Thiên_Địa_Nhân

Bài Thơ Về 18 Triều đại Hùng Vương

2 bài viết trong chủ đề này

Bài thơ ngoại cảm sau đây cho biết: có 18 chi vua Hùng chứ không phải 18 “đời” Vua như lịch sử Việt đã ghi. Mỗi chi Hùng Vương gồm nhiều đời con, cháu... kế ngôi, lấy tên hiệu và tên huý của đời Vua đầu chi chung cho các Vua tiếp theo trong chi đó. Triều đại Hùng Vương kéo dài 2621 năm (từ năm 2879 TCN đến 258 TCN), gồm khoảng 100 đời Vua.

Về 18 chi Hùng Vương

Ôn lại cổ đại xa vời,

Hàng vạn năm trước đất trời thế gian

Lục địa, cây cối bạt ngàn

Sông hồ, rừng núi như đan địa cầu.

Nơi thấp là biển nước sâu,

Mênh mông nào biết nơi đâu bến bờ.

Nhiều loài động vật cổ sơ,

Trên đất dưới nước, nhỏ to nhiều loài.

Thế gian trong chuỗi ngày dài,

Thiên nhiên, cảnh vật nguyên khai cõi Trần.

Thời gian biết mấy triệu xuân,

Không đường, không ruộng, không dân, không nhà.

Đại dương, lục địa bao la

Nhiều loài động vật cũng hòa thiên nhiên.

Ngày đêm nối tiếp triền miên,

Âm u, hoang vắng khắp miền Trần gian.

Cầm thú các loài vô vàn,

Có loài động vật khôn ngoan từng bầy.

Kiếm ăn nhờ có đôi tay

Hái nhặt rau bẹ, trái cây lần hồi.

Ngót sáu ngàn tiết đông trôi,

Đã biết dùng lửa đốt thui, nướng lùi.

Không phải ăn sống nuốt tươi,

Hơn loài thú vật khắp nơi phàm trần.

Trí khôn được mở rộng dần,

Nhưng nam nữ vẫn hôn quần, loạn luân.

1. Đức Kinh Dương Vương hiện thân

Qua năm ngàn tiết mùa xuân trước ngày.

Người đã tập hợp các bầy

Đều là nòi Việt từ đây hợp thành.

Văn Lang, bộ lạc tạo hình

Mở đường dẫn tới khai sinh loài người.

Một xã hội mới ra đời,

Gồm nhiều dòng tộc khắp nơi hợp thành.

Đều là nòi Việt đồng sinh,

Dòng tộc theo mẹ, hiện tình nguyên sơ.

Từng bầy, mẫu chủ bấy giờ

Chính là dòng tộc cổ sơ lưu truyền.

Quần hôn, vô phụ đương nhiên

Mẫu sinh, mẫu dưỡng, mẫu quyền, hỗn mang.

Tục truyền từ thủa Hồng Bàng

Sinh ra trăm họ khắp giang sơn này.

Hồng Bàng  thực nghĩa bấy nay

Da vàng máu đỏ, nhiều bầy dã hoang.

Hồng Bàng rõ nghĩa “đỏ-vàng”

Nhiều dòng, nên gọi Hồng Bàng chung danh.

Văn Lang  công xã hình thành

Hai ngàn tám trăm bảy chín, rõ rành nguyên khai

Trước Công nguyên đó, chẳng sai.

Lộc Tục, tên húy của Ngài còn lưu

Tám sáu năm được dân theo,

Có nhiều dòng tộc sớm chiều đồng sinh.

Buổi đầu bộ lạc hình thành,

Thiên Sứ ─ Người đã giáng sinh cõi Trần.

2. Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân

Di Lặc - Phật Tổ, hiện thân chính Người.

Cõi Trần mù mịt khắp nơi,

Đường Trần tăm tối, ai người sáng soi?

Thời gian, năm tháng qua trôi

Trần gian ví tựa biển khơi đêm dài.

Lạc Long, Di Lặc chẳng sai

Ra tay tế độ mở khai cõi đời.

Đã đem đạo lý làm người

Truyền dạy cho cả giống nòi từ đây.

Đức nhân, lễ nghĩa dựng xây

Làm cho xã hội đổi thay khác thường.

Người như vầng Nhật Thái Dương,

Hào quang tỏa sáng muôn phương đất trời.

Người dạy sống ở trên đời

Thực thà, lương thiện là nơi an lành.

Thiện tâm  bản tính Trời sinh

Đó là chí cốt tâm linh con người.

Bính Thìn, năm đó ra đời

Di Lặc, Phật Tổ giáng nơi cõi Trần.

Chính là Đức Lạc Long Quân.

Tháng ba mười tám ngày xuân thanh bình,

Là ngày Phật Tổ giáng sinh,

Đưa bầy “hoang vượn” trở thành người nay.

Tính đến năm hai ngàn này:

Bốn ngàn tám trăm bảy chín vòng quay đất trời.

Văn Lang - Bách Việt đón Người

Ba mươi ba tuổi lên ngôi trị vì.

Thủ lĩnh bộ lạc tôn suy,

Hùng Hiền Vương hiệu còn ghi Sử Vàng.

Hiền Vương nhân đức chói chang,

Dẫn dắt bộ lạc Văn Lang thời Hùng.

Dạy dân lễ - nghĩa - hiếu - trung,

Quan hệ nam nữ  vợ chồng kết đôi.

Cùng nhau chung thuỷ suốt đời,

Sinh con cũng phải dưỡng nuôi thành người.

Thay đổi tập quán đương thời,

Dân dã chưa rõ ngược xuôi, dữ lành.

Người cùng Mẫu Mẹ Đức Sinh

Âu Cơ Tiên Nữ đẹp tình phu thê.

Rồng - Tiên hội ngộ duyên xe,

Trăm năm vững một lời thề thuỷ chung.

Sáng gương tình nghĩa vợ chồng,

Toàn dân Bách Việt dốc lòng noi theo.

Tiếng chuông đạo lý vang reo,

Xoá được hỗn tính, bỏ điều quần hôn.

Từ đây cuộc sống sinh tồn

Ánh sáng đạo lý khai môn loài người.

Văn Lang khắp chốn khắp nơi,

Nam nữ cùng lứa kết đôi vợ chồng.

Cùng nhau chung sức chung lòng,

Dưỡng nuôi, giáo dục con chung gia đình.

Tiếng “cha” từ đó phát sinh,

Ngôn từ “chồng-vợ” nghĩa tình sắt son.

Từ đó mới có “cha-con”,

Người Cha trước nhất mãi còn lưu danh.

Tên Người sáng chói sử xanh,

Lạc Long Tổ Phụ tạo sinh giống nòi.

Người dạy: Sống ở trên đời

Tu tâm, dưỡng tính thành người lương dân.

Sống phải có đức có nhân,

Hiếu trung, hiếu thảo, chuyên cần mới nên.

Cùng dòng máu Việt chớ quên,

Đồng lòng, chung sức vững bền muôn thu.

Chữ ‘đồng” sức mạnh có dư,

Đem thắng lợi đến ngọn cờ thành công.

Tình thương con cháu Lạc Hồng,

Đó là cốt huyết con chung một nhà.

Tình thương nòi giống chan hoà,

Đồng bào dân tộc thiết tha ân tình.

Trước không, giờ có gia đình

Tế bào xã hội thành hình từ đây.

Hiếu - trung - lễ - nghĩa cao dầy,

Công ơn Cha Mẹ cao tày Thái Sơn.

Cháu con phải biết nhớ ơn,

Thờ Cha kính Mẹ cho tròn đạo con.

Tổ Tiên vắng bóng khuất non,

Khói hương tưởng niệm mãi còn đời sau.

Phong tục thờ cúng khởi đầu,

Trở thành tập quán thắm mầu Rồng - Tiên.

Thuần phong mỹ tục lưu truyền

Từ thời Cha Lạc, Mẹ Hiền Âu Cơ.

Cuộc sống thủa ấy nguyên sơ,

Nay đây mai đó, trông nhờ thiên nhiên.

Định cư, tự sản  Người khuyên,

Trồng cây lấy quả khắp miền Văn Lang.

Từ đó có xóm có làng,

Trồng ngô, khoai, sắn, lúa vàng, nông gia.

Tạo sức sống mới đại đa,

Tự túc lương thực  mọi nhà đều theo.

Thôn trang vẻ đẹp yêu kiều,

Gia đình đoàn tụ sớm chiều bên nhau.

Trong cảnh hoang dã bấy lâu

Văn Lang nay khởi sắc mầu xuân tươi.

Cha dạy bộ lạc, mọi người

Đốt nung quặng đá để khơi lấy đồng.

Rèn đúc công cụ nghề nông,

Búa, dao, rìu, cuốc, thau đồng từ đây.

Thay công cụ đá trước ngày,

Làm ra lương thực đủ đầy hơn xưa.

Người cùng dân chúng sớm trưa

Cùng làm cùng hưởng, cùng đùa cùng vui.

Thôn trang, làng xóm khắp nơi

Ngân vang giọng hát, tiếng cười lời ru.

Mừng sao thoát cảnh âm u,

Tháng năm đen tối, mịt mù đã qua.

Cuộc đời nay đã nở hoa,

Con người tiến vọt, vượt xa muôn loài.

Con người đủ trí, đức, tài

Thông minh, sáng tạo từ khai nguyên này.

Ơn Cha tài trí, đức dầy

Lạc Long Tổ Phụ  Người Thầy thế gian.

Tạo dựng xã hội thịnh an,

Công minh, bình đẳng, quân san điều hoà.

Cộng sản nguyên thuỷ chính là

Chủ nghĩa xã hội khai hoa cõi Trần.

Công bằng thoả nguyện muôn dân,

Dân sinh, dân chủ trăm phần đẹp tươi.

Theo Luật Tạo Hoá vận Trời,

Thuận Thiên hợp với lòng người là đây.

Dầy công, Cha Mẹ dựng xây

Kỷ cương, đạo lý, đủ đầy đức ân.

Buổi đầu lập thế, tạo nhân

Chính thể tiên tiến, vì dân đương thời.

Xã hội tiến bộ trên đời,

Đẩy mạnh sản xuất của người nguyên khai.

Chính thể tồn tại lâu dài,

Ngót ba ngàn tuổi, chẳng sai, thời Hùng.

Hai ngàn sáu trăm hai mốt năm ròng,

Di Lặc Phật Tổ - Lạc Long xây nền

Công bằng xã hội vững bền,

Lâu nhất thế giới, đẹp Thiên Sử Vàng.

Đó chính là thủa Hồng Bàng,

Là người Bách Việt da vàng, máu son.

Muôn đời hậu thế cháu con,

Luôn nhớ Gốc Tổ mãi còn là đây.

Chớ đừng lầm tưởng trước ngày,

Hồng Bàng thị tộc dựng xây sơn hà.

Hồng Bàng đúng nghĩa chính là:

Nhiều dòng đồng chủng, máu da đồng màu.

Các dòng tộc Việt cùng nhau

Hợp thành bộ lạc buổi đầu, chẳng sai.

Đức Kinh Dương Vương nguyên khai,

Tám sáu năm đã hợp loài “vượn hoang”.

Lạc Long Di Lặc chuyển sang

Thực sự Cha đã khai quang cõi Trần.

Dẫn đường, giáo huấn muôn dân

Chuyển từ kiếp “vật” thành thân con người.

Văn Lang - Bách Việt ra đời,

Xã hội nguyên thuỷ từ thời hoang sơ.

Lạc Long  Cha dựng cơ đồ,

Khai sinh nòi Việt nên thơ muôn đời.

Cháu con Hồng Lạc mọi người

Tổ Tông dựng nước, con thời ghi sâu.

Đền Hùng đất Tổ Phong Châu,

Thuộc tỉnh Phú Thọ  nhịp cầu cổ kim.

Dấu tích khai quốc còn in,

Tổ Tông như vẫn dõi nhìn hôm nay.

Núi Hùng. đền Hạ nơi đây

Âu Cơ Đức Mẹ sinh bầy trăm con.

Một con kế giữ ngôi son,

Số nửa theo Mẹ lên non hành trình.

Đảm bảo cho sự tồn sinh,

Địa bàn sản xuất thành hình là đây.

Một nửa còn lại đó ngày,

Miền xuôi, định hướng dựng xây sơn hà.

Cùng nhau lập nghiệp theo Cha,

Từ đó ta có quốc gia sinh tồn.

Ứng với Bách Việt giang sơn,

Rồng Tiên cất cánh bay vờn trời xanh.

Núi thiêng Nghĩa Lĩnh thiên thành,

Voi quỳ, hổ phục vây quanh núi Hùng.

Lên cao hơn nữa  đền Trung

Nơi đây Thủ lĩnh Lạc Long hội bàn.

Cùng người giúp việc trị an,

Dân sự, phòng vệ lo toan cộng đồng.

Quản lý bộ lạc thời Hùng,

Giúp việc dân sự  tước phong Lạc hầu.

Bảo vệ bờ cõi, đứng đầu 

Tước phong Lạc tướng trong khâu chính quyền.

Đầu lĩnh cùng các quan viên

Dốc lòng lo việc dân yên cộng đồng.

Lo việc sản xuất, gieo trồng

Phân phối hợp lý, yên lòng muôn dân.

Trẻ già, trai gái có phần

Nhiều no, ít đủ, quân phân hợp thời.

Dân cùng Thủ lĩnh, mọi người

Cùng nhau lao động, vui chơi cùng hoà.

Bốn phương như thể một nhà,

Người trong bộ lạc đều là anh em.

Gần xa, đây đó, lạ quen

Giầu lòng hữu ái tự nguyên khai này.

Khởi nguồn văn hiến từ đây,

Con người ý thức đủ đầy nghĩa nhân.

Lạc Long  Thủ lĩnh minh quân,

Danh Thiên  Di Lặc, hiện thân chính Người.

Ra tay tế độ xây đời,

Khai sinh Bách Việt, đất trời Văn Lang.

Nguyên khai thủa đó Hồng Bàng,

Người thực là Đấng khai quang cõi Trần.

Cứu tinh trăm họ, muôn dân

Thoát khỏi kiếp vật, thành nhân Lạc Hồng.

Đền Hùng  Nguồn Cội Tổ Tông,

Lạc Long, Tổ Phụ đức công cao dầy.

Đỉnh cao, đền Thượng nơi đây

Thủ lĩnh, Người đã cho xây bệ thờ.

Rằm Giêng, đúng tháng tròn giờ

Người cầu Ngọc Đế độ cho dân lành.

Mùa màng, cây quả tốt xanh

Bình an trăm họ, tâm thành cầu Thiên.

Thủ Lĩnh bộ lạc  Hùng Hiền

Tiến hành nghi lễ cầu Thiên đó ngày.

Hiền Vương công lớn đức dầy,

Hai trăm sáu chín năm chày tại ngôi.

Thủ lĩnh khoảng độ mười đời,

Ngôi Chủ truyền tiếp đến thời chi ba.

3. Hùng Lân, Thủ lĩnh chính là

Năm mười tám tuổi, Người đà lên ngôi.

Hiệu Hùng Quốc Vương đó thời,

Hai trăm bảy mốt năm trời chuyển chi.

Kinh đô đóng tại Việt Trì,

Dư mười đời Chủ trị vì Văn Lang.

Chi Hùng thứ tư chuyển sang,

4. Hùng Hoa Vương hiệu, tiếp trang sử tiền.

Bửu Long tên huý, giữ quyền

Ba trăm bốn hai năm liền dài lâu.

Hơn mười đời Chủ truyền nhau,

Chi năm lại kế tiếp sau Hoa Hùng.

5. Bửu Lang tên huý nối dòng,

Hùng Hy Vương hiệu, Lang Công đó ngày.

Trăm chín mươi chín năm dài,

Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ.

Chuyển sang chi sáu giữ cờ,

6. Long Tiên Lang huý kế thừa vẻ vang.

Hùng Hồn Vương, Chủ Văn Lang

Bên kia Bắc quốc, Thành Thang trị vì.

Tung tin tuần thú biên thùy,

Tràn sang xâm chiếm thực thi bá quyền.

Hùng Hồn Vương ban cáo tuyên,

Cho người đi khắp các miền thôn quê.

Tìm người trí, dũng mọi bề

Cầm quân diệt giặc, trở về tước phong.

Tới làng Phù Đổng, báo thông

Vang như sấm, tiếng nhi đồng vọng ra:

Nhờ người tâu với Vua Cha,

Cho ngựa, roi sắt cùng là thịt, xôi.

Đúng ngày tháng đó, Gióng tôi

Nhận đủ binh mã, ra nơi chiến trường.

Xin thề quét sạch giặc Thương,

Diệt lũ Bắc tặc bạo cường bấy lâu.

Binh mã đã đạt yêu cầu,

Vua giao Cậu Gióng đứng đầu cầm binh.

Người nhằm hướng giặc xuất chinh,

Chiến trường chính  núi Vệ Linh bấy giờ.

Mãnh xung, Cậu Gióng thét to

Tiếng như sấm động, giặc thù khiếp kinh.

Lại bị đánh bất thình lình,

Ta khí giới sắt, giặc binh khí đồng.

Đó là lợi thế tiến công,

Tướng binh ta dốc một lòng diệt Thương.

Quân ta xung trận kiên cường,

Những tên sống sót, Bắc phương  chạy về.

Quất giặc, roi sắt gãy lìa

Sức Thần, Cậu Gióng nhổ tre quật thù.

Nhật thời mười tám bấy giờ,

Ba mươi sáu tiếng đồng hồ ngày nay.

Diệt Thương - Ân tặc là đây,

Khắp trong bộ lạc vui thay dân tình.

Thánh Gióng cho ngựa tiến nhanh,

Lên đỉnh núi Sóc ngắm quanh bốn bề.

Bỗng cơn Thần lốc đón đi,

Cả người lẫn ngựa đưa về trên Thiên.

Vua Hùng được cấp báo tin,

Miếu thờ cho dựng đỉnh trên núi Hùng.

Trong lễ truy điệu sắc phong,

Thiên Vương Phù Đổng lưu trong Sử Vàng.

Hồn Vương lịch sử vẻ vang,

Tám mươi năm đã rõ ràng tại ngôi.

Thủ lĩnh truyền kế hai đời,

Ngôi Chủ lại chuyển tiếp đời Hùng sau.

7. Là chi thứ bảy nối cầu,

Hùng Chiêu Vương tiếp đứng đầu Văn Lang.

Quốc Lang tên huý của chàng,

Tuổi tròn mười tám, trai đang sức thừa.

Truyền nối được năm đời vua,

Hai trăm năm chẵn đúng vừa tại ngôi.

Nhiều năm trồng trọt, chăn nuôi

Được mùa ngũ cốc, nơi nơi vui mừng.

Dân đã biết làm bánh chưng,

Bánh dầy ngày Tết, mãi cùng dân ta.

Chi bảy cũng đã trải qua,

Thời gian dựng nước, nay đà chuyển chi.

8. Là chi thứ tám trị vì,

Vân Lang tên huý nay thì lên ngôi.

Năm ba mươi chín tuổi đời,

Hùng Vi Vương hiệu tại ngôi bấy giờ.

Năm đời nối tiếp kế thừa,

Thiếu một năm nữa thì vừa trăm niên.

Đến đây chi tám hết duyên,

9. Chuyển sang chi chín giữ quyền tiếp theo.

Chân Nhân Lang huý ngự triều,

Bốn mươi lăm tuổi lái chèo nước non.

Ba đời truyền nối cháu con,

Tám mươi năm giữ ngôi son bấy giờ.

10. Chi mười tiếp giữ ngọn cờ,

Hoàng Long Lang nối nghiệp xưa Hùng triều.

Hùng Uy Vương hiệu tiếp theo,

Ba mươi bảy tuổi sớm chiều ngự ngôi.

Cháu con cả thảy ba đời,

Chi mười đó chính là thời Hùng Uy.

Thời vận đã tới hạn kỳ,

11. Chi thứ mười một nay thì lên thay.

Chính danh Hưng Đức Lang nay,

Hùng Trinh Vương hiệu ngày rày lên ngôi.

Truyền kế nhau được bốn đời,

Một trăm lẻ bảy năm trời trôi qua.

Tới đây xã tắc sơn hà,

Thay đổi niên hiệu cũng là tất nhiên.

12. Chi thứ mười hai nối liền,

Hùng Vũ Vương hiệu, nguyên niên bắt đầu.

Ba đời Thủ lĩnh trước sau,

Tám lăm năm vững nhịp cầu Hùng xưa.

13. Chi thứ mười ba kế thừa,

Tuấn Lang danh huý, tuổi vừa hai ba.

Hùng Việt Vương hiệu, chính là

Một trăm lẻ ngũ niên qua nắm quyền.

Năm đời, Thủ lĩnh kế truyền

Triều đại có hậu, có tiền xưa nay.

Chi Hùng Việt Vương tới ngày

Phiên hiệu đến lúc đổi thay, lẽ thường.

14. Chi thứ mười bốn khai chương,

Hùng Anh Vương hiệu, tiếp đường Tổ Tiên.

Viên Lang tên huý, giữ quyền

Bốn đời Thủ lĩnh giữ nền Tổ Tông.

Qua chín mươi chín năm ròng,

Anh Vương cũng đã tới vòng chuyển luân.

15. Chi thứ mười lăm đến tuần,

Hùng Triệu Vương hiệu, đầu xuân ngự trào.

Cảnh Chiêu Lang huý ngôi cao,

Ba mươi lăm tuổi bước vào cung son.

Ba đời cả thảy Cha Con,

Chín tư năm đó vẫn còn sử ghi.

Việc đời đều có hạn kỳ,

Cuối đời Hùng Triệu chuyển chi, lẽ thường.

16. Nay chuyển sang Hùng Tạo Vương,

Là chi mười sáu, lẽ đương nhiên rồi.

Đức Quân Lang huý tiếp ngôi,

Thủ lĩnh bộ lạc, ba đời truyền nhau.

Chín mốt năm nối nhịp cầu,

Hùng Vương thời đại dài lâu vững bền.

Kể từ khởi thuỷ khai nguyên,

Dư hai ngàn ba trăm niên hẳn là.

Mười sáu chi Hùng đã qua,

17. Chuyển chi mười bảy, đó là Hùng Nghi.

Bảo Quang Lang huý trị vì,

Khi mới chín tuổi đã thì lên ngôi.

Hùng Nghi Vương được bốn đời,

Trăm năm mươi chín niên thời trải qua.

Thời đó xã tắc sơn hà,

Địa phương vài chỗ thật là rối ren,

Nổi lên chống lệnh cấp trên,

Ý đồ cát cứ riêng quyền đó khi.

Triều đình cho mở khoa thi,

Tìm người tài trí, tâm vì nước, dân.

Có chàng họ Lý, chí nhân

Văn Lang tên gọi, tuổi gần hai lăm.

Giỏi cả võ nghệ, thi văn

Vua cử giữ chức Trung quân lãnh đầu.

Cầm quân dẹp loạn các châu,

Yên dân, yên nước, Tước hầu  Vua phong.

Chàng trai vẹn cả hiếu trung,

Nguyệt Cư công chúa trong Cung mến tài.

Vừa đôi, phải lứa gái trai

Vua cho được phép duyên hài là đây.

Vua tôi, dân đã chung tay

Vượt qua cả chuỗi tháng ngày khó khăn.

Việc đời tuần tự thứ lân,

Chi thứ mười bảy chuyển luân ngày rày.

18. Chi thứ mười tám lên thay,

Hùng Duệ Vương hiệu, đến ngày lên ngôi.

Khi mới mười bốn tuổi đời,

Huệ Lang tên huý, chính Người ngôi Vua.

Trăm năm mươi tết đúng vừa,

Khoảng sáu đời đã kế thừa ngôi Vương.

Tới đây như cuối chặng đường,

Nguyên khai công xã thọ trường Văn Lang.

Hùng Duệ Hoàng tử, nhiều chàng

Đều bị yểu tử, xốn xang hậu kỳ.

Còn lại hai gái, nữ nhi

Tiên Dung là chị, em thì Ngọc Hoa.

Tính tình hiền dịu, nết na

Dung, công, ngôn, hạnh thật là mười mươi.

Tiên Dung nhan sắc tuyệt vời,

Một hôm, nàng đã đi chơi bằng thuyền.

Gặp Chử Đồng Tử, kết duyên

Người con chí hiếu, thảo hiền phúc đa.

Còn nàng công chúa Ngọc Hoa,

Cung đình nàng được Vua Cha quý chiều.

Công hầu mai mối cũng nhiều,

Duyên thiên chưa định, nàng đều chưa ưng.

Nàng đã trọng dũng, hiếu, trung

Vua cho mở hội võ công thi tài.

Thủ lĩnh ban lệnh thi bài

Tay không thắng hổ, chớ ai coi thường.

Nguyễn Tuấn bước tới đấu trường,

Tay không đánh hổ, bị thương bấy giờ.

Trên người không vết hổ vồ,

Chàng trai bước tới trước Vua vái chào.

Vua khen mưu trí, tài cao

Công chúa vui vẻ ưng giao duyên cùng.

Lúc này giặc dã tứ tung,

Nổi lên chiếm giữ mấy vùng sơn khê.

Thục Phán, cháu họ cũng thì

Đòi Vua nhường lại quyền uy cho mình.

Đã từng gây chuyện bất bình,

Vua phong Nguyễn Tuấn lãnh binh đứng đầu.

Tuấn liền quỳ gối muôn tâu:

Vì dân vì nước, con đâu chối từ.

Cầm quân dẹp loạn, nội thù

Chàng thật dũng, trí, mưu cơ hơn người.

Dẹp yên phiến loạn khắp nơi,

Trời quang mây tạnh cuối thời Văn Lang.

Vua Cha gợi ý với chàng:

Tuổi già, Cha muốn ngai vàng nhường con.

Thiết tha, lời lẽ thiệt hơn:

Tước hầu, con được đội ơn Cha rồi.

Để hợp tình lý ở đời,

Tổ Phụ để lại từ thời xa xưa.

Xin Cha trao lại ngọn cờ

Nội tộc Thục Phán, cơ đồ Văn Lang.

Đây là thực đáy lòng vàng,

Xin Cha độ lượng, kỹ càng xét soi.

Vua Cha cảm động lệ rơi,

Thuận ưng thành ý con người hiếu trung.

Duệ Vương trao lại Long cung

Thục Phán được kế bệ Rồng, còn ghi.

Phán đã dựng cột đá thề,

Trên đỉnh núi Tổ nguyện vì giang sơn.

Đến nay cột đá vẫn còn,

Ghi lại dấu tích vàng son thời Hùng.

* * * * *

Khai nguyên lịch sử lẫy lừng,

Ngày nay con cháu Lạc Hồng tiếp theo.

Đảng, Bác vĩ đại lái chèo

Con thuyền cách mạng vượt nhiều gian nguy.

Nay dân tộc vững bước đi,

Con đường lịch sử đã ghi Sổ Vàng:

Tổ Quốc to đẹp đàng hoàng,

Xã hội chủ nghĩa vững vàng tiến lên.

Cộng sản nguyên thuỷ khai nguyên,

Xã hội chủ nghĩa đương nhiên hiện giờ.

Ngày nay cộng với nguyên sơ,

Hai bảy thế kỷ gần vừa đủ niên.

Đó là đất nước Rồng Tiên,

Công bằng xã hội đẹp thiên Sử Vàng.

Hai bảy thế kỷ chói chang,

Xã hội chủ nghĩa  rõ ràng chẳng sai.

Năm châu bốn biển, không hai

Việt Nam lịch sử đó dài quang vinh.

Xã hội chủ nghĩa trường sinh,

Hàng đầu thế giới đã thành vô song.

Đã là con Lạc cháu Hồng,

Phải hiểu lịch sử Tổ Tông dựng nền.

Xã hội chủ nghĩa lưu truyền,

Tổ quốc Hồng Lạc lâu bền chói chang.

Dân tộc vĩ đại vinh quang,

Tổ Tông để lại cả giang sơn hồng.

Xứng danh đất nước Tiên Rồng,

Vẻ vang con cháu Vua Hùng muôn thu.

Văn Lang từ thủa xa xưa,

Thật là hùng vĩ, nên thơ cõi Trần.

Tổ quốc tươi đẹp muôn phần,

Chính là Tiên Tổ đức nhân xây đời.

Cháu con Hồng Lạc giống nòi,

Phải hiểu Quốc sử từ thời Hùng xưa.

Văn Lang, công xã nguyên sơ

Hai sáu thế kỷ, có thừa xuân tươi.

Ngót ba ngàn tuổi xây đời,

Bách Việt một khối chung nôi Mẹ Hiền.

Xã hội không có nhiễu phiền,

Không có ganh tỵ, tranh quyền thứ ngôi.

Thủ lĩnh cùng với mọi người

Cùng làm cùng hưởng, đó thời Văn Lang.

Không có giai cấp cao sang,

Mọi người bình đẳng, ngang hàng bình dân.

Cộng đồng hữu ái, hợp quần

Coi nhau như thể tình thân gia đình.

Bách Việt từ thủa khai sinh,

Là những năm tháng bình minh rực hồng.

Là nhờ công đức Cha Ông,

Đó là truyền thống Tổ Tông nhân hiền.

Cũng là văn hiến Rồng Tiên,

Cũng là đạo lý khởi tiền Việt nhân.

Dư hai ngàn sáu trăm xuân,

Hùng Vương dựng nước muôn phần uy linh.

Công bằng xã hội tạo hình,

Rõ ràng quản lý, công minh điều hành.

Người người đồng cảm chân thành,

Cộng đồng chung sống nghĩa tình trước sau.

Ý thức hệ thủa ban đầu,

Tinh thần tập thể in sâu chữ “đồng”.

Chỉ có một lợi ích chung,

Đó là bản sắc Lạc Hồng khai nguyên.

Khắp trong toàn quốc, mọi miền

Ngược xuôi, nam bắc tâm hiền cháu con.

Kiên trung một dạ sắt son,

Lễ nghĩa, hiếu thảo sao tròn đức nhân.

Trong nước, ngoài nước, xa gần

Là dòng máu Việt, là dân Lạc Hồng.

Hướng về Nguồn Cội Tổ Tông,

Giang sơn Bách Việt, Cha Ông tạo hình.

Phong Châu - Phú Thọ, nơi sinh

Giống nòi Hồng Lạc quang vinh đời đời.

Đền Hùng đó, cháu con ơi

Việt Nam linh tự đời đời nhớ ghi.

Hồn thiêng đất nước tụ quy,

“Sơn hà Nam quốc...”  Quốc thề tối linh.

Rồng Tiên nòi giống quang vinh,

Gần năm ngàn tuổi tồn sinh đẹp bền.

Thật là kỳ tích khai nguyên,

Hùng Vương  mười tám chi truyền kế nhau.

Khoảng trăm đời Chủ đứng đầu,

Văn Lang bộ lạc thắm mầu vàng son.

Muôn đời Hồng Lạc cháu con,

Luôn luôn ghi nhớ công ơn Nhân Tiền.

Nhìn lại lịch sử khai nguyên,

Mẹ Cha  thật Đấng Phật Tiên tôn thờ.

Trăm trứng ứng Bách Việt xưa,

Khởi đầu Việt quốc, bài Thơ nghĩa tình.

Thiên Việt sử đã chứng minh,

Rồng Tiên duyên thắm nghĩa tình Văn Lang.

Hùng Vương, lịch sử sang trang

Thủ lĩnh Hùng Duệ chuyển sang Thục triều.

Khai nguyên sơ lược mấy điều,

Dâng Nam Phật điện đài chiêu Quốc hồn.

Cũng là Ngọc điện, Quốc ơn

Tâm trung, hiếu, nghĩa cháu con dâng trình...

---------------------------------------------------------------------------

Nhận thông tin bằng linh cảm là ông Ma Văn Cát (19312008, quê quán tại thôn Thanh Lây, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ), ghi xong lúc 22 giờ ngày 7-1-1999, tức ngày 20 tháng 11 năm Mậu Dần.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ma đưa lối quỷ đưa đường.

Cớ sao tìm lối đoạn trường mà đi....

Kim Vân Kiều - Nguyễn Du.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay