Gươm/Kiếm” trong hình là chữ viết kiểuNầy


Posted Image -Gươm/Kiếm;( So sánh sự biến dạng mà giống nhau: 僉=兼 / thiêm=kiêm)/Tuy nhiên, chữ nầychưa bao giờ thấy xuất hiện xưa nay!

8 Chữ “Việt Vương Câu-Tiễn Tự Tác Dụng Gươm(Kiếm)”được khắc trên thanh Kiếm của Việt Vương câu Tiễn là : 越王鳩淺自乍用Posted Image

Nhưngvì không đánh máy được chữ "Posted Image-kiếm”nầy! cho nên ai cũng phải dùng chữ “劍-kiếm” mới để thay thế khi dùng bàn phiếm và trở thành “越王鳩淺自乍用劍”.

*Khẳng định bằng hình ảnh/ Kiếm cổ: Chử “Kiếm- Posted Image"trong Thanh kiếm của Việt Vương Câu Tiễn thìhoàn toàn giống như chữ “Gươm-Posted Image "bên chữ Nôm của ViệtNam ngày nay.

Posted Image"là Nôm mới có sau nầythì xin hảy “cập nhật thông tin” - nhìn rỏ chữ “Gươm/Kiếm” đã được chạm-khắcvào thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn của 2500 năm về trước.(Xem hình) –Thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn được đào lên từ dưới 1 ngôi cổmộ của tỉnh Hồ Bắc vào tháng 12, năm 1965. Hiện đang trưng bày trong Viện bảotang ở tỉnh Hồ Bắc-Trung Quốc.

_Tôi vàmọi người có thể đánh máy chữ “-kiếm”nầy!


_ Chữ “Gươm” là Nôm của tiếng Việt Nam, và cũng làchữ Nôm được dùng trong hiện tại, thì tôi phải trình bày theo cách “dán hình”:Gươm=

Posted Image

Thật ra thì phát âm“kiếm” và “Gươm” là như nhau! Gươm là Kiếm, Kiếm là Gươm!

“gươm” đọc thành “kiếm”= Gươm =>“Kươm>Kem>Kiêm>Kiếm”

“Kiếm” đọcthành “gươm”= “Kiếm=>Kiêm>Kem>Kươm>Gươm”

…Chỉ làdo trại âm bỡi giọng đọc Nam bắc và đông tây của 1 vùng địa lý quá rộng mà tạonên “Gươm” và “kiếm”…Ngoài ra còn có các âm khác tương tự của chữ “kiếm” của tiếngSở, Ngô, Mân v v…

“Kiếm”-Ngàynay tiếng Mân việt/Triều Châu ( gốc là tiếng Sở) đọc là “Kiem” hay “Kièm” .

“Kiếm” Ngàynay tiếng Việt/ của Tỉnh Quãng Đông đọc là “Kiêm”.

“Kiếm” –Quãng Âm/Thời Đường Và Tống đọc là “Kémm”( gọi là “Quãng âm”-nghĩa là quãng đạiquần chúng đọc phát âm nầy vào thời Đường và Tống_ Còn gọi là “Đường Âm”).

_Trường hợp đặc biệt là: Tiếng Quang thoại/BắcKinh ngày nay đọc “Kiếm-劍” là “劍-Chén” – Dùng mẩu tự Anh Văn/EnglishPhiên âm là “Jiàn-劍”- và đọc là “Chén”(“Chén”/Xin đọc theo giọng bắcHà-Nội)_Cây “kiếm” là thanh gươm bằng kim loại, dùng cho việc “Chém”, tiếng Việtgọi là Cây “Chém-劍” đã được“quốc tế hóa” bỡi các bộ tộc Hung-Nô và đọc là “Chén-劍-Jiàn(Chém)”; Và “Chém” với “Kiếm”rất tương đồng, chỉ là “Ch” biến thành “K” mà thôi! Tiếng Việt Có từ: Chém,chít, châm, chuốt, chọt, chĩa,v v… ! TiếngViệt có cây “kiếm”, cây Kích, cây kéo và cây kiềm, cây kẹp, cây Cuốc, vv… (Không có ngôn ngữ nào như vậy_hảy sosánh các từ ngữ liên quang rất logic vừa nêu), và đừng tưởng rằng “Kiếm-劍” là tiếng nước ngoài!!!

Khi nóiđến 8 chữ được Chạm trong thanh gươm của Việt Vương Câu Tiễn thì người ta phảidùng 8 chữ nầy “越王鳩淺自乍用劍”khi đánh máy : Nếu muốn đánh máy chữ “Gươm hay Kiếm” như đúng chữ đã có trên thanhGươm-Kiếm đó thì không được! Vì còn thiếu/ còn chưa có Uincode để đánh máy chữnầy! (Tôi không có chuyên môn để tạo ra Unicode cho Font chữ Đánh máy, mong ngườikhác sẽ làm vậy! Mong lắm thay!).

Kết luận: Qua khảo cứu, thấy được bằng chứng vàsự thật-Chữ Nôm là "

Posted Image-gươm" ”: rỏràng không phải mới có sau nầy! Chữ nầy đã có trước khi triều đại nhà Hán doLưu bang lập ra, “tuổi” của chữ “gươm” chắc chắn đã hơn 2500 năm, và hơn bao lâu thì còn phải tiếp tục tìm ra…; Xin đừngnói “chữ Nôm” có sau chữ “Hán” hay “Hán-Việt” khi căn cứ vào 1 số chữ mới đượcbổ túc sau nầy! Tất cả các ngôn ngữ và chữ Viết của bất cứ nơi nào cũng luônluôn có sự bổ túc và đổi mới theo dòng thời gian phát triễn của lịch sử; Riêngchữ Việt Cổ thì theo dòng thời gian lại có nhiều tên gọi là chữ Nho, Hán-Việt,Nôm v v…; Bài Viết nầy là 1 phần nhỏ trong phần lớn của việc khảo cứu Hán-Nômvà chữ Việt cổ: Nếu bị bắt buộc phân định chữ Việt cổ ra làm 2 là Hán-Việt vàNôm …thì rỏ ràng là Nôm có trước-Và “Ngược lại”-nếu khỏi “phân biệt” thì: Tất cảchỉ là chữ Việt cổ bị biến, chuyễn, và do người ta đặc tên là Nho, Hán, Nôm vv…rồi tạo ra nhiều ngộ nhận! Trong khi qua nhiều khảo cứu và bằng chứng ( Xemnhững bài khảo cứu Hán Nôm trước của tôi (cùng tác giả): Nhạn Nam Phi) thì thấyrỏ Chữ Việt hay tiếng Việt là chủ thể đã tạo nên “Hán-Việt” ở Việt Nam và“Hán-Ngữ” ở Trung Hoa ngày nay!(*) “Hùngbiện” hay “ngụy biện” đều sẽ không bằng 1 bằng chứng rỏ ràng! người ta sẽ :Nghe-nhìn-suy nghĩ-và phân biệt được đâu là sự thật/Bỡi vì con người có linhtánh và lý trí; Ngày nay, Người Hoa hay Hán ngữ …đã bị “thất truyền” và khôngbiết rằng có chữ “Gươm”! không biết đọc chữ “Gươm”! Trong khi bên người Việtthì chữ “Gươm” vẫn trang trọng nằm trong chữ “Nôm”! Và chữ “Gươm” nầy lại đã đượcchạm-khắc trên thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn cách nay cở 2500 năm rồi!

Ghi chú:

(*)Điềunày không có gì lạ, bởi đúng như nhà văn-tác giả Hà Văn Thùy qua nhiều nghiên cứuđã khẳng định từ lâu rằng:

_“Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán.” Đấylà kết quả của tiến trình lịch sử đích thực đã diễn ra. Vào Trung Nguyên chiếmđất của người Việt, người Hung-Nô/Mông Cổ đã học tiếng nói và chữ viết của ngườiViệt cổ và hòa huyết với người Việt-sinh ra các thế hệ sau và tự xưng là ngườiHoa Hạ. Sau vài thế hệ, người Hoa Hạ trở thành lớp thống trị xã hội, đã tiếp tụcvai trò chính thống của cha ông Mông Cổ, ảnh hưởng của các triều đình và quyềnlực xã hội đã đổi văn phạm theo cách nói “phụ trước chính sau” của tộc Mông Cổ,đồng thời chuyển hóa dần tiếng Việt thành tiếng Hoa Hạ và sau thành tiếng Tần,Hán. Sau khoảng 4000 năm bị che khuất, nay là lúc chúng ta khai quật ngôn ngữHán cổ và tìm ra nghìn vạn bằng chứng cho thấy chữ Hán chính là chữ Việt cổ. Cólẽ tới lúc phải làm cuốn Bách Việt đại từ điển để phục nguyên vốn chữ Việt cựckỳ phong phú từng bị vùi lấp.(* nhà văn Hà Văn Thùy/nhà nghiên cứu Dân tộc học,đã xuất bản quyển sách “Hành trình tìm lại cội nguồn-Nghiên cứu và Đối thoại”/nhàxuất bản văn học”.

Đầu Xuân Tân Mảo/2011-Viết tại Sacramento-CA-USA.

Nhạn Nam Phi.

Thamkhảo:

Nước Việt của Việt VươngCâu-Tiễn và Mân Ngữ.

DUYGIÁP LỆNH

Chữ Nôm-字喃 cổxưa và Ý nghĩa của *Việt*

NGUỒNGỐC CHỮ NÔM

PHÁT HIỆN LẠI VỀ VIỆT NHÂN CA (越人歌)

Chử Nôm Làm Rỏ Cổ Sử Và cổ Sử LàmRỏ Chử Nôm.

http://vi.wikipedia....2u_Ti%E1%BB%85n

http://www.hudong.co...%8B%BE%E8%B7%B5

http://www.tianya.cn...1/1208578.shtml

http://zh.wikipedia....%A7%A3%E5%AD%97

-Các link để vào trang của sách “Thuyết văngiãi tự” của các học giả xưa:

· 《说文解字》在线查询 DT-Studios提供,可进行篆文、简体切换。

· 《说文解字注》 全文检索 - 许慎撰 段玉裁注

· 《說文解字》全文檢索測試版 - 许慎撰 徐鉉校订

· 《說文解字》在线查询 - 许慎撰 徐鉉校订

· 說文解字 TrueType 字型

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đây có thể coi là bằng chứng khảo cổ được chưa hỡi các vị trong "giới nghiên cứu lịch sử và cộng đồng các nhà khoa học"? Cái các vị đòi bây giờ có rồi đấy!

Các vị chắc lại đang nặn óc nghĩ cách giải thích khác, sao cho phủ nhận bằng được nền văn minh rực rỡ của dân tộc mình thì mới cam lòng! Các vị hãy cố gắng lên!

Nhưng chân lý chỉ có một mà thôi.

Rất cám ơn Nhạn Nam Phi!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đây có thể coi là bằng chứng khảo cổ được chưa hỡi các vị trong "giới nghiên cứu lịch sử và cộng đồng các nhà khoa học"? Cái các vị đòi bây giờ có rồi đấy!

Các vị chắc lại đang nặn óc nghĩ cách giải thích khác, sao cho phủ nhận bằng được nền văn minh rực rỡ của dân tộc mình thì mới cam lòng! Các vị hãy cố gắng lên!

Nhưng chân lý chỉ có một mà thôi.

Rất cám ơn Nhạn Nam Phi!

Mọi cố gắng của họ đều vô ích. Cho dù họ là bất cứ thế lực nào trên thế giới này. Việt sử 5000 năm văn hiến là chân lý cuối cùng! Nhanh thì ngay năm nay, chậm không quá 10 năm nữa, cả thế giới phải công nhận điều này. Posted Image. Nếu họ không hiểu bằng tư duy nhận thức thì sẽ phải hiểu bằng trực quan sinh động.

Anh Votruoc thân mến.

Đây cũng chính là bằng chứng xác định từ Hán Việt có từ thời Hùng Vương để dạy cho các quan chức trong ngành ngoại giao.

Làm gì có chuyện 30. 000 từ Hán Việt phổ biến khắp cộng đồng người Việt còn lại sau hàng ngàn năm Hán Hóa mà lại không có một chế độ chính trị công hóa nó để có hiệu lực phổ biến, ứng dụng. Trong khi chính người Hán chỉ cần 1000 từ đủ để xóa mù chữ.

Để thiết lập 30. 000 ngàn từ Han Việt và phổ biến ăn sâu vào đời sống xã hội, cần cả một viện Hàn Lâm ở một quốc gia cường thịnh với một nền tri thức văn hóa xuất sắc. Ngay bây giờ cái thế giới văn minh đầy kiêu ngạo này, muốn làm lại chuyện đó cũng cực khó khăn.

Vài lời chia sẻ.

Share this post


Link to post
Share on other sites