Thiên_Địa_Nhân

Ăn Chay Và Khám Phá Mới Của Khoa Học

5 bài viết trong chủ đề này

Vì sao ruột của con người lại không dùng để ăn thịt?

Vì sao - Phát Hiện Lý Thú

1.Tạo hóa sanh ra con người để ăn Thực Vật thay vì ăn Động Vật:

Ngày nay, các khoa học gia đã bỏ nhiều thì giờ để thí nghiệm về cơ thể loài người, đã đi đến kết luận rằng :

Loài người được tạo hóa sanh ra để ăn rau cải, hoa quả tức ăn chay thay vì ăn mặn, vì hai hàm răng của con người được cấu trúc một cách đặc biệt, khéo léo, lại có răng hàm cùng xương quai hàm để nghiền và nhai thức ăn rất giống loài động vật ăn rau quả, không ăn thịt sống. Trong khi đó, loài động vật ăn thịt sống, thì có răng cửa và bộ răng nanh bén nhọn để xé thịt xong rồi nuốt trọng luôn. Ngoài ra, tạo hóa cũng tạo cho những động vật này có đường tiêu hóa chiều dài gấp 3 lần chiều dài của thân thể, vì lẽ đó giúp cho sự phế thải các chất cặn bã qua đường ruột bài tiết nhanh chóng hơn, cho nên ít bị nhiễm độc tố do chất thịt gây ra đối với loài người.

Trong khi đó, loài người và những động vật ăn rau cải, hoa quả thì có đường tiêu hóa (đường ruột) chiều dài gấp 12 lần chiều dài của thân thể, tức dài gấp 4 lần của những động vật ăn thịt, cho nên, loài người chúng ta ăn chay là đúng nhứt, bởi vì mỗi lần chúng ta ăn chay, thấy trong mình nhẹ nhàng, trong khi chúng ta mỗi lần có đám tiệc ăn mặn, thì thấy trong mình nặng nề, khó chịu lại buồn ngủ nữa, bởi thận làm việc thật vất vả để thanh lọc những độc tố cặn bã của thịt đưa ra khỏi máu và đào thải ra ngoài bằng đường bài tiết. Đối với người còn tuổi thanh xuân, thận còn khỏe mạnh, thì chưa ảnh hưởng gì cả, trái lại, đối với những người lớn tuổi, thận càng ngày càng yếu đi, thì việc thận thanh lọc sẽ trở nên khó khăn, đôi khi thận không thể loại hết những cặn bã độc tố, làm cho máu dơ, từ đó dễ sanh bịnh là thế đó.

Đặc biệt, những động vật ăn mặn, ví như chó, cọp, sư tử v.v... mỗi lần có trời nắng gắt, chúng ta thấy chúng nó le lưỡi để thở, bởi vì, chúng nó đổ mồ hôi bằng lưỡi, trái với loài người hay những động vật ăn chay thì mồ hôi bằng lỗ chân lông.

Hơn nữa, trong bao tử của những động vật ăn mặn, có chứa dịch tiêu hóa tới 20 lần lượng hydrochloric acid nhiều hơn trong bao tử của loài người hay những động vật ăn chay, nhờ vậy những động vật ăn thịt sống tức ăn mặn khi thực phẩm vào bao tử sẽ tiêu hóa nhanh chóng và dễ dàng.

Con người ăn chay sẽ tránh được bịnh và có sức khỏe không thua người ăn mặn nếu ăn đầy đủ chất bổ

2. Con người ăn chay sẽ tránh được bịnh và có sức khỏe không thua người ăn mặn nếu ăn đầy đủ chất bổ

Như đã trình bày ở trên, tạo hóa sanh ra con người để ăn chay, cho nên chúng ta áp dụng đúng sự ăn uống, thì không khác chúng ta thực hiện câu :

Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong.

Bởi vì, chúng ta ăn mặn, sẽ dễ dàng đưa đến bịnh tim (xin xem về chất béo đã dẫn ở trước), gần đây các Bác sĩ chuyên gia đã bỏ nhiều thì giờ nghiên cứu, đưa đến kết quả chánh xác là người ăn thịt nhiều, thì có liên hệ mật thiết với chứng bịnh ung thư ruột già, bởi vì trong thịt chứa nhiều chất béo, nhưng lại ít chất xơ (fibre). Tiến sĩ Sharon Fleming thuộc Phân Khoa Dinh Dưỡng của Viện Đại Học California ở Berkeley đã viết rằng : "Ăn chay trường sẽ ngăn ngừa và làm giảm thiểu sự nguy hiểm của bịnh ung thư ruột già và ruột cùn". Trong khi đó, bài tường trình của Học Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ năm 1983, các chuyên gia y tế đã ân cần khuyên bảo dân chúng như sau:

"Chúng ta có thể ngăn ngừa các chứng ung thư thông thường bằng cách tiết chế ăn thịt và nên ăn nhiều rau cải, hoa quả và ngũ cốc". Riêng ông Rollo Russell cũng phát biểu : "Tôi đã tìm thấy trong 25 quốc gia tiêu thụ thịt nhiều nhất trên thế giới, đã có tỷ số dân chúng mắc bịnh ung thư cao nhứt và chỉ có một quốc gia ở hàng tỷ số thấp. Ngược lại, trong 35 quốc gia không dùng thịt hay ít dùng thịt, không có quốc gia có tỷ số cao dân chúng mắc bịnh ung thư cả".

Gần đây, các khoa học gia đã phát hiện nhiều chất hóa học độc hại đã tiềm ẩn trong thịt các loài thú mà khách hàng tiêu thụ không hề hay biết, bằng chứng là bên Anh Quốc có bò khùng và kế đến Bỉ Quốc có gà nhiễm độc, bởi vì những mánh khóe của một số xưởng sản xuất thực phẩm phối hợp với các nhà chăn nuôi, muốn các thú vật này lớn nhanh lại béo mập để bán ra thị trường hốt được nhiều bạc, để rồi khi phát giác thì đưa đến những người dùng thịt này phải bịnh, thì việc đã muộn rồi. Ngoài ra, họ cũng dùng thuốc để nuôi con vật ngay khi chúng còn trong bụng mẹ, để sau này con vật sẽ lớn và mập nhanh. Trong khi đó, những thịt con vật sau khi sát sanh, thì được ướp bởi chất thuốc Sodium Nitrate và Sodium Nitrite để giữ thịt tươi như mới tiêu sanh hoặc lâu hư thúi, làm cho người tiêu thụ không biết thịt con vật đó đã sát sanh thời gian quá lâu, bởi vì, những chất hóa học này làm cho chúng ta khó phân biệt được thịt để lâu ngày và thịt mới xẻ ra. Vì vậy, các chất hóa học này sẽ làm tai họa cho những người mua thịt và sẽ đem đến bịnh hoạn bất ngờ không lường được. Tuy nhiên, nhờ các chất hóa học này, hằng năm kỹ nghệ thịt đã thu vào một số lợi tức khổng lồ, song cũng đã gây ra biết bao sự chết chóc vì bệnh tật mà những khách hàng ngây thơ là kẻ vô tình gánh chịu. Hiện nay chưa co một quy luật nào rõ ràng bắt buộc các nhà chăn nuôi cũng như kỹ nghệ sản xuất thịt phải ghi rõ thành phần các loại thuốc mà họ đã dùng trong lúc chăn nuôi và để giữ gìn được lâu bền.

Năm 1972 Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ đã khám phá ra chất thạch tín (Arsenic) đã được sử dụng trong kỹ nghệ nuôi gà, nên đã khuyến cáo kỹ nghệ này chỉ được dùng tối đa 15% chất độc tố thạch tín mà thôi.

Ngoài những hóa chất độc hại được một số xưởng sản xuất thực phẩm phối hợp với các nhà chăn nuôi các thú vật và các kỹ nghệ sản xuất thịt cho vào thịt bán cho người tiêu thụ vừa kể trên, còn có người kiểm soát thịt cũng bị các kỹ nghệ thịt mua chuộc hoặc thông đồng ăn chia hay vì số lượng thịt khổng lồ, nên việc kiểm tra thịt không được chu toàn, nên cũng thường đưa đến số lượng thịt bị hư hay nhiễm độc lọt qua sự kiểm soát bất cẩn và đưa đến người tiêu thụ dễ dàng, để rồi số người này sẽ bị bịnh khi ăn số thịt hư nhiễm này. Trong một bản báo cáo của Cơ Quan Kiểm Dịch Hoa Kỳ năm 1972 xác nhận rằng có rất nhiều xác thú vật đã thông qua sự kiểm soát sau khi những bộ phận bị nhiễm bịnh được cắt bỏ hoặc tẩy rửa sạch. Điển hình gần 100.000 con bò bịnh ung thư mắt và 3.596.302 bịnh bướu gan súc vật đều qua mắt sự kiểm soát...

Đặc biệt hơn nữa, các nhà nghiên cứu về ăn thịt đối với những động vật không ăn thịt như Voi, Trâu, Bò, Ngựa, Gà, Khỉ v.v... thì những động vật này vẫn có đầy đủ chất dinh dưỡng, như là chất Protein và chúng vẫn mạnh khỏe như thường. Giả thử chúng ta đem những động vật trên phân ra làm 2 nhóm, nhóm ăn thịt và nhóm không ăn thịt, rồi nuôi riêng rẽ một thời gian, chúng ta tin rằng nhóm ăn thịt sẽ lần hồi bịnh hoạn, không thể phát triển và sanh sản bình thường được, bởi vì, chúng nó là loài ăn cỏ, ăn ngũ cốc, ăn rau cải... Mặt khác, một cuộc nghiên cứu của Tiến sĩ Fred Stare thuộc Viện Đại Học Harward và Tiến sĩ Mavyn Hardinge thuộc Viện Đại Học Loma Linda cũng đem thí nghiệm bằng một cuộc so sánh giữa hai nhóm người ăn mặn và người ăn chay. Cuối cùng kết quả cho thấy nhóm người ăn chay đầy đủ tức là hằng ngày ăn ngũ cốc, rau đậu (nhứt là đậu nành, đậu phộng), hoa quả... thì có chất lượng amino acids trong cơ thể họ tăng gấp đôi nhóm người ăn mặn nhu cầu cần thiết. Ngoài ra, có nhiều cuộc thí nghiệm khác đã minh xác sự ăn chay đúng cách và đầy đủ sẽ cung cấp nhiều chất dinh dưỡng hơn ăn mặn. Hơn nữa, một cuộc nghiên cứu khác nữa của Tiến sĩ J. Lotekyo V. Kipani thuộc Viện Đại Học Bruxelles Bỉ Quốc cũng đem lại kết quả là người ăn chay đầy đủ và đúng cách, họ có sức khỏe dẻo dai hơn những người ăn mặn gấp đôi hay ba lần. Trường hợp này, không khác Giáo sư Lrwig Fischer thuộc Viện Đại Học Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng : "Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như người uống rượu". Do vậy, người ăn mặn không có sức mạnh dẻo dai chịu đựng bằng người ăn chay trường. Bằng chứng là hai ví dụ đã đăng trong Tạp chí Liên Hoa số 12, tháng 12 năm Mậu Tuất :

1. Nhà vô địch Karl Mann chạy bộ từ Berlin tới Dresden đường dài ngót 200 cây số, chỉ mất 22 giờ đồng hồ, là người ăn chay trường.

2. Năm 1957, tại vận động trường Melbourne (Australia) một lực sĩ cũng ăn chay trường được lãnh 2 huy chương vàng trong cuộc tranh tài quốc tế này

Do những sự dẫn trình ở trên, chúng ta đi đến kết luận là loài người do tạo hóa sanh ra để ăn chay, ăn chay sẽ tránh được bịnh hoạn và ăn chay đầy đủ thì sẽ có sức mạnh dẻo dai hơn người ăn mặn.

Ăn chay sẽ đem lại hữu ích cho bản thân và cho người khác xung quanh

3. Ăn chay sẽ đem lại hữu ích cho bản thân và cho người khác xung quanh

Như chúng ta đã biết, việc ăn chay đem lại hữu ích cho bản thân như :

- Tránh được bịnh hoạn

- Có sức khỏe hơn người ăn mặn

Ngoài ra, ăn chay sẽ đem lại nghĩa cử cao đẹp như :

• Tránh sát sanh : Đối với người Phật tử trong Đạo Phật, cần phải biết giữa "Tam Quy và Ngũ Giới". Tam Quy là ba phép gìn giữ về : Quy y Phật, Quy y Pháp và Quy y Tăng. Còn Ngũ Giới là năm điều cấm kkhông được : Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm, Nói dối và Uống rượu, cho nên, nếu chúng ta ăn chay thì chúng ta đã thực hiện được điều thứ nhứt trong ngũ giới cấm trong Đạo Phật rồi, từ đó chúng ta tránh được giết hại những sanh vật để cung ứng thức ăn hằng ngày cho chúng ta.

Trong hàng Phật tử, có người ăn chay :

* 2 ngày tức nhị chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một và ngày rằm (15).

* 4 ngày tức tứ chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một, mùng tám, ngày rằm (15) và 23.

* 6 ngày tức lục chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, 23, 29 (nếu tháng thiếu) hay 30 (nếu tháng đủ).

* 10 Ngày tức thập chay, cứ mỗi tháng ăn chay ngày : Mùng một, 10, 14, 15,18,23,24,28,29 và 30( nếu tháng thiếu ăn chay từ ngày 27, 28 và 29).

1 tháng tức nhứt nguyệt chay, người thọ chay thường ăn chay liên tục, xem như ăn chay trường một tháng hằng năm vào tháng giêng hoặc tháng bảy, bởi vì trong một năm tháng giêng có ngày rằm tức lễ thượng nguyên đầu năm và tháng 7 có ngày rằm tức lể Vu Lan.

3 tháng tức tam nguyệt chay, người thọ chay thường ăn chay trường liên tục ba tháng vào các tháng : Giêng, Bảy và Mười, bởi vì 3 tháng này có các ngày rằm lớn : Thương Ngươn (tháng giêng), Trung Ngươn (tháng bảy nhằm lễ Vu Lan) và Hạ Ngươn (tháng mười).

Trường chay là người thọ chay liên tục, xem như người xuất gia suốt đời, hằng ngày chỉ có ăn chay bằng rau cải, hoa quả với tương chao mà thôi, mỗi ngày cũng ăn hai bữa chánh, đôi khi, có người thọ chay trường, mỗi ngày chỉ ăn một bữa vào giữa trưa tứ ngọ chay.

- Tránh được lượng nước ô nhiễm môi sinh :

Theo Cơ quan Nghiên cứu Nông Học Hoa Kỳ đã cho biết những cặn bã do các lò sát sanh thải ra làm dơ bẩn sông rạch, đưa đến các nguồn nước thiên nhiên tinh khiết càng ngày cạn dần. Bằng chứng là năm 1973, tờ báo New York Post đã đăng một tin đáng cho chúng ta chú ý như sau : Một lò sát sanh lớn tại Hoa Kỳ, chuyên cung cấp thịt gà, đã sử dụng tới 100 triệu gallon nước mỗi ngày tương đương lượng nước cung cấp cho một thành phố có 25.000 dân cư. Ngoài ra, trong quyển Population, Resources and Environment (Dân số, Tài nguyên và Môi sinh), tác giả Paul và Anne Ehrlich đã so sánh : Nếu chúng ta muốn thu hoạch 1 cân lúa mì, chỉ cần 60 cân nước, nhưng nếu chúng ta muốn sản xuất 1 cân thịt, phải tiêu thụ từ 2.500 đến 6.000 cân nước.

Do vậy, nếu chúng ta ăn chay sẽ tránh được lượng nước ô nhiễm môi sinh.

- Tránh được sự xung đột xã hội cũng như phí phạm đất đai và đem lại sự an vui, sung túc cho mọi người

Quả thật vậy, nếu mọi người trên quả đất này ăn chay, thì con người sẽ giảm bớt sự tham, sân, si. Bởi vì, chúng ta sẽ không giết những loài vật như : Gà, Vịt, Heo, Bò... để cung phụng cho chúng ta bữa cơm hằng ngày và từ đó thế giới này sẽ không còn những lò sát sanh cũng như những tiếng rên la vì chết oan của chúng, do nhu cầu ăn mặn, cho nên thế giới này mới có cảnh nước lớn đến lấn chiếm nước nhỏ, từ đó gây nên chiến tranh. Một nhà Bác học đã nói : Muốn thế giới hòa bình, bắt đầu trong bữa ăn của con người phải không có một chút máu hay một miếng thịt, cá... Đây là lời nói rất đạo đức, không khác với câu của cổ nhân là : "Nhứt thế chúng sanh vô sát nghiệp, hà sầu thế giới động binh đao"; xin tạm dịch : Nếu tất cả mọi người không sát hại lẫn nhau, thì sợ gì thế giới có chiến tranh.

Trong gia đình hay ngoài xã hội cũng thế, nếu chúng ta ăn mặn, thì đôi khi vì miếng ăn mà tranh giành, để rồi đưa đến kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu, giết hại lẫn nhau, làm cho huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt.

Nên chúng ta ăn chay, thì sẽ tránh được sự xung đột xã hội là thế đó.

Ngoài ra, nếu chúng ta ăn chay, thì chúng ta sẽ không thực hiện những trại chăn nuôi thú vật làm phí phạm đất đai và chúng ta cũng không đem nông phẩm quá nhiều để đổi lại miếng thịt trên bàn ăn của chúng ta. Theo tài liệu của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, trên 90% tổng sản lượng lúa mì tại Hoa Kỳ được dùng vào kỹ nghệ chăn nuôi, cứ 16 cân lúa mì đem chăn nuôi chỉ thâu vào không đầy 1 cân thịt và theo Tiến sĩ Aaron Altshul, viết trong tác phẩm Protein : Their Chemistry and Politics (Protein : Hóa học và Chánh trị) đã viết : "Nếu chúng ta sử dụng một diện tích đất một mẫu Anh (4.046m2) để trồng hoa mầu cung cấp lương thực cho người ăn chay, chúng ta sẽ được một sản lượng gấp 20 lần hơn, nếu chúng ta sử dụng đất ấy để chăn nuôi sản xuất thịt". Hiện nay ở Hoa Kỳ, phân nửa diện tích đất trồng trọt được dùng để sản xuất thực phẩm gia súc. Nếu trên quả đất này, chúng ta đều trồng hoa mầu, nông phẩm cho mọi người, thì chúng ta sẽ đầy đủ lương thực cung ứng cho 20 tỷ dân một cách dễ dàng, từ đó, chúng ta sẽ không sợ nạn nhân mãn và việc phá thai khiến hằng năm có đến 50 triệu thai nhi trên thế giới đã bị giết một cách oan uổng cũng như không còn xảy ra nạn đói hay những cuộc chiến tranh xảy ra việc tranh giành sự sống nữa.

Như dẫn chứng ở trên, nếu chúng ta dùng đất đai, nông phẩm để thực hiện trại chăn nuôi, ngõ hầu cung cấp cho chúng ta hằng ngày những miếng thịt trên bàn ăn thì quá phí phạm, hơn nữa, nếu chúng ta giết một con bò, thì chúng ta sẽ không đem lại lợi tức bằng chúng ta nuôi một con bò, để nó cung cấp cho chúng ta sữa và phó sản một cách liên tục. Đây là những thực phẩm có chất bổ dưỡng cao. Ở Hoa Kỳ, sản phẩm của sữa rất dồi dào. Đôi khi người ta còn muốn hạn chế bớt việc sản xuất. Ông Sam Gibbons, Dân Biểu thuộc Tiểu Bang Florida, gần đây đã báo cáo lên Quốc Hội rằng, chính phủ hiện nay đang bị bắt buộc phải dự trữ sản lượng sữa trên mức an toàn. Ông nói : "Chúng ta hiện nay đang quản thủ đến 440 triệu cân sữa, 545 triệu cân phómát và 765 triệu cân sữa bột. Hằng tuần mức tồn kho vẫn còn tăng lên 45 triệu cân, cho nên Ông khuyến cáo chánh phủ nên xuất kho hàng triệu cân để cung cấp hoặc viện trợ cho những dân tộc nghèo đói". Được biết, ở Hoa Kỳ chỉ có 10 triệu con bò sữa thôi, mà có sữa và phó sản của sữa như thế đó. Thật có lợi hơn chúng ta giết con bò để lấy thịt vô cùng.

Do vậy, chúng ta ăn chay cũng đem lại sự an vui, sung túc cho mọi người là thế đó. Để tạm kết thúc bài này, trước hết tôi xin cảm ơn các tác giả và các bậc cao minh trí thức đã viết lên những tác phẩm cùng những bài viết mà tôi đã mạn phép trích dẫn, vì không biết địa chỉ, nên tôi không thể xin phép trước được, đồng thời nếu có gì sơ xuất, kém khuyết xin quý vị bổ túc và tha thứ cho tôi. Bài này, để cống hiến cho quý bà con đồng hương thường lãm và hy vọng rằng góp phần mọn cho việc ăn chay đem lại ích lợi thiết thực cho bản thân cũng như mọi người xung quanh hơn ăn mặn.

- Lâu nay giới Khoa học vẫn khẳng định con người thuộc Động vật ăn "Tạp". :D

6 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhớ trích nguồn khi post bài!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vì sao ruột của con người lại không dùng để ăn thịt?

Bằng chứng là hai ví dụ đã đăng trong Tạp chí Liên Hoa số 12, tháng 12 năm Mậu Tuất :

Phát hiện lý thú - 52 năm về trước...?

Khảo cổ thì đúng hơn...

Share this post


Link to post
Share on other sites

ĂN CHAY THEO MINH GIẢI THÔNG THIÊN HỌC

Liệu Linh hồn có một nhiệm vụ đủ khó khăn chăng khi ta làm cho nhiệm vụ nó khó khăn hơn qua việc làm ô nhiễm khí cụ mà nó phải hoạt động thông qua đó, và cung cấp cho nó vật liệu không đáp ứng với những sự thôi thúc tinh vi song lại đáp ứng dễ dàng với mọi đam mê hạ đẳng của bản chất thú tính mà Linh hồn bị ràng buộc vào đó? Thế rồi khi bạn nhớ rằng bạn bỏ qua nó, khi bạn ăn thịt, do đó tăng cường những đam mê hạ đẳng đầy thú tính thì bạn đang in lên những phân tử của cơ thể chính mình quyền năng đáp ứng như thế, chắc chắn bạn phải rèn luyện và tinh luyện cơ thể mình, có thể nói là không liên tục giúp cho nó cứ đáp ứng mãi với những rung động thuộc về giới động vật này.

*

Tôi nghĩ rằng tựa đề của bài thuyết trình mà tôi phải trình bày với quí vị tối nay cho quí vị thấy những hạn chế mà tôi hầu như áp đặt lên cả hai đề tài được nhắc đến trong đó, vậy là xác định giới hạn của điều mà tôi phải nói. Tôi phải nói với các bạn về “Ăn Chay theo minh giải của Thông Thiên Học”. Thế mà chắc chắn rằng bạn có thể cãi lý về lý thuyết và việc thực hành ăn chay theo rất nhiều quan điểm. Bạn có thể xét nó theo quan điểm sức khỏe của thể xác; bạn có thể xét nó theo đường lối sinh lý học và hóa học; bạn có thể luận chứng rất vững chắc để ủng hộ nó do việc nó có liên quan tới việc sử dụng (hoặc đúng hơn là không sử dụng) rượu mạnh, vì việc uống rượu và ăn thịt có liên quan mật thiết với nhau và rất ưa biến thiên tỉ lệ với nhau nơi cùng một cá thể; bạn có thể xét nó theo những quan điểm khác có lẽ là quen thuộc với nhiều người trong số bạn qua những lập luận mà bạn đọc trong những tạp chí ăn chay và nghe thuyết trình của các diễn giả ăn chay. Rồi lại còn quan điểm của Thông Thiên Học nữa. Nếu tôi phải bàn về bản thân Thông Thiên Học, thì tôi ắt phải tạo ra được một ấn tượng về ý nghĩa và giáo lý của nó, có lẽ truy nguyên cho bạn thấy diễn trình lịch sử của nó, nêu ra những lập luận về việc giáo lý của nó nói chung là hợp lý, cũng như triết lý của nó có giá trị đối với con người. Nhưng tôi sắp xem xét hai đề tài này liên quan với nhau, và mối quan hệ đó có nghĩa là tôi sắp cố gắng mang lại cho một số người trong các bạn (họ rất có thể đã ăn chay rồi) những lập luận theo một đường lối tư tưởng có thể là ít quen thuộc hơn đối với bạn so với những lập luận mà người ta thường dùng để ủng hộ việc ăn chay. Và tôi cũng cố gắng trình bày cho những người trong các bạn vốn không ăn chay, thì theo quan điểm của Thông Thiên Học, ta phải viện dẫn những lập luận khác hơn những lập luận bàn về sự dinh dưỡng của cơ thể, bàn về các vấn đề hóa học và sinh lý học hoặc ngay cả bàn về tác dụng của nó đối với việc buôn bán rượu; đây là một đường lối tư tưởng khác hẳn với những thứ nêu trên và có lẽ có giá trị đặc biệt vì nó khác như thế; cũng như bạn có thể tiếp viện thêm cho một đạo quân vốn đã chiến đấu chống lại rất nhiều điều kỳ quặc.

Việc ăn chay mà tôi sắp lập luận tối nay vốn sẽ quen thuộc với tất cả các bạn nào đang kiêng mọi loại thực phẩm có hàm ý phải giết chết loài động vật hoặc gây ra tội ác đối với động vật. Tôi không xét tới bất kỳ đường lối lập luận đặc biệt nào, chẳng hạn như những đường lối chia rẽ phái ăn chay này với phái ăn chay khác. Tôi không lập luận về ngũ cốc, về trái cây, về đủ thứ phép dinh dưỡng vốn gây ra rất nhiều sự bàn tán xôn xao vào lúc này. Tôi chỉ xét đường lối tổng quát là kiêng mọi loại thực phẩm động vật, và tôi cố gắng chứng tỏ lý do phải kiêng như thế mà ta có thể rút ra từ giáo huấn Thông Thiên Học, nó có thể được ủng hộ bởi cái thế giới quan và nhân sinh quan đó của những người được người ta biết tới với danh hiệu là nhà Thông Thiên Học.

Trước khi nêu ra lập luận, tôi xin nói rằng tôi tin lập luận mà mình đưa ra ắt hoàn toàn lành mạnh theo quan điểm Thông Thiên Học, thì tôi lại không có quyền buộc Hội Thông Thiên Học nói chung phải chấp nhận lập luận đó vì nhiều người trong các bạn biết rằng chúng tôi không đòi hỏi những người gia nhập Hội Thông Thiên Học phải chấp nhận những giáo lý mà ta biết với tên gọi chung là Thông Thiên Học. Chúng tôi chỉ yêu cầu họ chấp nhận giáo lý về tình huynh đệ đại đồng và mưu tìm sự thật có thể nói là theo tinh thần hợp tác hơn theo óc cạnh tranh. Điều này có nghĩa là chúng tôi yêu cầu các hội viên không được công kích những tôn giáo hoặc quan điểm khác của những người lân cận, họ phải tỏ ra tôn trọng những người khác chẳng khác nào họ trông mong những người khác tỏ ra tôn trọng mình khi mình phát biểu ý kiến. Chúng tôi chỉ bằng lòng với một nghĩa vụ duy nhất đó thôi. Chúng tôi không cố gắng áp đặt những quan điểm Thông Thiên Học lên những người gia nhập Hội. Những người trong chúng tôi tin rằng các quan điểm này là đúng vì chúng tôi tin vào sức mạnh của chính sự thật, do đó chúng tôi để cho các hội viên được hoàn toàn tự do chấp nhận hoặc bác bỏ những quan điểm đó. Thế thì bạn ắt hiểu rằng khi thuyết trình, tôi không đòi hỏi Hội Thông Thiên Học phải cam kết điều gì. Những quan điểm mà tôi trình bày đều được rút ra từ một triết lý mà bất kỳ hội viên nào trong Hội chúng ta đều có thể hoặc không thể chủ trương.

Thế mà đường lối lập luận đầu tiên (theo đó tôi yêu cầu bạn chú ý tới việc ăn chay theo minh giải Thông Thiên Học) là như sau: Thông Thiên Học coi con người là một bộ phận của một đường tiến hóa lớn, nó coi con người có vị trí trên thế giới là một mắt xích trong một chuỗi xích bền vững, chuỗi xích này có mắt xích đầu tiên biểu lộ nơi chính sự sống thiêng liêng; trải qua từng mắt xích một, tức là các đại huyền giai hoặc tầng lớp đấng thông tuệ tâm linh đang tiến hóa, nó giáng xuống theo kiểu này từ nguồn gốc thiêng liêng trải qua các thực thể tâm linh rồi vướng mắc vào sự biểu lộ mà ta biết là thế giới của chính ta; thế giới này (vốn chẳng qua chỉ là biểu hiện của tư tưởng thiêng liêng) được thấm nhuần bởi sự sống thiêng liêng đó; mọi thứ mà ta gọi là định luật chính là biểu hiện của bản chất thiêng liêng đó; mọi việc nghiên cứu sự biểu lộ định luật chính là nghiên cứu trí tuệ thiêng liêng trong thiên nhiên. Điều này khiến cho ta phải xem xét thế giới không phải với bản thể là vật chất và lực giống như quan điểm của khoa học duy vật, mà với bản thể là sự sống và tâm thức chỉ vì mục đích biểu lộ mà phải dính mắc vào điều mà ta thừa nhận là vật chất và lực.

Thế rồi khi khởi sự với ý tưởng đó và truy nguyên cái gọi là việc sự sống giáng hạ tiến hóa tới mức thấp nhất, thì ta bèn đạt tới giới khoáng vật; từ đó trở đi sự sống lại thăng lên (tạm gọi như vậy) trong chu kỳ thăng tiến thay vì chu kỳ giáng hạ (vật chất càng ngày càng trở nên dễ uốn nắn do lực của sự sống giờ đây đang tiến hóa, trở nên càng ngày càng mềm dẽo) cho tới khi loài khoáng vật tiến hóa thành loài thực vật. Thế rồi khi tác động trong giới thực vật, vật chất còn trở nên mềm dẽo hơn nữa và do đó có thể biểu diễn tốt hơn sự sống và tâm thức vốn đang hoạt động bên trong đó, ta đạt tới cơ tiến hóa của giới động vật với những năng lượng đã được biến dị cao hơn, với mức độ gia tăng tổ chức phức tạp hơn, với khả năng cảm nhận khoái lạc và đau khổ nhiều hơn, và nhất là với việc gia tăng sự cá biệt. Những tạo vật này càng ngày càng trở thành một loại cá thể, có thể nói là càng ngày càng khác nhau về tâm thức, và bắt đầu bộc lộ mầm mống của tâm thức cao siêu hơn; sự sống bản sơ này vốn sinh hoạt trong tất cả có thể biểu diễn một cách hoàn chỉnh hơn qua hệ thần kinh đã được tổ chức cao cấp hơn, và có thể nói là được rèn luyện theo kiểu đó qua việc đáp ứng nhiều hơn với sự tiếp xúc của vũ trụ bên ngoài. Thế rồi khi leo cao thêm nữa, nó được biểu lộ cao siêu hơn nhiều qua hình hài của con người, hình hài con người đó trở nên linh động do có Linh hồn và Tinh thần: Linh hồn biểu lộ qua thể xác thành ra tâm trí, còn Tinh thần nhờ vào sự tiến hóa của Linh hồn mà dần dần biểu lộ được nơi vũ trụ bên ngoài này.

Như vậy nhờ có Linh hồn mà con người mới trở nên hữu ngã thức; nhờ có sự tiến hóa cao cấp này (cao nhất có thể đạt được về mặt hình tướng vật chất trong thế giới chúng ta) mà có thể nói là sự sống đang tiến hóa được biểu lộ cao siêu nhất, do đó con người cũng phải là biểu hiện toàn bích nhất của sự biểu lộ định luật đang liên tục tăng trưởng này. Vì có ý chí vốn phát triển nơi con người cái khả năng chọn lựa khiến cho y có thể nói “tôi ắt sẽ” hoặc “tôi ắt sẽ không” (điều này làm cho con người khác với các dạng sinh linh cấp thấp hơn qua chính cái khả năng quyết định hữu ngã thức này, chỉ vì nó gần biểu hiện được thiên tính hơn cho nên nó chứng tỏ được những đặc điểm của tư tưởng, của hành động hồn nhiên vốn đặc trưng cho sự sống tối thượng đang tiến hóa trong vật chất); chỉ vì có tất cả mọi điều đó (nghĩa là có khả năng chọn lựa hai thứ) cho nên con người có trách nhiệm lớn hơn, có một số phận cao siêu hơn hoặc đồi bại hơn. Y có khả năng chọn lựa. Theo qui luật thì ở các dạng sinh linh cấp thấp định luật được áp đặt lên hình tướng và có thể nói là buộc nó phải tuân theo giống như kiểu cưỡng chế; định luật trong thế giới khoáng vật không để cho các nguyên tử khoáng vật được phép chọn lựa; cũng lại trong thế giới thực vật, ta cũng có một định luật cưỡng chế phát triển theo một vài đường lối nhất định mà không có nhiều khả năng đối kháng theo như ta có thể xét đoán; trong thế giới động vật định luật này được gọi là bản năng mà con thú tuân theo và tuân theo liên tục; khi dõi theo thứ tự tổng quát thì khi định luật này đụng chạm tới con người thì nó bèn thay đổi.

Con người là một yếu tố gây mất trật tự trong thiên nhiên mặc dù có nhiều khả năng cao siêu hơn, con người lại gây ra sự bất hòa trong địa hạt định luật; chính vì đã phát triển được ý chí cho nên con người mới có quyền nổi loạn chống lại định luật và có thể nói là khăng khăng chọn luật lệ của riêng mình để chống lại thiên luật trong một thời gian nào đó. Cuối cùng thì thiên luật sẽ đè bẹp y. Bất cứ khi nào con người nổi loạn chống lại thiên luật thì thiên luật sẽ được biện minh qua việc đau khổ mà nó gây ra cho con người; y không thể thực sự phá bỏ được định luật nhưng y có thể gây rối, có thể gây ra sự mất hài hòa, có thể tự ý từ chối đi theo con đường cao siêu nhất và tốt nhất, và cố tình chọn con đường thấp hơn, tồi tệ hơn. Cũng chính vì có khả năng chọn lựa đó cho nên trước mắt y có nhiều khả năng phát triển hơn so với loài khoáng vật, thực vật hoặc động vật. Đó là vì cần có một loại hài hòa cao siêu hơn thì mới khiến cho người ta tự nguyện tuân theo định luật thay vì chỉ là một cổ máy bị định luật thúc đẩy mà không có ý muốn chọn lựa điều cao siêu hơn một cách tự nguyện; vì vậy con người ở một vị thế đặc biệt: y có thể sa đọa xuống thấp hơn cả loài thú, nhưng y cũng có thể vươn lên vô cùng cao siêu hơn. Vì thế y có trách nhiệm phải rèn luyện bản chất thấp hèn, giáo dục bản chất thấp hèn, có thể nói là dần dần uốn nắn thế gian thành ra các dạng thực thể cao siêu hơn và các loại hình sinh hoạt cao cả hơn. Và bất cứ nơi nào mà con người đi tới thì y phải là bạn tất cả, phải trợ giúp tất cả, phải yêu thương tất cả. Biểu hiện bản chất yêu thương của mình trong sinh hoạt hằng ngày, mang lại cho mỗi tạo vật thấp kém hơn mình chẳng những là sự kiểm soát vốn có thể được dùng để giáo dục chúng, mà còn là tình thương vốn có thể được dùng để nâng cao sinh linh hạ đẳng đó trên giai tầng hiện hữu.

Vậy thì ta hãy áp dụng cái nguyên lý địa vị của con người trên thế gian, là một vị phó vương theo nghĩa rất thực, là một nhà cai trị và bậc quân vương của thế gian, nhưng với khả năng hoặc là một vị hôn quân hoặc là một vị minh vương, y phải chịu trách nhiệm với toàn thể vũ trụ về việc sử dụng quyền lực đó. Ta hãy xét con người liên quan với loài thú hạ đẳng theo quan điểm này. Rõ ràng là nếu ta phải xem xét y theo lập trường này thì việc giết thú vật để thỏa mãn cho riêng mình tức khắc là không chính đáng. Y không được sống lẫn lộn với những sinh linh đang hạnh phúc trong rừng để mang tới đó nỗi khốn khổ sợ sệt, khủng khiếp và hoảng loạn bằng cách mang lại sự hủy diệt ở bất cứ nơi đâu mà y đi đến; y không được vũ trang bằng móc câu và súng săn cùng với những vũ khí khác mà y có thể chế tạo ra, nên nhớ rằng chỉ nhờ vào cái trí đang phát triển bên trong y. Việc làm bại hoại những khả năng cao siêu của cái trí đã khiến cho y trở thành kẻ thù gây giết hại các sinh linh hữu tình khác vốn đang chia xẻ thế giới với y. Y dùng cái trí thay vì để trợ giúp và thuần dưỡng các loài thấp kém hơn mình thì lại mang tới cho chúng cái dạng mới mẻ khốn khổ và năng lượng hủy hoại theo đủ mọi hướng. Khi bạn thấy một người sống giữa loài thú hạ đẳng thì chúng bèn chạy trốn, vì kinh nghiệm đã dạy cho chúng gặp gỡ một con người có nghĩa là ra sao. Nếu y tới một nơi nào còn hoang dã trên thế giới khi bước chân loài người hiếm khi đặt tới đó thì y ắt thấy loài thú không sợ hãi và thân thiện, y có thể sống lẫn lộn trong đám thú đó và chúng không né tránh trong việc tiếp xúc với y. Bạn sẽ đọc những bài tường thuật của những nhà lữ hành đã đi tới một xứ nào đó mà trước nay con người chưa thâm nhập tới thì bạn sẽ biết rằng y có thể sống lẫn lộn với các đàn chim và những sinh linh khác như những người bạn sống chung với nhau. Chỉ khi y bắt đầu lợi dụng sự tin cậy đó để triệt hạ chúng thì lúc bấy giờ do kinh nghiệm của điều mà sự hiện diện của con người có ý nghĩa như thế nào, chúng mới học được bài học không tin cậy, sợ hãi và trốn chạy con người. Vì thế ở mọi xứ văn minh, nơi đâu có con người dù là ở đồng ruộng hoặc nơi rừng rậm thì mọi sinh linh đều trốn chạy khi nghe thấy y bước chân tới. Y không còn là người bạn của mọi sinh linh nữa mà chỉ là kẻ mang lại sự khủng khiếp và cảnh giác cho nên chúng mới trốn chạy y.

Thế nhưng có một số người đã tỏa ra tinh thần bác ái manh mẽ đến nỗi mà các sinh linh trên cánh đồng và rừng rậm bao quanh họ bất cứ nơi đâu mà họ đi tới, chẳng hạn như thánh Francis ở Assisi (nghe đâu khi ngài đi dạo trong rừng thì bầy chim bay về phía ngài và đậu trên thân hình ngài vì chúng cảm thấy tình thương toát ra xung quanh ngài mạnh mẽ đến nỗi giống như một vầng hào quanh bất cứ nơi đâu mà ngài đi tới). Như vậy ở Ấn Độ bạn cũng ắt thấy hết người này đến người khác cũng có tinh thần bác ái và từ bi đó, dù ở trong rừng thưa hay ở trong rừng thẳm, ở trên núi hay ở sa mạc, thì hai người này cũng có thể đi đến bất cứ nơi đâu và ngay cả những con thú hoang cũng không dám đụng chạm đến họ. Tôi có thể kể cho bạn nghe câu chuyện về những đạo sĩ yoga ở đó vốn vô hại về mọi hành vi, tư tưởng và sinh hoạt, họ sẽ băng qua những rừng rậm nơi loài cọp đang ngồi xổm và con cọp đôi khi sẽ chạy đến nằm dưới chân họ, liếm chân họ vô hại như một con mèo con khi đứng trước tinh thần bác ái đó. Và thế là ngài có thể sống được với vạn vật. Ta cũng có thể được như vậy nếu ta là bạn thay vì là kẻ thù của mọi thứ. Mặc dù thế thật ra thì giờ đây ta phải mất nhiều thế kỷ mới hóa giải được điều độc ác của một quá khứ đẩm máu. Thế nhưng ta vẫn có thể hóa giải được, có thể tạo ra tình thân hữu để cho mỗi người nam nữ trên cuộc đời này đều thân hữu với các loài vật cấp thấp, đều đóng góp vào kho tình thương trên thế giới để rồi cuối cùng chế ngự được vạn vật thân thiện với mình.

Ta hãy chuyển từ bổn phận của con người là một đấng quân vương của thế gian sang điều kế tiếp trong Thông Thiên Học cấm sát sinh. Một số các bạn có thể biết cái bộ phận trong giáo huấn của chúng tôi cho rằng cõi hồng trần được xuyên thấu và bao bọc bởi một cõi vật chất tinh vi hơn mà chúng tôi gọi là “cõi trung giới”. Điều này nghĩa là cái loại vật chất tinh vi (mà ta có thể gọi là ether nếu bạn quen thuộc hơn với tên gọi này) đặc biệt cũng có trụ sở của riêng mình, trong thế giới đó có phản chiếu và ghi lại hình ảnh những gì diễn ra trên cõi vật chất; các tư tưởng cũng có hình ảnh trên đó, cũng như các hành động được phản chiếu trên đó, cõi trung giới này ở giữa cõi vật chất và cõi tư tưởng. Cõi tư tưởng vốn chứa đầy tư tưởng của con người phóng những năng lượng mạnh mẽ xuống cõi trung giới; chúng tạo ra hình ảnh nơi cõi trung giới rồi phản tác động lên cõi hồng trần. Những “nhà thông linh” thường cảm nhận được điều này khi y bước vào một sảnh đường đặc biệt, một căn nhà, một đô thị nhờ vào một sự cảm thọ tinh vi mà có lẽ y không thể giải thích được, y có thể nói cho bạn biết một điều gì đó về đặc trưng tổng quát của bầu không khí thuộc căn nhà đó, sảnh đường đó hoặc đô thị đó: đối với y liệu nó là thanh khiết hay ô uế; liệu nó có tính cách thân hữu hay thù nghịch; liệu nó tác động lên y một ảnh hưởng lành mạnh hay kỳ đà cản mũi. Một trong những cách khiến cho bạn có thể nhận ra được tác động của cõi trung giới này là việc liên kết nó với tư tưởng của mình, cũng như khoa học đang bắt đầu liên kết ether với mọi dòng từ điển và mọi tác động của điện. Chẳng hạn như bạn hãy xét tác động của một người diễn thuyết đối với một đám đông. Điều này còn tùy thuộc vào sự hiện diện của cái loại vật chất tinh vi mà các lực từ điển tác động trong đó sao cho một câu thốt ra chứa đầy từ điển của nhà diễn thuyết có tác động lên những người chính tai nghe những lời đó khác hẳn khi họ đọc cũng câu nói đó một cách thản nhiên (tạm gọi như vậy) qua báo chí hoặc sách vở. Tại sao lại như thế? Bởi vì lực của người diễn thuyết có được hình dạng trong vật chất tinh vi vốn là môi trường ở giữa người này và thính giả bèn khiến cho nó phập phồng rung động; từ điển của y cấp năng lượng cho nó, biến nó thành những làn sóng đập vào vật chất tương tự trong các hạ thể của thính giả và làn sóng này băng ngang qua sảnh đường, rung động của chỉ một tư tưởng thôi cũng nhất thời khiến cho mọi người hiện diện ở đó đều cảm thấy được quyền năng của nó mặc dù sau đó họ không còn có như thế nữa. Khi nói chuyện với mọi người (ở đây tôi có ý muốn nói diễn thuyết trên một diễn đàn) cứ xảy đi xảy lại trường hợp khi lực từ điển đủ mạnh thì bạn sẽ lôi cuốn những người mà bạn đang nói chuyện với; mặc dù họ có thể không đồng ý với những lập luận mà bạn đang nêu ra, song bạn lại thấy một người nào đó vỗ tay như điên loạn để tán thưởng cái người mà bạn biết vốn đối lập về tư tưởng với điều mà bạn đang diễn tả. Khi ngày hôm sau gặp lại y, bạn ắt thấy y đâm ra rất giận dữ với chính mình vì nhất thời đã để cho mình bị lôi cuốn như thế. Điều gì gây ra sự việc này? Đó chính là sự đồng cảm về từ điển, đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu đã biến ether thành ra những làn sóng đập vào y cũng như vào những người khác khiến cho cả cơ thể lẫn bộ óc của y đáp ứng với những rung động đó và thế là trong nhất thời y bị quyền năng từ điển của người diễn thuyết khống chế.

Thế mà ta chỉ xét điều này là một sự minh họa để cho bạn hiểu ngụ ý của tôi về cái loại vật chất cõi trung giới này và cách thức mà nó bị những dòng từ điển kích thích cho rung động; tạm thời ta hãy nghĩ tới loại vật chất trung giới này theo quan điểm Thông Thiên Học đang xuyên suốt và bao quanh thế giới ta; thế rồi ta hãy nghĩ tới một lò sát sinh. Nếu có thể bằng cách tưởng tượng (trường hợp bạn may mắn không chính mắt thấy được điều đó) bạn hãy cố gắng ước lượng một điều gì đó đầy đam mê và xúc động được kích hoạt trên cõi đó không phải vào lúc người đồ tể đang sát sinh (tôi sẽ bàn tới y sau) nhưng mà là nơi những con thú đang bị giết! Hãy lưu ý tới sự khủng khiếp mà chúng trải qua khi chúng đánh hơi được mùi máu. Hãy xem sự khốn khổ, sự sợ hãi và hoảng sợ mà chúng phấn đấu để né tránh ngay cả việc quay ngoắc lại khỏi chỗ mà chúng bị thúc đẩy đi tới! Nếu bạn có can đảm thì bạn cứ đi theo chúng thẳng tuột vào trong lò sát sinh xem chúng bị giết ra sao để rồi bạn lại tưởng tượng thêm một chút nữa (nếu bạn có khả năng tinh vi cảm nhận được những rung động của trung giới, nhìn thấy và ghi nhớ được những điều mình trông thấy) những hình ảnh khiếp đảm, sợ hãi và kinh khủng khi sự sống đột nhiên bị cướp đoạt ra khỏi cơ thể và hồn thú hãi hùng khủng khiếp thoát ra nhập vào cõi trung giới để vẫn còn ở lại đó trong một thời gian đáng kể trước khi nó phân ly và diệt vong. Nên nhớ rằng ở bất cứ nơi đâu mà sự sát sinh này tiếp diễn thì ở nơi đó còn tạo thành một tụ điểm cho mọi thứ xúc động khủng khiếp và sợ hãi vốn phản tác động lên cõi vật chất, phản tác động lên tâm trí con người khiến cho bất cứ người nào nhạy cảm thông linh khi đi tới gần chỗ đó đều nhìn thấy và cảm thấy những rung động khủng khiếp ấy, đau khổ vì những rung động đó và biết được chúng xuất phát từ đâu.

Thế mà giả sử rằng bạn đi tới Chicago (tôi dùng minh họa này vì đó là nơi bản thân tôi đặc biệt có chú ý tới tác động nêu trên), như bạn biết Chicago chủ yếu là một đô thị sát sinh, tôi giả sử rằng đây là đô thị mà người ta có những dàn xếp tinh xảo nhất để giết những con thú bằng những dụng cụ tinh vi nhất mà con người đã chế ra được, nơi đây người ta phần lớn là dùng máy móc để sát sinh và hết tuần này sang tuần khác người ta đã sát hại hằng hà sa số sinh linh. Không ai ít nhiều có sự nhạy cảm thông linh (chứ đừng nói bất cứ người nào nhờ rèn luyện đã khơi hoạt được một số giác quan nội giới) đi qua chẳng những Chicago mà còn trong phạm vi hằng dặm cách xa Chicago, mà lại không có ý thức về một sự trầm cảm sâu sắc giáng xuống mình, có thể nói là một ý thức né tránh sự ô uế, một ý thức sợ sệt mà thoạt tiên không thể nhận ra được rõ rệt và cũng không xác định được ngay nguồn gốc của nó. Thế mà ở đây tôi chỉ nói điều mà chính mình biết. Chuyện xảy ra là khi tôi đi tới Chicago, tôi đang đọc sách báo vì đây là thói quen của tôi trong khi đi xe lửa; thậm chí tôi cũng chẳng biết rằng mình đang đi tới cách xa thị trấn này một khoảng đáng kể (vì nơi chốn này rộng lớn đến nỗi nó trải xa ra nhiều hơn mức một người xa lạ có thể tưởng tượng được, và phải mất nhiều thời gian hơn để tới được trung tâm của nó hơn mức mà người ta có ý niệm được) thì thình lình khi đang ngồi trên xe lửa tôi có ý thức được một cảm giác đè nén giáng xuống tôi; thoạt đầu tôi không nhận ra được nó khi túa ra tư tưởng bất cứ nơi đâu để dò xét ngoại trừ hướng về phía thành phố; nhưng thành phố nổi bật lên khiến cho tôi cảm thấy mạnh mẽ đến nỗi tôi bắt đầu nhìn về hướng đó và cố gắng thăm dò xem điều gì xảy ra kết quả nêu trên; và chẳng bao lâu sau tôi tìm ra lý do của điều này khi tôi sực nhớ ra rằng mình đang tiến gần tới lò sát sinh lớn của nước Mỹ. Dường như thể người ta bước vào bên trong một bức màn vật thể đen tối và khốn khổ, có thể nói là kết quả thông linh thuộc cõi trung giới đó là bức màn che phủ lên trên thành phố lớn lao này. Và tôi xin nói với bạn đối với những người chẳng biết gì về cõi vô hình, thì việc thường xuyên sát sinh ắt có một khía cạnh rất nghiêm trọng ngoài mọi vấn đề khác mà ta có thể đưa ra để soi sáng cho nó; đó là vì việc liên tục dội xuống những ảnh hưởng từ điển sợ sệt, khủng khiếp, giận dữ, đam mê và báo thù tác động lên những người chịu ảnh hưởng của chúng và có khuynh hướng làm thô trược, làm thoái hóa, làm ô nhiễm. Chẳng những cơ thể bị ô uế do thịt súc vật mà những lực tinh vi trong con người cũng rơi vào tầm ảnh hưởng của sự ô nhiễm này; và rất nhiều khía cạnh thô trược của sinh hoạt đô thị, khía cạnh thô trược của cuộc sống những người có dính dáng tới việc sát sinh đều trực tiếp bắt nguồn từ sự phản ánh này của cõi trung giới và toàn bộ sự phản kháng khủng khiếp này xuất phát từ sự sống thoát ra khỏi những con vật bị hạ sát.

Tôi xin nói rằng điều này vốn bất chấp những người sát sinh. Nhưng liệu chúng ta có thể không xét tới họ khi chúng ta bàn tới vấn đề ăn thịt hay chăng? Rõ ràng là cả bạn lẫn tôi đều không thể ăn thịt nếu chúng ta không hoặc là tự giết con vật hoặc là khiến người khác làm việc đó cho ta; vì vậy chúng ta trực tiếp chịu trách nhiệm về bất kỳ số lượng thoái hóa nào trong tính cách đạo đức của con người mà chúng ta đã đùn cho họ việc sát sinh vì chúng ta quá tế nhị và thanh bai nên không tự mình làm điều đó được. Bây giờ ta hãy xét trường hợp kẻ sát sinh. Tôi giả sử rằng chẳng ai phải tranh cãi khi đó là một dạng công việc mà bản thân y rất vui vẻ đảm nhiệm, còn nếu y là một người nam hoặc nữ có giáo dục hoặc thanh bai thì tôi cũng chẳng biết tại sao người ta lại bỏ qua phụ nữ do họ phần lớn cũng tham gia vào việc ăn thịt. Tôi giả định rằng rất ít người nam nữ sẵn lòng đi bắt hoặc là con cừu hoặc là con bò rồi tự mình hạ sát con vật để có thể ăn thịt nó được. Họ thừa nhận rằng việc này có một tác dụng làm thô trược nào đó đối với người thi hành. Điều này đúng đến nỗi trong luật pháp có thừa nhận rằng chắc chắn là ở nước Mỹ (tôi chẳng biết luật lệ của nước này có giống như ở đây chăng?) không một người bán thịt nào được phép ngồi ở ghế bồi thẩm trong một phiên tòa xử vụ án sát nhân. Y không được phép tham gia vào một vụ xét xử như thế vì người ta cho rằng việc y liên tục tiếp xúc với sự sát sinh ít nhiều làm cùn nhụt đi sự nhạy cảm của y về vấn đề đó sao cho trong tất cả các tiểu bang, không một người nào hành nghề bán thịt lại được phép tham gia vào bồi thẩm đoàn trong một phiên tòa xử tội sát nhân. Luật lệ này không chỉ giới hạn vào nước Mỹ mà như tôi có nói, tôi chẳng biết luật lệ ở nước Anh có như vậy chăng. Có một điều rất rõ ràng và xác định: nếu bạn đi tới một thành phố như Chicago, và nếu bạn xem xét lớp người sát sinh ở đó, thì bạn ắt thấy rằng số tôi ác bạo lực ở lớp ngưới này lớn hơn bất kỳ lớp người nào khác trong cộng đồng; họ dùng con dao thường xuyên hơn và người ta đã quan sát được điều này. Bây giờ tôi xin nói những sự kiện mà tôi thu thập được ở Chicago; người ta đã quan sát thấy rằng việc sử dụng con dao này được đánh dấu bởi một đặc điểm nổi bật nghĩa là cú thọc dao trong cơn giận dữ của những kẻ sát sinh lão luyện này hầu như bao giờ cũng gây chết người, vì theo bản năng họ đã đặc biệt có được cú thọc dao quen tay mà họ liên tục tập nhiễm trong việc hằng ngày giết hại những con thú hạ đẳng. Thế mà ở Chicago việc này được coi là sự thật, nhưng dường như trong tâm trí của người ta nó không hàm ý bất kỳ trách nhiệm đạo đức nào qua việc họ chia xẻ cơ tiến hóa của loài người rất khó chịu này. Toàn thể vấn đề sát sinh ở thành phố ấy và ở bất kỳ nơi nào khác nữa là như thế.

Liệu có bao giờ bạn hiểu ra được một qui tắc trong luân lý theo đó bạn không có quyền vì lợi ích của riêng mình mà đùn đẩy cho người khác một nhiệm vụ bạn không sẵn sàng thi hành? Mọi mệnh phụ tế nhị và thanh bai trong một lúc nào đó đều tự hào về sự tế nhị và thanh bai của mình cho nên họ né tránh bất kỳ ý niệm nào chẳng hạn như đi uống trà với một người bán thịt cho đến mức chắc chắn mạnh mẽ phản đối ý tưởng việc y bước vào phòng khách của mình để hoàn toàn tránh khỏi ý tưởng mình có giao tiếp với một loại người như thế. “Bạn biết đấy, y thật là thô kệch và khó chịu”. Đúng vậy, nhưng tại sao thế nhỉ? Để cho mình có thể ăn thịt, để cho mình có thể thỏa mãn những thèm khát, bà ta đã đùn đẩy cho người khác cái sự thô trược hóa và sự tàn bạo hóa mà bản thân bà né tránh vì sự thanh bai của mình, trong khi để thỏa mãn những thèm khát của chính mình bà lại hưởng thụ những kết quả của việc tàn bạo hóa đồng loại của mình. Thế mà tôi xin đánh bạo đề nghị rằng nếu người ta muốn ăn thịt thì người ta nên chính mình giết thịt thú vật chứ không có quyền làm bại hoại những người khác qua cái công việc thuộc loại đó. Họ cũng được bảo rằng nếu họ không làm thế thì kẻ sát sinh vẫn cứ tiếp tục giết thịt. Đó không phải là cách để né tránh trách nhiệm đạo đức. Mỗi người ăn thịt đều chia xẻ việc làm cho đồng loại của mình bị thoái hóa; cá nhân y phải chia xẻ trách nhiệm đó. Vì nếu thế giới này là một thế giới pháp quyền, nếu ta có được luật pháp chẳng những trên cõi trần mà còn trên cõi trí tuệ, đạo đức và tâm linh nữa thì mọi người chia xẻ trách nhiệm trong tội ác cũng phải chia xẻ sự trừng phạt bám theo gót tội ác đó. Và như vậy bản chất của chính y cũng bị tàn bạo hóa do sự tàn bạo mà y khiến cho cần thiết do việc y chia xẻ những kết quả bắt nguồn từ đó.

Có một điều khác mà thiên hạ phải chịu trách nhiệm ngoài trách nhiệm đối với lớp người sát sinh ra. Họ chịu trách nhiệm về mọi loại đau khổ xuất phát từ việc ăn thịt vốn là tất yếu do việc dùng loài vật hữu tình làm thực phẩm; chẳng những là sự khủng khiếp của lò sát sinh mà còn là sự khủng khiếp sơ bộ của việc vận chuyển bằng đường xe lửa, bằng tàu thủy và bằng tàu chạy máy; mọi sự đói khát, sự khốn khổ kéo dài do sợ hãi mà những tạo vật bất hạnh này phải trải qua để thỏa mãn sự thèm khát của con người. Nếu bạn muốn biết một điều nào đó về vấn đề này, bạn hãy xuống đây xem những tạo vật đó được lôi ra khỏi một vài con tàu thì bạn ắt thấy sự sợ hãi, sự đau khổ nổi bật lên trên khuôn mặt của những tạo vật hạ đẳng này. Tôi xin nói bạn không có quyền gây ra điều đó, không có quyền tham gia vào việc đó, mọi sự đau khổ như vậy đều đóng vai trò tiền án kết tội loài người, làm chậm trễ và trì hoãn toàn thể sự tiến bộ của loài người vì bạn không thể tách rời khỏi thế giới bằng phương thức đó, bạn không thể tự cô lập mình và tiếp tục tiến hóa trong khi bạn đang dẫm đạp lên những người khác. Những người mà bạn dẫm đạp lên làm trì trệ sự tiến bộ của chính bạn. Nỗi khốn khổ mà bạn gây ra có thể nói chính là vũng lầy bám lấy xung quanh gót chân bạn khi bạn muốn thăng tiến; vì chúng ta phải cùng nhau thăng lên hoặc cùng nhau chìm xuống, và mọi sự khốn khổ mà chúng ta giáng cho các sinh linh hữu tình đều làm trì trệ sự tiến hóa của loài người, khiến cho nhân loại tiến chậm hơn hướng về lý tưởng mà nó đang tìm cách thực hiện.

Khi xem xét điều này theo một quan điểm rộng rãi, chúng ta ắt xa rời mọi sự lập luận vụn vặt gây ra sự bàn cãi, xa rời mọi thắc mắc liệu việc ăn thịt có cung cấp đủ chất dinh dưỡng hay chăng, liệu nó có giúp ích gì cho cơ thể con người hay chăng và ta có một lập trường căn bản mà vững chắc: không một điều gì ngăn cản sự tăng trưởng và tiến bộ của thế gian, không một điều gì thêm vào sự đau khổ của nó, không một điều gì làm gia tăng sự thống khổ của nó, không một điều gì cản trở việc nó tiến hóa lên cái dạng sinh linh cao cấp hơn mà lại có thể có lý do biện minh chính đáng, cho dẫu ta có thể chứng minh rằng cơ thể con người sẽ tăng thêm sự sung sức bằng cách đi theo con đường đó. Điều này khiến cho chúng ta có được một lập trường hùng mạnh để lập luận. Lúc bấy giờ nếu muốn, bạn có thể tiếp tục lập luận rằng sự sung sức của thể xác không cần tới những loại thực phẩm này; nhưng tốt hơn là tôi muốn có một lập trường vững chắc dựa trên một nền tảng cao hơn: đó là sự tiến hóa có bản chất cao cấp ở mọi nơi và sự hài hòa mà con người có bổn phận phải gia tăng và cuối cùng làm cho hoàn hảo trên thế giới.

Về tất cả những điều này, bạn có thể lưu ý là tôi đã lập luận có thể nói là bất chấp cá nhân người ăn thịt; do đó tôi không khuyến cáo người ta kiêng thịt để cải thiện cá nhân, phát triển cá nhân, tăng trưởng cá nhân. Tôi dựa nó trên nền tảng cao siêu hơn là bổn phận, từ bi, vị tha vốn là những đức tính cốt yếu đánh giá sự tiến hóa cao siêu của thế giới. Nhưng chúng tôi cũng không có quyền quay sang cá nhân để xem tác dụng lên cơ thể mình, lên tâm trí mình, lên sự tăng trưởng tâm linh mà vấn đề ăn thịt hoặc kiêng ăn thịt có dính dáng tới. Và nó có một tác dụng rất thực. Điều này hoàn toàn đúng đối với cơ thể khi bạn coi nó là một công cụ của cái trí, khi bạn coi nó là điều phải phát triển thành ra một công cụ của Tinh thần; hoàn toàn đúng khi bất kỳ loại thực phẩm nào đặc biệt mà bạn chịu trách nhiệm cung cấp cho thể xác đều là một vấn đề rất quan trọng. Và ở đây Thông Thiên Học xuất hiện bảo rằng: Cái cơ thể mà Linh hồn ở trong đó là một sự vật cực kỳ phù du, nó được cấu tạo bởi những hạt nhỏ li ti, mỗi hạt là một sinh linh và những sinh linh này thường xuyên biến đổi, thường xuyên chuyển từ cơ thể này sang cơ thể khác sao cho bạn có được có thể nói là một luồng lớn lao các hạt đi từ cơ thể này sang cơ thể khác và khi giáng xuống đó ảnh hưởng tới mọi cơ thể này cả về mặt tốt lẫn mặt xấu. Nên nhớ rằng khoa học cũng đạt tới mức nhận ra điều đó là sự thật. Khi nghiên cứu bệnh tật, khoa học ắt thấy rằng bệnh tật thường xuyên được lan truyền qua những sinh thể nhỏ li ti mà khoa học gọi là vi trùng; nó còn chưa thấy rằng trọn cả cơ thể được cấu tạo bởi những sinh linh nhỏ xíu vốn xuất hiện và biến mất trong mỗi giờ sinh hoạt của ta, nó xây dựng cơ thể của ta ngày hôm nay rồi cơ thể của một người nào khác nữa ngày mai, liên tục biến đi rồi lại xuất hiện. Một sự hoán đổi thường xuyên tiếp diễn giữa những cơ thể của đàn ông, đàn bà, thú vật, trẻ con v.v. . .

Bây giờ giả sử trong một lúc ta xét thử cơ thể theo quan điểm này, rồi lại nữa trước hết ta sẽ thấy trách nhiệm của mình đối với đồng loại. Những sinh linh nhỏ xíu xây dựng cơ thể bạn ắt khoác lấy dấu ấn mà bạn đóng lên lên chúng trong khi chúng thuộc về bạn, bạn cấp dưỡng cho chúng và điều này ảnh hưởng tới đặc trưng của chúng; bạn cung cấp cho chúng thực phẩm tinh khiết hoặc ô nhiễm; bạn đầu độc chúng hoặc làm cho chúng khỏe mạnh; và khi bạn cấp dưỡng cho chúng, chúng thoát ra khỏi từ bạn mang tới những cơ thể của người khác các đặc trưng mà chúng thu lượm được trong khi còn sống do bạn chịu trách nhiệm; sao cho điều mà một người ăn uống, không phải chỉ là một vấn đề của riêng y thôi mà là của trọn cả cộng đồng trong đó con người là một thành phần; bất cứ người nào khi ăn hoặc uống mà không chú ý để được thanh khiết, tự chế và điều độ đều trở thành một tụ điểm điều xấu ác về mặt thể chất ở nơi mình đang cư trú, có khuynh hướng đầu độc những huynh đệ của mình khiến cho sinh lực của họ ít thanh khiết hơn mức lẽ ra nó đạt được. Ở đây ta mới thấy trách nhiệm lớn lao của việc ăn thịt, uống rượu. Rõ ràng là bản chất của thực phẩm ảnh hưởng rất nhiều tới thể xác và có thể nói là cung cấp cho thể xác việc toát ra một đức tính nào đó. Thế mà những đức tính vốn ở nơi Linh hồn, nhưng chúng được biểu lộ qua bộ óc và cơ thể; vì vậy vật liệu cấu thành bộ óc và cơ thể là một vấn đề rất quan trọng. Đó là vì cũng như ánh sáng chiếu soi qua một cửa sổ màu ắt đi xuyên qua nó bị nhuốm màu chứ không còn trắng nữa, cũng vậy những đức tính của Linh hồn hoạt động thông qua bộ óc và cơ thể ắt cũng tiếp thu một điều nào đó trong tính chất của bộ óc và cơ thể, biểu lộ tình trạng của mình qua những đặc trưng của cả bộ óc lẫn cơ thể đó.

Thế mà giả sử là bạn hãy quan sát trong một lúc nào đó một số loài vật hạ đẳng liên quan tới thực phẩm của chúng thì bạn ắt thấy rằng tùy theo chúng ăn cái gì mà chúng biểu lộ những đặc trưng giống như cái đó. Thậm chí nếu bạn xét một con chó thì bạn ắt thấy rằng con chó đó hoặc là hiền hoặc là dữ tùy theo bản chất của thực phẩm mà bạn cung cấp cho nó. Thế mà trong khi hoàn toàn đúng là con thú này chịu sự kiểm soát của thể xác nhiều hơn con người thì cũng hoàn toàn đúng là con thú đó vốn nhạy bén với những ảnh hưởng bên ngoài nhiều hơn con người, vì con người có ý chí tự quyết mạnh hơn. Thế nhưng cũng đúng là vì con người có một cơ thể và chỉ có thể hoạt động thông qua cơ thể đó trong thế giới vật chất, cho nên y khiến cho nhiệm vụ của mình hoặc là khó hơn hoặc là dễ hơn đối với những đức tính của Linh hồn. Tùy theo bản chất của khí cụ thể xác mà Linh hồn đó bắt buộc phải sử dụng khi nó biểu lộ nơi ngoại giới. Và nếu khi cấp dưỡng cho cơ thể thì y cũng cấp dưỡng cho những sinh linh nhỏ bé cấu tạo nên nó bằng những thực phẩm gây ra tác động là những đam mê của loài thú hạ đẳng và bản chất thấp hèn; lúc bấy giờ y tạo ra một cơ thể thô trược hơn và nhiều thú tính hơn, dễ đáp ứng hơn với những thôi thúc của thú tính và khó đáp ứng với những thôi thúc cao siêu của cái trí. Đó là vì khi y dùng vật liệu xây dựng nên cơ thể mình là những sinh linh bé nhỏ thuộc cơ thể của loài thú hạ đẳng, thì do đó y cung cấp cho Linh hồn mình một hiện thể dùng làm công cụ rung động dễ dàng nhất theo các sự thôi thúc của thú tính. Liệu điều đó có dễ dàng chăng cho việc thăng tiến sự thanh khiết về tư tưởng? Liệu việc kiểm soát những đam mê của thể xác có đủ khó khăn chăng?

Liệu có khó khăn chăng khi tiết độ về thực phẩm, thức uống và mọi sự thèm khát về thể xác? Liệu Linh hồn có một nhiệm vụ đủ khó khăn chăng khi ta làm cho nhiệm vụ nó khó khăn hơn qua việc làm ô nhiễm khí cụ mà nó phải hoạt động thông qua đó, và cung cấp cho nó vật liệu không đáp ứng với những sự thôi thúc tinh vi song lại đáp ứng dễ dàng với mọi đam mê hạ đẳng của bản chất thú tính mà Linh hồn bị ràng buộc vào đó? Thế rồi khi bạn nhớ rằng bạn bỏ qua nó, khi bạn ăn thịt, do đó tăng cường những đam mê hạ đẳng đầy thú tính thì bạn đang in lên những phân tử của cơ thể chính mình quyền năng đáp ứng như thế, chắc chắn bạn phải rèn luyện và tinh luyện cơ thể mình, có thể nói là không liên tục giúp cho nó cứ đáp ứng mãi với những rung động thuộc về giới động vật này. Và khi bạn làm như vậy bạn gửi chúng ra ngoài làm đại sứ của mình đối với những người đồng loại, khiến cho nhiệm vụ của họ cũng khó khăn hơn chẳng kém gì nhiệm vụ của chính bạn qua việc rèn luyện những sinh linh nhỏ bé này nghiêng về điều ác chứ không phải điều thiện; như vậy nhiệm vụ của mọi người phấn đấu hướng thượng cũng trở nên khó khăn hơn do sự gia tăng những phân tử rung động theo những đam mê thấp hèn. Và trong khi điều này đúng một cách khủng khiếp nhất đối với việc uống rượu (nó đóng vai trò một chất độc hoạt động túa ra từ bất cứ người nào uống rượu), nó cũng đúng đối với việc thú vật hóa cơ thể con người thay vì linh hồn hóa và tâm linh hóa cơ thể đó; chúng ta đang giữ cho bình diện của loài người thấp hơn qua việc thường xuyên làm thoái hóa bản ngã đầy thú tính.

Vậy thì khi bạn chợt nghĩ đến sự tiến hóa của Linh hồn nơi bản thân, đâu là mục đích của cuộc đời bạn? Tại sao bạn ở đây? Bạn đang sống vì cái gì? Chỉ có một điều biện minh cho cuộc sống của con người, chỉ có một điều đáp ứng với mọi thứ cao thượng nhất nơi bản thân khiến cho y có được ý thức thỏa mãn vì đã hoàn thành nhiệm vụ; đó là khi biến cuộc đời mình thành một sự thường xuyên hiến dâng cho việc trợ giúp thế gian. Và khi mỗi giai đoạn trong cuộc đời y đều được điều tiết sao cho thế gian có thể tốt hơn vì sự hiện diện của y trong đó chứ không tồi tệ hơn. Con người phải chịu trách nhiệm về việc mình sử dụng Linh hồn, tư tưởng và cơ thể trong cuộc đời này. Chúng ta không thể tách mình ra khỏi các huynh đệ, cho dẫu có thể chúng ta cũng không nên muốn làm như vậy vì thế giới này đang chầm chậm leo lên hướng về một lý tưởng thiêng liêng và mọi Linh hồn nhận ra sự thật đều phải góp phần nâng cao thế giới. Bạn và tôi đều hoặc là giúp cho thế giới tiến lên hoặc là kéo cho thế giới rớt xuống ; mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta đều đang cấp cho nó một sức lực để leo lên trên hoặc chúng ta lại là những cái cùm cổ kéo ghì lại sự tăng trưởng thăng thượng đó; mọi Linh hồn chân chính đều muốn trợ giúp chứ không cản trở, ban phúc chứ không giáng họa, thuộc hàng ngũ những kẻ nâng cao thế giới chứ không đứng về phe làm thoái hóa thế giới. Mọi Linh hồn chân chính đều muốn như thế cho dù không phải lúc nào nó cũng đủ mạnh để biến mong ước đó thành hành động. Và liệu chúng ta ít nhất có đặt ra trước mắt mình một lý tưởng là quan niệm trợ giúp cao siêu và tự trách mình bất cứ khi nào mình rớt xuống thấp so với nó hay chăng cho dù đó là việc cấp dưỡng cho cơ thể hay rèn luyện tâm trí?

Đó là vì khi xem xét con người theo minh giải Thông Thiên Học, tôi thấy dường như là mọi thứ cải thiện được cuộc sống đều xứng đáng với việc công tác này của cuộc sống thiêng liêng trong thiên nhiên, nó dần dần uốn nắn thế giới thành ra một hình ảnh cao cả hơn và khiến cho nó càng ngày càng tăng trưởng gần hơn tới một lý tưởng hoàn hảo. Nếu chúng ta có thể khiến cho những người nam nữ thấy được như vậy, miễn là chúng ta có thể khiến cho họ đáp ứng với tư tưởng về một quyền năng như thế bên phía họ, miễn là họ nhận ra được cái sức mạnh thiêng liêng ở nơi họ nhằm góp phần tạo nên thế giới để chia xẻ vào cơ tiến hóa của vũ trụ, nếu họ có thể hiểu ra được rằng thế giới này ở nơi họ, có thể nói là được đặt vào tay họ cho họ chịu trách nhiệm, sự tăng trưởng của thế giới vốn tùy thuộc vào họ, sự tiến hóa thế giới vốn nằm trong tay họ, nếu họ không trợ giúp thì bản thân sự sống thiêng liêng không thể tìm ra công cụ để tác động trên cõi vật chất này; lúc bấy giờ sau nhiều lần vấp ngã nếu họ nhận ra được rằng khuôn mặt mình vẫn hướng về phía trên thì cho dù có rất nhiều lầm lỗi và nhược điểm, họ vẫn xoay chuyển được theo đúng hướng và họ ắt đăm đăm nhìn vào lý tưởng mà họ mong ước thực hiện. Và như vậy có một ý tưởng chủ đạo trong tâm trí và nơi thể xác trong công việc của họ, nơi nội giới đó là thần lực cũng như nơi ngoại giới là hành động: Liệu hành vi và tư tưởng này của tôi có làm cho thế giới tốt hơn hay xấu hơn. Liệu nó có làm thăng tiến thế giới hoặc làm hạ thấp thế giới. Liệu nó có trợ giúp cho đồng loại của tôi hay cản trở đồng loại của tôi. Liệu có thể dùng quyền năng của Linh hồn để nâng cao hay hạ thấp chăng? Nếu tư tưởng đó là lực trung tâm trong cuộc sống thì cho dẫu có quên nó đi hoặc dẫu thất bại, thì Linh hồn vẫn tiếp tục nỗ lực trở lại và không chịu đầu hàng vì nó đã thất bại biết bao lần rồi. Nếu tất cả chúng ta đều có thể làm và nghĩ như thế cũng như thuyết phục người khác làm như thế thì sự phiền não sẽ không còn trên trần thế nữa, tiếng kêu khóc, than thở và sự khốn khổ của kiếp sống hữu tình sẽ giảm đi, lúc bấy giờ con người đã hiệp nhất với thiên luật nên sẽ tỏa tình thương ra cho thế giới và khiến cho nó được hài hòa cao cả hơn. Và mỗi người xoay chuyển theo hướng đó, mỗi người tẩy trược tư tưởng của mình, cơ thể của mình, sự sống của mình đều là một cộng tác viên của sự sống nội giới trên thế gian, và sự phát triển Tinh thần của chính y sẽ là phần thưởng dành cho công trình y thực hiện để trợ giúp thế gian.

Tác giả ANNIE BESANT

Bản dịch Tâm Như - Hè 2006

Nguồn: http://thongthienhoc.com/bai%20vo%20an%20c...0giai%20tth.htm

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay