Thiên Đồng

Mèo Trong Tâm Thức Việt

2 bài viết trong chủ đề này

Xuân Tân Mão nói chuyện về mèo

Minh Khải

Mở đầu

Chỉ còn một khoảng thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ bước qua mộtmùa xuân mới, xuân Tân Mão! Theo luật tuần hoàn của tạo hóa, Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ thế xoay vần: Cọp đi thì Mèo đến.

Xưa nay Mèo vẫn là một loài thú rất gần gũi với con người. Trong 12 con giáp Mèo là con vật dễ thương nhất, vừa hiền diệu nhưng lại có chí khí, vừa nhanh nhẹn lại rất cẩn thận. Vì vậy mà Mèo là một trong những loài trở thành biểu tượng của sự diệu dàng, không riêng ở nước ta mà cả nhiều nước khác đã đưa Mèo dự phần vào đời sống xã hội. Nhà thơ Tú Mỡ có miêu tả rằng:

Mèo là một giống hùm bé tí

Thân hình nhỏ nhen nhưng chí khí chẳng nhỏ nhen

Nó không phũ như giống chó đê hèn

Lại khéo làm bộ giả hiền,vờ quân tử

Ta hãy nhìn: dáng nó đi thong thả

Khinh khỉnh coi đời bằng nửa con ngươi…[1]

Hình ảnh con Mèo trong ca dao - tục ngữ Việt Nam

Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Không ai biết rõ xuất xứ của những lời ca hát đó ở đâu, chỉ biết rằng nó thường được thể hiện dưới hình thức câu hát ru, những câu hò đối đáp giữa các chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay để kết thúc mỗi câu chuyện cổ tích mà các cụ già kể cho con cháu nghe mang tính chất khuyên răng dạy bảo.

Đặc biệt hình tượng của các chú Mèo dễ thương ảnh hưởng không ít trong ca dao tục ngữ Việt Nam, mà ngay từ những ngày đầu còn trong nôi ta đã nghe mẹ hát ầu ơ rằng:

Con mèo mà trèo cây cau

Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà

Chú chuột đi chợ đường xa

Mua mắm mua muối dỗ cha chú mèo.

Con mèo, con chó có lông

Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.

Hay những câu ca dao - tục ngữ nói về đời sống xã hội một cách thuần túy như:

Mèo tha miếng thịt xôn xao;

Hùm tha con lợn thì nào thấy chi.

Con mèo xáng vỡ nồi rang,

Con chó chạy lại nó mang lấy đòn.

Hình ảnh con Mèo cũng được thuần hóa trong những câu hát tình cảm:

Chiếc ghe là hai người chèo.

Tôi đố cô Bốn con mèo mấy lông ?

Chàng về tát cạn biển đông,

Ra đây tôi nói mấy lông con mèo.

Còn duyên anh cưới con heo,

Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi.

Có vẻ như Mèo đã hòa nhập vào đời sống nhân dân Việt Nam qua những câu ca dao – tục ngữ, được ông cha ta đề cập dưới nhiều khía cạnh khác nhau nhằm nhắc nhở, khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.

Không những thế, hình ảnh con Mèo được dùng để biểu trưng ý nghĩa trong nhiều câu thành ngữ như: ‘ăn như mèo ngửi’, ‘mèo già hoá cáo’, ‘khỉ vẫn là khỉ, mèo vẫn hoàn mèo’, ‘mèo cào không sẻ vách vôi’, ‘mèo mù vớ được cá rán’, ‘mèo vật đống rơm’,…

Hình ảnh con Mèo trong kinh điển Phật giáo

Mèo không chỉ là loài vật gần gũi với con người hằng ngày, mà Mèo đã được đức Phật hình tượng hóa để làm ví dụ trong nhiều kinh điển. Nổi bật như trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo, cuộc đối thoại giữa Tỳ Kheo Na Tiên và vua Di Lan Đà như sau:

- Tâu đại vương! Con mèo có hai điểm cần phải học hỏi như sau:

Thứ nhất, mèo ở nhà hay mèo rừng, dù bất cứ đâu, trong hang, hóc núi, bộng cây hoặc ở chung với người cũng thường dễ dàng tìm bắt chuột. Bắt chuột là sở của mèo. Một vị Tỳ khưu ở trong am miếu, tịnh thất, khu rừng, dưới cội cây, ở chỗ trống hoặc trong nhà vắng vẻ; hằng tinh tấn trì bình nuôi mạng, phải biết quán tưởng, niệm thân. Vì quán tưởng, niệm thân là nhiệm vụ của Tỳ khưu vậy.

Thứ hai, mèo thường không đi đâu xa, chỉ kiếm ăn ở gần thôi; vị Tỳ khưu cũng vậy, không cần thiết phải tưởng nghĩ những chuyện xa xôi hoặc khởi niệm đi tầm cầu chỗ này chỗ nọ, mà phải tu tập ngay chính ở đây, ở nơi thân tâm mình. Đấy là quán tưởng sự sanh diệt của ngũ uẩn, thấy rõ sự chấp thủ về sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nó sanh do nhân như vậy, diệt do nhân như vậy. Đúng như Đức Chánh Đẳng Giác thuyết: “Đừng tìm kiếm đâu xa, ví như tầm cầu cảnh giới phạm thiên chẳng hạn. Chỉ nên tu tập ở nơi ngũ uẩn này, hãy tinh tấn quán tưởng ngũ uẩn này cho đến lúc nhàm chán và xuất ly nó.”[2]

Đoạn đối thoại trên vua Di Lan Đà nói lên nhiệm vụ của Mèo là phải bắt chuột, để thầm nhắc nhở nhiệm vụ của một vị Tỳ Kheo là dù ở nơi nào cũng luôn biết trách nhiệm chính của mình là quán tưởng, niệm thân. Bởi vì, con người phàm phu thường thích tìm hiểu những điều cao siêu, xa rời thực tế, trong khi cuộc sống luôn dàn trải trước mắt ta với tất cả nhiệm mầu. Do chúng ta mong mỏi tìm cầu chân lý ở đâu đó xa xôi, nên không thể thấy chân lý rất đơn giản và ở ngay mảnh đất mình đang đứng. Và rồi, hoặc chúng ta cảm thấy mình bất lực khi muốn vươn đến lý tưởng tuyệt đối; hoặc thấy cuộc đời sao nhiều phiền não nhiêu khê, muốn tìm nơi yên tĩnh, xa lánh hết mọi phù phiếm thế gian.

Hay trong kinh Tương Ưng II đức Phật cũng dùng hình ảnh con Mèo để răng dạy các thầy Tỳ Kheo về việc phòng hộ tâm như sau:

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi. Lúc bấy giờ, có Tỷ kheo dùng quá nhiều thì giờ giao tế với các gia đình. Các Tỷ kheo khác thấy vậy nhắc nhở, Tỷ kheo ấy nghe vậy, tâm không hoan hỷ. Rồi chuyện được bạch lên Thế Tôn, Ngài dạy:

Này các Tỷ kheo, thuở xưa, có con Mèo rình chuột cạnh một đống rác và nghĩ rằng: Nếu có con chuột nhắt nào chạy ra, ta sẽ bắt lấy và ăn thịt nó.

Rồi, này các Tỷ kheo, có một con chuột nhắt chạy ra, Mèo vồ bắt lấy rồi nuốt chửng. Và con chuột nhắt ấy cắn xé phủ tạng con Mèo. Do nhân duyên ấy, Mèo bị đau đớn hành hạ đến chết hay gần chết.

Cũng vậy, này các Tỷ kheo, ở đây, một số Tỷ kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào làng khất thực, thân không phòng hộ, lời nói không phòng hộ, tâm không phòng hộ, niệm không an trú, các căn không chế ngự. Các vị Tỷ kheo ấy bị tham dục não hại đến chết hay gần chết.

Do vậy, này các Tỷ kheo, phòng hộ thân, phòng hộ lời nói, phòng hộ tâm, an trú chánh niệm, chế ngự các căn là điều cần phải học tập.[3]

Chúng ta đầy đủ duyên lành được sinh ngay trung tâm Phật Pháp. Nhưng nơi phố thị thành đô, hàng ngày nhan nhãn trước mắt biết bao cảnh xáo trộn bốc mùi tục lụy. Có khi chúng ta phải tiếp xúc, phải đối diện với những cảnh không vừa ý. Môi trường này rất đáng sợ vì khi chúng ta chưa đầy đủ tuệ giác, sức sống nội tâm còn yếu ớt, ba nghiệp không hàng phục được thì ba đường đau khổ sáu nẻo luân hồi nhất định không thể nào thoát khỏi. Nhất là hiện nay đời sống vật chất vượt cao độ, con người càng bị si mê quay cuồn trong dục lạc nếu muốn xông pha vào trận chiến này thì ít nhất phải là người không bị ba món độc sai khiến, phải phòng hộ sáu căn. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức, tâm vẫn như như trước những thăng trầm biến đổi hỗn ngang của ngoại cảnh, khéo léo phương tiện “tùy duyên” để trưởng thượng đạo lực mà vẫn “bất biến” thì hãy “hòa quang đồng trần” để làm lợi ích cho chúng sanh. Và như vậy thì trà đình tửu điếm cũng chỉ một màu thanh tịnh như đạo tràng mà thôi. Nếu không như vậy chúng ta sẽ giống như con Mèo bị con Chuột Nhắt cắn xé phủ tạng và bị hành hạ đau đớn đến chết.

Kết Luận

Người biết sống trong chánh niệm, khéo điều tâm khiển thân, chân thành hành đạo, tu tâm dưỡng tánh, từ đó tạo thành phước đức, thì mặc sức hưởng trong mùa xuân hạnh phúc. Ngược lại, kẻ không biết sống trong chánh niệm, lệ thuộc ngoại cảnh, chạy theo tà tâm tham vọng thúc đẩy thì sẽ phải trôi lăn đắm chìm trong biển đời danh lợi thị phi, nổi trôi trong dòng sông ái ân dục vọng, sống ngày nào chỉ tạo thêm tội lỗi. Thế nên Cổ-đức nói: Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

nguồn: http://www.daophatkhatsi.net/lehoi/77D419.aspx

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Linh miêu và câu chuyện quỷ nhập tràng

bee.net.vn

Linh miêu - theo truyền thuyết - là một loại "mèo ma", được sinh ra từ cuộc hôn phối "rừng rú" ngẫu nhiên và hiếm có giữa con mèo cái đen tuyền với một con rắn hổ.

Đặc điểm của linh miêu là rất thích ăn trứng gà sống, thích rình bắt và cắn cổ gà cho đến chết rồi nhai xương luôn. Nó lớn lên nhanh hơn nhiều so với đồng loại, càng lớn móng vuốt của nó càng dài, càng bén nhọn như dao, đặc biệt đôi mắt thường toát lên những tia nhìn dữ tợn, đầy ma lực.

Từ những đặc điểm "ma quái" trên và qua những lời đồn đại nhiều đời, người ta bảo linh miêu nhảy chồm qua xác chết luôn gây nên hiện tượng quỷ nhập tràng. Hiện tượng đó ngày nay được giải thích, đại khái người chết bỗng nhiên ngồi dậy là do hấp lực của luồng điện dương (của các cơ thể sống) đối với nguồn điện âm chưa kịp tan hết (của thi thể người vừa qua đời) và xem đây là cảm ứng điện trường.

Tuy vậy, người ta vẫn tiếp tục bị cuốn hút bởi những câu chuyện về quỷ nhập tràng và linh miêu được truyền miệng đến tận nay ở khắp nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Sri Lanka và Việt Nam.

Posted Image

Tương truyền có một cô gái xinh đẹp chưa đầy 20 tuổi bị ám hại, trước lúc qua đời trên mặt và dưới cằm cô gái bỗng mọc đầy một lớp lông mỏng mịn trắng như tơ và hai mắt chợt xanh biếc sáng long lanh như mắt một con mèo cái đi hoang giữa đêm trừ tịch. Cô xuất thân từ một gia đình nghèo khổ. Ngày kia có đoàn người giàu có bưng mâm quả đựng của ngon vật lạ đến trước túp lều cỏ xin cưới cô gái về làm vợ cho người chủ của mình.

Cha mẹ cô gái nghèo khổ đồng ý gả cô gái để cô có được cuộc sống sung sướng. Nhưng khi về nhà chồng, cô đối diện với một nỗi bẽ bàng. Vì người vợ cả không sinh được con nên ông chủ muốn tìm một người vợ nhỏ để có con nối dõi tông đường. Khi cô gái mang thai, người vợ cả nảy lòng ganh ghét. Ngoài mặt bà tỏ ra vui vẻ lui tới thăm hỏi, nhưng âm thầm hãm hại người vợ nhỏ, lén lút trộn thuốc vào đồ ăn để phá thai. Đến kỳ mang thai lần thứ hai, người vợ nhỏ vẫn không hay biết gì, nên bị người vợ cả một lần nữa trộn thuốc làm hư thai. Đến lần mang thai thứ ba thì người vợ nhỏ phát hiện ra việc làm độc ác của người vợ cả nên giấu kín cái thai trong bụng.

Đến khi cái thai to dần và thấy rõ, lòng ghen tức của người vợ cả bùng lên. Bà tiếp tục dùng vàng bạc mua chuộc gia nhân để trộn thuốc phá thai vào các thang thuốc bổ cho người vợ nhỏ uống. Hậu quả là đứa trẻ sắp ra đời chết trong bụng mẹ, khiến người mẹ đau đớn, vật vã suốt ngày đêm đến kiệt sức. Trong cơn hấp hối, người vợ nhỏ uất hận cất lời nguyền:

"Ngươi đã ba lần giết chết ba đứa con ta trong khi còn thai nghén. Lần này ngươi đã giết cả ta nữa. Ta thề nếu đầu thai vào kiếp sau ta sẽ đi theo người để hễ người sinh đứa con nào ta sẽ ăn thịt đứ con đó và sẽ giết chết cả ngươi!"

Quả nhiên, khi chết đi, cô vợ nhỏ đầu thai làm một con mèo đen, còn người vợ lớn đầu thai làm một con gà mái. Hai con vật có tiền kiếp ân oán nặng nề kia cùng ở chung một mái nhà. Hễ con gà mái (người vợ lớn) đẻ ra trứng nào đều bị con mèo đen (người vợ nhỏ) rình ăn sạch. Qua ba lứa mèo đen ăn hết trứng, đến lứa thứ tư ăn tròng đỏ trứng xong, nó liền vồ luôn gà mẹ ăn sống tại chỗ.

Cả hai chết đi, con gà mái lại hóa kiếp làm con beo (người vợ lớn), con mèo đen hóa kiếp thành con nai cái (người vợ nhỏ). Hai con sống trong một cánh rừng. Hễ con nai cái đẻ được đứa con nào đều bị con beo trườn tới bắt ăn thịt. Đến lứa thứ ba, con beo ăn luôn con nai mẹ.

Con nai mẹ chết đi trong oán giận, đầu thai thành một loài quỷ dữ, tay chân có móng vuốt, mắt sáng như đốm lửa và mặt mũi y như một con mèo ma, đó là hắc dạ xoa (người vợ nhỏ). Còn con beo lại hóa kiếp thành một phụ nữ xinh đẹp, lấy chồng và sinh con (người vợ lớn). Những đứa con đầu lòng vừa đầy tháng , hắc dạ xoa dùng phép thần thông hóa ra một cô gái hiền lành bắt lấy đứa con nhỏ ra khỏi nhà ăn thịt. Đứa thứ hai cũng bị hắc dạ xoa bắt đi như vậy. Đến đứa thứ ba, hai vợ chồng bàn nhau bồng đứa con mới sinh đi nơi khác sinh sống.

Trên đường đi, hắc dạ xoa đuổi theo và hóa thành một cô gái tiến lại gần hai mẹ con nọ. Người mẹ linh cảm nguy hiểm, biết quỷ giả dạng người để hại mình, nên bồng đứa con chạy vào nơi Phật Thích ca mâu ni đang thuyết pháp để xin cứu giúp. Lúc ấy, hắc dạ xoa đã đuổi tới nơi, được Phật gọi vào và giải thích ân oán của hai bên, khiến người này phải ăn thịt người kia, con của người kia đẻ ra bị người này ăn thịt lại, làm gà, làm nai, làm beo, làm mèo, làm hắc dạ xoa, cứ thế xoay vòng bất tận nếu không thức tỉnh. Rồi Phật khuyên: "Lấy oán kết oán, oán ấy không tan - lấy ân giải oán, là lẽ muôn đời". Nghe xong, hắc dạ xoa, tức miêu quỷ (người hóa kiếp mèo), rụng hết móng vuốt, lông lá và phát tâm đại bi, khôi phục lại thân người và không lâu sau thành quả thánh.

Người kể chúng tôi nghe chuyện trên là một thiền sư ở tịnh viện Bát Nhã núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, với lời nhắn nhủ đầu năm: "Đây không phải là câu chuyện truyền miệng bâng quơ hoặc sáng tác văn học thời nay, mà đã chính thức được chép vào tam tạng Thánh điền từ xưa và nằm trong kho tàng các chuyện cổ về giáo huấn của phương Đông".

Giao Hưởng (Báo Thanh niên Xuân Tân Mão năm 2011)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay