ntpt

Đời Sống Bên Kia Cửa Tử

6 bài viết trong chủ đề này

Chúng ta biết rằng: con người là một sinh linh phức tạp. Ngoài cái xác ra, con người còn có thể Phách, Vía, Trí, Chân thân, Kim thể, Tiên thể và phần Hồn.

Chúng nó liên kết với nhau rất là chặt chẽ, làm cho con người trở thành một bầu võ trụ có đủ quyền năng của Đại Võ Trụ. Sau khi xác thân chết rồi, thì linh hồn rút ra khỏi xác.

Vậy trong giờ phút lâm chung có xảy ra sự gì ? Linh hồn làm sao ra khỏi ngục tù xác thịt ? Con người có cảm tưởng và cảm giác gì trong lúc quan trọng nầy ? Chính là điều mà chúng ta cần phải biết: vì tất cả chúng ta, một ngày kia, đều phải từ giả cõi trần mà qua cõi Trung giới.

Tùy theo đặc tánh và đức hạnh của con người mà những cảm giác và cảm tưởng đều khác nhau. Linh hồn ra khỏi xác luôn luôn chậm chạp. Hễ con người càng bận bịu vật chất trần gian nhiều chừng nào thì sự giải thoát của linh hồn ra khỏi xác thịt lâu chừng nấy. Giờ lâm chung là giờ đau đớn cho kẻ nào tin chết là mất tất cả. Y bám vào sự sống một cách tuyệt vọng ! Y ngờ vực trong giờ phút quan trọng nầy. Y tưởng thấy một thế giới ghê sợ và rùng rợn mở ra trước mắt như một vực thẳm, nên y không muốn rời bỏ cõi trần. Nhân đó mới có một sự chiến đấu ghê hồn giữa vật chất sắp tàn và linh hồn cố giữ nó lại. Đôi khi linh hồn bám chặt vào xác chết cho tới nó rã bấy và cảm thấy giòi tửa rút rỉa da thịt mình !

Còn đối với người nào sống một cuộc đời chánh trực, nhơn từ, đã chiến thắng vật chất và tràn đầy hi vọng ở tương lai, thì chết là giải thoát, là hạnh phúc. Những dây liên lạc giữa vật chất với linh hồn tháo mở lần lần, và y không cảm thấy điều gì rối loạn. Y bước vào cõi Trung giới như vừa tỉnh một giấc ngủ ngon lành.

Trong khi từ giã xác thân, mọi người, dù đức hạnh hay hung ác, đều thấy cuộn phim đời của mình diễn ra trước mắt. Vong linh thấy mình té ngã chỗ nào, thành công chỗ nào. Y thấy những cảnh đổ máu do y gây ra, những cơn đau khổ, đam mê mà y đã trải qua. Y cũng thấy những hành vi hi sinh và nhơn đức của y nữa. Y biết được cái dĩ vãng đem đến cho y cái hiện tại nầy. Và cái hiện tại đó sẽ đưa y đến cảnh tương lai.

Đó là giờ phút quan trọng của buổi lâm chung. Chỉ trong chốc lát, vong linh thấy trọn cả kiếp sống đã qua. Rồi y tự làm quan tòa cho y - một vị quan tòa của Đức Thượng Đế !

Dù sự kiểm soát đó có đau khổ cho thế mấy đi nữa, nó cũng rất hữu ích: bởi vì nó là cái khởi điểm cần thiết cho sự tiến hóa của con người.

Lúc bấy giờ, linh hồn ở giữa hai cảm giác:

1) Cảm giác trước vật chất dần tan.

2) Cảm giác trước đời sống mới lạ, hiện tỏ ra trong ánh sáng – không phải thứ ánh sáng đặc biệt rọi khắp cùng, không có cái gì che khuất nó đặng. Hễ người xấu, thì thấy ánh sáng không tỏ; còn người tốt, thì thấy mình chứa chan ánh sáng.

Người nào hiền lành, nhơn ái, hiểu rõ luật trời và sống một cuộc đời đức hạnh, thì hồn xuất ra khỏi xác, thấy mình được thứ ánh sáng đó bao vây. Nó thâm nhập y, khiến cho lòng y được lâng lâng, nhẹ nhàng, sung sướng dường như y có được một sức mạnh hơn, một sự trẻ trung và khỏe khoắn hơn. Nhờ biết luật trời, nên vong linh không lo lắng và sợ sệt. Với tấm lòng đầy hoan lạc, y quay về cõi cao hơn, đem tư tưởng lành rải xuống cho những người dương thế đang bao xung quanh xác chết của y mà than khóc. Y càng thương họ nhiều hơn. Y thấy một cái thế giới vĩ đại đã mở ra trước mắt và những người mà y yêu mến thuở nào. Y thấy họ trẻ lại, linh hoạt hơn và đẹp đẽ hơn; cả thảy đều đến đón tiếp y một cách vui mừng; họ chỉ dẫn cho y những cảnh lạ lùng. Họ dắt y vượt lên cảnh cao hơn, tùy theo mực độ tiến hóa của y. Nơi đây, y nhận định rõ ràng. Y hết còn ngờ vực nữa. Những quan năng mới lạ tỉnh thức trong lòng y; và một kiếp sống sung sướng, hạnh phúc của y sẽ bắt đầu từ đây !

Share this post


Link to post
Share on other sites

Còn những người đã sống dưới thế gian một đời sống không chí hướng nhất định – (số nầy rất nhiều); - họ không có làm tội ác gì trọng đại, và cũng không có làm điều lành gì đáng kể, thì khi ra khỏi xác, trước nhất, họ lâm vào một trạng thái uể oải và buồn rầu vô hạn ! Họ do dự, nhát sợ; họ không thấy rằng: họ được tự do; nhưng dù có thấy đi nữa, họ cũng chưa dám xử dụng sự tự do của họ. Họ cứ mãi đứng yên một chỗ. Họ tiếp tục đau khổ và khóc than với những người xung quanh họ. Thời gian đó kéo dài không biết là bao lâu . . . Sau cùng, có những vong linh khác tiến hóa hơn đến dắt dẫn và chỉ dạy họ, cho họ thoát ra khỏi cơn ngờ vực để họ đoạn tuyệt với sự trói buộc trần gian, và để họ lên cõi cao hơn và ít u tối hơn.

Những người hung dữ, khi từ bỏ xác thân, thì thấy cảnh lu mờ hơn người thường nhơn. Y lại bị hỗn loạn trong đau khổ.

Thường thường linh hồn ra khỏi xác mau lẹ, sau cơn bịnh hoạn lâu ngày; bởi vì sự bịnh hoạn triền miên đó giải tỏa lần lần những sợi dây trói buộc linh hồn với vật chất.

Những cái chết bất đắc kỳ tử là những cái chết dữ dội giữa lúc xác thân còn đang khỏe mạnh, làm cho linh hồn đau khổ và hỗn loạn, khi ra khỏi xác thân.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nếu ta quan sát về tình trạng đời sống con người trên cõi Trung giới, thì ta sẽ thấy hai yếu tố chánh đại nầy, là:

1) Thời gian sống trên cõi Trung giới lâu hay mau.

2) Tâm thức biểu lộ trên mỗi cảnh của cõi Trung giới.

Vong linh ở mỗi cảnh Trung giới lâu hay mau là tùy ở số Thanh khí [3] của cảnh ấy rút vào xác thịt con người lúc sanh tiền. Nếu số Thanh khí ấy nhiều, nghĩa là dục tình của cái Vía còn nặng, thì con người ở lâu; còn nếu số Thanh khí ấy ít, nghĩa là dục tình của cái Vía được tinh lọc, thanh bai hơn, thì con người ở mau. Bao giờ dục tình xấu xa của con người nằm im lại, chúng nó không còn tác động nữa, thì con người sang qua cõi Thượng giới.

Nhơn đó, mà sau khi chết, con người vì liên đới chặt chẽ với chất trược của cái Vía, nên phải ở cảnh thấp của cõi Trung giới. Bao giờ chất Thanh khí kia tan dần, con người mới mong bước qua cảnh thanh nhẹ hơn, sáng sủa hơn.

Trái lại, một cái Vía thanh nhẹ, - do một đời sống dưới thế gian khiết bạch, - không bao giờ kích động phần trược của cõi Trung giới; và con người chỉ cảm ứng với những ảnh hưởng thanh của các cảnh cao trên cõi âm cảnh mà thôi. Vì lẽ đó, mà đời sống trên Trung giới được tốt đẹp và hạnh phúc. Người như thế tiến hóa mau lẹ.

Tâm thức của con người ứng đối đặng một cảnh nào trên Trung giới là tùy thuộc ở cách sống dưới trần gian liên quan đến chất Thanh khí của cõi ấy. Tỷ như khi còn sống, cái Vía con người có chất thanh của cảnh thứ ba của cõi Trung giới, thì khi thác rồi, tâm thức y ứng đối đặng với những làn rung động của cảnh ấy.

Nếu trong lúc sống dưới trần, con người để cho dục tình lôi cuốn, hoàn toàn lệ thuộc bản ngã, không hướng chút nào về trí thức và tinh thần, thì cái Vía sống rất lâu trên cõi Trung giới. Tế bào của chúng nó rất khít khao, khó mà tan rã đặng. Nhơn đó, con người kéo dài đời sống của cái Vía trong đau khổ.

Còn trái lại, khi con người chủ trị đặng dục tình, trong lúc sinh tiền, và phàm nhơn phủ phục trước Chơn Nhơn, thì cái Vía tự nhiên được trong sạch, không còn chi phải tinh lọc nơi cõi Trung giới nữa; nhơn đó, nó mau tan rã, để giải thoát vong linh sắp bước qua miền Thượng giới.

Người thường nhơn chưa đoạn tuyệt được dục tình thấp hèn trước khi bỏ xác, nên cần phải lưu lại một thời gian vô giới hạn, nơi mỗi cảnh, để chờ cho được phần Thanh khí cái Vía (đồng tính với chất Thanh khí của cảnh ấy) tan mòn hóa thành tiêu cực mới sang qua cảnh trên kế đó.

Vì có nhiều lý do như vậy mà phạm vi tri thức của con người trên cõi Trung giới cùng thời gian trú ngụ tại đó, trước khi sang qua cõi Thượng giới, có thể biến đổi trọng đại. Có vài người chỉ sống trên Trung giới chừng ít giờ. Có kẻ đọng lại đó hằng năm, có khi hàng thế kỷ cũng chưa tách khỏi ! . . .

Đối với người thường, thời gian trung bình tại cõi Trung giới từ 20 đến 30 năm.

Thời gian giữa hai kiếp sống dưới trần không thể nói được vì đó là một vấn đề hết sức phức tạp. Xin xem quyển “L’occultisme dans la nature” (Khoa pháp môn trong vũ trụ) do tác giả C. W. Leadbeater.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đời sống bên kia cửa tử không phải là một đời sống mới lạ. Nó chỉ là một đời sống nối tiếp với đời sống ở thế gian nầy. Ta không lìa xa những người quá vãng mà ta thương mến. Họ luôn luôn ở xung quanh ta. Chỉ cái tâm thức hữu hạn của ta làm cho ta tưởng mình xa cách họ mà thôi. Ta không mất họ, mà ta chỉ mất cái năng khiếu thấy đặng họ. Ta có thể nâng cao tâm thức của ta, để cho ta thấy được họ và nói chuyện đặng với họ. Ta luôn luôn có làm như vậy, trong lúc ta ngủ. Nhưng khi thức ta không nhớ đặng rõ ràng. Muốn được vậy ta cần phải có một sự điêu luyện đặc biệt để mở thần nhãn. Sự điêu luyện nầy đối với người thường, cần phải mất nhiều ngày giờ. Mặc dù ta không nhớ được người mà ta gặp gỡ trong lúc chiêm bao, chớ mối dây tình cảm là một điều tốt đẹp, nó không hề mất đi mực độ của nó. Và khi ta thác rồi, những người quá vãng thân yêu của ta lập tức tìm ta. Ấy vậy, chỉ có một điều khác là ta sống với họ trong ban đêm chớ không phải lúc ban ngày.

Ta không thấy được những gì trên cõi vô hình bởi mắt xác thịt của ta không đồng nhất với cõi Trung giới nên không thấy đặng. Vậy sự thấy của ta rất bị hạn chế. Có nhiều người nói rằng: “Cái gì tôi thấy đặng, rờ đặng, nghe đặng tôi mới tin”. Nhưng có biết bao điều mắt phàm không thấy đặng mà vẫn có: tỷ như ta không thấy khí trời mà vẫn có khí trời; ta khộng thấy điển khí mà vẫn có điển khí. Ấy vậy ta sống trong một cái võ trụ bao la, mà ta chỉ thấy có một phần bé nhỏ mà thôi ! Khoa học đã chứng tỏ cho ta thấy bằng cách miêu tả nhiều thế giới, trong đó có những sinh vật đang sống và đang hoạt động. Có thứ nhỏ tí mắt ta không thấy đặng. Những con vi trùng nhỏ tí ti đó không phải là không quan trọng đối với ta; bởi vì sức khỏe và sự sống của ta tùy thuộc ở sự sinh tồn của chúng nó.

Bởi giác quan của ta bị hạn chế, ta không thấy và rờ đặng chúng nó. Ta không có bằng cớ gì về sự hiện tồn của chúng nó, trừ phi lúc chúng nó xao động, ta mới biết rằng có chúng nó. Ta đã nói: ta không thấy đặng khí trời; nhưng trong khí trời có một mãnh lực phi thường: nó có thể nhận chìm tàu bè to lớn nhất của con người ! Nó có thể xô ngã tất cả dinh thự vĩ đại của ta. Xung quanh ta còn có biết bao mãnh lực phi thường khác mà mắt phàm thấy không đặng. Ta như người tội nhơn bị nhốt trong khám tối. Ngũ quan của ta là những cửa sổ bé nhỏ, chỉ mở ra có một phía mà thôi, nên ta tuyệt nhiên không thấy được những phía khác.

Có nhiều sự âu lo vô ích về đời sống bên kia cửa tử, nhiều cảnh đau khổ thương tâm đều do sự hiểu biết sai lầm mà ra cả. Người ta cho rằng: kẻ ác sẽ bị cưa hai nấu dầu, sẽ bị đập giã cho xương tan, nát thịt hay là bị lửa đốt cháy ra tro bụi v.v. . . Chớ nào dè người đã từ bỏ cõi trần rồi thì thịt xương đâu còn mà đâm, mà giã ? Sự hình phạt kẻ tội ác sẽ diễn hành một cách khác tại cõi Trung giới. Điều này được giải thích như sau:

Lẽ thứ nhất: Trên cõi Trung giới, những tư tưởng và tình cảm đều có hình dạng. Nếu người từ trần có ý nghĩ ghê tởm địa ngục, thì sẽ tưởng tượng thấy mình bị hình phạt đủ cách tàn nhẫn. Nhưng sự thật chỉ là ảo ảnh mà thôi. Nhơn đó, vong linh đau khổ do sự tưởng tượng mà ra !

Lẽ thứ nhì: Cái thuyết địa ngục là vi phạm thánh thần bởi người ta gán cho các Ngài sự hành phạt ác độc đối với người có tội.

Khi người ta nói “địa ngục” là người ta tưởng tượng nó ở giữa ruột trái đất với một tổ chức hết sức dữ dằn, ác độc để trừng trị những kẻ phạm tội. Nhưng ý niệm ấy rất sai lầm. Địa ngục chẳng phải ở trong ruột trái đất, mà ở cảnh thứ bảy của cõi Trung giới. Vong linh có tội chẳng phải bị cầm nhốt nơi ngục tối mà vẫn được lưu thông trong cảnh ấy một cách thong thả. Nhưng người tội ác phải ở cảnh trọng trược, không lên cõi cao được (mà đó chỉ là tạm thời thôi). Tỷ như kẻ sát nhơn, khi thác rồi sẽ bị nạn nhơn rượt đòi thường mạng mà y không thể nào thoát khỏi. Y ngồi đâu cũng thấy nạn nhơn, chạy đâu cũng thấy nạn nhơn than khóc, kêu la và nguyền rủa.

Cái cảnh tượng hãi hùng ấy cứ tiếp diễn trong nhiều ngày, nhiều tháng và nhiều năm như vậy. Đến một ngày kia vong linh ăn năn hối quá, thì tình trạng khốn khổ ấy sẽ tiêu tan mất. Bài học của Hóa công rất là nghiêm khắc; nhưng về sau nó rất độ lượng và khoan hồng.

Dưới đây là những ví dụ gương mẫu của vài vong linh trên cõi Trung giới do nhãn quang của ông C. W. Leadbeater thấy được.

Một người thường nhơn kia, không tốt, không xấu. Lên cõi Trung giới, y không đau đớn nhiều mà cũng không vui sướng nhiều. Nếu trong kiếp sống y chỉ lo nói chuyện khào, lo thể thao, thích chuyện đời, lo ăn mặc cho hạp với thời trang chớ không mục đích gì rõ rệt, thì tự nhiên trên Trung giới, y thấy ngày giờ dài đăng đẳng: bởi vì những chuyện xa hoa vật chất không thể thực hiện trên đó được.

Một người kia đắm say nhiều dục vọng thấp hèn, tỷ như nghiện rượu hay dâm dục, thì phải lâm vào cảnh khổ sở vô cùng. Chẳng những dục vọng ấy còn y nguyên, mà chúng nó còn trở nên muôn phần mãnh liệt: bởi vì chúng được biểu lộ tự do xuyên qua thể của chúng nó là thể Vía, chớ chúng nó không còn bị xác thịt nặng nề cản trở nữa.

Người như thế ấy phải lâm vào cảnh thấp của cõi Trung giới. Y ở rà rà mặt đất để có cơ hội hưởng những mùi rượu thịt v.v. . . mà y đang thèm khát. Y lân la những hộp đêm, những tửu quán, để thưởng thức mùi rượu thịt cùng những cảnh ô trược. Y chỉ thưởng thức thôi, chớ không thỏa mãn dục vọng cuồng nhiệt của y đặng: bởi vì y không có xác thịt làm trung gian.

Một vong linh bợm rượu kinh niên, đôi khi tự bao xung quanh mình một tấm bằng chất dĩ thái để hiện hình một phần, tỷ như hiện ra cánh tay hay cái mặt. Nhờ chất dĩ thái ấy mà y hưởng đặng mùi rượu, nhưng y không ngửi đặng mùi rượu như lúc còn sống ở cõi trần.

Chính vì lẽ ấy mà y xúi giục kẻ khác uống rượu đặng y có thể nhập vào xác họ một phần nào để hưởng hơi cho thỏa thích. Sự nhập xác ấy có thể vĩnh viễn hay tạm thời.

Chính mắt tác giả bài nầy đã chứng kiến một đám cúng bịnh điên, do một pháp sư điều khiển. Trên bàn cúng có để rượu và một thủ vĩ heo luộc cùng trái cây và nhang đèn v.v. . . Khi pháp sư đứng ra cầu đảo vong linh mà y cho rằng phá khuấy bịnh nhơn, thì đồng tử nhảy dựng lên la hét là “Ta đã về, hỏi muốn gì ?”.

Pháp sư nói:

- Ta bảo ngươi hãy buông tha bịnh nhơn.

- Được, nhưng trước khi ta tha, hãy đem rượu thịt ra đây.

Nói đoạn, đồng tử là người (không biết uống rượu) nhảy lại bàn thờ bưng chai rượu lối 1 lít núc ráo trọi, rồi còn đòi thêm nữa ! Người ta chạy lấy thêm 1 lít rượu nữa cho y. Uống xong cả mà y không say. Đoạn y đến bàn cúng, hai tay ôm thủ vĩ lợn, cúi mặt xuống, hít khắp cùng, một cách say mê đắm đuối, mà trên đời nầy chưa hề có ai ngửi đồ ăn như thế. Y lật đầu heo lên, y hít từ sớ thịt, từ miếng xương; y trở đầu heo lại, y hít từ lổ tai, từ cái mỏ, từ con mắt. Y hít như vậy trọn cả nửa giờ ! Cử chỉ đam mê của y trông thấy mà rợn cả người, cho đến đỗi khổ chủ, nhà nghèo xơ xác, mà phải ghê gớm cái đầu heo ấy: nên sau khi cúng rồi, y đem nó cho hàng xóm ! Đó là vong linh nghiện rượu và mê ăn nhập vào đồng tử để hưởng chút mùi vị trần gian. Trên cõi Trung giới, vong linh như thế bị muôn phần khổ sở: vì y thiếu cơ quan xác thịt để thực hiện sự ham muốn ấy.

Bây giờ hãy nói đến hạng người cao hơn như nhà âm nhạc, triết học hay khoa học chẳng hạn. Trên Trung giới con người không cần làm lụng mới có mà sống, nên có nhiều thì giờ để đeo đuổi quan niệm của mình. Trong khi sanh hoạt trên Trung giới, ta có thể nghe một nhạc điệu rất hay, rất tuyệt diệu, mà dưới trần nầy không ai diễn được.

Còn đối với nhà mỹ thuật, thì ôi thôi, biết bao là sự tốt đẹp diễn ra trước mắt. Nhơn đó mà vong linh có thể biểu dương tài nghệ của mình. Người ta có thể đi đây, đi đó một cách mau lẹ nên thấy đặng những kỳ quan trong võ trụ dễ hơn khi ở thế.

Nếu vong linh là nhà sử gia hay nhà khoa học, thì tất cả thơ viện và phòng thí nghiệm dưới trần đều đặt dưới quyền xử dụng của y. Lại nữa, vong linh hiểu đặng những hiện tượng thiên nhiên rõ ràng hơn là lúc còn mang xác thịt: bởi vì y thấy đặng bên trong của vạn vật, chớ chẳng phải chỉ phớt bên ngoài mà thôi. Trong bất cứ trường hợp nào, sự vui của vong linh cũng tăng cường: vì y không biết mệt mỏi như ở trần gian.

Nhà triết học có thể đeo đuổi được công việc hữu ích của mình một cách đắc lực và dưới tay sẵn có những điều kiện thuận tiện hơn là khi có xác thịt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về mặt thực tế, thì sau khi chết, trí thức của con người không khác chút nào. Những tai nạn rủi ro, sự chết bất đắc kỳ tử không làm cho đời sống trên Trung giới quá khổ sở hơn. Nhưng đối với đa số người đời, sự lâm chung tự nhiên là tốt hơn hết: bởi vì xác thân bị sự già nua và bịnh hoạn lâu ngày làm cho mau tan rã và những tế bào cái Vía cũng vì đó mà đã ly tan một phần nào; nên khi con người sang qua cõi Trung giới, thì con đường nơi âm cảnh đã dọn sẵn rồi.

Tuy nhiên, khi sự sống của xác thân thình lình bị ngưng hẳn, sợi dây dục vọng và sinh lực (Kama Prâna) chưa dứt, nên cái Vía còn mạnh mẽ dồi dào; những yếu tố cao cả của thần hồn khó lìa ra khỏi xác liền đặng. Một số dư Thanh khí trọng trược còn bám vào bản ngã phàm nhơn, kéo trì phàm nhơn xuống cảnh thấp nhứt của cõi Trung giới là cảnh thứ bảy.

Cái chết bất đắc kỳ tử luôn luôn tạo ra sự kinh khủng và sự tán loạn tâm thần, khiến cho đời sống trên cõi Trung giới hóa ra tối tăm và khổ sở. Trong vài trường hợp, cái tình trạng hỗn loạn tâm thần đó kéo dài khá lâu.

Những kẻ tội nhơn bị xử tử, chẳng những họ phải chịu cảnh đau đớn của sự phân chia đột ngột giữa cái Vía và cái xác, mà họ còn có cái Vía đang run rẩy, oán hờn, giận dữ và thù hằn. Như thế họ sẽ là những phần tử đặc biệt nguy hiểm trên cõi Trung giới. Vậy người tử tội là một mối hại cho xã hội; mà khi y bỏ xác rồi, y cũng sẽ còn là một mối hại gấp ngàn lần cho trần gian nữa. Vì lẽ xã hội có thể chống với kẻ sát nhơn còn sống trong xác thịt, chớ không thể chống với kẻ sát nhơn vô hình bị phóng thình lình lên Trung giới với tất cả uy lực giông tố của dục tình ! Những người như vậy có thể trở thành những tay phiến động cho những vụ sát nhơn. Bằng chứng thiết thực là những vụ sát nhơn tương tự thường xảy ra trong một xóm, một làng hay một xứ.

Thường thường những người có một đời sống hung dữ, ích kỷ và vật chất nên mới bị kết án tử hình. Nhơn đó mà họ chỉ tri thức đặng cảnh chót của cõi Trung giới mà thôi; họ có thể trở thành một phần tử ghê gớm nơi âm cảnh và luôn cả chốn trần gian nữa !

1) Một là: họ xui giục người yếu tánh làm theo họ.

2) Hai là: cái Vía của họ đang run rẩy vì sự đam mê và oán hận, hóa ra một động lực nguy hiểm cho cõi Trung giới như ta đã nói ở trước. Muốn biểu lộ những cái phản động thấp hèn của họ tại cõi trần, họ mới tìm cách nhập xác đồng, hầu thực hiện được ý muốn xấu xa của họ, để rửa hận hay thỏa dục.

Những người chết bất đắc kỳ tử như tự vận, là những hạng người mắc quả xấu vì sự ô trược và trụy lạc, thì họ sẽ là những hồn ma bóng quế khốn nạn ! . . . Họ đi tầm vơ. . . cho tới chừng nào mãn kiếp sống dưới trần mới thôi. Tỷ như họ phải sống tới 90 tuổi mà mới 20 tuổi họ tự vận, thì họ phải kéo dài đời sống vu vơ trên cõi Trung giới tới 70 năm nữa mới sống được đời thường lệ như các vong linh khác, nghĩa là mới có thể trú ngụ tại cảnh riêng biệt của họ để tinh luyện hầu sang qua cõi Thượng giới mới đi đầu thai được.

Ôi ! sự đau khổ đang chực hờ họ ! Bao nhiêu thất vọng nặng nề tràn ngập tâm hồn họ ! Cái tư cách trước khi lâm chung của người tự tử luôn luôn tạo ra nhiều hoàn cảnh tốt hay xấu ở cõi Trung giới, bởi vì động lực bên trong của sự tự tử là quan trọng . . . Người ta đánh giá nó tùy trường hợp, từ cái chết nghĩa cử tốt đẹp của ông Socrate và ông Phan thanh Giản, tới cái chết thất vọng vì tình, cái chết khốn nạn của người hèn nhát để chạy tội.

Thường cái hậu quả của sự tự tử thật là trọng đại, chắc chắn nó di hại trong kiếp nầy mà còn ảnh hưởng sâu xa cho kiếp tới nữa. Vì con người trong kiếp tới, sẽ phải gặp lại những hoàn cảnh khắt khe tương tự như hoàn cảnh của kiếp nầy, xúi giục y tự vận một lần nữa. Nếu con người ấy thấy đặng cuộc thử lòng nầy, thì ở vị lai, sẽ không còn gặp lại cuộc thử lòng như thế nữa. . . Bằng thất bại, thì con người sẽ phải lâm vào hoàn cảnh ấy một lần, hai lần nữa . . .; có khi trong 5 – 3 kiếp liên tiếp, mới thoát khỏi.

Người ta có biết một linh hồn tự thú nhận là y tự vận trong 5 kiếp liên tiếp. Mỗi lần lên Trung giới, linh hồn rất khổ sở, mà thấy mình đã thất bại trước hoàn cảnh đau thương đó, nên hằng cầu nguyện được giúp đỡ, để cho y nhớ lại kịp lúc cái hậu quả của sự tự vận trước khi muốn hủy mình; y cầu nguyện cho mình có đủ can đảm để làm chủ hoàn cảnh, dù là khó khăn và đau khổ.

Người ta tưởng rằng: “Chết thì hết chuyện !” Nhưng không phải hết đâu. Hủy mình trước số Trời đã định là một điều hết sức sai lầm và tai hại ! Cái cảnh rắc rối dưới trần, - mà mình giải quyết không đặng nên phải tự vận, - sẽ đeo đuổi theo mình tại cõi Trung giới một thời gian khá lâu, làm cho mình biết bao ân hận ! Nhưng ô hô sự đã rồi ! Vả lại, sự tự tử là một tội trọng đối với nhân quần xã hội, đối với cha mẹ, ông bà và đối với Hóa công nữa; bởi vì nó trái với luật nhân quả đã định kiếp sống dưới trần nầy là bao nhiêu năm; nay vì uất hận và tự ái hay buồn rầu mà bất kể thiên điều, thì dù có ăn năn cũng đã muộn rồi ! . .

Vì lẽ mỗi người phải trải qua một đời sống sung sướng hay khổ cực tại thế gian, tùy theo số mạng do chính mình đã tạo ra trong kiếp nầy hay kiếp trước, thì phải an lòng, ẩn nhẫn, ráng vượt qua cảnh thử lòng ấy để sống cho rồi một kiếp, chớ đừng tìm đường trốn tránh. Vả lại có muốn trốn cũng chẳng đặng nào ! Vì đó là định luật !

Share this post


Link to post
Share on other sites

Có hạng người bám víu một cách tuyệt vọng cõi đời vật chất nầy, nên lúc bỏ xác, cái Vía của họ không thể tách xa cái Phách liền đặng. Nhơn đó, mà trên Trung giới, họ vẫn còn bị chất dĩ thái của cái Phách bao vây, làm tấm bình phong che mất cảnh ấy, thành thử họ ở nơi âm cảnh mà không biết âm cảnh là gì. Đồng thời họ khó mà thông cảm với cõi trần: vì họ thiếu cơ quan xác thịt ! Chung qui, họ là những hồn ma xiêu lạc, cô đơn hãi hùng ! Họ có miệng mà chẳng thốt ra lời ! Họ xa lạ tất cả hai cõi: vì họ không thông cảm đặng với những nhơn vật trong đó. Họ không thể hiểu đặng rằng: nếu họ hết bám víu một cách điên cuồng vào vật chất, thì tri thức của họ sẽ đổi ngay, và họ sẽ sống một cuộc đời thông thường như các vong linh khác. Còn nếu họ cố nắm níu cõi đời đen tối nầy mãi với cái bán tri thức khốn nàn của họ, thì họ sẽ tưởng thấy mình sa vào “địa ngục” theo trí tưởng tượng của người đời. Thời gian qua, chất dĩ thái của thể Phách tan rã và đời sống dị thường của vong linh sẽ được lập lại trật tự: vì luật Trời luôn luôn Công bằng và Bác ái.

Nếu vong linh nghe theo thì sẽ được kết quả tốt. Những lời chơn chánh và đạo lý của ta sẽ giúp đỡ vong linh rất nhiều. Vậy, khi ta đến một đám xác nào, thì ta nên thầm vái cho vong linh sớm trì tâm học Đạo, tìm người lành để nhờ chỉ dạy.

Đôi khi có những vong linh vì quá đau khổ nên đâm ra chán nản, họ không còn ham muốn, đam mê điều chi cả. Họ chỉ mong sao cảnh hiện tại khốn nạn nầy sớm được tiêu diệt ! Nhưng nào dè sự mong ước ấy đem lại cái cảnh tốt đẹp bất ngờ, làm cho họ quá đổi ngạc nhiên ! Nếu ta hiểu rõ cảnh Trung giới thì điều nầy không có chi là lạ: vì lẽ hoàn cảnh biến đổi theo tâm thức con người. Hễ con người càng bám vào những sự thấp hèn, ích kỷ và đam mê thì tự nhiên bị chất khí trược ấy vây chặt, khiến cho họ sa vào cảnh đen tối và đau khổ.

Nay vì thấy mình càng bám víu thì càng thất bại nên hóa ra chán nản. Trong khi quá thất vọng, vong linh thay đổi tư cách là : “không thèm ham muốn cái gì nữa”. Trước cái tư cách của tâm thức đó, hoàn cảnh tự nhiên thay đổi; vì vậy mà vong linh thấy mình được nhẹ nhàng, thơ thới và sống trong hoàn cảnh tốt đẹp sáng sủa hơn.

Khi bức tranh “vân cẩu” đã vẽ xong và bút nghiên đã dẹp lại rồi, thì tấm màn nhục thể từ từ buông xuống. Bấy giờ, vong linh mới nhận thấy sự thật rõ ràng, mới thấy được cái trạng huống của mình tốt hay xấu, phúc lạc hay đau buồn. Sự tiến lên cảnh cao hay lưu lại cảnh thấp là tổng kết sự thăng trầm của một kiếp sống nhơn sinh. Nó hạn định số mạng của y một cách công bình, dẫu một mũi kim cũng không dễ lọt được ! Đơn giản thay, mà cũng huyền diệu thay ! Dưới thế gian nầy, không ai lập được cái trật tự điều hòa như thế đó. Nguyên lý tinh vi, khiết bạch của Hóa Công qui định tất cả và nó đặt để mỗi người theo Ngôi vị thích nghi của mình. Nó biến chuyển những mãnh lực tinh thần để biểu lộ sự Công Bình tuyệt đối !

Ta ở cảnh cao trên cõi Trung giới cũng do ta, mà ta lâm vào cảnh u minh cũng là tại ta cả.

Tất cả tư tưởng, tình cảm và hành vi của ta đều có hình dạng. Chúng nó ghi vào con người của ta như một cuốn sổ to. Lúc ta sanh tiền thì nó đóng kín lại; xác thân vật chất của ta ví như một cái màn đen che khuất nội dung của nó. Nhưng khi ta từ giả cõi trần, thì nó từ từ mở ra: những trang giấy của nó phô bày trước mắt. Ta mang nó trên lưng ta, khiến cho ai cũng đều thấy đặng cái Thiên Đàng hay cái Địa Ngục của ta cả.

Trên những thể vô hình (đối với mắt ta) của vong linh đều có ghi tội, phước của kiếp trần đã qua. Chúng nó là bằng chứng cụ thể của đời sống tốt đẹp hay xấu xa đã qua. Chúng nó biện hộ cho vong linh hay kết tội y, và không ai có thể làm cho tiếng nói của chúng nó im lặng được.

Vậy lúc sanh tiền con người đang đẻo gọt cái “Ngai” của mình tại dương thế để cho mình ngồi khi quá vãng. Quyền cầm cân tội phước là ở mỗi người chúng ta đây. Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc nơi cõi vô hình, thì ngay bây giờ, chúng ta nên bắt tay vào việc. Chúng ta hãy ráng tạo những hành vi lành, từ bỏ những hành vi xấu, và rửa lòng cho trong sạch như lời dạy của Đức Phật Thích Ca trên hai ngàn rưởi năm về trước.

Dưới đây là bài thơ ngụ đời của một vị đạo tâm:

Phút chốc đầu xanh hóa bạc râm,

Mấy ai hưởng thụ ngoại tuần trăm ?

Thoi đưa, thoi đến bao lâu nhỉ ?

Mây hợp, mây tan một kiếp trần;

Danh lợi mãn say quên nẻo chết,

Bịnh, già, sực nghĩ đến bên chân;

Than ôi, trần thế xem như thế,

Sớm khá tu tâm học Đạo Thân.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay