Posted 9 Tháng 2, 2011 Án lạ đất phương Nam Kỳ 1: Hai cái sự rơi TT - Năm 1971, lúc 22 tuổi, tôi về Bạc Liêu dạy học. Nhiều em học sinh lớp đệ nhất chỉ thua thầy vài ba tuổi đã thân ái đặt cho tôi ngoại hiệu Tùng Xua tùa hia (tiếng Triều Châu - Đường Sơn đại huynh). Một sáng tháng 10-1971, Tùng Xua tùa hia đang ăn sáng trong tiệm Xừng Ký ngoài chợ Bạc Liêu thì chứng kiến một vụ việc ngộ nghĩnh. Từ đây, những câu chuyện bắt đầu... Như thường lệ, khoảng 6 giờ sáng, chị Thạch Thị Rươl - một phụ nữ Khmer, gánh cái gánh bún nước lèo danh tiếng của mình ra chợ Bạc Liêu bán. Nồi nước luôn luôn sôi bốc lên mùi mắm thơm phức; tôm, thịt quay, cá lóc, rau xanh... tươi ngon hơn các gánh bún nước lèo của người khác. Giá của tô bún chỉ cỡ 5 đồng (giá lít xăng ngày ấy là 12 đồng) nên rất vừa túi tiền của khách hàng. Rơi cái vú giả Hôm ấy, từ trong khu gia binh có một chị vợ lính đi chợ sớm. Thấy chị Rươl gánh bún nước lèo tới, chị này có nhã ý ăn mở hàng nên cúi người nhìn vào nồi nước lèo gọi một tô bún. Trời xui đất khiến làm sao hôm ấy chị ta mặc chiếc áo hở cổ, mà mối chỉ may của chiếc nịt ngực cũng đến hồi quá đát. Cái thế cúi người “thưởng thức” đột ngột khiến sợi chỉ cuối cùng đứt luôn. Tõm một cái, một miếng mút độn áo ngực của chị, tục gọi là vú giả, rơi ngay vào nồi nước lèo thơm phức của chị Rươl. Chị Rươl túm lấy bà khách mở hàng hậu đậu, la bài hãi: “Trời ơi! Gánh bún tui chưa bán mở hàng mà bà làm rớt... vú vào đó. Giờ tui bán cho ai?”. Chị buộc bà khách phải đền tiền nguyên gánh bún 120 đồng. Bà khách vừa xấu hổ sượng sùng, vừa lo số tiền không đủ cũng lên tiếng phân bua. Sợ họ đánh nhau, mấy bà mấy chị trong chợ chỉ họ qua bên Hội đồng xã Vĩnh Lợi cho mấy ông phân xử. Chị Rươl vai gánh gánh bún, tay trái nắm tay bà khách dẫn qua hội đồng xã, cách chợ Bạc Liêu khoảng trăm mét. Chủ tịch hội đồng xã Vĩnh Lợi lúc bấy giờ là ông T.V.V.. Ông mời hai phụ nữ ngồi để nghe họ “tường trình ủy khúc” - chữ dùng thời chế độ cũ. “Nguyên đơn” Rươl giành nói trước rằng nồi nước lèo và gánh bún của chị nói chung giá 120 đồng. Nay bà khách làm rớt... vú giả vào đó, không còn ai dám ăn uống gì nữa. Vậy bà khách phải đền cho chị 120 đồng; còn những món tôm, thịt, rau, bún cứ mang về... ăn cho phỉ. Chị cũng ca cẩm việc rớt vú giả vào nồi nước lèo làm gánh bún danh tiếng của chị bị xúi quẩy, sợ khách hàng sau này không dám ăn, ảnh hưởng đến uy tín “thương hiệu” của mình. “Bị đơn” mặt tái mét, sượng sùng trình bày chị ăn bún nước lèo của chị Rươl nhiều lần, thấy ngon nên định ăn mở hàng nhưng không ngờ “nó” rớt. Chị đi chợ chỉ đem theo mấy chục đồng, thật sự không đền nổi 120 đồng. Vả chăng theo chị, vú giả chỉ rớt vào nồi nước lèo nên chất lượng mấy món tôm, thịt không ảnh hưởng gì. Chị Rươl buộc chị mang về ăn cho phỉ chắc chị ăn không nổi, mà có rủ ai chưa chắc họ chịu ăn. Ông V. thật sự bối rối. Ông nói: “Thôi được, hai chị ngồi chờ mấy phút”. Rồi ông đạp xe chạy qua Tòa án tỉnh Bạc Liêu cách đó khoảng vài trăm mét thỉnh giáo lục sự T.C.H.. Ông H. là người gốc Triều Châu, làm lục sự nhiều năm. Ông H. cố vấn cho ông V.: phần nào thật sự bị hư hao thì đền phần đó, có tính toán để châm chước, gia giảm những thiệt hại khác do sự cố này gây ra. Ông V. quay về hội đồng xã xử như vầy: chị vợ lính làm rơi vú giả hư nồi nước lèo phải đền 30 đồng. Vụ việc đáng tiếc đó cũng gây những thiệt hại thương hiệu cho gánh bún mắm nước lèo nổi tiếng của chị Rươl nên phải đền thêm 20 đồng nữa. Riêng các phần thịt, cá, tôm, rau của chị Rươl không ảnh hưởng gì nên cũng không thiệt hại gì, chị Rươl không nên buộc chị vợ lính phải đền bù. Ông cũng động viên chị Rươl về nấu... nồi nước lèo khác, bán qua trưa và chiều để khỏi thiệt hại thu nhập trong ngày. Án được thi hành tại chỗ. Chị vợ lính đền tiền ngay. Mười giờ trưa hôm ấy, chị Rươl lại gánh bún nước lèo ra chợ Bạc Liêu. Trước khi bán chị làm thủ tục xả xui: cầm hai tờ giấy báo cháy phừng phừng, nhảy qua nhảy lại trên cái đòn gánh để... đốt phong long! Suýt rớt xuống cầu Một sáng tháng 10-1971, ông Vưu Tôn - một người gốc Triều Châu cư trú tại Giồng Biển (phường Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu ngày nay), bưng cái mẹt bánh tiêu đi qua cầu Quay để xuống chợ Bạc Liêu bán như thường lệ. Tôi quen biết với Vưu lão hán, thường ăn bánh tiêu của ông. Ông Tôn đi lên hơn nửa cầu, mắt nhìn xuống khung cảnh buôn bán nhộn nhịp phía dưới thì bỗng nhiên đạp nhằm... một miếng ván mục. Rắc một cái, chân phải của ông lọt thỏm xuống cầu, mẹt bánh tiêu đổ tưng bừng, cái rơi xuống sông, cái lăn như bánh xe xuống tận đầu đường Trương Vĩnh Ký. Bà con qua cầu thương ông già bị tai nạn, nhẹ nhàng đỡ và kéo chân ông ra khỏi lỗ ván mục. Chân ông trầy xước đổ máu, gót chân bị sưng. Một anh xe lôi khỏe mạnh bế ông lên đưa đến nhà thương Bạc Liêu cấp cứu. Bác sĩ bảo ông cữ đi lại trong mười ngày. Ngay chiều hôm đó, ông Tôn bảo con bồng đến một chỗ đánh máy đơn thuê, viết một cái đơn kiện kỹ sư P., trưởng Ty Công chánh tỉnh Bạc Liêu. Đơn nói rõ: Ty Công chánh không làm hết nhiệm vụ, không thay ván mục để ông bị té lọt chân xuống cầu bị thương, đổ hết bánh tiêu và khiến ông mất thu nhập trong mười ngày. Ông Tôn yêu cầu trưởng Ty Công chánh phải đền bù các thiệt hại về sức khỏe và thu nhập cho ông. Đơn kiện không gửi qua tòa án mà lại gửi ngay cho... tỉnh trưởng Bạc Liêu. Tỉnh trưởng Bạc Liêu có bút phê, chuyển qua cho ông phó tỉnh trưởng hành chính - thường gọi là ông phó T., mời hai bên lên giải quyết. Ba hôm sau, kỹ sư P. và ông Tôn gặp nhau tại văn phòng ông phó T.. Bình thường ông Tôn rất hiền, nhưng có lẽ hôm ấy bực bội vì cái chân bị sưng nên ông la rùm trời. Bằng cái giọng nói tiếng Việt pha lẫn tiếng Triều Châu, ông Tôn tự xưng là hỏa (tôi), gọi ông P. khi là lứ (ông), khi là hia (anh). “Lứ coi cho kỹ li, cái chưn hỏa què dồi. Có khi nào lứ li qua li lại cái cầu ấy lâu, chỉ có pà con pình dân như hỏa li thôi. Hia phải lền lại cho hỏa tiền cơm thuốc” - ông Tôn nói cứng. Kỹ sư P. cũng là người hiền lành, thấy ông già nổi nóng nên không dám cãi vã, chỉ xuống giọng năn nỉ: “Tui thấy rồi, tui thấy rồi. Bây giờ bác muốn đền bao nhiêu?”. “Hỏa lấy dẻ thôi. Lây là piên lai thuốc năm chăm tồng, mười ngày không li pán lược là một chăm tồng, pa chục tồng tiền pánh tổ. Vị chi là sáu chăm pa chục tồng”. “Dạ, bác ngồi nghỉ, tui chạy về ty để lấy tiền. Tui đi gấp quá không đem tiền theo”. Ông P. chạy về Ty Công chánh, lát sau đem tiền qua. Ông Tôn nhận tiền đền bù, biểu con viết tờ bãi nại. Ông nói: “Lứ chưởng ty à, cho người thay dán mục li chớ không thì có người té lại lền tiền nhiều nhiều ló”. Có lẽ ông P. thấy điều đó là đúng, vài hôm sau trên mặt cầu Quay được thay nhiều tấm ván mới. VŨ ĐỨC SAO BIỂN ----------------------------------------- Số ngày mai sẽ là những câu chuyện liên quan tới vàng, tình và những sự ham muốn đầy éo le của con người. Kỳ tới: Vàng và tình Án lạ đất phương Nam - Kỳ 2: Vàng và tình Một ông chủ tiệm vàng có tiếng ở thành phố C dù lớn tuổi nhưng vẫn yêu đời, ham chơi một cách chăm chỉ. Ông quen biết một cô gái có hoàn cảnh éo le, gay cấn, tình duyên dang dở. Hai người sống với nhau như vợ chồng được ba năm. Ông có thiện chí tặng cô 10 lượng vàng ròng, cái để làm vốn, cái để đeo chơi cho cuộc sống lóng lánh thêm một chút. Vàng của bổn hiệu được đóng dấu riêng hẳn hòi, đúng 9,8 tuổi, phân lượng đầy đủ. Quả là một thứ vàng danh trấn giang hồ. Vàng lên tiếng Ba năm sau, cô gái quen biết và chung sống như vợ chồng với một thanh niên khác. Ông chủ tiệm vàng và cô gái lặng lẽ chia tay. Trong buổi đầu xây dựng tổ ấm, cô gái chợt muốn mua cái tivi. Cô đưa cho anh thanh niên một lượng vàng bảo đi bán lấy tiền, bởi có tiền mới có tivi. Sách vở dạy vậy. Chàng thanh niên cầm lượng vàng, xem địa chỉ bổn hiệu thấy cũng gần nhà bèn đến đó bán cho chắc ăn. Người đứng sau quầy phụ trách mua bán vàng là cô con gái út của ông chủ tiệm. Cô gái út xem lượng vàng, chê: “Vàng này non, không đủ tuổi”. Anh thanh niên nói: “Cái gì? Cô nói làm sao vậy? Vàng này đóng hiệu của tiệm cô mà không đủ tuổi hả? Ở nhà còn có bảy, tám lượng vậy nữa đó”. Thiệt là một tiết lộ trật bàn đạp! Cô gái út bắt đầu điều tra: “Anh mua làm của hay sao mà nhiều vậy?”. Anh thanh niên: “Tôi đâu có mua. Của người ta cho em gái tôi mấy năm vừa rồi đó”. Việc mua bán vàng xong, khách ra đi. Cô gái út giở sổ sách mua bán năm ngoái năm xưa ra xem, thấy chẳng có ai mua của tiệm vàng nhà mình cả chục lượng. Và cô chợt hiểu ông già tía đã lấy vàng “kính tặng” cô gái nào đó! Cô đem phát hiện rùng rợn ấy thỏ thẻ với mẹ. Bà già nổi xung thiên, thủ sẵn một con dao yếm bén ngót. Điều may mắn là sáng đó ông chủ tiệm vàng đi nhậu bên một thị trấn khác, không về ăn trưa. Chiều ấy, ông về. Hơi men chếnh choáng khiến ông vừa cởi chiếc quần tây vừa cao hứng ca hát râm ran: “Nhớ ai mà ánh đèn hiu hắt, lá vàng nhè nhẹ rơi, mỗi mùa tiễn đưa một người”. Nghe tiếng ca, bà nhìn từ nhà bếp ra. Thấy chồng về, lại nghe mỗi mùa tiễn đưa một người thì nhiều quá nên cơn giận của bà bùng lên. Bà cầm con dao yếm lướt tới định... tiền trảm hậu tấu. Cô gái út hoảng quá la lên: “Tía ơi, má chém tía đó!”. Tuy chưa hiểu lý do gì nhưng ông vẫn nhận ra rằng vợ mình cầm con dao lướt tới không được thân thiết và dịu dàng cho lắm. Ngặt một nỗi lúc mới vào nhà, theo quán tính ông lại đóng cổng. Mà đưa tay mở cổng thì không đủ thì giờ tránh chiêu đao pháp “thương tùng nghinh khách” của bà vợ. Bức tường rào nhà ông kiên cố, xây cao một thước rưỡi. Lần đầu tiên, một số bà con ở đường X, thành phố C được chứng kiến hình ảnh một người nghiệp dư trên 60 tuổi, nặng khoảng sáu mươi mấy ký, cái bụng không thể gọi là thon thả, nhảy một cái ào qua khỏi tường rào nhà mình như một vận động viên nhảy cao chuyên nghiệp. Bà già không rượt chém được chồng đành đứng trong sân mở hết công suất phóng thanh, chửi mấy tràng ngôn ngữ Việt - Hán lộn xộn. Đây nói về ông. Nhảy ra khỏi nhà ông đành đi lang thang qua những đường phố với mình trần, chân đất. Có tiếng xe rà một bên, tưởng xe ôm ông không thèm quay nhìn. “Trời ơi, tía đi đâu vậy?”. Ông ngẩng lên. Hóa ra là người con trai lớn. Ông đáp: “Đi đâu thì kệ tao. Mầy hỏi làm giống gì?”. Người con: “Thôi, tía về đi. Lên đây con chở tía về”. Ông chủ: “Về sao được. Má mầy rượt chém tao. Ngu sao về, mầy?”. Nói xong ông đi thẳng. Chuyện vỡ lở khi bà làm đơn thưa lên công an phường. Thiếu tá trưởng công an phường lắc đầu: “Vụ việc này thuộc gia đình, cơ quan công an không can thiệp được. Ông nhà cho thì cô ấy nhận vậy thôi. Cổ không phạm tội gì hết”. Bà thở một cái khì, bèn lui ra. Hai cục vàng khò Ngày 1-1-2002 trong đời ông L.T.Đ., chủ một tiệm vàng ở thị xã Rạch Giá (Kiên Giang), là một ngày xúi quẩy hết biết. Ông cưỡi chiếc xe Suzuki mang theo hai cục vàng khò (vàng chưa tinh chế) cả thảy 46 lượng bảy chỉ, đến thành phố Long Xuyên (An Giang). Hai cục vàng khò được gói trong giấy báo, để trong túi vải, phía ngoài có bọc nilông. Ông Đ. lên Long Xuyên đổi số vàng này ra nữ trang, bán trong dịp tết 2002. Thế nhưng, khi đến khu vực ấp Hòa Tây B (xã Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang), ông Đ. không nỡ... xa nơi này. Ông ghé vào quán của K.T. uống nước. Khu vực này nằm trên đoạn 10 cây số vui vẻ, yến hót oanh ca, lơ thơ tơ liễu. Nhiều động mại dâm bình dân hoạt động thường xuyên, thường được gọi là xóm Liều. Thôi thì cũng nên vui vẻ tí chút. Từ đây qua Long Xuyên chỉ có vài chục cây số, vội vàng chi khách đa tình ơi! Ông Đ. bèn gửi chiếc xe cho chủ quán nước KT rồi tìm đến một động cách đó khoảng 50m để... giải sầu. Rủi sao hôm ấy Công an xã Phú Hòa ra quân chống mại dâm. Các anh truy quét xóm Liều. Ông chủ Đ. bị bắt quả tang đang làm việc “xóa đói giảm nghèo” cho em út, bị đưa về trụ sở công an xã làm việc. Đây nói về chủ quán KT. Thấy ông Đ. bị bắt, K.T. bèn đem bọc nilông (có đựng 46,7 lượng vàng) của ông để trên bộ ván ngựa nhà mình. K.T. lại nhờ bà N. dẫn xe của ông Đ. gửi qua nhà hàng xóm. Làm xong các việc, K.T. lên trụ sở công an xã nghe ngóng tình hình, xem họ xử lý ông Đ. ra sao. Riêng bà N. gửi xe xong, quay trở về thì gặp bà T., hai bà thấy bọc đồ để trên bộ ván ngựa (của nhà K.T.) thì tò mò mở ra coi. Họ tá hỏa tam tinh khi thấy hai cục vàng khò to tổ nái. Phen này thì đại phát tài. Họ bèn tranh nhau chiếm giữ. Bà N. nói dõng dạc: “Tao nhìn thấy trước nên tao có quyền mang hai cục vàng về nhà cất”. Chiều đó, K.T. về mới biết tin bà N. và bà T. tìm thấy vàng trong bọc đồ của ông Đ.. Ức lòng, bà chủ quán K.T. liền đến nhà bà N. yêu cầu chia cho một cục (không rõ trọng lượng). Bà N. còn lấy dao chặt vàng chia cho bà T. một miếng. Sáng hôm sau, bà T. mang miếng vàng đi cân được 1,4 lượng. Bà N. mang cục vàng đi cân được 17,3 lượng, đổi ra vàng nữ trang chia thêm cho bà T. ba lượng. Nói chung, nhờ của chùa nên ai cũng phát tài, có phần. Bị tạm giữ một đêm, sau khi nộp phạt hành chính xong, ông Đ. trở lại nhà K.T. lấy xe thì thấy mất bọc vàng bèn đi báo công an. Cả ba người đàn bà đều bỏ trốn. Được sự động viên của công an, họ ra trình diện, giao nộp nhiều lần tổng cộng được 38,2 lượng vàng và 4,5 triệu đồng. Phần còn lại là 7,588 lượng vàng chưa thu hồi được. Trong phiên xử vụ trộm vàng, ba lần tòa hỏi ông Đ. muốn giải quyết thế nào về số vàng bị thất thoát, ông Đ. vẫn không yêu cầu các bị cáo trả lại số vàng ấy. Ông nói: “Thưa quý tòa, tôi hổng dám kêu nài thêm. Coi như là tôi bị xui. Xin cảm ơn quý tòa, bảy lượng rưỡi đó coi như... thí cô hồn”. Vì vậy, tòa không đề cập đến trách nhiệm dân sự (bồi thường) của các bị cáo. Hú hồn hú vía ông Đ.! Theo Tuổi Trẻ 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 2, 2011 Án lạ đất phương Nam (Kỳ III) Thứ Sáu, ngày 11/02/2011, 03:50(Tin tuc 24h) - Đó là phiên tòa phúc thẩm xử một vụ đòi bồi thường danh dự ở Cà Mau. Ra trước tòa hôm ấy có nguyên đơn là chị L.H.N. và bị đơn là anh V.H.P.. Cả hai cùng ngụ tại xã Thanh Tùng, huyện Đầm Dơi. Kỳ 3: Cái vết nứt ở bụng “Chú em” và bà chị Trước đó, Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi đã xét xử sơ thẩm vụ kiện đòi bồi thường ngoài hợp đồng này, tuyên bố bị đơn P. phải xin lỗi nguyên đơn N. công khai trước nhân dân ấp và bồi thường thiệt hại về nhân phẩm, danh dự cho chị N. 5 triệu đồng. Anh P. nộp đơn chống án. Trước tòa phúc thẩm, chị N. trình bày: Chị biết anh P. từ năm 1994 khi về làm dâu bên quê chồng. Mối quan hệ giữa chị và anh P. đơn thuần chỉ là hàng xóm. Anh P. nhỏ hơn chị hai tuổi nên chị xưng là “chị”, gọi anh P. là “chú em”. Chịu án phạt vì nói bậy "dai như đỉa đói" Khoảng đầu tháng 6-1999, thừa dịp chồng chị đi vắng anh P. sang nhà chị chơi. Chị đang ru con ngủ thì anh P. ngỏ lời ong bướm rằng anh rất thương yêu chị rồi sau đó đòi... cho ngủ chung một tí. Chị quyết liệt chống đối, anh P. bỏ ra về. Cứ như vậy, mỗi lần chồng đi làm ăn xa anh P. lại sang nhà chị ca bài ca con cá vàng lơ lửng cũ. Tất cả những chuyện xảy ra đều được chị thuật lại cho chồng biết. Cho đến một ngày cuối tháng 9-1999, anh P. lại đến nhà chị thực hiện kịch bản trên. Lần này, anh P. dọa giết chị và hứa sẽ tung tin cho mọi người biết rằng chị đã có quan hệ tình dục với mình. Anh P. dọa sẽ làm mất uy tín và gây mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng chị nếu không đáp ứng yêu cầu cho anh ta “yêu đại một phát”! Chị N. tiếp tục cự tuyệt. Quả nhiên sau đó, trong những bữa nhậu với bạn bè P. khoe đã từng ngủ với chị N. Nguồn thông tin tai hại đó đồn rùm lên khắp ấp khiến gia đình bên chồng chị N. nghi ngờ chị. Ức lòng, chị N. nộp đơn kiện cái trò nói xấu “dai như đỉa đói” này của P.. Trước tòa, anh P. khăng khăng khẳng định: Chuyện chị N. có ngoại tình với anh là... có thật. Anh đã “mần ăn” được cả thảy ba lần. P. khai ba lần quan hệ đó xảy ra ở ba thời điểm khác nhau và không gian khác nhau: phía sau nhà mẹ chồng chị, góc hè bên phải nhà chị, nơi đặt mái chứa nước của nhà chị! Thời gian quan hệ là ban đêm, hai lần quan hệ diễn ra sau 21 giờ, một lần lúc 23 giờ. Như cảm thấy chưa đủ sức thuyết phục tòa rằng mình nói thật, anh P. còn khai thêm anh biết rõ vết nứt trên bụng chị N. Anh gọi đó là một “chứng cứ” chứng minh anh đã được “yêu”. Cho nên trong đơn chống án anh không đồng ý bồi thường và xin lỗi. Vết nứt phỏng đoán Phiên xử sôi nổi hẳn lên khi hội đồng xét xử thẩm vấn anh P. Trước hết, về ba địa điểm, tòa cho rằng anh P. là hàng xóm, lại thường lui tới nhà chị N. nên biết rất rõ đặc điểm cảnh quan xung quanh nhà. Việc anh mô tả gốc dừa ra sao, mái đựng nước thế nào là không cần thiết và cũng không có cơ sở để tin anh từng quan hệ với chị N. tại các chỗ ấy. Thứ hai, về vết nứt trên bụng chị N. mà anh P. cho là “chứng cứ”, tòa chất vấn kỹ. Tòa: “Anh có thấy dấu vết riêng trên người chị N. không?”. Anh P.: “Dạ, có thấy. Chị có vết nứt da ở bụng”. Tòa: “Anh khai quan hệ ban đêm, không có đèn lửa. Làm sao anh thấy được vết nứt đó? Bộ anh dám mở đèn sáng lên mà nhìn kỹ à?”. Anh P.: “Thưa quý tòa, tôi rờ”. Tòa: “Rờ sao nói là thấy được?”. Tới đây anh P. ngẩn tò te vì hớ. Tòa giải thích thêm việc một phụ nữ sau khi sinh con da bụng có những vết nứt theo chiều ngang là chuyện bình thường, nên đừng có nghĩ rằng cứ suy đoán “bụng có vết nứt” để chứng tỏ mình “biết” về chị N. là không chính xác. Cái này thì anh P. cứng họng, cà lăm không trả lời được. Tòa bác bỏ cái gọi là chứng cứ do anh P. đưa ra. Về phần chị N., chị khai những lần anh đến nhà ve vãn, chị đã báo cho gia đình chồng và chồng chị biết. Lần cuối cùng khi anh P. đến hăm dọa, chị đã đến trình báo chính quyền xã và được nhiều bà con hàng xóm biết. Tới đây anh P. đành đuối lý. Từ những chứng lý rành rành, tòa xét thấy không có cơ sở chấp nhận đơn chống án của anh P. Tòa cho rằng hành vi khai báo bịa đặt của anh P. đã làm gia đình, bà con lối xóm và cả chồng chị N. nghi ngờ lòng chung thủy của chị. Ở chừng mực nào đó cuộc sống vợ chồng cũng bị ảnh hưởng. Tòa tuyên y án sơ thẩm, buộc anh P. phải công khai xin lỗi chị N. trước nhân dân ấp và bồi thường danh dự, nhân phẩm cho chị N. 5 triệu đồng. Kể từ ngày chị N. có yêu cầu thi hành án, nếu anh P. chậm thi hành còn phải chịu thêm phần lãi suất theo mức lãi nợ quá hạn. Sau khi nghe tuyên án, những người tham dự phiên xử hôm ấy đứng dậy vỗ tay hoan hô hội đồng xét xử. Chị N. chạy ra ôm lấy người chồng, khóc nức nở trong tay anh. “Đồ mắc dịch!” Ông L. (sinh năm 1935) và cô T. (sinh năm 1985) vốn là hàng xóm, cùng ngụ chung một ấp, một xã thuộc huyện C, tỉnh Tiền Giang. Vì ở gần nhau nên trong những lúc rảnh rỗi T. thường sang nhà ông L. chơi. Dù biết T. còn là trẻ con, chưa đủ 16 tuổi nhưng ông L. đã nhiều lần dụ dỗ cho tiền T. để lợi dụng quan hệ tình dục. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang nêu rõ: Từ tháng 12-1999 khi T. mới 14 tuổi, ông L. đã ba lần dụ dỗ để giao cấu với T. Ông L. cho T. hai lần tổng cộng 50.000 đồng. Tháng 1-2002 T. lập gia đình với một thanh niên ở xã bên. Trước ngày cưới T. có nói rõ những gì đã xảy ra đối với mình cho người chồng tương lai biết. Anh là một thanh niên rộng lượng, cũng sẵn lòng quên hết những vấp ngã đáng tiếc của T. Sau ngày cưới T. và chồng trở về nhà dự một đám tiệc bên gia đình mẹ ruột mình. Ông L. với tư cách là khách mời lại đến vỗ đầu chú rể mới và nói oang oang chuyện ông ta từng ngủ với T. nhiều lần cho mọi người trong đám tiệc cùng nghe. Dù cố nhịn cách mấy nhưng đến nước này chú rể mới cũng không giữ được sự bình tĩnh nữa. Anh tuyên bố trả cô T. về cho gia đình bên vợ và cắt đứt mối quan hệ vợ chồng. Gia đình của T. làm đơn tố giác yêu cầu xử lý ông L. Tháng 10-2002, ông L. bị tạm giam về tội giao cấu với trẻ em. Tại phiên xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang tháng 6-2003, bị cáo L. khai nhận hết mọi hành vi phạm tội. Tòa tuyên phạt bị cáo L. năm năm tù về tội giao cấu với trẻ em. Cái kỳ cục nhất trong vụ này là làm bậy, đã được bỏ qua mà còn ham hố chứng tỏ. Biết chuyện này có người nóng nảy gọi ông L. là đồ mắc dịch! Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 2, 2011 Án lạ đất phương Nam (Kỳ IV) "Tề Thiên bay" là con... 72! Nguyên đơn T. khai: sáng 14-5-2001, ông có mua của anh Trần Ngọc Dũng một tờ vé số do Công ty Xổ số tỉnh Cà Mau phát hành, mang số 89372. Hôm sau, thấy đại lý vé số dựng bảng ghi kết quả xổ số Cà Mau, ông lấy vé ra dò. Chưa kịp dò thì có khách gọi ông chở đi. Ông đưa tờ vé số nhờ anh L., một bạn đạp xe lôi, dò giùm. Phần ông, ông đi chở khách. Khi trở lại, ông không thấy anh L. đâu cả. Gần trưa hôm ấy, giới xe lôi đồn rùm ông T. trúng được một tờ độc đắc 50 triệu đồng bởi anh Dũng bán vé số cho biết như vậy. Hoảng hồn, ông T. đi tìm anh L. hỏi tấm vé của mình nhờ dò giùm đâu. Anh L. trả lời: tấm vé ấy trật lất, đã xé bỏ; còn tấm vé của anh L. mua từ một người ở Bạc Liêu lên bán mới trúng giải đặc Bị đồng nghiệp nẫng mất tờ vé số trúng giải Ông T. đưa bằng cứ trước phiên phúc thẩm, chứng minh tờ vé số trúng là của ông mua. Sáng 14-5, khi ngồi uống cà phê với anh Huỳnh Văn Hải, cũng là dân đạp xe lôi, ông có kể với anh Hải chuyện đêm qua ông nằm mơ thấy một con khỉ bay qua bay lại. Cả hai người cùng nhất trí cao rằng con khỉ ấy là ông... Tề Thiên đại thánh! Anh Hải bàn: “Sách vở nói rằng Tề Thiên đại thánh có 72 phép biến hóa thần thông. Ông nằm mơ thấy Tề Thiên đại thánh bay qua bay lại thì nên mua một tờ vé số có số đuôi 72, biết đâu được đại thánh chiếu cố đến cảnh nghèo của ông”. Vừa lúc đó, anh Dũng xuất hiện, cầm một xấp vé số Cà Mau mời ông T. mua. Liếc thấy tấm vé mang số 89372, ông T. lấy ngay một tờ. Ba người tiếp tục bàn chuyện... Tề Thiên bay. Người ta thường nói là “bay lượn” mà. Lượn tức là... lộn nhào! Cho nên theo ba người, hễ có bay phải có... lộn nhào. Như vậy con 72 có thể lộn nhào ra thành con... 27! Ông T. cũng có ý định mua thêm một vé có số đuôi 27 nhưng tiếc là không ai có. Thôi thì ông khiêm tốn ôm một “ông” 72 vậy, biết đâu... con khỉ ốm nhách đó thương ông. Trong phiên xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Trị bác yêu cầu đòi lại tấm vé số của ông T. vì tòa cho rằng không có căn cứ. Tòa sơ thẩm tuyên bố tấm vé số trúng là của anh L., buộc ông T .đóng án phí dân sự 2.250.000 đồng. Ức lòng ông T. kháng án, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng buộc anh L. hoàn trả ông số tiền trúng giải đặc biệt mà anh L. đã lãnh. “Tề Thiên bay” thuộc ai? Tại phiên xử phúc thẩm, bị đơn L. tiếp tục khiếu nại chính anh là người mua tờ vé số Cà Mau mang số 89372 của một người không rõ tên từ Bạc Liêu lên bán. Sáng hôm sau, anh đến chỗ dò vé số, thấy ông T. cũng đang dò vé số. Sau đó ông T. vo tròn tờ vé số và liệng xuống đất rồi đạp xe đi. Riêng tấm vé số Cà Mau của anh, anh dò và trúng được giải độc đắc 50 triệu đồng. Anh mang tấm vé số trúng xuống Bạc Liêu bán cho đại lý, lấy được số tiền 44,5 triệu đồng. Tiền đó là của anh trúng số, anh không đồng ý trả lại cho ông T.. Anh phủ nhận chuyện ông T. đưa tấm vé số nhờ anh dò giùm. Qua nghiên cứu hồ sơ, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng nhận thấy trong ba biên bản lấy lời khai và ngay trong phiên xử sơ thẩm, nhân chứng Trần Ngọc Dũng bán vé số xác nhận bốn lần rằng anh có bán cho ông T. một tờ vé số Cà Mau mang số 89372. Trước tòa phúc thẩm, anh Dũng khai chính anh đã cùng ngồi với ông T. và ông Hải bàn việc thấy Tề Thiên bay cứ đánh số 72. Anh Dũng cho biết anh nhận từ đại lý cả thảy 25 tờ vé số mang số 89372, bán cho một người ở Thạnh Trị ba tờ, bán cho ông T. một tờ; 21 tờ còn lại anh trả về cho đại lý vì bán không được. Tòa xác minh việc bị đơn L. khai mua tờ vé số của một người từ Bạc Liêu lên bán là không có cơ sở. Công văn của Công ty Xổ số kiến thiết tỉnh Cà Mau gửi Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xác nhận kỳ mở thưởng ngày 14-5-2001, giải đặc biệt chỉ trả thưởng bốn vé. Ngoài ba vé được một người ở Thạnh Trị lãnh, một vé còn lại là do một đại lý ở Bạc Liêu đi đổi. Tờ vé này chính là tờ mà anh L. nhờ người đi bán giùm. Anh L. không trực tiếp đi bán tờ vé số vì sợ lộ bí mật! Những chứng cứ mà tòa phúc thẩm điều tra, xác minh được hoàn toàn phù hợp với các lời khai của ông T. và hai nhân chứng Dũng vé số, Hải xe lôi. Trong khi đó, anh L. không chứng minh được anh là người mua tấm vé số 89372 của anh Dũng hoặc của một ai khác bán cho. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh cũng cho rằng lời khai của anh L. là không có cơ sở để tin cậy. Từ đó, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tuyên buộc anh L. phải hoàn trả cho ông T., người đã mua... ông Tề Thiên bay, trị giá tờ vé số trúng đặc biệt số tiền 44,5 triệu đồng. Anh L. còn phải đóng 2.250.000 triệu đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bản án chung thẩm có hiệu lực thi hành. Bà con đi dự vụ xử án này có người cười ngất bàn rằng: Ông Tề Thiên cuối cùng đã ủng hộ người ngay gặp nạn vậy! Án lạ đất phương Nam - Kỳ 5: Cái “ngàn vàng” lỡ mất TT - Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ mở phiên tòa dân sự, xét xử vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại về trinh tiết bởi một tai nạn. Ra trước tòa có cô A nguyên đơn và người cha; anh B bị đơn và người mẹ. Ngã xe, mất cái “ngàn vàng” Nguyên đơn A trình bày: cô mới 24 tuổi, thận trọng giữ mình như ngọc, chưa có bạn trai. Một ngày, sau ca tan sở, cô đạp xe ra khỏi Khu công nghiệp Trà Nóc, định quẹo qua đường lớn về nhà thì bị va quẹt xe. Người va quẹt là anh B. Anh B chạy xe gắn máy, quẹo ẩu nên tông vào xe đạp của cô, khiến cô tụt hai tay khỏi ghiđông và té ngã. Về nhà, cô đi tắm mới biết mình bị chảy máu chỗ kín. Hoảng hốt, sáng hôm sau cô vào bệnh viện X ở Cần Thơ khám chuyên khoa. Bác sĩ kết luận cô bị rách mới màng trinh. Cô phải lấy giấy chứng thương và kiện anh B - người gây ra tai nạn cho cô. Cô cho rằng trinh tiết là cái đáng quý nhất của người phụ nữ. Việc rách màng trinh đáng tiếc này có thể làm ảnh hưởng rất lớn tới danh dự, nhân phẩm của cô về sau. Cô đề nghị tòa buộc anh B phải đền bù cho cô số tiền 5 triệu đồng về thiệt hại danh dự, phẩm giá của mình. Bị đơn B trình bày: anh rất xin lỗi cô A về chuyện rách màng trinh. Thật ra, việc va quẹt xe xảy ra nhẹ nhàng, ngoài ý muốn của cả hai bên nhưng anh không ngờ lại gây ra cho cô vết thương như vậy. Anh thú thật anh mới lớn, cũng chưa hề biết màng trinh là... cái gì. Anh không đồng ý đền bù số tiền trên, chỉ đồng ý đền bù những khoản thuốc men, khám bệnh nếu cô A có biên lai hợp lệ. Bởi nguyên đơn và bị đơn còn quá trẻ, chưa lập gia đình và chưa có tài sản riêng nên cha của nguyên đơn A và mẹ của bị đơn B ra trước tòa như hai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Mẹ của bị đơn trình bày rằng bà cũng rất xót xa khi biết cô A té ngã và rách màng trinh như cô trình bày. Trong những lần hòa giải trước đây, bà có đề nghị cho anh B hỏi cưới cô A làm vợ thì mọi chuyện đều êm nhưng hổng hiểu sao gia đình cô A cứ muốn kiện ra tòa. Bà đưa ngón tay út lên và nói: “Cháu ơi, cái màng trinh mà nhằm nhò gì, nó nhỏ xíu xiu hà. Tui nghe nói bây giờ các bác sĩ giỏi lắm. Ở trên thành phố họ vá nó hà rầm, dễ ợt như mình vá... ruột bánh xe vậy. Cho nên gia đình tui chỉ đồng ý đền tiền nếu cháu chịu đi vá thôi. Vá nhiêu đền nhiêu”. Nghe bên bị nói chuyện “đâm hơi”, cha của nguyên đơn A giật gân đùi đụi. Không đợi tòa cho phép, ông la lớn: “Chèng đéc ơi, chị nói cái gì kỳ vậy? Vấn đề màng trinh là cái ngàn vàng trong đời con gái người ta. Nó đâu phải là... cái lu, cái khạp mà lủng chỗ nào mình dùng ximăng vá lại chỗ đó? Sở dĩ tui không đồng ý gả con gái tui cho con trai chị vì con gái tui lớn hơn con trai chị hai tuổi. Người ta nói “Nhứt gái hơn hai, nhì trai hơn một”, nhưng trong vụ này con gái tui không thể nhứt được. Con gái tui về làm dâu nhà chị, hổng chừng buồn buồn nhớ lại vụ kiện này, chị nói... tiếng Đức với nó thì nó làm sao chịu nổi? Tui hổng đồng ý vá may gì hết. Bên chị phải đền bù cái vụ mất trinh cho con gái tui”. Thấy tình hình “khu vực... Trung Đông” có vẻ căng thẳng, thẩm phán động viên hai bên bình tĩnh. Ông cho biết trước khi xét xử vụ án, ông đã qua bệnh viện gặp bác sĩ khám cho cô A, hỏi ý kiến của nhà chuyên môn này. Vết rách của cô A ở múi 3 giờ là vết rách nhẹ. Trong cái nhìn đạo đức truyền thống của dân tộc ta, trinh tiết là cái đáng quý của người phụ nữ. Ông chia sẻ và thông cảm với tâm trạng lo lắng của nguyên đơn A về việc vết thương tế nhị ấy có thể sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình mai sau nếu gặp phải người chồng khó tính. Tuy nhiên, rõ ràng nguyên đơn vẫn là một phụ nữ trong trắng, đức hạnh, tự vấn lương tâm không có điều chi đáng xấu hổ khi cần nói thật tai nạn này với người chồng tương lai. Bác sĩ chuyên khoa đã cho ông biết vết thương nhẹ của nguyên đơn có thể khắc phục được bằng vi phẫu thuật. Chi phí của ca vi phẫu thuật này khoảng 500.000 đồng. Việc té ngã do va quẹt xe dẫn đến bị thương nhẹ ở vùng tế nhị là ngoài ý muốn của đôi bên. Tòa tuyên bố: bị đơn B phải đền bù cho nguyên đơn A số tiền 500.000 đồng để khắc phục hậu quả vết thương và 80.000 đồng tiền khám vết thương, lấy giấy chứng thương. Ông cũng dặn cô gái hãy an lòng, trước khi lập gia đình, cô nên nói thật với người chồng rằng mình bị ngã xe, xuất trình giấy chứng thương và án văn dân sự của tòa để anh khỏi thắc mắc, nghi ngờ! Chỉ tại cái... mỏ vịt Ngày 9-5-2000, 40 tiếp viên khách sạn Bạc Liêu được đưa đến Trung tâm Y tế dự phòng 2 kiểm tra sức khỏe định kỳ. Tổ khám hôm ấy gồm nữ bác sĩ X và hai nữ hộ sinh thuộc bộ phận quản lý vệ sinh lao động của trung tâm. Thời ấy, có lẽ vì không còn đồ dùng nào tiên tiến hơn nên khi khám phụ khoa, tổ khám sử dụng mỏ vịt - một dụng cụ y tế cổ điển - đưa sâu vào âm đạo. Cách làm đó khiến các chị em nữ tiếp viên đều có cảm giác đau rát. Vả chăng trong khi khám, bác sĩ cũng như các nữ hộ sinh ăn nói, ứng xử không lấy chi làm dịu dàng lắm: “Cởi quần ra”, “Dạng... háng ra”. Điều đó càng làm các nữ tiếp viên sợ hãi. Hai nữ tiếp viên A (18 tuổi) và B (23 tuổi) rất lo sợ. Hai cô thỏ thẻ trước với tổ khám rằng hai cô còn là con gái, chưa hề quan hệ chăn gối với người khác phái và chưa lập gia đình, đề nghị được khám nhẹ tay. Tổ khám không mấy lạc quan, bởi họ không tin rằng trên đời này có chuyện làm tiếp viên matxa mà còn trinh bạch. Họ vẫn cứ tiếp tục dùng mỏ vịt khám cho A và B một cách thô bạo như đã áp dụng với các chị em khác. Hai cô A và B khóc lóc, van xin và đẩy tay họ ra. Kết quả thật tai hại: cả hai cô gái đều có cảm giác đau rát và xảy ra hiện tượng chảy máu tại chỗ. Người phụ trách đưa các chị em đi khám đã phản ảnh tình trạng đáng tiếc này với bác sĩ phó giám đốc trung tâm. Ông phó giám đốc viết giấy giới thiệu cho hai cô vào Bệnh viện Bạc Liêu khám lại. Kết quả khám lại khẳng định: cả hai cô đều bị rách mới màng trinh. Ngay chiều hôm ấy, hai cô gái đáng thương đã làm đơn gửi đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bạc Liêu (cũ) đề nghị được xem xét giúp đỡ. Biên bản giám định của tổ chức giám định pháp y tỉnh Bạc Liêu kết luận cả hai đều bị rách mới màng trinh. Vụ này 11 năm trước đã khiến êkip khám sức khỏe ngày ấy, có cả bác sĩ X, bị kỷ luật cảnh cáo. VŨ ĐỨC SAO BIỂN Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 2, 2011 Án lạ đất phương Nam - Kỳ VI: Vụ kiện bức tường Bức tường cũ kỹ được xây dựng từ những năm 1960 bề dày chỉ đúng một tấc (0,1m), chiều dài hơn 5,7m nhưng cả ba nhà đều lên tiếng: “Tường đó của riêng nhà tôi, người kia chỉ dùng ké!”. Vụ kiện không chỉ có ba chủ nhà tham gia mà rồng rắn thêm nhiều người liên quan vốn là các chủ nhà cũ trước đó, những người hàng xóm được coi là biết rành rẽ về nguồn gốc bức tường đều kéo đến tòa làm chứng. “Lưng” anh nhưng “sườn” tôi Ba căn nhà (gọi tạm là nhà số 220, nhà 222 và nhà 216H) tiếp giáp với nhau bằng một bức tường chung. Nhà 220 và 222 nằm giáp cạnh nhau còn nhà 216H thì nằm ngang, lấy bức tường phía sau đuôi của hai nhà 220 và 222 là tường dọc của minh. Cả ba căn nhà trên đều sử dụng chung bức tường đã vài chục năm nay. Dù nhà cửa đã cũ kỹ, lâu đời nhưng chẳng gia đình nào xây dựng lại bởi ai cũng ngấm ngầm hiểu nguyên tắc: tường chung thì ai xây trước sẽ phải bỏ tường, người xây sau đương nhiên được hưởng trọn bức tường. Việc tranh chấp gay gắt chỉ bắt đầu từ năm 2003, khi nhà 216H (do bà N. làm chủ) xin cấp chủ quyền và đòi hợp thức hóa bức tường làm của riêng nhưng không được vì chủ nhà 222 (ông Đ.) đã có đơn ngăn chặn tranh chấp bức tường. UBND phường hòa giải hoài không được, các bên đã kéo nhau đến tòa án giải quyết. Chủ căn nhà 216H đứng nguyên đơn. Vụ kiện được TAND TP.HCM thụ lý từ đầu năm 2006 nhưng đến mãi cuối năm 2010 mới kết thúc bằng bản án phúc thẩm của TAND tối cao. Tại tòa, phía bà N. (chủ căn nhà 216H) cương quyết cho rằng bức tường phải thuộc về nhà mình. Bà N. lý giải: “Tôi mua nhà về ở năm 1976 thì đã thấy nhà có sẵn bức tường này rồi. Đến khi có nhu cầu thêm chỗ ở, năm 1988 tôi xây thêm trên tường, đến năm 1998 lại xây thêm nữa có ai dám ý kiến gì đâu. Không phải tường của nhà tôi thì mấy ông bà đó để cho tôi được tự do thế à?”. Lý lẽ của phía bà N. còn được củng cố bởi lời khai của 3 nhân chứng gồm chủ cũ của nhà 216H, chủ cũ nhà 222 và người chủ căn nhà tiếp giáp gần đấy (nhà 216G). Các nhân chứng xác nhận: bức tường là của căn nhà 216H. Còn phía bị đơn, ông Đ. là chủ của căn nhà 222 cũng nhất quyết cho rằng bức tường là của hai căn nhà 220 và 222. Ông Đ. cũng đại diện luôn cho chủ nhà 220 nói mình có đủ giấy tờ sở hữu xác nhận bức tường là của riêng bên mình. Ông Đ. nói đã mua căn nhà từ năm 1964, đến năm 1976 gia đình bà N. mới về cất nhà tại miếng đất trống phía sau đuôi nhà ông. Khi cất nhà thì gia đình bà N. tự ý dùng ké bức tường sau nhà ông. Vì không ai thắng kiện nên cả ba nhà tranh chấp bức tường phải chia đều án phí và chi phí giám định. Bức tường được xác định chiếm diện tích đất: 5,75 x 0,1m, trị giá mỗi mét vuông đất tại khu vực này là 35 triệu đồng/m2 nên tính riêng giá đất của bức tường là hơn 20 triệu đồng. Cộng thêm trị giá phần xây dựng thì bức tường tranh chấp trị giá hơn 33 triệu đồng. Ngoài mức án phí hơn 500.000 đồng/nhà, cộng thêm phí giám định, mỗi nhà phải đóng tổng cộng hơn 3 triệu đồng! Sở dĩ gia đình ông không gây khó dễ vì thấy thương gia đình bà N. nghèo. Đến năm 1988 lúc bà N. xây chồng thêm một tầng nữa, ông cũng không nói gì vì mắc đi làm sáng tối, có hay biết gì đâu. “Đến năm 1998, một lần nữa bà N. lại xây chồng thêm một tầng lên tường thì tôi mới biết và sợ không đảm bảo an toàn nên đã gửi đơn đến phường” - ông Đ. nói. Dù cương quyết đòi bức tường đó là tường của hai nhà 220 và 222 nhưng phía bị đơn cũng nói: “Chúng tôi sẵn sàng cho bà N. sử dụng chung như từ trước tới nay, với điều kiện bà N. không được thay đổi hay làm gì để hỏng tường. Nếu gia đình bà còn đòi hợp thức hóa thành tường riêng thì chúng tôi đề nghị chính quyền phải ra văn bản công nhận tường đó là của chúng tôi”. Bức tường im lặng! Tranh luận đến hồi gay cấn, các bên đều sừng sộ, đỏ mặt bừng bừng. Người này nói, người kia chỉ trích gay gắt. Thậm chí còn kể xấu chuyện người nọ, người kia đục tường, khoan lỗ khiến bên này không thể yên ổn. Chủ tọa khuyên nhủ đủ đường về tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau... nhưng các bên vẫn tiếp tục giành bức tường về phía mình. Dù bên nguyên đơn mời cả các nhân chứng là chủ nhà cũ, hàng xóm cũ đến cho lời khai, xác nhận chủ nhà 216H bỏ tiền ra xây bức tường từ đời “tám hoánh” nào nhưng lời khai của họ cũng chỉ là lời khai, đôi khi lúc thế này lúc thế khác... khiến tòa chẳng an tâm! Bên bị cũng trưng ra nhiều giấy tờ chủ quyền, bản vẽ hiện trạng nhà đất, rồi văn bản xác nhận của UBND phường rằng bức tường đó là tường riêng tại phần đuôi của hai căn nhà 220 và 222 nhưng theo tòa cũng... không ổn. Các giấy tờ pháp lý của hai căn nhà bên bị đưa ra có ghi các bức tường bên hông là riêng hay chung nhưng chỉ mỗi bức tường phía sau (đang tranh chấp) lại không ghi riêng hay chung. Hơn nữa, các lần bà N. cơi nới xây tường, hai bị đơn cũng không có ý kiến gì, thậm chí còn tỏ vẻ tôn trọng quyền của bà N. sử dụng bức tường tranh chấp này. Văn bản xác nhận của UBND phường cho rằng tường là của hai bị đơn (vì gạch, vữa của bức tường xây đồng nhất với các bức tường bên hông nhà) thì nguyên đơn cũng ký tên và ghi ngay vào đấy là: không đồng ý với cách kiểm tra trên. Đến khi tòa trưng cầu cơ quan kiểm định để làm rõ: bức tường đó xây cùng thời điểm, đồng nhất với vật liệu xây dựng của căn nhà nào (thì thuộc sở hữu chủ nhà đó) việc kiểm định cũng không cho ra được kết quả rõ ràng. Cơ quan kiểm định đề nghị phải khoan chỗ này, đào chỗ khác để kiểm định vật liệu, kết cấu tường thì mới xác định tường đó do nhà nào xây, nhưng ngặt nỗi bên bị đơn lại không chịu mà đề nghị khoan, đào chỗ khác. Mà mấy chỗ khoan đào này đâu phải “điểm huyệt” để xác định bức tường của nhà nào nên cơ quan kiểm định đành chào thua. Kiểm định chỉ có thể kết luận hiện trạng: nhà 220 dùng tường đó làm tường bao công trình phụ và đỡ gối cho các bậc thang lên lầu, nhà 222 dùng làm tường bao công trình phụ và có câu gạch với tường hông, còn nhà 216H thì dùng tường làm tường dọc chịu lực kết hợp với hệ cột, dầm, bêtông cốt thép để đỡ các tầng phía trên. Gần năm năm trôi qua, kết quả chung cuộc theo phán quyết của tòa: bức tường là của chung ba nhà! Mấy chục năm ra đời và im lặng đứng, bức tường nọ một ngày trở thành nhân chứng cho cuộc dâu biển lòng người. Nó được định giá 33 triệu đồng, nhưng ai cũng biết nếu nhà nào giành được bức tường ấy về phía mình thì giá trị ngôi nhà không chỉ là cộng thêm 33 triệu đồng nữa rồi. Vì thế, bên nào cũng dốc công. Năm năm, hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, đau đầu và mệt óc. Họ trở về với hiện trạng ban đầu. Bức tường nguyên vẹn, nhởn nhơ và lì mặt trong thế sự chuyện đời. Cái bị dạt xô, chao đảo và không còn nguyên vẹn là tình nghĩa xóm giềng. Ba nhà chung vách chung tường nhưng lòng thì khó mà chung được nữa... Theo Tuổi Trẻ Án lạ đất phương Nam - Kỳ VII: (KênhMobile News) - Anh L.C.H. làm kế toán ở một doanh nghiệp tư nhân. Chị V.T.T. làm thợ may. Đôi vợ chồng trẻ rất lạc quan bởi họ thấy nhìn lên khắp TP Cần Thơ mình không bằng ai, nhưng nhìn xuống khối người không ai bằng mình. Lại thêm trong nhà có đứa con 2 tuổi hay bi bô nên suốt ba năm chung sống, đôi uyên ương lúc nào cũng thấy “cuộc đời vẫn đẹp sao”. Cái bẫy ly hôn Rồi trong lần tình cờ đi hát karaoke cùng mấy chị em trong xóm, chị T. quen với một đại gia giàu sụ đã ly dị vợ. Từ ngày đó, giữa hai người thường có những cuộc hát karaoke với nhau. Và của cải vật chất ngày càng sinh sôi, nảy nở trong nhà chị T. qua những lần đi hát “dân ca ba miền” ấy. Chị T. cũng thật thà khai báo hết cho chồng nghe, rủ rỉ rù rì trấn an chồng cứ yên tâm, gì thì gì em vẫn “giữ mãi tấm lòng son” với anh. Chồng khoái chí khi cái tivi 20 inches cũ được thay bằng cái 27 inches mới cáu. Rồi thêm chiếc Air Blade màu đỏ láng coóng nữa chứ. Điều quan trọng là tất cả đều đứng tên vợ mình, mà sau vợ mình chính là mình. Sau này cha đại gia có “bắc thang lên hỏi ông trời” cũng đòi lại hổng được. Ai mượn dại gái chết ráng chịu. Cứ mỗi tối cuối tuần là cả nhà vi vu trên chiếc Air Blade ra bến Ninh Kiều hóng gió. Nhiều lúc anh H. nghĩ có vợ nhan sắc lời thấy mồ, mình vừa được ngắm vợ đẹp vừa... có thêm tài sản. Tuy đôi lúc cũng cảm thấy khó chịu khi tưởng tới cảnh gã đại gia chụm đầu cùng vợ yêu song ca những bản tình ca, nhưng thôi chắc vợ yêu chỉ hát thôi, chứ không tiến xa hơn nữa đâu... Cay đắng nhìn con gọi kẻ lạ bằng cha Rồi bất ngờ vào một đêm trăng thanh gió mát, người vợ thủ thỉ với chồng rằng mình phải làm giàu và đưa ra một kế sách: ly dị! Chồng nghe xong, mồ hôi rơi lộp bộp dù tiết trời rất mát mẻ. Vợ thấy thế trấn an: mình chỉ ly hôn giả thôi, cho cha đại gia tưởng thiệt mới ngoan ngoãn “nộp” khối tài sản kếch sù cho mình. Khối người nhờ áp dụng cách này mà phất lên vù vù đấy. Cha này giàu lắm, chừng nào mình quơ được một đống tiền sẽ đá đít ổng một cái bịch. Lúc đó vợ chồng con cái sẽ đoàn viên trong niềm hoan ca sung túc. Lúc đầu chồng do dự, nhưng vợ cứ thuyết phục: “Thôi mà anh, lùi một bước là trời cao, biển rộng!”. Chồng xuôi theo gật đầu. Ra tòa, theo đúng kịch bản anh H. hào phóng giao hết tất tần tật nhà cửa, tài sản và cả đứa con duy nhất cho vợ. Còn mình ra đi mình không, mướn một phòng trọ ẩn nhẫn chờ ngày đoàn viên ca khúc khải hoàn. Thời gian đầu, anh H. đến thăm con chị T. vẫn vui vẻ như “chưa hề có cuộc chia ly”. Nhưng sau đó, chị khó chịu ra mặt khi anh H. đến thăm, nhất là khi đến trùng với đại gia. Chị T. đề nghị anh H. đến in ít thôi vì giữa hai người giờ đây không còn gì nữa cả, cô nam, quả phụ đến hoài thiên hạ... dị nghị. Anh H. chưng hửng nhắc lại “kế hoạch” xưa, chị T. tỉnh rụi rằng mình đâu có nói hồi nào đâu, nếu anh H. mà còn nhắc lại là chị sẽ thưa anh tội vu khống, bôi nhọ danh dự của chị. Cay cú biết mình bị lừa, nhà cửa, tủ giường,... công sức bao năm đổ sạch xuống sông nhưng cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”, vì nói ra chẳng những thằng tình địch mà đồng nghiệp trong cơ quan cười cho bể mặt. Điều anh H. ức nhất là thằng con trai cứ quấn lấy gã đại gia mà bí bô bí ba, còn anh là cha mà mỗi khi ôm nó lại khóc ré lên... Thôi thì cứu được cái gì thì cứu, anh H. gửi đơn đến tòa án đòi thay đổi quyền nuôi con. Nhưng đứa con mới 34 tháng tuổi, cộng thêm người mẹ có chỗ ăn ở công việc ổn định, còn anh H. ở nhà trọ nên tòa hai cấp tuyên chị T. tiếp tục giữ quyền nuôi con. Thế là từ đó anh H. thở dài thườn thượt hát câu: “Bởi tôi lỡ dại nên tin lầm người ta...”. “Chiếm đoạt” cháu nuôi Cuối năm 2001, mẹ của chị T.T.L. có xin một bé trai tại bệnh viện đem về cho chị nuôi. Chị làm khai sinh và đặt tên đứa bé là N.C.B.. Sau đó, vợ chồng chị L. chuyển đến tá túc nhà ông T., vốn là bạn thân của chồng chị. Hai vợ chồng chị L. thường đi làm ăn xa nên gửi cháu B. cho gia đình ông T. chăm sóc. Sáu năm trôi qua, vợ chồng chị L. dần khấm khá, cất nhà cửa và nói với ông T. rước bé B. về cho đi học. Lúc này ông T. không chịu trả con cho chị L.. Năn nỉ mãi không được, buộc lòng vợ chồng chị L. gửi đơn kiện đến TAND huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ. Trước tòa, ông T. nói rằng vợ chồng chị L. đã nói giao con cho ông nuôi luôn. Vả lại ông đã nuôi sáu năm nên mến chân, mến tay như cháu ruột. Vì vậy ông quyết không thể giao bé B. cho chị L.. Tuy nhiên vợ chồng chị L. thoải mái muốn đến thăm lúc nào cũng được, ông không cấm cản. Giờ chỉ cần hỏi ý kiến bé B., nếu bé chịu về ở với vợ chồng chị L. thì ông sẽ giao ngay tức khắc, chỉ cần trả ông tiền công nuôi bé B. sáu năm là 6.750.000 đồng. Tòa phân tích thời gian cháu B. sống gần vợ chồng ông T. nhiều hơn là vợ chồng chị L. nên giờ cháu B. không chịu xa ông bà là điều tất nhiên. Giờ cháu B. còn nhỏ, chính chị L. đã làm giấy khai sinh cũng như đăng ký việc nuôi con nuôi. Vì thế tòa tuyên chị L. được quyền nuôi cháu B. đồng thời phải thanh toán chi phí nuôi cháu B. cho ông T. là 6.750.000 đồng. Không đồng ý với bản án trên, ông T. kháng cáo. Nhưng nhiều lần TAND TP Cần Thơ mở phiên xét xử, ông T. đều vắng mặt không lý do dù giấy triệu tập được gửi đến tận nhà. Đến lần thứ ba, TAND TP Cần Thơ vẫn tiến hành xét xử và bác kháng cáo của ông T., y án sơ thẩm. Xóm giềng đều nói ông T. tính tình hiền lành nhưng đụng đến chuyện bé B. là ông rất quyết liệt. Ông kiên quyết giữ bé B.. Mãi đến gần ba tháng sau, khi cơ quan thi hành án quyết liệt yêu cầu ông T. phải chấp hành bản án, gia đình ông mới đưa cháu B. đến UBND xã giao cho vợ chồng chị L.. Nhưng khi giao xong, đi được dăm bước nghe cháu B. khóc thét lên kêu: “Ngoại ơi! Ngoại ơi! Đừng bỏ con”, thế là ông T. quay lại ẵm bé B. chạy thốc tháo về nhà, rồi kêu con trai tức tốc mang cháu B. trốn lên tận Sài Gòn. Sau nhiều lần thuyết phục ông T. không thành, Công an huyện Cờ Đỏ ra quyết định khởi tố ông T. với tội danh chiếm đoạt trẻ em, đồng thời ra quyết định truy nã con trai ông cũng với tội danh trên. Hơn bốn tháng lẩn trốn, người con trai suy tính thiệt hơn, hổng lẽ trốn vầy hoài chắc cả đời mình... hổng có vợ luôn. Rồi tương lai bé B. cũng không học hành được, kiểu này chắc mình và thằng bé đều tiêu tùng. Thế là anh con trai chặc lưỡi, đem bé B. về lại quê nhà, còn mình đến công an đầu thú. Ba năm trôi qua, giờ bé B. đang học lớp 2, đầm ấm bên cha mẹ mình. Anh con trai ông T. đã có vợ, sinh được bé trai kháu khỉnh. Ông T. suốt ngày đùa vui với cháu ruột của mình. Nhắc đến chuyện xưa mọi người đều hú hồn, nếu ngày đó cha con ông hành xử căng thẳng thì giờ hai cha con đều ngồi tù, chứ lấy đâu thong dong ngồi ru cháu nội như bây giờ. Án lạ đất phương Nam - Kỳ VIII: Bắc thang lên hỏi ông trời Tình tay ba Bà Ng. từng có một cuộc sống viên mãn với chồng và ba con. Một ngày đẹp trời bà gặp ông N. là Việt kiều Mỹ. Bị hấp dẫn bởi vẻ ngoài mặn mà của người đàn bà đang tuổi hồi xuân, ông Việt kiều ra sức chinh phục. Sức hút của mác “Việt kiều” cùng những lần vung tay thoải mái để chi tiền cho người đẹp đã khiến bà Ng. bỏ cả chồng con chạy theo ông. Từ đó, cuộc sống của bà Ng. thay đổi hẳn. Thế nhưng, cái khổ của bà là người chồng Việt kiều chẳng ở nhà thường, cứ “bay” đi nhiều ngày rồi mới về với bà ít ngày. Có tiền tiêu mà lại thiếu người yêu, bà Ng. tìm đến với nhiều thú tiêu khiển, trong đó món làm bà mê đắm là thú đánh bài. Tụ tập với bạn bè tại Sài Gòn chưa đã, bà Ng. còn đến tận các sòng bạc tại Campuchia để nướng tiền. Trong nhiều lần cùng hội sang Campuchia đánh bài, bà “kết” anh chàng tài xế tên T. sao mà nói chuyện nhỏ nhẹ lại dễ thương. Từ là “mối ruột” tài xế, T. trở thành người tình trẻ của bà Ng.. Những khoảng tình phí của cả đôi bên Cứ rỉ rả cần tiền: lúc sửa nhà, lúc mua xe hơi, lúc giúp bà con họ hàng... bà Ng. ngày càng “nã” tiền của ông N. nhiều hơn. Tiền cứ chảy từ túi ông Việt kiều sang bà Ng. chưa ấm chỗ lại chảy ào vào sòng bạc và túi của anh tài xế taxi trẻ trung. Chưa kể dù đã ly hôn nhưng tình nghĩa với người chồng cũ và những đứa con còn nặng. Thấy chồng cũ khó khăn, bà Ng. mạnh tay đưa cả trăm triệu đồng cho chồng cũ làm ăn. Bà chép miệng: “Thôi thì cứ coi như bù đắp thương tổn mà tôi gây ra cho ông!”. Cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Một ngày ông Việt kiều già chợt giật mình khi nghe đám cháu bàn tán về người vợ Việt Nam và những mối quan hệ mờ ám. Nhiều lần thử, kiểm tra biết được vợ không còn chung thủy, ông Việt kiều ức lòng gọi điện cãi vã và đòi lại tiền. Mới đầu thấy người tình già đòi tiền làm dữ, bà Ng. còn đinh ninh “ổng không cách gì để đòi lại tiền”. Thế nhưng, ông già đã tỏ ra cao cơ hơn khi trưng ra nhiều giấy biên nhận mà bà Ng. ký mỗi lần nhận tiền để làm bằng chứng đòi nợ. Sống chung nhưng không đăng ký kết hôn, lại có giấy biên nhận nhận tiền thì khi ông đòi bà Ng. phải trả là cái chắc! Bị người tình già đòi nợ và ngưng cung cấp tiền, bà Ng. cũng chợt nhận thấy người tình trẻ dạo này có nhiều biểu hiện lơ là. Muốn làm “cú chót”, bà Ng. đã điện nói với ông N. rằng tiền ông đưa bà đã mua căn nhà (thực chất bà chỉ thuê), nếu ông đòi thì bà cấn nhà cho cháu gái ông trả nợ. Cấn qua cấn lại, nếu lấy nhà thì cô cháu gái phải trả cho bà Ng. khoảng 47.000 USD nữa. Bà Ng. nhờ người làm giả giấy tờ nhà để đưa cho hai người. Sau khi giao tiền, chờ đến mỏi cổ không thấy bà Ng. giao nhà, cô cháu tìm hiểu và tá hỏa khi biết giấy tờ nhà là giả. Tiền vay chứ không cho! Tại phiên tòa xét xử bà Ng., cả ba người đàn ông của bà đều được mời với các tư cách khác nhau. Ông Việt kiều già là bị hại, người tình tài xế trẻ và ông chồng cũ là những người liên quan. Bà Ng. cố chứng minh với tòa rằng giữa bà và ông N. là quan hệ vợ chồng nhưng không được vì hai người sống với nhau làm gì có hôn thú. Thế nên dù bà có cố sức để cho rằng tiền ông Việt kiều đưa cho mình là tiền của “chồng” cho “vợ” tiêu xài, có khi chi tiêu chung cho chính ông N. nhưng chẳng ai tin. Ông Việt kiều còn đưa ra mấy cái biên nhận mà rằng: “Làm gì có chuyện cho, nếu cho thì bả viết biên nhận làm gì?”. Theo ông Việt kiều, đấy là tiền vay thôi. Mà không chỉ vay ông, bà Ng. còn “vay” của cô cháu gái nữa nên không trả là phải chịu tội. Trước tòa, bà Ng. khóc tấm tức rằng bà là nạn nhân. Bà Ng. nói bà với ông N. là quan hệ vợ chồng dù không có đăng ký kết hôn. Bà cần tiền, nói ông N. đưa thì ông đưa, bà xài chứ không vay mượn gì. Có khi bà còn chi tiêu cho cả ông N. nữa, coi như “tình phí” của cả hai người. Nhiều khi hết tiền xài mà ông N. ở tận bên Mỹ, bà gọi điện thì ông nói bà đến đứa cháu lấy đỡ, ông về sẽ đưa lại. Lúc đưa tiền đứa cháu nói bà ký nhận là để “nó tính lại với chú”. Bà tin mà ký chứ có ngờ đâu cô cháu hùa với ông để dùng biên nhận này tố cáo bà quỵt tiền. Tòa hỏi thế bà xài tiền những đâu mà nhiều thế, hết sạch hàng chục ngàn đôla? Bà Ng. nhận đã trót nướng vào sòng bạc hết một số tiền lớn, rồi có cho anh T. vay 800 triệu đồng để mua xe, đưa cho chồng cũ khoảng 100 triệu đồng làm ăn. Trước tòa, hai người đàn ông “liên quan” với bà và các món tiền trên đều chối biệt! Anh T. thì nói có vay bà 7.000 USD thôi nhưng trong quá trình xảy ra vụ án đã trả lại cơ quan điều tra rồi. Còn người chồng cũ lặng thinh: “không nhận đồng nào của bà Ng. cả”. Tòa hỏi bà Ng. có bằng cớ nào nói hai người trên nhận tiền của mình, bà lắc đầu thở dài. Trong khi đó, ông Việt kiều lại trưng ra đầy đủ những biên nhận nhận tiền của bà Ng. “vay” ông và cô cháu gái hơn 100.000 USD. Kể luôn cả khoản tiền lớn sau cùng là 47.000 USD mà bà Ng. dùng giấy tờ giả để lừa bán nhà cho cô cháu gái, bản án cuối cùng mà bà nhận được là 20 năm tù. “Hợp đồng cưới” Trong quá trình phá vụ án lừa đảo của một nữ giám đốc công ty dược phẩm tên L.T.Y.P. (35 tuổi), cơ quan điều tra thu thập hồ sơ liên quan hành vi phạm tội của nữ giám đốc này và vô tình phát hiện P. đang cất kỹ một bản “hợp đồng cưới” của P. với một người đàn ông. Dù hai bên có quan hệ tình cảm, yêu đương nhưng có vẻ nữ giám đốc vẫn không yên tâm nên đã đề nghị chàng người yêu phải ký một “hợp đồng cưới” đàng hoàng. Bản hợp đồng có nội dung P. đồng ý trang cấp cho người yêu nhiều tài sản gồm xe máy, đồng hồ, một món tiền lớn... và đổi lại anh chàng phải cam kết sẽ yêu thương, phải cưới P. vào cuối năm 2005. Hợp đồng được đánh máy hẳn hoi và cả P. và chàng trai đều ký tên. Thực hiện “hợp đồng” này, P. đã cung phụng tiền bạc cho người yêu đầy đủ như cam kết. Sau khi được cơ quan điều tra mời lên làm việc, anh chàng vội vã đem nộp lại xe máy, đồng hồ và những khoản tiền mà P. đã cung cấp đúng như “hợp đồng cưới” và cam đoan mình không biết gì về nguồn gốc tài sản có do lừa đảo. Cơ quan điều tra đã cho anh chàng đơn phương thanh lý hợp đồng cưới với P. bằng cách nộp lại tài sản mà P. đã cho. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 2, 2011 Án lạ đất phương Nam (Kỳ cuối) Thứ Năm, ngày 17/02/2011, 03:50(Tin tuc 24h) - Phàm làm người chẳng ai muốn mình thoát y giữa thanh thiên bạch nhật, trước con mắt của bàn dân thiên hạ bao giờ, trừ khi gặp phải “tai nạn” bất đắc dĩ. Nhưng hi hữu vẫn có những tình huống người ta đã “cởi”. Hai vụ án cởi đồ dưới đây có nguyên nhân khác nhau nên hậu quả cũng khác nhau. Cởi đồ và phạm tội Bà N.T.X.H. là đương sự trong một vụ tranh chấp. Năm 2004 bà bị tòa xử thua, buộc phải thanh toán số tiền hơn 53 triệu đồng. Bản án này được ủy thác cho Chi cục Thi hành án dân sự quận 11, TP.HCM thi hành. Tháng 7-2004, cơ quan thi hành án ra quyết định buộc bà H. phải chấp hành bản án đã có hiệu lực. Sau nhiều lần được giải thích, thuyết phục và hẹn lên hẹn xuống, mãi ba năm sau (tháng 5-2007) bà H. mới tự nguyện đem nộp số tiền trên cho cơ quan thi hành án quận 11 để trả cho người được thi hành án. Tuy nhiên, sau khi tự nguyện nộp tiền bà H. suy nghĩ lại và thấy chẳng tội gì mình phải trả lại tiền theo bản án. Cho rằng các chấp hành viên đã ép mình trả tiền, bà H. nhiều lần tìm đến trụ sở cơ quan thi hành án quận 11 để đòi lại tiền. Có lần đến không gặp được chấp hành viên, bà H. đã la toáng lên ngay tại trụ sở cơ quan thi hành án. Thoát y nơi công cộng Ngày 7-7-2010, bà H. gọi thêm em gái (bà M.) và con trai đến cơ quan thi hành án đòi lại tiền. Khi cán bộ thi hành án giải thích bản án đã có hiệu lực pháp luật, cơ quan thi hành án không thể trả lại tiền cho bà thì chị em bà H. bắt đầu “quậy”. Không chỉ la hét, chửi bới mà hai chị em còn đập bể luôn cửa kính của phòng thủ quỹ. Thấy sự việc coi bộ không ổn, cán bộ thi hành án đã gọi điện nhờ công an phường đến can thiệp. Dù thấy công an, cơn giận của hai bà H., M. vẫn không hạ mà dường như còn tăng lên. Các bà tiếp tục chửi cán bộ và cơ quan công quyền. Lực lượng công an đề nghị hai bà và cả cậu con trai về phường làm việc, không được gây rối tại trụ sở cơ quan nhà nước thì cả ba tiếp tục chống đối. Cực chẳng đã, những người thi hành nhiệm vụ định kéo các bà về công an phường làm việc thì cả hai tung chiêu... cởi đồ. Cả hai chị em bà H. đã tự động cởi quần áo để chống đối. Bất ngờ trước tình huống này, những cán bộ thi hành nhiệm vụ có khựng lại đôi chút nhưng cuối cùng quyết định “điệu” những “Êva” này về trụ sở công an phường để lập biên bản. Cộng thêm một số hành vi chống đối khác, hai chị em bà H. đã bị truy tố, xét xử về tội “chống người thi hành công vụ”. Riêng cậu con trai do chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không bị xử lý trong vụ “quậy” cùng mẹ và dì. Trong phiên tòa xét xử các bị cáo của TAND quận 11, lúc đầu cả hai bà không thừa nhận đã tự cởi đồ mà cho rằng bị co kéo nên tuột ra. Sau đó, các bà mới thực tình “vì tức quá không kiềm chế được mà trót dại, với lại cũng chẳng ngờ làm thế là phạm tội nên mong được tòa khoan hồng”. Dù có khoan hồng nhưng bản án tòa dành cho hai bà H., M. về hành vi cởi đồ tại cơ quan công quyền là hơn 5 tháng tù và 12 tháng tù. Muốn khám thì... cho khám! Câu chuyện cởi đồ của bà Đ. lại khác. Là một doanh nhân thành đạt, kinh doanh lớn nhưng lại bị nghi ngờ lấy đồ siêu thị mà không tính tiền thì quả thật là ê mặt. Chưa hết, bà Đ. còn bị các nhân viên bảo vệ đối xử thô lỗ quá nên ức lòng mà phải... cởi. Một buổi chiều tháng 5-2010, bà Đ. đến siêu thị M. để mua hàng. Khi bà đẩy xe qua cửa an ninh, chẳng hiểu lý do gì máy soi lại kêu “tít tít” nhiều lần. Nghĩ rằng có đồ bất minh trong xe hàng của bà Đ., các nhân viên bảo vệ đã chặn xe và kiểm lại hàng. Kiểm nhiều lần không thấy hàng gì chưa tính tiền, trong khi cái máy vẫn tiếp tục “tít tít” nên nhân viên siêu thị yêu cầu bà Đ. vào phòng trong để khám người. Việc bị chặn lại đã làm nhiều người tò mò đứng nhìn, giờ lại bị yêu cầu khám người khiến bà Đ. rất tức giận. Bà Đ. yêu cầu: muốn khám người bà phải có phòng riêng, phải lập biên bản và có đại diện của ban giám đốc siêu thị chứng kiến. Các nhân viên bảo vệ cho biết không thể mời đại diện ban giám đốc xuống được nhưng vẫn buộc bà phải vào phòng trong để khám. Bà Đ. không đồng ý, định bỏ đi thì một nhân viên bảo vệ nữ nắm tay bà giữ lại. Bà giằng ra đi về phía cổng thì một nhân viên nam khác nhào tới, kéo tay kéo áo không cho bà đi. Việc co kéo này đã khiến chiếc áo bà đang mặc xô lệch và... tuột. Ức lòng vì bị hàm oan, lại bị đối xử không ra gì trước mắt bao nhiêu khách hàng siêu thị, bà Đ. không kìm được đã tự mình cởi luôn phần đồ bên dưới để bảo vệ... khám cho toàn diện! Thấy bà Đ. trong tình trạng “hở trên trống dưới”, các nhân viên đã xúm lại và co kéo bà Đ. vào phòng trong. Vụ việc phải nhờ cơ quan công an đến giải quyết. Sự thật thì bà Đ. chẳng giữ trong người món đồ nào của siêu thị mà vẫn bị đối xử khiếm nhã. Sau khi khiếu nại và lãnh đạo của siêu thị đã có lời xin lỗi nhưng bà Đ. vẫn cảm thấy uất ức về việc bị đối xử như kẻ trộm. Bà gửi thư đề nghị lãnh đạo siêu thị phải xin lỗi bà công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và bồi thường danh dự cho mình. Tuy nhiên, các yêu cầu này của bà không được phía siêu thị đáp ứng. Vì vậy, bà M. đã nộp đơn khởi kiện ra tòa. Khi làm việc với cơ quan chức năng, lãnh đạo siêu thị vẫn cho rằng nhân viên bảo vệ của mình làm đúng chức trách vì máy báo có hàng chưa tính tiền và cho rằng bà Đ. bất hợp tác, tự cởi đồ. Băng ghi hình cảnh khám xét và cởi đồ của bà Đ. tại siêu thị đã được cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền. Khi làm việc, bà Đ. chẳng chối bỏ chuyện mình đã tự cởi “phần dưới”, nhưng “phần trên” là do nhân viên bảo vệ túm kéo mà tuột ra. Bà Đ. cho rằng chính việc túm áo, tuột áo đã khiến bà bức xúc cởi nốt cho bảo vệ khám xét thoải mái. Hơn nữa, theo bà Đ., bà đã bị nhân viên bảo vệ cư xử khiếm nhã, đánh gây thương tích trong khi xô xát nên bà cương quyết đề nghị phải xử lý hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm khách hàng này. Vụ án cởi đồ này xảy ra đã gần cả năm nay, nhiều người khuyên bà Đ. “thôi bỏ qua, đôi co làm gì kẻo lại rùm beng lên”. Có lúc bà Đ. cũng định bỏ qua nhưng mỗi lần nhớ đến cảnh bị ê mặt giữa chốn đông người, cơn giận của bà lại nổi lên. Do bận nhiều việc, bà Đ. đã ủy quyền cho luật sư thay mình theo đuổi vụ việc này. Xem ra kết cục của vụ án đòi bồi thường vì bị cởi đồ này vẫn phải chờ... hạ hồi phân giải! Share this post Link to post Share on other sites