Tầm nhìn mới

"tết" Chứ Không Phải Là "tiết"

5 bài viết trong chủ đề này

Posted (đã chỉnh sửa)

Dưới đây là bài khảo luận trên trang viết cá nhân của Sư Huynh Quảng Nhẫn - LY. Lê Thuận Nghĩa ( CHLB Đức )

Thật là một bài khảo xưa nay hiếm - công phu có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa dân tộc.Đương tiết xuân thì xin dẫn đăng để qúi chư vị tham khảo.

"TẾT" chứ không phải là "TIẾT"

(Khảo luận Lịch Sử)

LND. Ngày nay hầu như những bài viết của các học giả lịch sử, các nhà biên soạn từ điển, và ngay cả tầng lớp trí thức Việt Nam cũng như các chính khách, lãnh tụ Việt Nam khi viết về Tết cổ truyền hay chúc tụng Tết cổ truyền Dân tộc đều dùng từ "Tết Nguyên Đán".

Sự nhầm lẫn vô tình này đã tạo ra suy nghĩ Tết cổ truyền Việt Nam có xuất xứ từ Trung Hoa. Và cho rằng chúng ta lệ thuộc vào Văn hóa Tàu.

Posted Image

"Tết" là lễ hội, và hầu như những dân tộc có nền văn hóa cổ truyền khởi nguồn từ nền văn hóa lúa nước, đều gọi những dịp tụ tập vui mừng thi đua chúc tụng... những thành quả có được hay là để chiêm cúng, cầu mong có được thành quả tốt trong việc trồng trọt là "Tết".

Chữ "Tết" tương đối đồng âm với chữ "Tiết" trong 24 "Tiết Khí" của lịch nông nghiệp Á đông (Âm lịch, Lịch mặt trăng..). Tết Cổ Truyền Việt Nam lại hầu như trùng với ngày đầu tiên của Tiết Lập Xuân, là ngày khởi đầu cho một mùa có tiết khí thuận lợi cho việc trồng trọt, gọi là ngày Nguyên Đán. Cho nên người Việt chúng ta bắt đầu là nhầm lẫn, sau đó là thành thói quen và cuối cùng đã biến Tết, một ngày lễ hội mừng năm mới theo Lịch nông nghiệp thành Tết Nguyên Đán.

Tết cổ truyền Việt Nam là một lễ hội truyền thống có liên quan đến việc trồng cấy cây nông nghiệp trong tập tục của người Việt cổ đại, chứ hoàn toàn không liên quan đến Tiết Nguyên Đán của Trung Hoa. Một số học giả cho rằng từ nguyên của Tết là xuất xứ từ Tiết Nguyên Đán bên Tàu là sai. Cũng chính vì vậy mà đã hình thành một khái niệm sai lầm trong nhận thức gọi Tết cổ truyền Việt Nam là Tết Nguyên Đán.

Ngày nay hầu như những bài viết của các học giả lịch sử, các nhà biên soạn từ điển, và ngay cả tầng lớp trí thức Việt Nam cũng như các chính khách, lãnh tụ Việt Nam khi viết về Tết cổ truyền hay chúc tụng Tết cổ truyền Dân tộc đều dùng từ "Tết Nguyên Đán".

Sự nhầm lẫn vô tình này đã tạo ra suy nghĩ Tết cổ truyền Việt Nam có xuất xứ từ Trung Hoa. Và cho rằng chúng ta lệ thuộc vào Văn hóa Tàu.

Cũng chính vì suy nghĩ này mà một số trí thức Việt Nam ở hải ngoại đã hô hào chống Trung Quốc bằng cách gạt bỏ Tết Cổ truyền và Tết Trung thu ra khỏi sinh hoạt cộng đồng. Họ cuồng tín cho rằng làm như vậy mới thoát ra khỏi ách đô hộ Văn hóa của phương Bắc.

Tết cổ truyền Việt Nam là lễ hội có trước ngày lễ "Tân Niên", lễ mừng ngày Nguyên Đán của người Tàu rất lâu. Và nếu như hai ngày lễ này có giống nhau về truyền thống, thì chính Người Trung Hoa bắt chước người Việt mới có lễ hội này chứ không thể nói rằng Tết cổ truyền Việt Nam xuất xứ từ Tàu được.

Không thể có chuyện cái có trước lại bắt chước cái có sau được, đó là nghịch lý.

Các bạn hãy xem Khổng Tử là bậc tổ sư cho lễ nhạc của Trung Hoa viết trong sách Kinh Lễ như sau: ":"Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là "TẾ SẠ" (Tế Sạ là Khổng Tử phát âm chữ Thêts, là lễ hội năm mới của người Thái đất Phong Châu- TN)

Sách Giao Chỉ Chí cũng có đoạn viết "Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, chúng gọi ngày đó là Nèn- Thêts, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này. Chỉ có bọn man di mới có ngày hội mà người trên kẽ dưới cùng nhau nhảy múa như cuồng vậy, bên ta không có sự Quân thần điên đảo như thế.."

Hai đoạn trích từ hai cuốn Kinh sử nổi tiếng của Văn hóa Trung Hoa đều khẳng định Tết của Việt có trước ngày "Tân Niên" Chinese new Year ", Thrếts Chìn" của người Tần Trung Hoa rất xa.

Tết cổ truyền của Việt Nam có từ thời Hồng Bàng, có trước cả thời Hùng Vương vì vậy mới có sự tích Lang Liêu gói bánh chưng bánh dày mừng Tết vua Cha chứ. Có nghĩa là Tết cổ truyền Việt Nam đã có hơn 4000 năm rồi. Posted Image

Trong khi lễ "Tân Niên- 新年 " của người Tàu thì sao?

Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Xuân tiết (春節), Tân niên (新年) hoặc Nông lịch tân niên (農曆新年). có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ.

Đời Tam đại, nhà Hạ (1767 TCN) Tân Niên chọn ngày đầu tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương (1122 TCN) lấy ngày đầu tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu (250 TCN) chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng lễ mừng Tân Niên.

Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tân Niên vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về khởi đầu năm mới nữa cho đến tận bây giờ.

Như vậy là ngày Tân Niên của Trung Hoa có sau ngày Tết cổ truyền Việt rất xa. Và thay đổi tứ tung. Còn ngày Tết cổ truyền của Tộc Việt vốn không thay đổi từ thượng cổ cho đến nay. Thế thì tại sao lại nói ngày Tết cổ truyền Việt Nam là có từ Tết Tàu được. Thậm đại vô lý.

Nếu tra theo từ Nguyên của chữ Tết, vốn chẳng liên quan gì đến chữ Tiết trong Tiết Nguyên Đán của Lịch Tàu cả. Vì bởi Nguyên Đán vốn không phải là Tiết trong 24 bốn Tiết khí của Thời tiết phân chia theo lịch Mặt trăng. Nguyên Đán chỉ là buổi sáng đầu tiên trong ngày khởi đầu của Tiết Lập Xuân thôi (Nguyên= Nguyên vẹn, khởi đầu, Đán= buổi sáng)

Nguyên Đán vốn không phải là Tiết khí, vả lại ngày Nguyên Đán là ngày đầu của Tiết Lập Xuân, mà ngày đầu của Tiết Lập Xuân không nhất thiết trùng với ngày Sóc (ngày có trăng) là ngày đầu tiên của tháng đầu tiên trong năm được. Vì vậy Tết không thể là "Tiết" Nguyên Đán và càng không phải là "Tết" Nguyên Đán được.

24 Tiết khí của Lịch nông nghiệp (Lịch âm) là :

(Con số đầu là chỉ kinh lộ Mặt trời)

315° Lập xuân: Bắt đầu mùa xuân

330° Vũ thủy: Mưa ẩm

345° Kinh trập: Sâu nở

0° Xuân phân: Giữa xuân

15° Thanh minh: Trời trong sáng

30° Cốc vũ: Mưa rào

45° Lập hạ: Bắt đầu mùa hè

60° Tiểu mãn: Lũ nhỏ, duối vàng

75° Mang chủng: Chòm sao tua rua mọc

90° Hạ chí: Giữa hè

105° Tiểu thử: Nóng nhẹ

120° Đại thử: Nóng oi

135° Lập thu: Bắt đầu mùa thu

150° Xử thử: Mưa ngâu

165° Bạch lộ: Nắng nhạt

180° Thu phân: Giữa thu

195° Hàn lộ: Mát mẻ

210° Sương giáng: Sương mù xuất hiện

225° Lập đông: Bắt đầu mùa đông

240° Tiểu tuyết: Tuyết xuất hiện

255° Đại tuyết: Tuyết dầy

270° Đông chí: Giữa đông 22 tháng 12

285° Tiểu hàn: Rét nhẹ

300° Đại hàn: Rét đậm

Ngày Sóc đầu tiên là ngày bắt đầu tháng đầu tiên của năm mới (Mồng một Tết) không hẳn là ngày đầu tiên của tiết Lập xuân. Vì ngày mồng một Tết thì dịch chuyển lung tung theo lịch Âm, thiếu, nhuận thay đổi liên miên. Còn ngày đầu tiên của tiết Lập Xuân được tính toán thành bất di bất dịch và luôn nhằm ngày 04 tháng 2 của năm Dương Lịch

Đấy, 24 Tiết khí có cái Tiết nào là Tiết Nguyên Đán đâu. Nhầm cái ngày đầu (Nguyên Đán) của Tiết Lập xuân là Tiết, rời nhầm sang luôn Tiết là Tết, từ đó cứ gọi luôn Tết cổ truyền là Tết Nguyên Đán. Rồi trở thành như một thông lệ.

Cái phiền lòng nhất là các định nghĩa, các khái niệm trong sách vở cứ cho Tết cổ truyền Việt bắt nguồn từ Tiết Nguyên Đán bên Tàu mà truyền dạy cho con cháu mới khổ chứ..hu hu...

Vì phát âm tương tự như chữ Tiết nên chúng ta cứ nhầm Tết là Tiết, chứ từ nguyên của Tết vốn xuất xứ từ trong ngôn ngữ của các dân tộc Á Đông để chỉ các lễ hội mừng mừa mưa mới, là mùa bắt đầu nuôi cấy và trồng trọt.

Theo tư liệu tôi đọc được trong một nghiên cứu về Tết thì chữ Tết có xuất xư từ các chữ này đây:

"Tết là gì?

Tết là tên riêng [nom propre] gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền đông nam Á

Tiết chỉ là một tên thuờng [nom commun] của Tàu gọi những thời tiết thay đổi trong một năm chỉ có nguời Việt gọi là Tết hay tết nguyên đán, trong khi cả ngàn triệu nguời Tàu chỉ biết gọi là duỳn tản [nguyên đán] hay là xin nển [tân niên], vậy tại sao họ không gọi là Tết ? vì Tết không phải là tiếng của họ.

Sau đây là những cognates /từ đồng nguyên/ khắp Đông nam Á, dính líu với TẾT :

Al de Rhodes : Tết

Tết năm [sic],

tết ai,

ăn Tết

Từ điển Khai Trí Tiến Đức không hề cho rằng Tết là # tiết của Tàu. Vả lại các ngôn ngữ chung quanh tiếng Việt cung đều gọi là Tết nhu chúng ta :

Nùng : TẾT

nèn Tết, năm Tết

Muờng :Thết, Tết, ăn Thết ăn Tết

Thái : Thêts lễ mừng năm mới

Thế -xa New year celebration trong kinh Lễ, Khổng tử gọi là Tế-sạ

Thêts khal mùa Tết, những ngày tết.[khal là thời gian]

khal thêtx ngày Tết

Thêts Thày Tết Thái [Thai New Year]

Thrếts Tết

[theo Từ điển Francais-Thái của Pallegoix]

Thrếts Chìn Tết của Tàu Chinese new Year

Chêtr Tết của Thái [fifth lunar month / mid April Thái festival]

Tết / Đết tên ông thần mua [rain god, monsoon deity]

Trôts lễ hội Thái cổ, vào đầu mùa mưa bên Thái

Tốts Farăng Tết Hoa-lang [western New Year's Day]

Xem Từ điển nguồn gốc tiếngViệt (Bs Nguyễn hy Vọng)

Zhuang : XIT / SIT, lễ Tết của 20 triệu nguời Zhuang bên Quảng tây,vùng Quế Lâm, nói tiếng Tai tiếng Thái xua !

đuon Sít, tháng Tết [mois de festival célébrant la mousson]

[đuon là tháng]

Chàm : TÍT, lễ tháng năm của lịch xua Chàm [tháng gió mùa bắt đầu thổi] băng Tít # ăn Tết, CHÊT, Tết, bu-lăn Chêt, háng tết , bu lăn là tháng [tiếng Chàm]

KTÊH, lễ hội lớn nhất trong năm của nguời Chàm

Mon : kTEH, New Year Day of the Mon people

o-TEH Tết, New Year celebration with water splashing rituals

o - Tet

k-Tât New Year rituals

k-Tet id

Khmer : CHÊTR là Tết, lễ mừng tháng 5 theo cổ lịch Khmer là tháng gió mùa bắt đầu thổi nguợc lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông nam Á tùy theo noi, từ cuối tháng tu đến cuối tháng năm]

khae Chêtr tháng tết,

[khae là tháng], 13 tháng 4 dương lịch, 23 tháng ba âm lịch;

Chêtr khal thời gian có lễ Tết [khal là thời gian].

India : CHETR là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn độ, hai tháng giao mùa đem mưa đến [mois du début de la mousson]

Nepal : TEEJ lễ đầu năm của Nepal

Mustang : TIDJ lễ đầu năm của xứ Mustang, sát với xứ Nepal

Munda : TEEJ lễ ăn mừng mùa mưa đến / the ancient melodies of Teej , marking the return of the monsoon and the promises of prosperity [National Geographic magazine]

Hơn nữa, xem trên, có hơn chục ngôn ngữ và dân tộc có nền văn hoá khác hẵn với Tàu, mà vẫn gọi cái lễ ấy là :Têt, đồng âm với cái tiếng Tết của dân Giao chỉ và của dân Mừờng, nên ta phải "suy nghĩ lại" và "xét lại" về cái hiểu lầm Tết khác Tiết của hơn 2000 năm qua.

Như vậy, tết là tên gọi cái ngày ăn mừng đầu mùa mưa của các dân tộc và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu năm âm lịch luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer, Vùng đông bắc Ấn độ, Nepal, Mustang, Munda

(Nguồn Đổ Thành Nhạn Nam Phi)" (Hết trích)

Những luận cứ trên khẳng định Tết là lễ hội mừng năm mới theo lịch Nông nghiệp của Văn hóa lúa nước, gọi là Tết Cổ Truyền Việt Nam, chứ không thể gọi là Tiết hay là Tết Nguyên Đán được. Và đương nhiên là lễ hội này chính là lễ hội văn hóa truyền thống 100% của người Việt, không phải có xuất xứ từ Trung Hoa.

Vì vậy khẩn xin các phương tiện truyền thông, các lời chúc tụng của lãnh đạo dân tộc Việt, và các nhà hoạt động văn hóa lưu tâm khi viết và nói về lễ hội mừng năm mới theo Nông lịch của người Việt là "Tết Cổ Truyền" chứ đừng nhầm lẫn là Tiết Nguyên Đán, hay là Tết Nguyên Đán. Vì không những đó là sự nhầm lẫn lịch sử tai hại mà còn tỏ ra sự hiểu biết về Văn hóa Dân tộc Việt quá nông cạn.

Chấm hết việc khai bút đầu Xuân

Mồng 2 Tết Cổ Truyền Tân Mão

Thuận Nghĩa

Edited by Tầm nhìn mới
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những luận cứ trên khẳng định Tết là lễ hội mừng năm mới theo lịch Nông nghiệp của Văn hóa lúa nước, gọi là Tết Cổ Truyền Việt Nam, chứ không thể gọi là Tiết hay là Tết Nguyên Đán được. Và đương nhiên là lễ hội này chính là lễ hội văn hóa truyền thống 100% của người Việt, không phải có xuất xứ từ Trung Hoa.

Vì vậy khẩn xin các phương tiện truyền thông, các lời chúc tụng của lãnh đạo dân tộc Việt, và các nhà hoạt động văn hóa lưu tâm khi viết và nói về lễ hội mừng năm mới theo Nông lịch của người Việt là "Tết Cổ Truyền" chứ đừng nhầm lẫn là Tiết Nguyên Đán, hay là Tết Nguyên Đán. Vì không những đó là sự nhầm lẫn lịch sử tai hại mà còn tỏ ra sự hiểu biết về Văn hóa Dân tộc Việt quá nông cạn.

Chấm hết việc khai bút đầu Xuân

Mồng 2 Tết Cổ Truyền Tân Mão

Thuận Nghĩa

Vâng. Tết cổ truyền là của người Việt. Nó hoàn toàn trùng khớp với lich cày cấy, nghỉ ngơi và thời tiết của cư dân Lạc Việt. Nó không thể do người Hoa hạ trồng lúa mì, cao lương nghĩ ra. Mở rộng hơn Rằm tháng Giêng (Tết Trung thu), lịch âm cũng là lịch Việt.

Báo đài, TV họ vẫn nói Tết nguyên đán là vì họ không hiểu nguồn gốc của Tết. Đã đến lúc họ cần thay đổi và goi là Tết cổ truyền dân tộc mới thể hiện đúng Tết của người Việt, lịch của người Việt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tết là gì?

(http://www.camcuoi.com)



Một câu hỏi xưa như trái đất những cũng luôn mới như tráiđất. Đời người trải qua biết bao nhiêu cái tết, nhưng mỗi lần tết đến vẫn thấynguyên vẹn cảm xúc hồi hộp. Tết là:



- Là dịp để một số kẻ cơ hội “hối lộ hợp pháp” bằng “quàTết”!



- Tết là mua hàng nhiều nhất, ăn uống nhiều nhất, vuinhất... Chẳng thế mà dân gian gọi là “Tết nhất”!



- Tết là ngày mà người ta đến nhà thăm nhau để rồi... rất ítkhi gặp nhau!



- Tết là ngày để người ta ăn xả láng, uống vượt khả năng đểrồi nếu vợ nhắc nhở thì cười khì: Tết mà!



- Tết là những ngày nghỉ đích thực của cu Tí vì chắc chắn nókhông phải đi học… hè!



- Trong “Tết” có chữ “tế”, giống như cúng nên ngày Tết làngày cúng tổ tiên!



- “Tết” có chữ “ế” vì nhiều người ham Tết đắt hàng nên đầucơ đến mức... ế hàng!



- Trong “Tết” còn có chữ “ết”, bởi ba ngày Xuân nhiều ngườiuống rượu bia rồi phóng xe lạng lách

Đâm quàng vào nhau, ngã mà c…hết .

Share this post


Link to post
Share on other sites

ACE tham khảo bài viết rất hay về Tết ở đây

Nguồn Gốc và ý Nghĩa của chữ “Tết” và “Năm”

Đăng ngày:16:20 25-01-2011

Thư mục: Tổnghợp

Nguồn Gốc và ý Nghĩa của chữ “Tết” và “Năm”.

Bài Khảo cứu chữ Việt Cổ.

ChữViệt ngày nay chia ra làm Kim văn và Cổ văn: Kim Văn là nói chung về chữ viếtcủa ngày nay, và Cổ Văn là chữ của ngày xưa; ngày nay chữ Việt được viết bằngmẩu tự La-tin. Ngày xưa, chữ Việt được viết bằng chữ Tượng hình. Cổ văn củaViệt là Hán-Nôm, lại bị chia ra làm 2 phần Hán-Việt và Nôm.

Khi mànhắc đến văn tự của thời xưa, thì tự nhiên là phải đặc tên và gọi là “Cổ văn”cho dể phân biệt rỏ ràng! Cổ xưa lại chia ra làm trung cổ, rồi thượng cổ vàthậm chí là thời nguyên thủy v v… đó là cái rắc rối khi diễn đạt bằng ngônngữ-khác với cách diễn đạt bằng hình ảnh!

Thật rathì ngôn ngữ chỉ là ngôn ngữ, và chữ viết đơn thuần chỉ là chữ viết. Nhưng,ngôn ngữ và chữ viết luôn luôn biến đổi do hoàn cảnh lịch sử và sự tiến bộ củavăn minh và văn hóa của mổi dân tộc và của nhân loại. Chữ Việt của người Việtngày nay đã là “chữ Việt”, và chữ Viết của người Việt thời xa xưa cũng đã là“chữ Việt”-“chữ Việt cổ”.

Nếu đọcgiả đã xem qua những bài viết của tôi trước đây về khảo cứu Hán-Nôm, thì đãthấy rỏ nhiều bằng chứngchữ Việt cổ đã để lại những vết tích rỏ ràng mà ngàyxưa do cách gọi tên và cách diễn đạt là Hán, Hán-Việt, NÔm v v…nên đã tạo ranhững ngộ nhận, nên đã làm cho người ta có cách suy nghĩ và cách nhìn nhiềukhiếm khuyết về “chữ Việt Cổ”-Xem các bài viết :

NướcViệt của Việt Vương Câu-Tiễn và Mân Ngữ.

DUYGIÁP LỆNH

ChữNôm-字喃cổ xưa và Ý nghĩa của *Việt*

NGUỒNGỐC CHỮ NÔM

PHÁT HIỆN LẠIVỀ VIỆT NHÂN CA (越人歌)

ChửNôm Làm Rỏ Cổ Sử Và cổ Sử Làm Rỏ Chử Nôm.

Hoàng-Viêmlà Hoẳng Và Chim Trong Trống Đồng

Đụn Tiên: Động Đình Hồ-洞庭湖

(Phần trên là nguồn Link của những bài khảo cứuHán-Nôm trước, có trên nhiều trang WEB)

Bàiviết nầy tiếp tục và chứng minh rỏ hơn về chữ Việt cổ, và nhân dịp đón xuân TânMảo, xin bàn luận về nguồn gốc và ý nghĩa của những từ ngữ của chữ “Tết”, và“Năm” .

* Khảo Cứu Hán _ Nôm : Chử “Tết” hay “Tiết” = .

Tết làgì? Tết dương lịch của văn hóa phương Tây quá phổ biến trên toàn thế giới! vàdần dần thì câu “Happy new year” ai cũng biết! ở đây, xin nói về tết “Ta”, tếtcủa Âm-Lịch.

Tết âmlịch: tết năm mới, tết nước, tết lúa, tết mùa v v..của Việt, Hoa, Ấn,Thái ,Mường, Chăm, khmer v v…

Trướchết, ta xét thấy: tiếng Việt ngày nay gọi là Tết.

“Tết” là danh từ của Lể mừng năm mới của khoảng chừng 1/3 dân sốtrên thế giới ngày nay : bao Trùm vùng Đông Nam Á, Trung-Hoa, Hàn, Nhật, Ấn, Nepalv v…

-Việt Nam gọi là Tết.

-Trung quốc gọi là Xuân Tiết.

- Thái gọi là Thết/ Thrếts (trong kinh Lễ Ký, Khổng Tử gọi làTế-sạ)

- Zhuang gọi là: XIT / SIT

- Nùng : TẾT

- Muờng :Thết

-Chàm : TÍT / kTÊH

-Mon : kTEH

-Khmer : CHÊTR

- India: CHETR ( là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn độ, haitháng giao mùa đem mưa đến [mois du début de la mousson])

-Nepal : TEEJ (lễ đầu năm của Nepal)

-Mustang : TIDJ (lễ đầu năm của xứ Mustang, sát với xứ Nepal)

-Munda : TEEJ (lễ ăn mừng mùa mưa đến / the ancient melodies ofTeej , marking the return of the monsoon and the promises of prosperity[National Geographic magazine] )

( tài liệu online: Cám ơn tác giả “Vô danh” )

Vậy, sosánh phong tục đón tết và ngôn ngữ thì thấy có rất nhiều ngôn ngữ đều cóTết/Tiết/Thết/Tít/Xít v v…

QuaKhảo cứu với chứng cứ và tài liệu, Bằng chữ viết và ngôn ngữ học, thêm vào cácmôn khoa học khác nữa với văn hóa phong tục v v…, thì thấy rằng “Tết” là có cộinguồn và ý nghĩa của văn hóa Việt. Bỡi các lý do sau đây:

+ ChữViết cổ xưa nhất là “Giáp cốt văn” đã vẽ hình “cây lúa có hạt lúa chín” khi nóivề “Năm”/1 năm-Tết. Tết –năm gắng liền với cây lúa. (và Cổ Việt tộc được lịchsử phương Đông và phương Tây công nhận là tộc biết cấy lúa sớm nhất trên thếgiới.)

+ Khoản2000 năm trước, Hứa Thận đã giãi thích chữ “Niên” là “Lúa chín” trong sách“Thuyết Văn”.

+ Chữ“Tết” hay Tiết hay Tít v v…đều có cùng phát âm giống gần gần nhau và có ý nghĩarỏ ràng chỉ giãi thích được 1 cách cụ thể bằng chữ và nghĩa của tiếng Việt (ChữViệt cổ là chữ Tượng hình, không phải là chữ viết theo mẩu tự La-Tin như ngàynay.)

+ Ngàycủa Tết, tên của tết - ý nghĩa, phong tục và lể hội đón tết gắng liền với vănhóa lúa nước.

Xin mờiquí vị xem rỏ chi tiết của “Tết” như sau:

Tết cònlà “-Tiết”/(Tronghiện tại).

- TiếngBắc kinh đọc là “-chẻ”.

- TiếngQuảng Đông và Thượng Hải đọc là “-chit”

- TiếngTriều Châu đọc là “-chôi”.

- TiếngNùng : Tết/Choang đọc là : -Xit ( Nùng – Choang có liên hệ mật thiết huyết thốngvà ngôn ngữ)

- QuảngÂm ( Thời Đường và Tống –“Quảng đại quần chúng đọc âm nầy”) đọc là : -Tết.

- Chữ “-Tết” ngày xưa: khoãng 2000 năm về trước đọc là “-Tết”, chứ không đọc là “-tiết”.Thời nhà Hán cũng đọc là : -Tết”. cho nên phiên thiết bằng cách viết là “子結切- Tử kết thiết =-Tết”.

Xembằng chứng trong sách “thuyết văn” của 2000 năm trước:

=>Sách Thuyết Văn: 2865 竹約也。从竹即聲。 子結切.

(SáchThuyết Văn: số thứ tự 2865 : -Tết -Trúc 竹約也-Trúc Ước Dã. 从竹即聲-Tùng Trúc Tức thanh. 結切-Tử Kết Thiết)/ (Phiên dịch: Tết; là “Trúc”/ cây Trúc( được) thắt hay bó lại vậy (Được “chiết” ra để trồng), viết theo bộ Trúc-, đọc theo thanh “Tức-” phiên thiết: 子結-Tử Kết =-Tết). Nghĩa là:

- “Ước-” hay Tước, hay Tách, triết, chiết, trẻ, chẻ, trích,tét, tếch, “tết” cây TRúc ra để mà trồng thì gọi là “-Tết”.

- Chữ-Tết”Cổ xưa nhất là chữ Tượng hình, là vẽ hình dùng dụng cụ nông nghiệp để“Tết”/Tách “Búp Măng” của Trúc/Tre ra để mà trồng:

file:///C:/DOCUME%7E1/TQ/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg

Chữ “Tết” cổ đại là Hình vẽ “bộ Trúc”phía trên và “măng tre” bên dưới-bên phải là dụng cụ nhà nông để Tách-Tết câymà trồng.

(http://www.chineseet...tton1=Etymology)

Bàn Luận và Nhận Định: Chữ “-Tết” là Sãn phảm văn Hóa của người thời xưa, của nhómngười gần gủi với “- trúc/Tre”, là của dân tộc sống nhờ nghể Nông và đã“định cư”-Biết cách “/chiết-Tết-Tách” cây Trúc/tre để trồng, và phát âm Cổlà “-Tết” chứ không phải “-Tiết( Hán-Việt”)/(Xem bằng chứng trong sách “thuyếtvăn”), “-Tết” là âm cổ của chữ Việt Cổ – và phát âm nầy liênhệ chặc chẽ với nhiều cách âm tương tự như là “Tết” của Vùng Đông Nam Á và ĐôngÁ và cả Nam Á.

→ Sau khi đã đã thấy rỏ nghĩa và phát âm có chứng minh của nguồn gốc xa xưa củachữ “Tết”/Tách/ Tiết v v…thì sẽ dể hiểu 1 năm được “tách” làm 4 mùa Xuân Hạ ThuĐông, và ngày nay được gọi là Tiết Xuân -Tiết Hạ - Tiết Thu - Tiết Đông.(Nhưng, các cổ thư để lại vết tích cho thấy ngày xưa người ta chỉ phân biệt vàtách 1 năm ra làm 2 mùa mà thôi! Mùa có mưa và mùa không có mưa! HAY LÀ mùa Xuân và Mùa Thu! Sách “Xuân-Thu” nói về thời Xuân Thu-Chiến Quốc của ĐôngChu Liệt Quốc là 1 ví dụ cụ thể; Sách ghi chép về suốt năm thì chỉ cần ghi làtên của 2 mùa Xuân và Thu là nói lên ý nghĩa “chuyện quanh năm”)! Hảy xóabỏ những hiểu lầm về chữ “-Tết” ! ( Và cũng cần làm cho rỏ ý nghĩa của chữ “年-Niên” tức là “年-Năm”)!

* Khảo Cứu Hán_Nôm : “Năm” hay “Niên” = .

-Ngày nay tiếngViệt “年-Năm” là 1 năm.

- Hán-Việtgọi Năm là “年-Niên”

- Ngoàira, Tiếng Quảng Đông gọi là “年-Niềnh”, Triều Châu gọi là “年-Nía”, Bắc Kinh gọi là “年-Niẽn” V v…

Cóthuyết cho rằng chử “-Niên” là tên của con thú dữ! điều nầy phi lý!!! Chẳngqua là sự thêu dệt bỡi chữ Niên có cái “sừng”/() phía trên “ˊ” – rồi kết hợp với việcmúa Lân đón năm mới mà nói chơi cho vui không cần căn cơ-bằng chứng-dẫn chứng vv…; Lại có người căn cứ vào chữ Việt cổ và truyền thống nông nghiệp “lúa nước”của Thủy Tộc/ Người Lạc Việt ở Quí Châu và Quãng Tây của Trung Hoa ngày nay màsuy ra, là Chữ “-Niên” có cái Lưỡi liềm cắt lúa ở phíatrên! 2 nét ngang phái dưới là 2 mùa nắng mưa của 1 niên! Nét dọc nối liền 2nét ngang của 2 mùa nói lên ý nghĩa “trọn 1 niên” mà chỉ có Thủy tộc/Lạc Việtvới văn hóa lúa nước được bảo tồn cùng với chữ cổ thì mới nói lên được ý nghĩa“làm lúa 1 niên”… mà chữ Hán và Hán Tộc đã bị thất truyền và mai một mà quên điý nghĩa chính của chữ “-Niên”! Giãi thích như trên xem ra rấtlà “hửu lý” và có tính “thuyết phục” rất cao! Và được “tin tưởng” trong cáinhìn mới theo tin thần khoa học có khảo cứu, có dẫn chứng trong hiện tại!Thuyết “-niên” là 1 niên làm lúa với tra cứu sách “thuyết văn” và nhiềucổ thư khác như sách “Xuân Thu”, “Nhỉ Nhả” v v …đã bác bỏ “-Niên” là thú Dữ! Nhưng, giãi thích nhưvậy chưa đúng, chưa đủ và Không phải vậy!

2000năm trước, sách “thuyết văn” giãi thích chữ “-Niên” xếp trong bộ chữ -Hòa(Lúa/Mạ) và ghi chú là:

穀孰也從禾千聲春秋傳曰大有年《說文解字》Cốc Thục dã tùng hòa thiên thanh Xuân Thu truyện viếtđại hửu niên (Thuyết Văn Giãi Tự)…Nghiã là “Niên’ là Lúa chín, và viết theo chữHòa, đọc theo âm “thiên”- Truyện Xuân Thu nói Đại Hửu Niên!!!

CũngTrong Sách “Thuyết văn”, lại có thêm chữ “稔-Nẳm/Nhẳm = Lúa chín” ( Theo tôi, đây chính là chữ “-Năm”mà viết theo cách mượn âm chữ “念-Niệm” để diễn đạt âm chữ “稔-Năm”; và cũng giống như “Năm”. Và ngày xưa … không cần phân biệt thanh Ngang - sắc- huyền - hỏi – ngã - nặng v v…cho nên có thể đọc là Năm = Nắm = nằm = Nậm = Nẳm- Nẩm … = /

(Trích):4423稔 禾 穀孰也。从禾念聲。《春秋傳》曰:… 而甚切

(Nẳm HòaCốc thục dã. Tùng Hòa Niệm Thanh.《Xuân Thu Truyện》Viết: … Nhi Thậm Thiết) … Nhi -Thậm = Nhậm / ( =>chính xác là “Nậm/ Nẳm/ nằm/ năm…”)

Xétcho kỷ và xa xưa hơn nữa là“giáp cốt văn” đã vẻ hình chữ “-Niên” là hình cây lúa “Nằm”/ Lúa ‘chín” thì nặng trỉunhánh bong lúa mà “Năm/Nằm-”.

file:///C:/DOCUME%7E1/TQ/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg

Kim vănthời nhà Chu-Nối tiếp thời nhà Thương cũng thể hiện chữ “-Niên” là cây lúa có Hạt đã chín…cho nên bị “nặngtrỉu” và phải “Nằm” – do trọng lượng của Hạt lúa đã kéo nhánh bông lúa “nằm”xuống.

file:///C:/DOCUME%7E1/TQ/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image003.jpg

Và cây,Bông, hạt lúa nằm… dần dần được viết bằng cách biến đổi 1 bải lúa đã “nằm” ởtrên ruộng lúa, và cũng giống như hình ảnh 1 bàn tay 4 ngón đã nắm lại và ngóncái cũng nắm lại đặt trên 4 ngón tay kia…là “nắm-file:///C:/DOCUME%7E1/TQ/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image004.jpg” để thể hiện âm thanh “Nằm”/ Nắm: “Năm/Nằm-Lúa nằm/ file:///C:/DOCUME%7E1/TQ/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image004.jpg”/ Chữ cổ-Chữ Việt Cổ và từ đó mớiđơn giãn hóa thành chữ “-Năm” mà đa số hiện giờ đọc là “-Niên”! Xem bằng chứng:

file:///C:/DOCUME%7E1/TQ/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image005.jpg

(http://www.chineseet...tton1=Etymology)

Thể kỷ21…có rất nhiều viện nghiên cứu Hán ngữ, Hán Việt, Hán-Nôm, ngôn ngữ học vv…trên toàn thế giới từ đông sang tây …ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Hànquốc, Nhật, USA v v… Tôi “phục nguyên” chữ “tiết” là “Tết” và “-Niên” là “-Năm” – và giãi nghĩa rỏ ràng cụ thể theo khoa họcbiện chứng: Đó là chữ Việt, Phát âm Việt, Phát âm chỉ thấy đúng và rỏ nhất quatiếng Việt, và ý nghĩa “nông nghiệp” và “lúa nước” đã được thể hiện rỏ trong“chữ Việt Cổ” và phát âm cũng được tôi “phục nguyên” bằng những bằngchứng vừa đủ!

Một bàiviết được đưa lên Internet ngày nay là tất cả mọi người và tất cả các “Việnnghiên cứu ngôn ngữ” đều có thể đọc được! cho nên : Đây là 1 bài viết để côngbố sự thật 1 cách nghiêm túc – không “giởn chơi” được! Và Đây là 1 sự khảo cứukỷ lưởng với bằng chứng và khoa học! Xin đọc giả và các viện nghiên cứu ngônngữ hay nghiên cứu Hán-Nôm tin tưởng sự nghiêm túc và chân thật của bài viếtnầy.

Kếtluận: Chữ “-Tết”và “-Năm”cùng với các chữ tượng hình khác là “chữ Việt Cổ”.

- Chữtượng hình cổ xưa nhất là “Giáp cốt Văn”. Một chi nhánh của người Lạc Việt đãgiữ được “chữ Việt Cổ” là “Giáp cốt văn/Bản hoa thạch sống” mà hiện nay họ vẫnđang dùng! Đây cũng là 1 bằng chứng mà không ai phủ nhận được! Trước khi dừnglại ở bài khảo cứu Hán-Nôm và Chữ Việt cổ nầy:

- XinDẫn đường Link để quí vị nào biết đọc Hán-Nôm thì có thể tham khảo và nghiêncứu cho rỏ them chữ Việt cổ của người Lạc Việt hiện đang ở Quí Châu và QuảngTây của nước Trung Hoa ngày nay:

http://www.56china.c...d/56mz_sz_uhpd/

Giáp Cốtvăn của người Lạc Việt:

http://www.56china.c...1019/70757.html

Tự Điển– Chử viết của người Lạc Việt: 水书常用字典.pdf

Nghiên cứu hay học và hiểu Hán văn hay Hoa văn hay là Hán-Nôm đến trìnhđộ có thể nghe, đọc, viết, Hát, làm thơ và phân tích ý nghĩa của các từ ngữ cổđại – Trung Cổ đại – hiện đại mà đi đến tận cùng và hiểu đến tận cùng thì sẽquay về “chữ Viết tượng hình” với phát âm “Nôm” / -Nam / -Việt, Đó là “chữ ViệtCổ”.

Xin Hẹn“khảo cứu” và “Phục nguyên” Hán-Nôm hay chữ Việt cổ với đọc giả ở những bàiviết sau…

Nhạn Nam Phi/ ĐónXuân Tân Mảo- 2011

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tất cả các Tết liên quan đến Âm Lịch đều của người Việt. Khi nền văn minh Việt - quốc gia Văn Lang - bị sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử với hàng ngàn năm Hán hóa, nó mang hình thức ngôn ngữ Hán. Cảm ơn tác giả bài viết do Tầm Nhìn Mới đưa lên. Tư liệu trích dẫn quá chuẩn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay