Liêm Pha

Huyền Môn Học Và “ngày Tận Thế”

1 bài viết trong chủ đề này

Posted Image

Giống dân Atlantis cũng bị kết thúc bằng một thảm họa?

Huyền môn học chưa bao giờ xác nhận rằng sẽ có sự kết thúc một nền văn minh bằng thảm kịch sự sống bị hủy diệt hoàn toàn bởi một trận đại hồng thủy, núi lửa, thiên thạch rơi xuống Trái Đất… Kinh sách Veda cũng như minh triết Phương Đông cùng có lý thuyết, sự sống của Vũ trụ đi qua từng chu kỳ với từng tính chất khác nhau, có sinh có diệt, và từ chổ diệt lại sinh ra cái mới. Giả chăng nếu có thảm họa nào đó xảy ra, thì chỉ có thể xác vật chất bên ngoài chết đi nhưng linh hồn bên trong con người vẫn tồn tại, và cơ hội làm lại cuộc đời lại đến.

Truyền thuyết loài người của dân tộc Hindu quan niệm, trên Trái Đất này Linh Hồn đã ở trong thể xác hết giống dân này đến giống dân khác, khi thì da dàng, lúc da trắng, hoặc da đen…Điều này đã tồn tại từ khi Trái Đất khởi sinh, và đến nay trong thời đại chúng ta giống dân thứ 5 sắp chuẩn bị thay thế giống dân thứ 4 trong một thảm họa nào đó, ở thời điểm bất kỳ trong tương lai mà loài người không ai biết trước được.

Giống dân đầu tiên

Xét theo một trình tự ý tưởng khác, ta hãy xác định rằng Giống dân đầu tiên bao gồm “các con của Yoga” nghĩa là những sinh linh ngụ nơi những hình tướng được phân thân từ bên trong do các vị Tổ phụ là các thực thể thuộc dãy Nguyệt tinh. Ở đây Yoga được dùng thay thế cho Dhyana, tức là quyền năng pháp thuật phân thân một hình bóng hoặc một song trùng thể (un double) nhờ vào quyền năng Ý chí. Do đó các thực thể của giống dân này không có giới tính và tự sinh sản. “Giống dân thứ nhì được sinh ra do nảy chồi và bành trướng”. Chúng chẳng thể làm sao khác hơn được vì Tổ phụ của chúng là các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhất vốn tinh anh, không có giới tính và thậm chí còn chưa có cả hiện thể của dục vọng. Vì vậy chúng sinh ra Giống dân thứ nhì một cách vô ý thức giống như một vài loài cây sinh sản bởi cách nảy chồi hoặc có thể giống như con amíp (amibe) bằng cách phân đôi ra thành hai bộ phận không bắt buộc phải bằng nhau. (GLBT, III, 145). Đây là một quá trình mà Khoa học đã biết rõ trên cõi hồng trần: Nhân của tế bào kéo dài ra rồi chia thành hai phần, nhân con phân đôi ra mang theo một phần tế bào chất. Ta chỉ cần chuyển dịch quá trình này lên một cõi tinh vi hơn thì sẽ hình dung được dễ dàng cách thức mà các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhất “đâm chồi” để sản sinh ra các thực thể thuộc Giống dân thứ nhì. Các thực thể này lớn lên qua việc “bành trướng”.

Giống dân thứ nhì

Các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhì triển khai một phương thức sinh sản mới, “sinh ra những kẻ hãn sinh” (sinh ra như giọt mồ hôi). Phương thức này chắc chắn là hậu quả của việc lớp vỏ mặc dù còn tinh vi nhưng dần dần trở nên thô trược hơn, cũng như đồ sộ hơn. Vậy thì, thay vì chia làm đôi không bằng nhau với phần nhỏ xíu tạo thành một cái chồi, thì ta lại có sự rịn ra các giọt của chất Tổ phụ, mỗi giọt này trở thành một loại mầm mống khai sinh ra một sinh linh khác. Các sinh linh đầu tiên thuộc Giống dân thứ nhì đã được các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhất sinh ra bằng cách “nảy chồi và bành trướng”, nhưng vì bản thân chúng cũng phải sinh sản bằng cách rịn mồ hôi cho nên con cháu của chúng luôn luôn thuộc Giống dân thứ nhì được gọi là “hãn sinh”.

Các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhì đã manh nha có giới tính nhưng còn chưa bộc lộ rõ rệt cho nên được gọi là vô tính.

Giống dân thứ ba

Thế rồi vào cuối giai đoạn ấy thì các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhì, vốn xuất phát từ “các giọt mồ hôi”, trên bề mặt bị cứng lại và càng ngày càng trở thành những “quả trứng”. Thế là đám con cháu của họ vốn trở thành Giống dân thứ ba được gọi là “noãn sinh” [12] . Nơi các thực thể này các cơ quan sinh dục bắt đầu được hình thành nhưng thoạt tiên chúng xuất hiện trên cùng một cơ thể - do đó các sinh linh ấy là thư hùng lưỡng tính – thế rồi sau này các cơ quan sinh dục ấy mới tách ra ở trong các cơ thể khác nhau, các cơ thể này trở thành thể xác thô trược, do đó ta thấy người đàn ông và người đàn bà xuất hiện. Sau khi đã duy trì được một cơ thể thì con người biết được một cách thức trước đó chưa từng tác động vào nó. Lúc bấy giờ nhóm thực thể (mà chúng tôi đã loan báo trên kia vốn phải cung cấp trí tuệ cho con người) bèn giáng lâm. Họ lấy làm giật mình khi nhìn thấy những con người vào thời kỳ đó; một vài con người đã được chuẩn bị đầy đủ và một vài Con của Minh triết đã nhập thể trong đó, như vậy trở thành các Huấn sư Thiêng liêng đầu tiên của con người. Vả lại, các Con của Minh triết không cư ngụ trong những người đầu tiên “sinh ra từ trứng” (noãn sinh) mà cư ngụ trong những người thuộc Giống dân phụ thứ ba nghĩa là đám hậu duệ tiến hóa hơn. Vả lại vào lúc các Con của Minh triết can thiệp vào quá trình ấy thì tiến trình đông cứng lại được tăng tốc: “các sinh linh do trí tuệ sinh ra, các đấng không có xương khai sinh ra các sinh linh do ý chí sinh ra vốn không có xương” (GLBT, III, 196). Câu Kinh sau đây (VII, 27) có nói rằng: “Giống dân thứ ba trở thành hiện thể của các Tinh quân Minh triết. Giống dân ấy tạo ra các Con của Ý chí và của Yoga nhờ vào Kriyashakti, các Đấng Cha Thánh thiện, các Tổ phụ của Chư La hán”.

Thế mà câu Kinh trước đó lại kết thúc bằng đoạn: “Các Tinh quân Minh triết phán rằng: Bây giờ chúng ta hãy sáng tạo”. Người ta không thể hiểu được làm thế nào mà cái vỏ rỗng tuếch lại được sinh ra bằng Kriyashakti, tức Quyền năng của Ý chí; vì vậy ta phải kết luận rằng chính các Tinh quân Minh triết đã được sinh ra nảy nở bằng Kriyashakti, và chính các Con của Tinh quân Minh triết đã đến cư ngụ bên trong các hình tướng của con người. Chắc chắn là chính Ý chí ấy đã cung cấp bộ xương cho những hình tướng đó. Một số người khác được cung cấp kém hơn và chỉ nhận được một điểm linh quang của các Đứa con Minh triết: những người này thấp kém hơn những người nêu trên. Còn về phần những người còn lại thì đó chỉ là các lớp vỏ mà các Con của Minh triết không dùng được nên tiếp tục tồn tại với vai trò các “lớp vỏ vô tri giác”, những “con người đầu óc hẹp hòi”. Những người này thực ra không hề bị bạc đãi bất công so với những người khác. Họ chỉ tiêu biểu cho những người cuối cùng đã đến trái đất trong số các Chơn thần con người (Xem chú thích 2) vốn “chưa sẵn sàng”, và họ phải tiến hóa . . . sao cho đạt được mức lớp người trung bình khi đã đến Cuộc tuần hoàn thứ năm (GLBT, III, 210-211).

Những con thú đầu tiên xuất hiện

Bây giờ những con thú đầu tiên mới xuất hiện. “Những con thú đầu tiên được sinh ra từ các giọt mồ hôi, cặn bã của chất liệu, vật chất bắt nguồn từ những xác chết của loài người và loài thú thuộc giống dân trước đó cũng như cát bụi đã bị vứt bỏ” (Câu Kinh VII, 28, GLBT, III, 24).

Khẳng định này chắc chắn là lời đính chính hùng biện nhất mà Giáo lý Huyền bí đưa ra đối lập với thuyết tiến hóa của Darwin. Thuyết này bảo rằng con người thoát thai từ loài thú, nhất là từ loài động vật có vú, đặc biệt là một vài loại Khỉ. Nhưng theo Giáo lý Huyền bí thì loài thú vốn được sinh ra từ các “giọt mồ hôi” nghĩa là được tạo lập theo cách giống như con người, từ “những cặn bã của chất liệu”, sau khi các giọt mồ hôi được dự tính trở thành con người đã được rịn ra từ cơ thể con người, đó là “vật chất bắt nguồn từ xác chết của con người”. Quả thật là việc tái chế vật liệu cũng như bắt nguồn từ “những con thú của Giống dân (cuộc tuần hoàn) trước kia và “loại đất bụi bị vứt bỏ”.

Như vậy không phải chỉ những con thú gần loài người nhất mà tất cả những con thú, đặc biệt là con cổ dực (l’archéopterix), loài bò sát biết bay, tổ tiên của loài chim đã được “thêm vào cho những loài đang bò”.

Giới tính bắt đầu sinh ra

Chính ở giai đoạn này đã xảy ra một tấn tuồng đầu tiên trong lịch sử loài người. “Những con thú phân chia giới tính đầu tiên. Chúng bắt đầu sinh sản. Con người thư hùng lưỡng tính cũng phân chia giới tính. Y bảo rằng: “Chúng ta hãy bắt chước chúng nó, chúng ta hãy giao hợp. Thế là cả đám thực hiện . . .”

Thật ra thì con người không được thiết kế để phân chia giới tính. Đó là một “sự sa đọa”. Nhưng ngoài vở tuồng này ra thì có một vở tuồng khác xảy ra bắt nguồn từ vở tuồng đầu tiên. Những con người có đầu óc hẹp hòi, tóm lại chẳng khác loài thú bao nhiêu, bèn “chiếm lấy những con thú cái khổng lồ” (Câu Kinh VIII, 32) và do sự giao hợp ấy đã sản sinh ra “một giống quái vật dị dạng, thân hình phủ đầy lông lá màu đỏ, bò trên bốn chân”; và nếu những “con người” sau đó biết học cách sử dụng ngôn ngữ thì đám con lai của loài người, những người thú ấy vẫn câm lặng. Đoạn mô tả những con quái vật này tương ứng khá chặt chẻ với sự mô tả con đười ươi (và có lẽ những loài tương cận của nó). Như vậy loài khỉ không phải là tổ tiên của loài người mà một vài loài khỉ chẳng những còn là con đẻ của một vài giống người. (Điều này vừa có được tiếng vang trong những cuộc khảo cứu gần đây nhất thực hiện bằng phương pháp miễn dịch ADN, nó chứng tỏ rằng con đười ươi và con người có một tổ tiên chung và “song hành với nhau”; dù sao đi nữa điều này cũng có nghĩa là con đười ươi không có trước con người.

Giống dân thứ tư

“Một phần ba các sinh linh từ chối” (câu Kinh, VI, 5 trang 21) tuy nhiên cũng không hề bất động. Họ theo dõi cơ tiến hóa của vạn vật và khi họ biết được thảm họa mà chúng ta vừa thấy như nêu trên thì họ “khóc ròng” mà bảo rằng: “những kẻ vô trí đã làm ô uế chỗ ở tương lai của chúng ta. Điều đó âu cũng là Nghiệp báo thôi. Chúng ta hãy ở trong những chỗ ở khác. Chúng ta hãy dạy dỗ cho chúng khá hơn để chúng không tệ hơn nữa”. Thế là họ thực hiện điều ấy. (Câu Kinh IX, 33 và 34).

Vậy là mọi người đều được phú cho Trí tuệ. “Đó là lúc khởi đầu Giống dân thứ tư vốn đã phát triển được ngôn ngữ. Mặc dù nhờ có trí tuệ họ biết được rằng những kẻ vô trí đã làm bậy; nhưng các sinh linh của giống dân mới cũng như các sinh linh còn lại thuộc Giống dân thứ ba, “bắt đầu nổi máu dở chứng” khi mà họ tự biết rằng mình thông minh hơn những loài khác mà lại vẫn rơi vào cái vòng cương tỏa của bản năng thú tính: “Họ cưới làm vợ những người phụ nữ nhìn thì xinh đẹp nhưng lại thuộc về đám người vô trí nghĩa là “những người đầu óc hẹp hòi”. Hậu quả là sinh ra những con quái vật đực và cái, ác độc và đầy ác ý vì chúng cũng có chút ít trí khôn; thế rồi chúng cứ sinh sôi nảy nở lên mãi!

Trong khi đó “những người có trí” đã dựng nên các đền thờ trong cơ thể con người. Họ tôn thờ những người nam và nữ. Câu Kinh X, 42 này kết thúc bằng một cụm từ bí hiểm: “Thế rồi Mắt thứ ba không còn hoạt động nữa”, điều này khiến ta giả định rằng cho đến lúc ấy mắt thứ ba của con người vẫn hoạt động.

Không đi sâu vào chi tiết mà trong lúc này tỏ ra là thừa, chúng tôi xin nói rằng mắt thứ ba nghe đâu ở giữa hai lông mày và nhất là nó lập nên mối liên hệ hữu thức giữa “ý thức tỉnh táo” (ý thức của con người khi ở trong xác phàm) và tâm thức cao siêu (sau này ta sẽ xét tới điều đó). Vì mắt này không còn hoạt động nữa cho nên các sự kiện và hành vi được gọi là hữu thức của con người không còn trực tiếp nghe theo tâm thức nội giới, thế là con người bắt đầu lầm lạc.

Giống dân thứ tư biến mất

Vì có trí cho nên Giống dân thứ tư biết dùng trí không để xây dựng các đô thị bằng cách sử dụng những vật liệu do quả đất cung cấp, các loại đá, kim loại, đặc biệt là loại do “lửa phun ra” nghĩa là đá núi lửa.

Nhưng mọi điều đó đều không làm cho chúng có thêm minh triết; trái lại chúng dùng trí khôn lỏi ấy để “dựng nên những pho tượng đồ sộ, cao 9 yatis [[13]] có kích cở bằng cơ thể chúng”, miệt mài thờ cúng tượng dương vật và thờ cúng những thứ khác.

Một tình hình như thế không thể tiếp diễn mãi. Bấy giờ “đại hồng thủy đầu tiên bèn xuất hiện. Đại hồng thủy nuốt chửng bảy đại châu” (câu Kinh 81, 45) nghĩa là các lục địa đang tồn tại. Sau đó các câu Kinh dễ hiểu hơn.

Câu Kinh XI :

46- Tất cả những người thánh thiện đều được cứu thoát, những kẻ bất hảo bị diệt vong. Cũng bị tiêu diệt với những người này là hầu hết những con thú khổng lồ được tạo ra từ mồ hôi của Trái đất.

Câu Kinh XII

47- Ít người còn lại. Một số người da vàng, một số da nâu và đen, và một số da đỏ đã ở lại. Những người da màu mặt trăng đã đi luôn không còn trở lại.

Giống dân thứ năm xuất hiện

48- Giống dân thứ năm được tạo ra từ nguồn gốc thiêng liêng đã ở lại, giống dân này được cai trị bởi những vị Thánh vương đầu tiên.

49- . . . Các con rắn đã giáng lâm trở lại, đã làm hòa thuận với Giống dân thứ năm, đã dạy dỗ và giáo hóa nó.

“Những con rắn” thánh thiện này là những thực thể “thiêng liêng”, nghĩa là những thực thể sinh linh tiến hóa xuất phát từ dãy hành tinh trước hoặc là những người tiến hóa hơn trong nhân loại, họ đã rút lui vào trong những chỗ ẩn náu chờ thời mà sự tẩy rửa nêu trên giúp cho họ có thể trở lại.

Nguồn: www.thongthienhoc.com

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay