Thiên_Địa_Nhân

Tết Của Người Việt

2 bài viết trong chủ đề này

Phong tục đón Tết của người Mường

Về trình tự và phong tục, có lẽ Tết của người Mường là gần với Tết của người Kinh nhất.

Dân tộc Mường hiện còn khoảng gần một triệu người, cư trú chủ yếu ở Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú, Sơn La, Thanh Hóa. Trong đó nhiều nhất là ở Thanh Hoá (trên 22 vạn người).

Họ sống hiền hoà trong các thung lũng được khép kín bởi những triền núi đá vôi bao quanh. Mường Bi (Hoà Bình) là một trong những Mường cổ nhất.

Tết đến, xuân về, người Mường rất coi trọng đền thờ Thành Hoàng làng. Việc đầu tiên mà các cụ già trong làng nhắc con cháu phải làm trước Tết là ra đền để dọn dẹp, lau rửa sạch sẽ đồ thờ cúng. Giáp Tết, nhà nào cũng tất bật làm bánh dầy, bánh chưng, đóng oản và trang trí nhà cửa.

Posted Image

Người Mường xưa, không ăn Tết ông Công, ông Táo như người Việt, vì thế Tết bắt đầu từ ngày 27, 28. Đêm 30, tức ngày "chín cối tháng ba" theo lịch của người Mường, tất cả con cháu sẽ tụ tập ở đền thờ để làm lễ "khai sáng".

Lễ này được cúng cả bằng lễ chay và bằng lễ mặn. Lễ chay gồm các loại hoa quả trong vườn, càng nhiều càng tốt, để tổ tiên, thánh thần phù hộ cho mùa xuân mới nhiều lộc, hoa, trái. Lễ mặn gồm oản, gà, thịt, bánh dầy, bánh chưng.

Trước đây, ngày Tết người Mường chỉ ăn thịt lợn, thịt gà chứ không có giò, chả, mọc như người Kinh. Đến thời điểm sang canh thì con cháu tất cả phải ở phía ngoài đền, chỉ có ông Trùm, ông Seo và những người già trong bản mới được vào đền làm lễ. Sau khi lễ ở đền, mọi người ai về nhà nấy đón giao thừa.

Một thủ tục không thể thiếu trong đêm giao thừa của người Mường đó là một lễ cúng ngoài trời gồm một con cá diếc và một cái bánh chay. Sáng ra, lễ này được mang cho con trâu ăn trước, vì họ cũng quan niệm như người Kinh - "con trâu là đầu cơ nghiệp", cho con trâu ăn trước để con trâu đi làm.

Với người Mường, việc thờ cúng ngoài trời rất quan trọng nên trong những ngày Tết nhà ai cũng chuẩn bị cho mỗi thành viên trong gia đình một cây hương để cúng bản mệnh ngoài trời.

Món ăn trong ngày Tết của người Mường từ xưa đến nay không bao giờ thiếu bánh chưng và bánh dầy để biểu hiện trời tròn, đất vuông và cũng là để tưởng nhớ đến ông vua của người Mường là Vua Lang.

Gia đình nhà nào thờ cúng bao nhiêu người thì làm bao nhiêu cái bánh chưng. Trong ba ngày Tết, người ta chỉ tết cha, tết mẹ và tết thầy cúng - những người quan trọng nhất trong quan niệm của họ.

Trong ngày tết của người Mường, có một phong tục đặc sắc mà họ còn lưu giữ được là hát sắc bùa. Đây là một thể loại hát chúc tụng năm mới.

Ngày mùng 1, mùng 2, trẻ con Mường dắt nhau đi hàng đàn, đánh cồng rộn ràng, miệng hát sắc bùa. Đi qua nhà nào thì nhà ấy mở cửa cho trẻ ít tiền hoặc bánh. Trong ngày xuân, hội cồng Mường là hội không thể thiếu.

Posted Image

Đi chơi ngày Tết, người ta mặc những bộ quần áo đẹp nhất. Phụ nữ Mường Bi, Mường Chậm (Hoà Bình) mặc váy đen, áo trắng ngắn, cạp váy to dệt hoa văn trang nhã, đầu quấn khăn màu trắng, áo trắng phủ ra ngoài che một phần cạp váy, lấp ló chiếc yếm dệt hoa văn bên trong.

Ở Mường Thanh Hoá, trang phục đậm đà trầm ấm hơn: khăn chàm thẫm, thêu hoa, áo cánh đủ màu với hai gam chính là xanh nhạt và vàng nhạt và cạp váy thường quấn ra ngaòi áo... Cạp váy với những hoa văn, với những mảng màu bị đập vụn, y phục Mường không có những mảng màu sắc chói chang...

Trong những ngày Tết, nếu chưa được sự cho phép của ông Trùm thì không ai được phép ra đồng làm việc. Đến ngày 7 tháng Giêng là ngày lễ lớn nhất của người Mường, đây là lễ hội "mở mắt cồng, mắt lệnh", lễ hội "xuống đồng".

Từ 5 giờ sáng, người dân trong bản tập trung tại phủ thờ Thành Hoàng. Theo phong tục của người Mường thì trước khi mở hội Cồng Chiêng, làng phải có một thủ tục làm mâm lễ trình với các vị Thánh trong làng.

Mâm lễ bắt buộc phải có một con lợn "non 5 già 3" để làm cỗ vành 3-5-7-9 tính từ trong ra. Mở đầu lễ hội Cồng Chiêng, ông Trùm sẽ có lời trình báo với dân làng rằng: "Lang co le chao khoan".

Sau đó ông Trùm sẽ đánh ba hồi chiêng đầu, sau đó con chá mới được bước vào phủ để làm lễ, và tiếng chiêng kết thúc cũng là lúc kết thúc phần lễ ngày hôm đó...

Ngày nay, phong tục lễ của người Mường cũng có nhiều thay đổi. ở nhiều nơi họ cũng bắt đầu ăn Tết 23 tháng Chạp, cũng mua cá về nhà để thả, việc thờ cúng cũng gọn nhẹ hơn. Nhiều trò chơi dân gian vẫn được tổ chức nhưng cũng có thêm các trò chơi hiện đại thu hút nhiều người tham gia.

(Tổng hợp)

Nguồn: giadinhtoi

Tết của người Thái

Bữa cơm Tết của người Thái có một món không thể thiếu, đó là cá, với các món nướng, chua, khô...

Người Thái ở VN có khoảng hơn 1 triệu người, chủ yếu sống ở Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Nghệ An.

Đối với người Thái nhiều vùng, thường 25 tháng Chạp là phiên chợ cuối cùng, lớn nhất trong năm, sau đó là nghỉ ngơi chơi Tết. Sáng ngày 27 hoặc 28, ông trưởng bản chủ trì tổng vệ sinh cho cả bản.

Tối 29 bắt đầu gói bánh chưng. Người Thái thường gói hai loại bánh chưng màu đen và màu trắng. Để làm bánh màu đen, họ đốt rơm lên, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi sàng sẩy sạch muội tro mà vẫn giữ lại màu đen.

Nhiều nơi không cho nhân bánh. Người ta quan niệm hương vị của Tết ở trong bánh chưng chủ yếu thể hiện ở hương vị của lá dong, và đó cũng là cái chủ yếu để dâng lên tổ tiên (ma nhà).

Sáng 30, các nhà luộc bánh chưng và thịt lợn. Tối 30 là bữa cơm tất niên, có sự góp mặt của bà con, bạn bè, rồi cả đêm người ta thức uống rượu, nhang không bao giờ tắt. Sau lễ cúng giao thừa bằng thịt, bánh, các đồ thổ cẩm, bạc nén..., nhà nào có chiêng hay cồng thì mang ra gõ tại nhà.

Cũng không thể không nhắc tới phong tục gọi hồn của người Thái. Vào tối 28, 29 hoặc 30, gia đình người Thái thịt hai con gà, một để cúng tổ tiên, con còn lại dùng để gọi hồn cho mọi người trong nhà.

Để gọi hồn, thầy cúng lấy của mỗi người một chiếc áo, bó lại một đầu với nhau, vắt lên vai, tay thầy cầm một thanh củi đang cháy, rồi mang ra đầu làng gọi hồn hai ba lần, sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa.

Xong việc, thầy cúng đích thân buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình để trừ tà, sợi chỉ đó phải để tự đứt, nếu dứt đứt thì chủ nhân dễ bị ốm.

Posted Image

Thiếu nữ Thái

Sáng mùng một người Thái dậy sớm, múc nước luộc bánh chưng cho mỗi người uống một ít, có lẽ để phòng đau bụng! Các người nữ trong nhà hôm mùng 1 được đem xôi đã đồ ra quạt ở giữa gian cúng ma nhà (bình thường họ không được 'bén mảng' đến khu vực đó!).

Sau đó người ta dọn ra hai hoặc ba mâm cúng, mâm đặt trên cao là để cúng tổ tiên nhà chồng, còn mâm thấp cúng tổ tiên nhà vợ.

Cúng xong, tất cả con trai trong lui vào để cho phụ nữ ăn trước, và chỉ như thế mỗi ngày mùng 1 thôi. (Hàng ngày, phụ nữ ăn cùng hoặc ăn sau đàn ông). Bữa cơm Tết của người Thái có một món không thể thiếu, đó là cá, với các món nướng, chua, khô...

Người Kinh mùng 1 kiêng đến nhà, nhưng người Thái thì mùng 1 đã đi nườm nượp đến nhà nhau chúc Tết. Họ chỉ kiêng vứt lá dong xuống gậm sàn, kiêng quét nhà vào ngày mùng 1. Tối ngày mùng 1 họ đã làm lễ tạ.

Từ chiều mùng 1, thanh niên bắt đầu đi chơi, và muốn đi chơi đến bao giờ thì đi, đến làng nào ăn uống ở làng ấy, có khi đi đến qua cả mùng 10 mới về. Các trò chơi khá náo nhiệt, gồm đánh cầu lông (cầu lông gà), ném còn; khắc loỏng...

(Theo Vietnamnet)

Share this post


Link to post
Share on other sites

(Tiếp)

Tết Ô ka rế của đồng bào Ca Dong

Người Ca Dong là một nhánh địa phương của dân tộc Xơ Đăng sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy, săn bắt, hái lượm, có nghề dệt thổ cẩm với nhiều mô típ hoa văn trang trí rất đẹp.

Hàng năm, khi mùa đông lùi dần, tiết trời dần trở nên ấm áp báo hiệu mùa xuân lại về, lúa trên rẫy đã thu hoạch xong, phơi khô và đưa hết vào kho, người Ca Dong lại cùng nhau chuẩn bị ăn tết Ố Karế, đón mừng năm mới.

Thời gian ăn tết của mỗi plây (làng) không trùng nhau, nhưng nằm trong khoảng từ cuối tháng 12 đến đầu tháng giêng âm lịch. Người Ca Dong tin rằng đâu đâu quanh họ cũng có những vị thần (Yàng) như: Thần lửa (Yàng Pui), Thần núi (Yàng Kong), Thần Lúa (Mó Pế), Thần Đất (Kará Tơní), Thần Mặt Trời (Kará Mặt hy), Thần Nước (Kará Mo huýt),...

Posted Image

Họ tin rằng chính các vị thần này đã phù trợ, chở che, đùm bọc họ vượt qua mọi hiểm nguy, hoạn nạn, nghèo đói, bệnh tật để người tồn tại và phát triển giống nòi.

Tết Ố Karế là dịp dâng cúng để tạ ơn các vị thần, cầu xin một năm mới an lành, hạnh phúc, mùa màng bội thu. Đây cũng là dịp các thành viên trong mỗi gia đình và cả cộng đồng được ăn uống, nhảy múa, vui chơi sau một mùa nương rẫy gian lao, khó nhọc.

Chuẩn bị ăn tết, người ta nuôi sẵn heo gà, làm cá khô, thịt khô, ủ rượu cần, lên rừng săn chuột, sóc, xuống suối bắt ốc, hái rau rừng...; đàn bà, con gái giã gạo lúa mới, làm bánh; đàn ông dựng nêu, sửa nhà.

Đồng bào Ca Dong vui tết mùa

Nghi thức mang tính cộng đồng và khởi đầu cho tết Ố Karế là dựng cây nêu, làm lễ cúng máng nước (tà reo Yá Co), cầu mong một năm mới no đủ, yên bình. Máng nước tượng trưng cho sự sinh tồn của cộng đồng làng.

Cúng máng nước là một hình thức cố kết các giềng mối, quan hệ, thể hiện sinh động ở việc cả làng góp lễ vật đến cúng và ăn chung ở máng nước, sau đó mới trở về tổ chức cúng bái, ăn uống theo từng nhà.

Người có uy tín nhất trong làng đứng ra làm chủ lễ. Lời khấn của ông cầu xin cho người già, người trẻ, con gái, con trai trong cả làng được khoẻ mạnh, cây lúa trên rẫy nhiều hạt, con heo, con gà sinh nở đầy đàn.

Trong giờ khắc thiêng liêng, chủ làng mời mọi người đến cùng chạm tay vào cây nêu, vừa thể hiện sự tôn kính đối với thần nước, vừa thể hiện ý chí gắn bó, kết đoàn, sẵn sàng cùng nhau vượt qua gian khó.

Chủ làng lại đem một con gà đến cúng Yá Co, cắt tiết gà cho chảy vào máng nước. Những người phụ nữ là chủ của mỗi gia đình dùng ống tre hứng lấy, đem về nấu bánh thiêng.

Ở mỗi nhà, nghi thức quan trọng nhất là lễ cúng bánh thiêng và chia bánh cho các thành viên trong gia đình. Từ sáng sớm, người phụ nữ chủ nhà mang gùi lên rẫy để lấy lúa thiêng đem về gói bánh.

Lúa thiêng được gieo trên một mảnh đất nhỏ gọi là pađăm, trong rẫy riêng của gia đình. Bánh thiêng lớn bằng ngón chân cái, một đầu nhọn, gói bằng lá đót, có nhân làm bằng thịt chim hoặc thịt chuột.

Khi mang lúa thiêng từ rẫy về, người phụ nữ cũng mang theo một khúc gỗ để nấu bánh mà không dùng củi có sẵn ở chòi củi gia đình. Nhà có bao nhiêu thành viên thì người ta gói bấy nhiêu chiếc bánh.

Bánh đã nấu chín được đem làm lễ dâng cúng thần linh, tổ tiên. Cúng xong, chia cho mỗi người một chiếc. Mọi người ngồi quanh cây cột thiêng, cạnh bếp lửa, cùng ăn bánh trong không khí đầm ấm, chan hòa tình cảm yêu thương.

Sau lễ cúng bánh thiêng, cả gia đình lo thịt heo, thịt gà, nấu bánh tét và làm các món ăn khác để tiệc tùng, đãi khách.

Ngày Tết tiếp theo, bắt đầu bằng lễ cúng ở nhà chủ làng, sau đó lần lượt mới đến các gia đình trong plây. Theo phong tục của người Ca Dong, các nóc nhà trong một plây phải ăn Tết cùng một ngày đã được định sẵn.

Họ hàng, bà con ở plây khác khi được mời đến ăn Tết cùng gia chủ, thường mang thêm ít rượu, gạo nếp, thịt, cá khô... để vui cùng gia đình. Tất cả đều sống trong không khí vui tươi, nhộn nhịp.

Sáng sớm, khi mặt trời phía đằng đông vừa chồm qua sườn núi, ánh nắng bắt đầu chạm lên phiến lá đầu làng, người ta trịnh trọng dọn một mâm cúng gồm: một chén rượu, một gói bánh bằng lá dong, một ống xôi nướng trong ống tre, bốn bát cơm mới, một con chuột, một con sóc nướng, một con cá nướng, một đĩa trầu cau cùng một bát than hồng để đốt trầm.

Ngoài những thực phẩm nầy, tục lệ của người Ca Dong nghiêm cấm dùng các loại thịt khác để dâng cúng. Đặc biệt, trên bốn bát cơm mới, đều cắm bốn đôi đũa và bốn lá răm chăm, một loại lá rừng rất được người Ca Dong ưa thích.

Người chủ lễ mặc trang phục truyền thống của người Ca Dong, trên đầu cài một chiếc lá răm chăm… Ông ta khấn vái và mời các thần, ông bà, tổ tiên về dự lễ và ăn tết với cả nhà. Một con gà trống và một con heo còn sống được đặt lên mâm cúng, khấn xong rồi mới đem mổ thịt.

Sau khi đã mổ thịt, lòng gà, lòng heo được luộc chín bày lên giữa mâm, phần thịt sống và đầu heo, đầu gà cùng được đặt lên mâm cúng. Trong khi đang cúng, dân làng kéo đến càng đông cùng ăn Tết, nhà đó càng mừng vì coi đây là một năm may mắn và hạnh phúc.

Họ cùng ăn uống, mời rượu no say, hỏi thăm sức khoẻ, công việc nương rẫy... trong sự đùm bọc, yêu thương của mọi người.

Ngày trước lễ hội Ố karế kéo dài cả tuần. Trong tết có tục “nhảy co” nhảy múa xung quanh bếp lửa, gần chỗ thờ cúng tổ tiên, tung vãi cơm nếp đun trong ống nứa. Khi chiêng trống nổi lên, mọi người ca hát, reo hò, cầu năm mới mùa màng tốt tươi, lúa bắp đầy kho.

Ngày nay, đồng bào ăn tết chỉ trong 3 ngày, tuy nhiên do mỗi plây có một ngày ăn tết riêng trong khung khê ning noong (mùa nhàn việc, lễ hội) nên không khí vui tươi hội hè ở vùng Ca Dong kéo dài, từ làng này sang làng khác, men say hội hè lan tỏa khắp núi rừng.

(Theo quangngai.gov)

TẾT CỦA NGƯỜI GIÁY

Đã là con người, ai cũng nghĩ về bản thân, gia đình mình, nghĩ về người thân, nghĩ về xóm làng, nghĩ về xã hội và nghĩ về thời cuộc, sự kiện… Nhưng nghĩ về ngày tết thì chắc chắn không giống nhau, nhất là giữa các tộc người. Trong 54 dân tộc Việt Nam, dân tộc nào cũng có những phong tục tập quán riêng, đặc biệt là ngày tết.

Đối với người Giáy, một năm có 12 tháng, riêng tháng 11 không có tết, thế mà trong một năm người Giáy vẫn có tới 13 cái tết lớn nhỏ, như vậy 11 tháng trong năm thì tháng nào cũng đều có tết. Có tháng tới 3 cái tết như tháng giêng. Dù cái tết đó chỉ làm bánh phở ăn với một chân giò, hay một con gà, thậm chí có tết chỉ là gói bánh trưng, bánh gio, bánh trôi hay chỉ làm bánh tẻ. Người Giáy tính lịch và gọi các tháng âm lịch trong năm là: Tháng chạp ( tháng12 âm ), tháng tết ( tháng 1 âm ), tiếp đó tháng hai, ba, bốn, năm …Tháng một của năm mới (tháng giêng) thì người Giáy gọi là tháng tết. Vì trong ngôn ngữ người Giáy, ngày tết nguyên đán gọi là “ván siêng”. “Ván” là ngày, “siêng” là tết; ăn tết là “cơn siêng”. Tết nguyên đán người Giáy gọi là “cơn siêng láo”, nghĩa là ăn tết to. Trong tháng giêng, ngoài tết nguyên đán ra còn có tết rằm tháng giêng - “ cơn sịp há” ; tết 30 tháng giêng - “ cơn đáp” ngoài ra còn có tết tháng 3 - “cơn siêng sam”; tết tháng 6 - “cơn siêng róc”; tết tháng 7 “cơn sịp tsỳ”...

Người Giáy có câu hát về tháng giêng:

Đươn siêng đươn dù vàng

Đươn tó tràng tó cú

Đươn tsong dú pú nồi.

Nghĩa là:

Tháng tết tháng nhàn rỗi

Tháng ăn chơi đánh cầu

Tháng phong lưu con trẻ.

Tháng giêng người Giáy gọi là tháng tết. Bởi tết là chơi vui, là nghỉ ngơi, là ăn uống chúc tụng nhau … Tháng giêng là tháng vui chơi, cả tháng nghỉ ngơi và cũng là tháng ăn uống, mời bạn bè, mời khách, ca hát. Vào tháng giêng, tiếng khèn, tiếng trống ngày đêm vang khắp xóm làng, bếp lửa hồng thâu đêm để người già tâm tình, uống rượu kể chuyện đời, chuyện cổ tích …, những đôi trai gái học hát, học thổi khèn, học đánh đàn, kéo nhị, thổi sáo vui với nhau của tuổi xuân.

Tết là vậy, nên người Giáy nghĩ về tết là nghĩ về một tháng vui, một tháng chơi, một tháng hàn huyên xum họp. Người ở nhà, sau rằm tháng chạp là mọi người luôn ngóng trông người thân đang ở xa về xum họp. Người đi công tác, đi làm dâu, ở rể làm sao nhanh chóng trở về quê hương, gia đình người thân, xóm làng ăn tết. Người Giáy nghĩ “Có không có cũng ăn tết”, “To nhỏ cũng bữa cơm tết”.

Ngày tết là ngày thiêng liêng, ngày tết là ngày xum họp, hội tụ gia đình. Vì thế sau tháng mười một bước vào tháng chạp là mỗi người đã háo hức, hồi hộp chờ tết. Ngày xưa, người ta vừa mong tết đến lại vừa lo tết đến. Người chờ, người mong tết đến là mong được nghỉ ngơi, xum họp, vui chơi… Người lo tết đến là lo: không hiểu gia đình có xum họp không? Quần áo mới cho trẻ ở đâu? Lấy gì mua sắm rượu, thịt, gạo, bánh … và còn cái lo nữa là nợ cuối năm không được để sang năm mới, mà lấy tiền đâu về trả nợ, trả rồi ăn gì, mặc gì trong tết này…

Nhưng bây giờ, chuyện đó cũng có thể xem là chuyện quá khứ. Hiện nay, tuy vẫn còn có người lo. Lo bây giờ là khác cái lo ngày xưa, lo bây giờ là chỉ lo ăn chưa ngon, mặc chưa đẹp chứ không phải là cái lo thiếu thốn như ngày xưa. Hiện nay, người người, nhà nhà đang háo hức mong tết đến, đang háo hức mua sắm, đang làm nhà mới, tu sửa nhà cũ để chờ tết đến.

Dù ở hoàn cảnh nào người Giáy có câu:

Tăng siêng nò cà ma

Hong ná hun cà tấu

Nghĩa là:

Đến tết khắc có thịt

Đến mùa khắc có mưa.

Nghĩ về tết như thế cho nên người Giáy chuẩn bị tết khá kỹ, trước hết lo nuôi lấy một con lợn để đến tết mổ. Sắp đến tết, người ta thường hỏi nhau năm nay nhà anh có lợn mổ không? lợn to hay nhỏ? Chưa mổ con lợn tết năm trước mọi nhà đã lo đến nuôi lợn tết sang năm. Mọi người còn nghĩ đến gạo nếp để làm bánh bỏng, bánh trưng, bánh dầy, bánh khảo… Khi cấy đã phải tính đến loại nếp nào, làm bánh gì và sẽ cấy bao nhiêu là đủ, cùng với gạo là đường mật. Nhà nào trồng được mía để dành kéo mật, nhà nào không có thì phải lo đi mua … Không chỉ thế, củi đun những ngày tết, tháng tết và những ngày mùa cũng được mọi nhà tập trung kéo, thồ, vác, vào khoảng tháng mười một và tháng chạp. Bởi tháng tết là tháng chơi cho nên không ai đi lấy củi tháng tết và sau tháng tết là vào mùa nương, mùa ruộng rồi, nếu tháng mười một, tháng chạp lấy được nhiều củi thì bớt đi phần công việc trong khi bận làm mùa.

Người Giáy nghĩ về tết là nghĩ về sự ấm cúng, xum họp và sự bình yên trong tâm hồn./.

Lò Văn Chiến

Phong tục lạ ngày Tết của các dân tộc Việt Nam

Tết là thời khắc thiêng liêng chuyển giao giữa năm cũ và mới, thời điểm trọng đại nhất trong vòng quay bất tận của vũ trụ.

Đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em với những phong tục đón Tết độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của từng tộc người.

Dù các phong tục đón Tết có khác nhau nhưng đều hướng tới một ý nghĩa tốt đẹp chung nhất là cầu mong Năm Mới được ấm no, hạnh phúc, mùa màng tốt tươi, gặp nhiều may mắn.

Người Mường với tục thờ cúng ngày Tết

Đối với người Mường, Tết Nguyên Đán là cái Tết quan trọng nhất, to nhất trong năm. Trong dịp Tết, mỗi nhà tổ chức một bữa cơm thịnh soạn nhất để dâng tổ tiên và thần thánh, bữa đó gọi là làm Tết.

Bữa làm Tết có thể làm cỗ dâng tổ tiên bằng thịt gà hoặc thịt lợn, xôi, rượu và các đồ lễ khác. Gia đình nào có cả một con lợn thịt trong dịp Tết thì được coi là ăn nên làm ra, tổ tiên vui mừng, con cháu hoan hỉ, cỗ bàn đầy đặn, cửa nhà sáng sủa.

Posted Image

Nhiều gia đình người Mông làm thịt lợn từ sáng 30 Tết. (Ảnh minh họa: baodatviet.vn)

Trong một mâm thờ thường có các lễ vật như bánh chưng và mật, rượu chai, cơm nếp, thịt luộc, chả rang và dồi, quếch, một ít tiền, một bát nước lã, trầu cau, mắm muối. Món thịt được bày trên một mảnh lá chuối khoảng 30cm x 40cm. Gia chủ chọn đủ miếng trong một con lợn để bày vào mảnh lá chuối này.

Sau khi mâm cỗ đã soạn đủ món được bưng lên đặt vào bàn thờ. Thông thường, bàn thờ tổ tiên được đặt 3 mâm: mâm ngoài cùng thờ bố mẹ, mâm thứ hai thờ ông bà, mâm thứ ba (trong cùng) thờ cụ kỵ.

Các vị trí đặt đồ thờ có thể ở trong nhà hay ngoài sân. Khi các mâm lễ được đặt vào vị trí, thầy cúng bắt đầu thực hiện khấn lễ. Đầu tiên, ông xướng tên và nơi ngự của các vị được thờ và lạy từng vị một; tiếp đó là phần trình bày lý do mời và dắt các vị về tận nhà chủ thờ.

Sau khi các vị đã an tọa, thầy cúng cùng tất cả con cháu trong nhà lạy chào tổ tiên và thần thánh. Sau thủ tục lạy chào, thầy cúng bắt đầu khấn dâng; dâng đủ 10 tuần cơm rượu thì được coi là các vị đã thật sự no say; rồi xin mời các cụ đứng dậy thu dọn đồ đạc trở về nơi ngự; con cháu lại xin được “rút mâm lui, lùi mâm xuống”, hưởng lộc của các cụ.

Mâm cỗ bày ăn gồm tất cả các món có trong mâm thờ và thêm món ớt, món nộm thịt thủ lợn, các loại rau đắng đồ, măng đắng đồ. Trước khi ăn, con cháu xếp hàng lạy kính các bậc cha mẹ, ông bà.

Người già đứng lên nói lời chúc cho con cháu sang Năm Mới mạnh khoẻ, làm ăn giàu có. Sau khi đã ổn định chỗ ngồi các mâm - tiếng Mường gọi là “buông cỗ” là thủ tục chào chúc tốt lành, mọi người mời nhau uống rượu, mời ăn các món lần lượt từ món rau đắng đồ đến món thịt luộc.

Sự mời mọc diễn ra liên tục suốt cả bữa cỗ, gần như là mỗi lần gắp là một câu hát thường dang, bọ mẹng, hát ví, mo, kể chuyện tình... làm bữa ăn thêm hoan hỉ. Sự nhiệt tình của mọi người đem lại niềm vui cho các thành viên trong gia đình. Tất cả đều thể hiện một ước vọng mong muốn một Năm Mới nhiều hạnh phúc và may mắn cho mọi người.

Tết của người Mông

Người Mông có một hệ lịch riêng, vì vậy Tết của họ vào khoảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 Âm lịch. Tuy nhiên, ngày nay, đa số đồng bào Mông đã ăn Tết Nguyên đán như người Kinh, chỉ trừ một bộ phận nhỏ người Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì song song Tết theo hệ lịch riêng của họ.

Như người Kinh, khoảng 25, 26 tháng Chạp, mọi người bắt đầu nghỉ ngơi chuẩn bị đón Tết. Với người Mông, 3 món không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết là thịt, rượu và bánh ngô. Tuy nhiên, họ không đón Giao thừa như người Kinh.

Tối hoặc giữa đêm 30, mỗi nhà đều phải làm lễ cúng "ma nhà" (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (phải là gà trống tơ). Sau khi cúng xong, đem lợn và gà đi giết thịt, rồi cúng một mâm thịt chín. Sau đó mới được ăn và uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên. Đối với họ, tiếng gà gáy sáng sớm của mùng Một mới đánh dấu một Năm Mới bắt đầu.

Bên cạnh đó, lễ hội Sải Sán hay Gầu Tào (hội cầu phúc) trong ngày Tết là lễ hội lớn nhất trong năm và thể hiện nét văn hóa đặc trưng không thể thiếu của người Mông. Lễ hội này thường diễn ra vào ngày mùng Hai của Năm Mới nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật, cầu cho con cháu đầy đàn.

Tết của người Cơ Tu

Người Cơ Tu thường ăn Tết sau vụ thu hoạch, họ mở hội vui chơi trong ngày lễ cúng thần lúa gọi là Tết Progiêrâm, đây là lễ lớn nhất trong năm.

Trước Tết một tuần, dân làng thường tổ chức đi bắt cá tập thể ở những con sông lớn. Họ ngâm các loại trái, vỏ, rễ cây làm cho cá bị say tự động nổi lên mặt nước rồi tha hồ bắt.

Thực phẩm của người Cơ Tu trong ngày Tết chủ yếu là món ăn do đồng bào tự tay làm ra như nếp, lúa, sắn, ngô. Rượu cần và rượu tà vạt là thứ không thể thiếu trong ngày Tết của họ.

Ngoài việc ủ rượu, phụ nữ Cơ Tu còn lo giã nếp, hái lá đốt để làm bánh sừng trâu, nấu nhiều cơm lam để ăn và đãi khách.

Ngoài ra, đồng bào Cơ Tu còn làm thêm món Za zá - món ăn được xem là đặc trưng của dân tộc. Họ dùng các loại rau, măng, lá môn, chuối xanh, thịt rừng hoặc cá, ếch nhái... trộn lại với nhau rồi cho vào ống nứa tươi và đốt lửa bên ngoài. Đây là món ăn dùng nhắm với rượu tà vạt.

Bên cạnh việc chuẩn bị nhiều món ăn, người Cơ Tu còn tổ chức các hoạt động văn hóa vui chơi như lễ hội đâm trâu, đánh cổng chiêng, nhảy điệu Za zá - điệu múa thiêng trong nghi lễ hiến sinh của người Cơ Tu, thể hiện sự vui mừng, lòng biết ơn đối với thần linh.

Người Thái với tục gọi hồn ngày Tết

Thông thường ngày 25 tháng Chạp là phiên chợ cuối cùng, lớn nhất trong năm của người Thái. Sau vài ngày dọn dẹp nhà cửa, tối 29 người Thái bắt đầu gói bánh chưng. Ngoài bánh chưng như của người Kinh, người Thái còn có thêm một loại bánh chưng màu đen.

Để làm bánh chưng, họ đốt rơm, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi sàng sạch muội tro mà vẫn giữ được màu đen. Sau lễ cúng Giao thừa tối ngày 30, mọi người uống rượu suốt đêm và canh cho nhang khói trên bàn thờ tổ tiên cháy liên tục. Nhà nào có chiêng, cồng thì mang ra gõ tại nhà.

Một phong tục không thể thiếu trong ngày Tết của người Thái là tục gọi hồn. Thường vào tối 29 hoặc 30, mỗi gia đình thịt hai con gà, một để cúng tổ tiên, một để gọi hồn cho mọi người trong nhà.

Đầu tiên, người cúng (thường là thày cúng) lấy một cái áo của mỗi người trong gia đình, bó lại một đầu với nhau, vắt lên vai, tay cầm một cây củi đang cháy, mang ra đầu làng gọi hồn hai ba lần, sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa. Xong việc, thầy cúng đích thân buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình để trừ tà.

Tết của người Dao đỏ

Vốn có bản sắc văn hóa riêng biệt và độc đáo, nên Tết của người Dao đỏ cũng mang nhiều nét đặc trưng cho đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc mình. Đến nay, dù đời sống đã phát triển hơn về mọi mặt, song đồng bào người Dao đỏ vẫn giữ được những phong tục đón Tết truyền thống.

Cũng giống như người Kinh và nhiều dân tộc khác, người Dao đón Tết cổ truyền theo lịch âm. Khoảng ngày 20 tháng Chạp, hầu hết các gia đình đều gác lại công việc làm ăn để chuẩn bị đón Tết.

Người Dao đỏ cũng có tục cúng ông Công, ông Táo như người Kinh, nhưng họ không cúng vào ngày 23 tháng Chạp mà làm chung với lễ cúng tất niên. Trong mâm cỗ, ngoài bánh chưng, loại bánh gù đặc trưng của người Dao, thịt lợn, thịt gà, rượu, thường có thêm đĩa bánh dày hoặc bánh nếp gói trong lá chít.

Người Dao đỏ không tự làm lễ mà mời thầy cúng hoặc những người lớn tuổi có uy tín trong cộng đồng. Trước sự có mặt đông đủ của mọi thành viên trong gia đình, thầy cúng thay mặt gia chủ làm lễ cúng giải hạn, để xua đi tất cả những điều rủi ro, không may mắn trong năm cũ.

Và mời “ma nhà”, gồm có ông bà, tổ tiên và những người đã khuất, về ăn Tết, cầu xin sức khỏe, may mắn và sự bình an cho tất cả mọi người, xin cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, trâu bò lợn gà khỏe mạnh./.

(Theo Vietnam)

Độc đáo Tết của người Lô Lô ở Cao Bằng

Không quá ồn ào, khoa trương, những phong tục tập quán trong ngày Tết của người Lô Lô ở Cao Bằng mộc mạc nhưng rất hấp dẫn và đầy sức sống.

Người Lô Lô quan niệm khi bước sang năm mới trong nhà không chỉ có ngũ cốc, mà phải có nhiều củi và nước - biểu hiện một năm làm ăn sung túc.

Ngoài mặt tâm linh thì việc tích trữ đó còn thể hiện như là một nguyên tắc sống được truyền từ đời này qua đời khác để tồn tại được ở mảnh đất đầy khắc nghiệt này.

Posted Image

Người Lô Lô. (Ảnh: Internet).

Chỉ những lúc rét và khô hạn nhất, nhiệt độ thường chỉ vài độ C mới thấy hết tác dụng của phong tục này. Cách Tết khoảng 3-4 ngày, mọi người quét dọn nhà cửa sạch sẽ và đổ rác với ý nghĩa tống khứ những rủi ro, uế tạp của năm cũ và chuẩn bị đón tài lộc năm mới.

Chiều 30 Tết, theo phong tục, người Lô Lô thường tổ chức bữa cơm sum họp của cả nhà. Tất cả các thành viên trong gia đình đều được gia chủ tổ chức cúng sức khỏe, gọi hồn (hồn sống) về với ông bà, cha mẹ, vợ con, anh em sum họp đầy đủ để đón mừng năm mới.

Đàn ông, con trai cúng bằng gà mái, đàn bà, con gái cúng bằng gà trống.

Chiều 30 Tết là ngày "niêm phong" cho tất cả những gì thuộc về gia đình. Từ cái cuốc, cái xẻng, con dao, cái rựa, cái cày, cái bừa, cây cối quanh nhà, chuồng trại... đều được dán giấy quét màu vàng hay màu bạc để các vật này được "nghỉ Tết" và con người không được chạm đến hay di chuyển đi nơi khác.

Đối với người Lô Lô dù khá giả hay nghèo, Tết đều phải có thịt lợn đen treo trên gác bếp. Cỗ Tết được coi là to và sang thì ngoài món thịt lợn đen hay món gà trống thiến, phải có nhiều món khác như món cá lam thơm ngon nổi tiếng.

Để có được cá lam người ta thường vào rừng tìm những con suối, con khe có loài cá này sinh sống. Cá bắt về được làm sạch rồi mổ bỏ ruột, tẩm muối và một số loại lá rừng, rồi cho vào ống tre để nướng. Khi cá vừa chín tới thì bầy ra đĩa. Cá lam nướng đạt tiêu chuẩn phải không còn mùi tanh, thơm mùi tre non và lá rừng nhưng cũng không được mất đi hương vị của cá.

Ngoài ra, phải kể thêm các món như nhái nướng, nhái rang, món nhện nướng, châu chấu, cào cào rang... Đó là những món được đồng bào cho là món ngon, chỉ khi nào có khách quý đến chơi Tết mới được đem ra mời nhắm rượu.

Để kiếm được những con côn trùng thơm ngon bổ dưỡng này, người Lô Lô phải vào rừng lật từng viên đá, ống bương, ống tre mục hay vạch từng chiếc lá, có khi đi cả buổi cũng chỉ tìm được vài con mang về nhà. Món bánh chưng ở đây cũng khác hẳn bánh dưới xuôi, người ta không gói theo hình vuông mà gói theo kiểu hình dài rồi buộc lạt chặt, khi chín bánh cong xuống và được gọi là bánh lưng gù.

Đêm giao thừa là đêm nhộn nhịp nhất trong năm, già trẻ gái trai đều thức. Các cụ bà cùng các cháu nhỏ quần tụ bên bếp lửa hồng với nồi bánh chưng và kể chuyện cổ tích râm ran. Các cụ ông thì nhâm nhi chén rượu với đồ nhắm. Các thiếu nữ thì đi qua các nhà để xin lộc bằng cách "lấy trộm" vài thanh củi, mấy ngọn rau hay vài cành ngô khô.

Khắp nơi hương khói thơm lừng, trong nhà đèn sáng tỏ, ngoài đường những ngọn đuốc sáng rực.

Thanh niên và trẻ con đổ ra các ngả đường và tập trung ở các sân chơi để chờ tiếng chúc mừng của gà gáy sáng. Với người Lô Lô, tiếng gà gáy đầu tiên trong bản đó chính khoảnh khắc đón giao thừa. Bất kể là gà nhà ai, miễn là ở trong làng có một con gà cất tiếng gáy đầu tiên là chủ gia đình gọi mọi người đón mừng năm mới.

Chủ nhà thắp hương lên bàn thờ, quỳ lạy cúng khấn tổ tiên, mời các cụ trong dòng họ qua các đời về ăn Tết với con cháu. Trong gia đình cử người đi gánh nước, người thì cho lợn ăn, khua hết các con vật dậy, tiếng lợn kêu, chó sủa, ngựa hí vang làm ầm ĩ, náo nhiệt cả bản làng./.

(Theo Vietnam.net)

Tục ăn tết của người Hoa ở Sài Gòn - Chợ Lớn

- Sinh sống ở Chợ Lớn đã qua ba thế hệ, nhưng đến nay gia đình tôi vẫn giữ tập quán sinh hoạt của người Triều Châu (Trung Hoa), nhất là phong tục truyền thống trong những ngày lễ, tết.

Ngày Đông chí, má tôi thường nấu “ỉ” cúng. Đó là viên nếp nhỏ, tròn, không nhân, được nấu chung với nước đường và gừng, khi ăn rắc thêm muối mè lên mặt; người Việt thường gọi đó là chè trôi nước.

Trong tiếng Tiều, “ỉ” nghĩa là “viên”, “tròn”. Người Tiều cúng “ỉ” với mong muốn gia đình sẽ luôn được đoàn viên.

Khi Sài Gòn se se lạnh báo hiệu tiết Đông chí đến, chúng tôi biết là chỉ còn từ một đến hai tháng nữa là đến tết Nguyên Đán. Những ngày lạnh nhất trong năm ở đất Sài Gòn thường đến trước hoặc sau Đông chí 10 ngày. Lúc đó, ăn chén chè “ỉ” nóng, thêm chút gừng cay, người ta cảm nhận được mùa xuân đang về.

Posted Image

Các chùa người Hoa thường treo đèn lồng trong ngày tết.

Trong ảnh là chùa Bà Hải Nam ở Chợ Lớn. Ảnh: Phúc Minh

Những ngày trước tết

Bước sang tháng Chạp, người Hoa chọn ngày tốt để quét dọn dẹp nhà cửa, làm lễ tạ thần. Đó là lễ đáp tạ Trời, Phật, Ông Bà đã cho gia đình một năm bình an. Cúng xong, người ta mang vật cúng chia cho họ hàng, người quen, gọi là chút quà thơm thảo. Nhà này mang vật cúng cho nhà kia. Đến khi nhà kia cúng sẽ mang cho lại nhà này. Đây cũng là cách làm cho tình thân thêm gắn bó.

Cúng tạ thần. Ảnh: Phúc Minh

Sau đó là lễ đưa ông Táo. Khác với người Việt cúng đưa ông Táo vào tối ngày 23 tháng Chạp, người Hoa thường tiễn ông Táo về Trời vào sáng hôm sau, ngày 24 tháng Chạp. Vật cúng ông Táo thường có các món ngọt như thèo lèo và quýt. Trong tiếng Hoa, “quýt” đồng âm với “cát” (cát tường = may mắn). Người ta hy vọng ông Táo sẽ tâu những lời tốt lành, mang lại may mắn cho gia đình.

Ba mươi “xuân” đến

Câu đối "Hợp gia bình an". Ảnh: Phúc Minh

Trong nhà người Hoa thường dán câu đối liễn. Đến ngày 30 tết, người ta thay câu đối liễn mới, giấy đỏ chữ vàng, nội dung thường mang thông điệp tốt lành như Xuất nhập bình an, Kim ngọc mãn đường, Tân xuân đại cát... Với những gia đình làm ăn buôn bán tại nhà, nội dung câu đối liễn thường là Nhất bổn vạn lợi, Khai trương hồng phát, Sinh ý hưng long...

Ngoài ra, người ta còn dán chữ “Xuân” và “Phúc” ngược trên cửa, chữ “ngược” tiếng Hoa đọc là “đáo”, nghĩa là Xuân đến, Phúc đến.

Chiều 30 Tết, trẻ con được tắm rửa sạch sẽ, thay bộ quần áo mới màu đỏ - màu may mắn theo quan niệm của người Hoa - rồi đi chúc tết ông bà, cha mẹ và nhận tiền lì xì.

Giao thừa cũng là ngày đoàn tụ gia đình. Tối giao thừa, các thành viên trong gia đình sẽ quây quần bên nhau ăn bữa cơm đoàn viên thịnh soạn.

Mọi người đón giao thừa vào lúc 12 giờ tối. Người Việt có mâm ngũ quả “cầu, sung, dừa, đủ, xoài” thì người Hoa có quýt, bánh bao, bánh Tổ. Tiếng Hoa gọi bánh bao là “Phát bao”, bánh Tổ là “Niên cao”… Tựu trung đều mang ý nghĩa là sự ước mong cho năm mới, gia chủ được may mắn, phát tài, năm mới sẽ tốt hơn năm trước…

Người Quảng Đông cúng giao thừa còn có giò heo, cải xà lách xanh sống. Tên những thứ này khi đọc lên thường có ý nghĩa tốt lành. Heo đọc là “trư”, đồng âm với “châu” - ý là "châu long nhập thủy", châu báu đầy nhà. Cải xà lách tiếng Quảng đọc là “Phát soi”, đồng âm với “Phát tài”…

Posted Image

Bánh bao. Ảnh: Phúc Minh

Mồng Một “tết Mẹ”

Sáng mồng Một tết Nguyên Đán, con gái đã có chồng ở riêng sẽ đưa chồng con về nhà ông bà ngoại chúc tết, nghĩa là ăn “tết Mẹ” trước; sau đó, người ta mới “tết Cha”, rồi đến thăm họ hàng, người thân.

Điểm này không giống với tập quán của người Việt là “mồng Một tết Cha, mồng Hai tết Mẹ”.

Mồng Bốn đón ông Táo về. Sang mồng Bảy, người ta ăn bảy thứ cải nấu chung. Trong xã hội nông nghiệp xưa, người ta ăn các loại cải phong phú với hy vọng trong năm mới, mùa màng sẽ được bội thu. Ngày nay, không nhiều người làm nông nữa nhưng người ta vẫn giữ thói quen ăn bảy thứ rau cải.

Đến rằm tháng Giêng là tết Nguyên Tiêu, ngày tết mới thật sự kết thúc đối với người Hoa. Trong khi người Việt chỉ ăn tết đến ngày thứ bảy thì hạ nêu, hết tết.

Nguồn: Người Triều Châu

Huyền bí Tết Katê của người Chăm

Giadinh.net - Người Chăm có ba ngày Tết trong năm để cùng nhau tụ họp lại tưởng nhớ các vị thần linh, tổ tiên và tổ chức những hoạt động vui chơi giải trí. Cuối thu, khi mùa màng đã thu hoạch xong, theo lịch của người Chăm là ngày 1 tháng 7 (tương ứng vào khoảng cuối tháng 9 Dương lịch), các làng Chăm lại rộn ràng vui Tết Katê.

Hư thực chuyện di vật vua Chăm

Theo ông Phú Trạm - Inrasara, một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, hội viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam: Trước đây, ngày Tết của người Chăm là một dịp lễ khác được tiến hành vào đầu tháng tư (lịch Chăm).

Đây mới là ngày lễ có ý nghĩa xua đuổi cái xấu của năm cũ, đón mừng cái may mắn của năm mới. Tuy nhiên, do quy mô của lễ hội Katê lớn hơn, lại có thêm phần lên tháp tiến hành các nghi thức, nên lễ Katê được biết đến nhiều hơn và trở thành cái Tết lớn nhất của người Chăm trong năm.

Những cụ già người Chăm kể lại: Ngày trước, lễ hội Katê có thể kéo dài đến nửa tháng, nhưng ngày nay đã được rút xuống chỉ còn ba ngày. Ngày đầu tiên dành để chuẩn bị quần áo cho các thần linh. Ngày thứ hai rước quần áo lên tháp cho các thần. Ngày thứ ba, dành cho cúng tế thần làng và tổ chức trò chơi, cúng tế tại gia đình.

Nhà nghiên cứu Phú Trạm cho biết, theo truyền thuyết, người Raglai vốn là con út của vua, là em của người Chăm. Trong thực tế, qua nhiều lần trải qua thăng trầm trong hàng trăm năm lịch sử, các vị vua người Chăm đã phải nhiều phen lánh nạn.

Khi rời quê nhà lánh nạn, không muốn tháp bị hoang phế nên phải gửi lại vương miện, mũ mão, quần áo cho người Raglai, vốn là tộc người sống ở miền núi, trong các bản làng có đường lên hiểm trở để ai có ý định trộm cướp cũng khó thực hiện được.

Hàng năm, cứ trước ngày khai hội một hôm, người Raglai lại từ buôn làng trên núi, rước các di vật xuống làng Chăm. Trước lễ hội chính một ngày, cả hai dân tộc cùng làm lễ rước y phục về đền thờ trong làng. Lễ thỉnh y phục gồm các tiết mục đàn hát ca ngợi công đức của các vua, dâng lễ vật và khấn mừng thần kéo dài đến khuya mới chấm dứt.

Posted Image

Người từ khắp nơi đổ về dự lễ.

Sau lễ hội, di vật lại theo họ về bảo quản, thờ cúng trong một ngôi nhà riêng. Qua nhiều đời, ngày nay vẫn còn nhiều bảo vật của các vị vua được gìn giữ như áo, thắt lưng... Để "đến hẹn lại lên", mùa Tết Katê năm sau, anh em người Chăm - Raglai lại cùng nhau sum họp. Cũng ở một số nơi, tục lệ này không còn.

Ông Phú Trạm kể lại câu chuyện ở chính ngôi làng quê hương ông: Làng Chăm Chakleng, xã Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Trong làng có đền thờ một vị tướng tài người Chăm nhưng y phục của vị tướng lại được gửi mãi tại một làng người Raglai trên đèo Xông Pha (thuộc huyện Ninh Sơn, cách đó khoảng 30km). Hàng trăm năm không sao, đến một mùa Katê gần đây, người Raglai của làng đó sau lễ hội xin với các già làng được gửi lại y phục cho được ở đền làng Chăm luôn vì người ở làng Raglai cùng họ với người Chăm đến nay đều đã không còn ở nhà, không có điều kiện đi lại hàng năm. Mùa katê năm sau đó, lễ hội ở làng quê ông Phúc Trạm vắng bóng áo xanh của người anh em Raglai.

Lễ Katê - bức tranh nhiều sắc màu

Từ 5 giờ sáng ngày lễ chính, dân làng Chăm đã bắt đầu làm lễ xin rước y phục từ đền thờ làng lên tháp Chăm. Trong khi vị cả sư (Pô Dhia) làm lễ khấn tại đền thờ làng, đoàn rước gồm các thầy trong ban tế lễ, dàn nhạc người Chăm và người Raglai, các nam thanh niên khiêng kiệu, các thiếu nữ trong đội múa... đã chờ sẵn trước sân đền thờ làng.

Đúng 7 giờ sáng, sau màn trình diễn của các thiếu nữ với tiết mục vừa múa quạt vừa đội bình hoa trên đầu mà bình không hề ngả nghiêng, lễ rước y phục từ làng lên tháp bắt đầu.

Đi đầu đoàn rước là cờ Tổ quốc và đoàn nhạc công người Raglai, tiếp đến là các thầy trong ban điều hành. Kiệu đặt y phục của các thần được hộ tống xung quanh bởi các bức trướng, lọng che nắng, cờ lễ hội và đội thiếu nữ múa quạt.

Posted Image

Thiếu nữ Chăm chuẩn bị cho màn đội bình hoa múa.

Đoàn người gồm dân làng và khách thập phương kéo dài theo sau trên đường làng dẫn lên tháp Chăm trong tiếng nhạc do đội nhạc lễ vừa đi vừa cử hành. Cờ đỏ sao vàng của cờ Tổ quốc, áo tím nẹp xanh của người Raglai, áo trắng khăn đỏ của đàn ông người Chăm và muôn vàn sắc tía của trang phục truyền thống phụ nữ Chăm tạo thành một bức tranh khổng lồ nhiều màu sắc.

Tại cụm tháp chính của tỉnh Ninh Thuận, qua đoạn đường khoảng 4 km từ thôn Phước Đồng tới khu vực tháp Poklong Garai, đội rước lễ còn phải leo qua hàng trăm bậc thang dẫn lên chân tháp. Hàng vạn người dân địa phương và khách du lịch đã đợi sẵn đoàn rước lễ từ dưới chân đồi.

Những nghi thức huyền bí

Lễ Katê cuốn hút khách thập phương tới tham dự không chỉ để ngắm nhìn bức tranh sinh hoạt cộng đồng nhiều màu sắc, không chỉ vì những điệu múa huyền ảo của các vũ nữ hay tiếng kèn saranai, tiếng trống ginăng bập bùng... Katê còn huyền ảo với những lời khấn nguyện, những nghi thức hành lễ độc đáo và đầy chất huyền bí.

Posted Image

Múa hát bên Tháp Chàm.

Trên sân tháp hướng về phía tháp chính, sau phần tặng quà và chúc mừng của chính quyền địa phương, sẽ là phần trình diễn điệu múa quạt của các thiếu nữ người Chăm và các nhạc công Raglai trình diễn điệu nhạc dân tộc.

Kết thúc phần múa hát, lễ cúng xin phép thần Siva cho mở cửa tháp được cử hành với lễ vật là rượu, trứng, trầu cau và nước thánh (nước pha trầm). Đọc xong những lời cầu khấn bằng tiếng Chăm, một vị trong ban tế lễ hắt lọ nước thánh lên phù điêu thần Siva trên vòm cửa tháp, xin phép được mở cửa tháp để ban tế vào hành lễ.

Posted Image

Các gia đình cúng lễ bên tháp.

Theo quan niệm của người Chăm, đền tháp là nơi trú ngụ của thần linh, vì vậy trong lễ hội lớn nhất trong năm này, phải có nghi thức tắm cho tượng. Nước thánh được vảy lên mình tượng, trong khi những người xung quanh nhảy múa, hát và hứng nước rỏ từ tượng thần rớt xuống để bôi lên cơ thể mình cầu may mắn. Ban tế lễ tiếp tục cử hành buổi lễ với các nghi thức tiếp theo là mặc y phục cho tượng, đại lễ với nghi thức dâng lễ vật, lễ tạ, lễ ban ơn.

Trong tất cả các bước hành lễ, đều có đặc trưng là thầy cả sư đọc kinh, thầy kéo đàn hát các bài hát lần lượt mời các vị thần về chứng giám dự lễ (tổng cộng có khoảng hơn 30 bài hát trong buổi lễ tương ứng với lời mời hơn 30 vị thần), bà bóng thì rót rượu, dâng lễ vật lên thần linh.

Trong khi đó, bà con người Chăm ở phía ngoài tháp cũng bày đồ cúng ra trên bãi cỏ để cúng tế, cầu mong thần linh ban cho một năm mới mưa thuận gió hòa, ban cho gia đình và người thân được may mắn, khỏe mạnh...

Tuy nhiên, những nghi thức bên trong tháp như đã nêu trên chỉ được các giáo sỹ trong ban tế lễ chứng kiến và mô tả lại cho người khác biết, chứ chưa từng nhà nghiên cứu, hay du khách nào được chiêm ngưỡng.

Vì vậy, chưa từng có bức ảnh hay cuốn video nào được thực hiện trong các tháp Chàm nơi thờ các vị vua. "Ngay cả đến tôi là một người Chăm, lại là một người nghiên cứu văn hóa, nhưng không phải là người có nhiệm vụ nên cũng chưa lần nào trong đời được chiêm ngưỡng phía bên trong tháp Chàm, dù đã nhiều lần năn nỉ được vào bên trong", ông Phú Trạm nói.

Cũng theo ông Phú Trạm, các giáo sỹ người Chăm thường "giấu nghề", vì vậy không ít nghi lễ, tập tục kỳ bí của người Chăm hoặc không được giải thích, hoặc đã dần mai một. Ông nêu ra một ví dụ: "Không ít trường hợp, các giáo sỹ khi không có người kế tục đã thả trôi sông hàng trăm cuốn kinh sách quý. Vì theo quan niệm của họ, sách là của thánh thần, nếu giáo sỹ không dùng nữa thì phải thả trôi sông trả thần linh".

Nhiều thế kỷ trước, sách "Đại Nam nhất thống chí" đã viết: "Tục Chăm thì hàng năm cứ tháng 10, tức như tháng giêng của Kinh là Tết. Đến kỳ thì sắm đủ cỗ bàn cúng tiên tổ, hội khách khứa bạn bè". Nhiều thế kỷ sau, những phong tục này vẫn được người Chăm giữ vẹn nguyên.

Mai Minh

Síp xí - tết của người Thái đen ở Yên Bái

Nếu ai đến Mường Lò vào dịp 13 - 14/7 âm lịch, hẳn sẽ vô cùng thích thú khi được tham dự vào lễ tết đặc biệt cổ truyền của người Thái đen, đó là tết Síp Xí cổ truyền.

Mường Lò, Yên Bái một vùng đất phì nhiêu, trù phú của vùng Tây Bắc nổi tiếng với “gạo trắng, nước trong”, với đặc sản chè tuyến Shan cổ thụ, với hương thơm nồng nàn của nếp Tan Tú Lệ. Nơi đây còn là mảnh đất quần cư của người Thái đen giàu bản sắc, đậm đà phong tục, tập quán.

Mường Lò - theo các nhà khoa học, đó là mảnh đất quần cư đầu tiên của người Thái đen khi vào Việt Nam. Các cụ già nơi đây cũng không nhớ tết Síp Xí có tự bao giờ, chỉ biết rằng hàng năm bản Thái đều tổ chức Tết Síp Xí một cách trang trọng, đầm ấm, vui tươi.

Là tết lớn nhất của người Thái đen Mường Lò nên ngày 10 -13/7 Âm lịch, các bà, các mẹ, các chị trong mỗi gia đình đều chuẩn bị lá chuối rừng, gạo nếp, thịt gà, lạc... để làm món bánh síp xí (pảnh síp xí), một loại bánh quan trọng nhất trong lễ tết này bánh síp xí của người Thái đen Mường Lò.

Bánh síp xí 2 loại: một loại là “Pảnh cuổi”, bánh làm bằng gạo nếp nghiền với chuối tiêu, gói bằng lá chuối xôi chín; loại thứ 2 là “Pảnh cáy”, bánh có nhân làm từ đỗ xanh và thịt gà băm nhỏ với lạc, cũng được gói bằng lá chuối đồ chín. “Pảnh síp xí” được gói 2 chiếc trên một tàu lá chuối sau đó xoắn giữa cặp đôi 2 chiếc vào với nhau, dùng một dây lạt buộc ở đầu.

Posted Image

Bánh cuổi

Trong ngày tết Síp Xí, bánh này ngoài dùng làm lễ vật cúng ma nhà (Co lo hoóng), còn được đồng bào dùng làm quà biếu bà con anh em trong dòng họ, biếu tặng khách quý và những người dân tộc khác.

Ngoài việc làm thật nhiều “Pảnh síp xí” để đón tết các thiếu nữ dân tộc Thái ra chợ lựa chọn mua hoặc tự đi lấy các loại lá cơm màu để về làm xô ngũ sắc dâng cúng tổ tiên, lễ vật không thể thiếu.

Thịt vịt là món ăn chính trong Tết Síp Xí, theo quan niệm của người dân là tổng kết một vụ mùa, cầu xin cho con trâu được khỏe mạnh, cây lúa được tốt tươi, người người được hạnh phúc.

Do đó gia đình nào cũng mổ một vài con vịt trong dịp tết để “phá xúi” xua tan đi những điều đen đủi, không may mắn trong cuộc sống.

Rượu, thịt, cá và các món ăn được đồng bào chuẩn bị khá chu đáo để thiết đãi bạn bè, khách khứa trong dịp tết này. Cùng với việc chuẩn bị lễ vật để cúng tổ tiên, thì nhà cửa, ngõ xóm, ruộng vườn cũng được đồng bào sửa sang trang hoàng cho thật sạch đẹp.

Các cô gái tuổi cập kê cũng chuẩn bị lựa chọn cho mình những bộ áo váy cùng dây xà tích, khăn piêu đẹp nhất để diện trong dịp tết.

Bắt đầu bước vào tết Síp Xí là lễ cúng tổ tiên (co lo hoóng) của gia chủ. Chủ nhà cúng khấn mời tổ tiên, các ma nhà về dự tết chung vui cùng con cháu. Lễ cúng này được diễn ra ngay tại gian thờ “co lo hoóng”, bao gồm xôi ngũ sắc, bánh síp xí và một thủ lợn.

Nghi thức tiếp theo là lễ cúng ruộng “Tam tế ra”. Mâm cúng xôi và thịt gà đặt ngang đầu ruộng của gia đình. Thầy cúng ngồi trước thửa ruộng cầu xin ma bản, ma làng, tổ tiên thần thánh về phù hộ và chăm sóc cho cây lúa của gia đình không bị con sâu, con thú về phá hoại, cho lúa lên nhanh, hạt to, chắc, mẩy.

Kết thúc lễ cúng, lễ vật sẽ được thả xuống ruộng như lời minh chứng về sự cầu xin thành khẩn của gia đình trong ngày tết.

Con trâu là con vật quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp của người Thái đen Mường Lò. Một năm cầy cấy vất vả trong dịp tết Síp Xí đồng bào dân tộc Thái nơi đây cũng cho trâu được “ăn tết” bằng nghi thức cúng vía cho trâu “Tám khuôn quai”, cầu xin tổ tiên thần thánh che chở, bảo vệ cho trâu được khỏe mạnh để giúp đỡ gia đình trong sản xuất nông nghiệp.

Trong ngày tết Síp Xí, các cháu chắt nội ngoại sống gần nhà, ông bà sẽ mang những cặp bánh síp xí mới nhất, ngon nhất cùng 1 bộ gan vịt (đó là phần mà đồng bào quan niệm là ngon nhất và quan trọng nhất) sang nhà ông bà chúc phúc mừng tuổi ông bà.

Đáp lại tình cảm của các cháu, ông bà tặng mỗi cháu 2 cặp bánh síp xí cầu mong cho các cháu luôn khỏe mạnh, ngoan ngoãn.

Rất nhiều những món ăn đặc sắc của người Thái đen Mường Lò được người dân thể hiện trong tết Síp Xí cổ truyền này. Cùng với đó là những nét văn hóa trong sinh hoạt văn hóa ẩm thực hết sức đặc sắc mà đồng bào còn lưu giữ được như một “gia sản” văn hóa mà không phải bất cứ dân tộc nào cũng được sở hữu.

Sau bữa cơm síp xí, theo phong tục truyền thống, các nam thanh nữ tú rủ nhau đi chơi hội hang Thẩm Lé, hội chơi núi hái nêm (quả sim), mọi người đều nô nức vui chơi trong niềm vui tươi phấn khởi.

Posted Image

Múa xòe then

Kết thúc tết Síp Xí cổ truyền là nghi thức cúng then và xòe then (xe then) tại nhà Mo Then trong bản. Mọi người từ khắp nơi đều tập trung tại đây.

Các điệu xòe then như: xòe gậy, xòe khăn, xòe quạt, xòe hoa... được đồng bào thể hiện trong suốt đêm hội “xe Then” để múa mừng và mời các thần Then về dự tết và chung vui cùng trai làng gái bản.

Cùng với đàn tính và chùm sắc nhạc rung lên liên hồi làm cho không khí của ngày hội càng rộn ràng như không có hồi kết.

(Theo vietbao)

Phong tục đón tết của người Tày

Tết của người Tày bắt đầu vào 30 và kết thúc (lễ tạ tổ tiên) vào khoảng sáng mùng 3, tuy vậy cũng như nhiều dân tộc, thường họ chơi dài đến hết cả tháng giêng.

Mùng 7 họ ra đồng làm một chút, mang tính hình thức là chính. Đến ngày 15, họ ăn Tết lại, gần giống như ăn rằm tháng Giêng của người Việt, nhưng người Tày thì gọi là ăn Tết lại.

Người Tày làm bánh chưng dài. Ngày 27 hay 28, các gia đình đã thịt lợn, gói bánh... Bàn thờ được lau chùi, người ta buộc bốn cây mía vào bốn góc chân bàn thờ, quan niệm đó là cái gậy để tổ tiên chống.

Tối 30, vừa tiếp bạn bè đến chơi, phụ nữ trong nhà vừa làm bỏng, chè lam, bánh khảo. Để làm bỏng, người ta phải đồ xôi lên từ mấy ngày trước, để khô rồi trộn cám vào cho hạt gạo xôi tơi ra, tiếp đó phun ít rượu rồi rang lên, đến tối hôm tất niên chỉ đem ra nấu với mật, rồi đổ ra khay, cắt miếng...

Mọi sự thăm thú kết thúc trước 12h đêm 30, sau đó ai về nhà nấy. Trẻ con phải thức trực tuổi cả đêm.

Khác với người Thái, người Tày kiêng sáng mùng Một có người bất kỳ vào nhà. Họ chọn mời người xông nhà là người có đạo đức trong bản, người có phúc lớn, kị nhất là người có tang hoặc bị ma gà ám...

Đàn ông Tày mùng Một chơi cha (tức bố mẹ vợ), mùng ba chơi thầy (thầy cúng). Một số trò chơi cũng được phát động trong Tết mà phổ biến nhất là tung còn. Ra xuân, người Tày còn có hội lồng tồng (xuống đồng).

Vào dịp Tết, người ta mặc những bộ quần áo đẹp nhất đi chơi. Màu sắc áo Tày khá trầm. Phụ nữ mặc áo dài màu chàm 5 thân, một thân ngắn, bốn thân dài, ống tay hẹp, thắt lưng cũng màu chàm bỏ mối ra phía sau lưng, đầu đội khăn vuông chàm, trong có vải quấn tóc màu đen hoặc chàm, chân đi hài thêu mũi cong hình mỏ gà.

Sưu Tầm

Xem Thêm

Phong tục đón năm mới của dân tộc Tày

Khi những cơm mưa phùn lất phất bay, tiết trời se lạnh, những cành đào, cành mận nở hoa khoe sắc đấy là lúc báo hiệu một mùa xuân mới đang về. Tết đến xuân về là đồng bào các dân tộc vùng cao trong tỉnh lại nô nức chuẩn bị đón một cái Tết đầm ấm, vui vẻ

Khác với người dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng mang đậm nét văn hóa của dân tộc mình. Với người Tày cũng vậy họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình.

Posted Image

Tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăm tết từ ngày 28 tháng chạp âm lịch. Những ngày này trai gái trong bản lại khẩn trương trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà để cho gian nhà thêm mới mẻ và ấm cúng hơn. Bước sang ngày 29 người Tày bắt đầu làm thịt lợn và chế biến ra những món ăn như: giò, chả, thịt luộc, thịt nướng và lạp sườn...

Nếu ngày này ai đó có dịp đến với vùng cao sẽ thấy nhà nào cũng treo những dây lạp sườn trong bếp trông thật hấp dẫn. Đến ngày 30 tết thì người Tày cất tất cả những đồ dùng trong nhà như: Dao, dựa, cày, bừa vào một nơi rồi làm lễ cúng để cho chúng nghi ngơi ăn Tết, vì theo đồng bào nơi đây những vật dụng đó đã gắn bó và theo người dân suốt một năm lao động vất vả nên chúng cũng phải được nghỉ ngơi đón tết.

Posted Image

Đêm giao thừa là dịp mà các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau để trò chuyện, cùng nhau thưởng thức những món ăn đặc biệt hơn ngày thường và chúc nhau những lời chúc năm mới hạnh phúc, thịnh vượng. Chuẩn bị đón tết còn là dịp cho trai, gái trong bản rủ nhau xuống chợ mua sắm cho mình những bộ quần áo mới nhất để đi chơi xuân. Ngày tết cũng là cơ hội để cho cả người già, trẻ em, thanh niên nam nữ kéo nhau đi xem các lễ hội vui xuân như: Tung còn, múa xòe và trao cho nhau những điệu hát Sli, hát lượn thật hay thật tình tứ.

LenDuong.VN (TH

Tết của Người Mông

Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó đa phần là các dân tộc thiểu số sinh sống ở các tỉnh trung du, miền núi. Mỗi dân tộc lại có những phong tục Tết mang đặc trưng riêng...

Dân tộc Mông gồm nhiều nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Hiện số dân của họ khoảng 558.000 người, cư trú tập trung ở miền núi vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An.

Người Mông có một hệ lịch riêng, theo nhận định của các nhà nghiên cứu, có lẽ họ tiếp thu cách tính lịch của dân tộc Di (Trung Quốc). Theo đó, Tết của họ vào khoảng cuối tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch của Âm Dương hợp lịch mà ngày nay chúng ta sử dụng.

Tuy nhiên, ngày nay đa số các vùng người Mông đã ăn Tết Nguyên Đán như người Kinh, chỉ trừ một bộ phận nhỏ, chẳng hạn người Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì song song Tết theo hệ lịch riêng của họ.

Ngày 25, 26 tháng Chạp, người Mông bắt đầu nghỉ ngơi chuẩn bị đón Tết. Khi đó, họ phong tất cả các công cụ sản xuất lại, ví dụ như các lò rèn phải làm lễ đóng lò, cối xay ngô tháo ra, dán một tờ giấy bản lên rồi làm lễ với gà, bánh ngô, rượu.

Posted Image

Hiện nay, đa số các vùng của người Mông ăn tết như người Kinh

Trước đây người Mông không gói bánh chưng. Bây giờ thì có gói, nhưng bánh chưng không nhất thiết có trong bữa cỗ Tết của họ. Với họ, ba món không thể thiếu là thịt và rượu và bánh ngô.

Người Mông không đón giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy đầu tiên của sáng sớm mùng Một mới là cái mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu. Tối hoặc nửa đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con gà còn sống (và phải là gà trống, mà tốt nhất là gà trống tơ).

Sau đó mới mang lợn và gà ấy đi giết thịt (nhà nào giàu có thì thịt một con lợn từ 28, 29 để ăn trước). Thịt xong đem cúng một mâm thịt chín, rồi ăn cơm uống rượu đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên.

Các nhóm Mông có phong tục hơi khác nhau nhưng về đại thể đều rất quan trọng lúc cúng ma nhà bằng lợn và gà sống vào tối 30. Từ mùng 1 trở đi họ mặc quần áo mới, đi hài đi chơi.

Ném papao là một trong những trò chơi ngày Tết mà người Mông rất thích; ngoài ra còn múa khèn, múa ô, chơi cầu lông gà, hát ống, hát dân ca, đua ngựa, bắn nỏ...

Đặc biệt, nói đến Tết của người Mông không thể không nói đến một lễ hội gọi là hội Sải Sán hay Gầu tào (hội cầu phúc). Một gia đình trong làng, nếu hay đau ốm hay chậm có con thì mùng 2 đi dựng một cây nêu lớn ở bãi cỏ đầu làng.

Hội này tiếng là do một gia đình tổ chức (gia đình đó gọi là chủ nêu) nhưng thật ra đó là một lễ hội của cộng đồng, thậm chí khi làng này dựng nêu, làng khác cũng đến dự hội. Hội Gầu tào nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật; cầu cho con cháu đông đàn.

Hội có thể kéo dài 3 ngày nếu 1 năm tổ chức một lần hoặc 9 ngày nếu 3 năm tổ chức một lần. Đây là lễ hội lớn nhất của người Mông trong năm và nó thể hiện rõ nhất những đặc trưng văn hoá Mông trong ngày Tết. Trong lễ hội này, sau phần lễ là hát giao duyên và các trò chơi yêu thích của người Mông như vừa kể trên.

(Theo vietnamnet)

Tục tắm lá mùi sáng mùng 1 Tết

Vào ngày 30 Tết, người ta đi mua lá mùi già về để tắm tất niên đón chào năm mới. Đó là loại cây lá và thân ngào ngạt mùi hương rất thơm.

Tết Nguyên Đán, theo nghĩa gốc Hán, "Nguyên" là "đứng đầu", còn "Đán" là "buổi sáng". Do đó, "Tết Nguyên Đán" là "Tết mừng buổi sáng đầu năm". Sáng mùng 1 tháng giêng là thời điểm quan trọng nhất, đánh dấu một năm mới chính thức được bắt đầu.

Phong tục đón Tết của nhân dân ta có nhiều nét độc đáo riêng, bắt nguồn từ những điển tích, huyền thoại xưa. Những phong tục này đều thể hiện những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt và mang nhiều ý nghĩa thực tế trong cuộc sống của mỗi chúng ta.

Chẳng biết từ bao giờ người Việt Nam đã coi việc tắm chiều cuối năm như một thứ nghi lễ. Cùng với việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, ai cũng muốn thân thể mình sạch sẽ.

Và nước lá hoa mùi không chỉ cho người ta được sạch sẽ gột rửa bụi trần, mà còn như được tắm rửa tinh thần.

Mùi hương của mùi ngấm vào thịt da. Người với người gần nhau hơn, thân ái hơn, khi tắm lá mùi mùa xuân và hương thơm làm người ta tĩnh tâm sau bao mệt mỏi của cuộc mưu sinh.

Từ khoảng tháng 10 âm lịch, đường phố Hà Nội đã xuất hiện những chiếc xe đạp chở phía sau những bó mùi với hương quyến luyến.

Nó vốn là rau gia vị nhưng để già cao chừng bằng hai gang tay thì để đun nước tắm gội.Chi chít những quả nhỏ như hạt đỗ, cây mùi ngào ngạt hương, nhất là ngày đông giá hay khi xuân về.

Từ lâu lắm rồi, người phụ nữ Việt Nam vẫn gội đầu bằng bồ kết và nước đun lá mùi. Mùi hương là biểu hiện của đồng bằng Bắc bộ, của văn minh lúa nước sông Hồng, của chốn thôn làng truyền thống.

Sưu Tầm

Tắm lá mùi

Vào ngày 30 Tết, người Hà Nội còn có thói quen đi mua lá mùi già về để tắm tất niên đón chào năm mới. Đó là loại cây lá và thân ngào ngạt mùi hương rất thơm, thường có nhiều vào dịp Tết, mùi thơm của cây mùi già luôn gợi nhớ tới ngày Tết.

Xuất hiện như tín hiệu mùa vào tháng Mười âm lịch, khi những chiếc xe đạp chở phía sau xanh um những bó mùi hương quyến luyến các ngả đường, len vào từng ngõ phố. Loài cây như cô gái mảnh mai nói với tạo vật bằng hương thơm từ khi mới lộ trên mặt đất lá mầm xanh biếc, mùi hương làm nên ý nghĩa sự tồn tại của loài cây ấy, từ tên gọi: Cây Mùi.

Từ lúc xanh non đến khi già, mùi luôn được bó mớ. Lúc xuân thì, nó là rau sống, là gia vị mà ai cũng có thể ăn, thứ rau thơm kèm được với nhiều món mà không e khắc vị. Như gia vị, người ta bó mớ mùi ấy bằng sợi lạt nút mỏng; bằng bàn tay, thân mùi chừng 10 đến 13cm, để nguyên đoạn rễ (cả rễ cũng có mùi thơm), những chùm rễ trắng còn vương chút đất. Rau mùi không bao giờ thiếu trên quầy rau thơm, mẹt rau góc chợ, gánh hàng rong gánh phố trưa khê ngủ hay lúc buông chiều.

Như những loài cây gieo trồng bằng hạt, cây mùi có thời gian sinh trưởng ngắn, chẳng khi nào người trồng nhổ hết. Những luống mùi già, cao chừng bằng hai gang tay chi chít những quả nhỏ như hạt đỗ, cũng ngào ngạt mùi hương, như lá, như thân mùi. Đây chính là thứ “đặc sản” không thể thiếu trong những ngày Đông giá hay khi he hé Xuân về. Những vùng ven đô hay bãi phù sa sông Hồng quanh năm trở mình mùa vụ, vào độ cuối năm lại thơm một mùi thơm toả lan và khoáng đạt. Mùi của hoa, của đủ thứ rau thơm, mùi của phù sa ngàn năm bồi lở, mùi lá và hoa mùi cắt mình lên khơi luống lan chảy vào không gian trong giác quan cảm xúc của người.

Từ lâu lắm rồi, người phụ nữ Việt Nam vẫn gội đầu bằng bồ kết. Quả bồ kết nướng thơm, cho vào nồi đun sôi có thể đum thêm cả vỏ bưởi, rồi gội với chanh. Các cô cầu kỳ thích gội lá hương nhu hay đun nước cỏ mầm trầu cho tốt tóc, lại rắc thêm vài bông hoa bưởi vào độ tiết Xuân. Thời hiện đại, có biết bao loại dầu gội đầu: Sunsilk, Pantene, Essential, Enchanteur, Sifone, Clear, Head and Shoulders, Lux, Lifebouy, Mỹ Hảo, Daso.. nhưng bồ kết và hương lá mùi vẫn là loại “dầu gội” tốt nhất cho tóc, hiển lộ xuyên thời gian bằng việc vượt qua một cách ngạo nghễ bởi sự yêu thích của các cô, các bà. Mùi hương xuyên qua những thế kỷ như một trong những biểu hiện của đồng bằng Bắc bộ, của văn minh lúa nước sông Hồng, của chốn thôn làng qua bao biến thiên vẫn giữ được phong tục cổ truyền, đất lề quê thói.

Những cô gái đua nhau cắt tóc tém mà tôi thấy, bỗng nhiên lại nuôi tóc dài. Dường như mái tóc dài vẫn là mốt của mọi thời đại, người con gái nuôi tóc dài, để thấy mình nữ tính hơn trong gợi cảm mềm mại, dịu dàng. Nhìn những cửa hiệu gội đầu, những đầu tóc được chăm sóc bởi những ngón tay mơn trớn, bỗng thèm được thấy cảnh bến nước giếng làng...

Cây đa, bến nước, sân đình là ba hiện diện của làng quê vùng đồng bằng ngàn năm, nơi phản ánh đời sống tụ cư, tính cộng đồng gắn kết của người nông dân với quê hương, xứ sở. Hình ảnh những cô thôn nữ mặc yếm ra bến làng gội đầu chiều tất niên, bỗng thấy như huyền thoại, khiến ta như trở về ấu thơ với niềm tin một ngày được gặp những cô tiên giáng trần thường tắm gội vui đùa rồi thay xiêm y mới. Còn những-cô-tiên-tóc-đen trong tiềm thức ấy của tôi, thì đang bay khắp trần gian suốt mùa Xuân cùng hương lá và hoa quả quyến rũ. Quyến rũ, với những cảm giác thánh thiện, mơ mộng và ngọt ngào hơn tất cả những loại nước hoa đắt tiền, sang trọng. Tắm tất niên bằng nước đun với lá mùi gắn với tâm thức người Việt như một nghi thức tất yếu. Người muốn tắm gội nước lá hoa mùi, đã được thoả mãn vào cữ tháng Mười, nhưng hầu hết tất cả mọi người đều thấy cần phải tắm gội thứ nước ấy vào chiều cuối cùng của năm (âm lịch). Cùng với việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, ai cũng muốn thân thể mình sạch sẽ. Và nước lá hoa mùi, không chỉ cho người ta được sạch sẽ, gột rửa bụi trần, mà còn được tắm rửa tinh thần, để cả tâm hồn và toàn thân thể được tinh khiết, thơm tho, thanh thản trong cảm giác bay bổng, yên bình. Mùi hương của mùi ngấm vào thịt da, như thể con người vừa làm nghi lễ cho mình. Tôi cho rằng việc tắm gội lá mùi chiều ba mươi Tết là nghi lễ thuộc về văn hoá tinh thần. Nó tồn tại không nhất thiết phải hiện hữu trước mắt, mà trong ý nghĩ, hồi ức và hoài niệm của chúng ta. Hoài niệm về những cái còn, cái mát. Như những ngôi nhà cổ cuối cùng và những bức tranh phố cuối cùng còn lại ở Việt Nam của Bùi Xuân Phái. Như những khuôn mặt già nua của các bà hàng xén, hàng rau với mẹt rau có những mớ rau thơm bé xíu “lướt” vào chiều không gian xa ngái khi mà các siêu thị đang tới tấp mọc lên. Như bóng dáng ông đồ viết câu đối mừng năm mới. Như tiếng pháo nổ giòn trong truyện, thơ và ký ức...

Người với người gần nhau hơn, thân ái hơn, khi tắm lá mùi mùa Xuân và hương thơm làm người ta tĩnh tâm sau bao mệt mỏi của cuộc mưu sinh và vòng quay bon chen, tham vọng... Hình như khi một cô gái mang hương lá mùi trên thân thể, ai cũng muốn gần cô hơn. ý thức bản năng và giới tính trước mùi hương gợi cảm và tinh khiết, được bao bọc bởi niềm đam mê thanh sạch.

Tôi như thấy các mẹ, các bà trẻ lại, khi tắm gội nước lá mùi và hong tóc trước sân. Những sợi lá mùi vương vào mái tóc nhiều muối tiêu của bà gội xanh người về thời son trẻ

Tôi vẫn tin ở sự bền vững của những tình yêu lớn lao và cao cả. Như vẫn sung sướng với niềm tin vào nghi lễ tắm gội lá mùi, một nghi lễ linh thánh gắn kết vĩnh viễn những cặp uyên ương, những cặp vợ chồng mãi là người yêu của nhau nhờ mùi hương vượt qua mọi giới hạn khi phu thê quấn quýt tắm gội cho nhau bằng nước lá mùi, để tình yêu không bao giờ có tuổi, lại thăng hoa trong cảm xúc tươi mới, hồn nhiên, đằm thắm vô bờ.

Vi Thùy Linh

Tết nhảy của người Dao Đỏ (Lào Cai - Tả Phìn)

chứa đựng nhiều giá trị văn hóa cổ.

Tết nhảy của người Dao đỏ được tổ chức vào khoảng ngày 1 – 2 Tết Nguyên đán. Trong những ngày này, lễ tết diễn ra ở nhà ông trưởng họ, do ba họ lớn của người Dao nơi đây (Tả Phìn) là Lý, Bàn, Triệu đứng ra tổ chức. Nghi lễ chính trong lễ tết này là các điệu nhảy do một tốp nam nữ (sài cỏ) trong làng thể hiện dưới sự hướng dẫn của thầy cả (chái peng pi).

Có rất nhiều điệu nhảy như: nhảy mở đường, nhảy bắc cầu đưa đón thần linh về dự tết, điệu nhảy mời tổ tiên, bố mẹ bằng một chân, đầu cúi thấp, ngón tay trỏ giơ cao; điệu nhảy mời tiên nương, tiểu nữ giáng trần được diễn tả bằng điệu múa cò (pè họ) mô phỏng cò bay; điệu múa mời tổ sư thầy cả về dự tết diễn tả kiểu đi của hổ (mùng hú)...

Mỗi điệu nhảy múa đều mang tính hình tượng cao, diễn tả cảnh các thiên thần, tổ tiên về hạ giới dự tết với con cháu. Sau nghi lễ nhảy múa là lễ rước và tắm tượng tổ tiên, kế đến là điệu nhảy dâng gà trống đỏ, gà trống vàng... Kết thúc là điệu múa cờ.

Nghi thức rước và tắm tượng

Tiếp theo sau nghi lễ chính, cả dòng họ làm lễ rước và tắm tượng tổ tiên. Tượng tổ tiên được làm bằng gỗ, cao khoảng 20 –25 cm, đường kính thân 5 cm. Tượng được chạm khắc đẹp với trang phục thời cổ xưa, ở bàn tay phải của các tượng đều cầm thẻ bài ghi rõ tên ông tổ. Ngày thường, tượng được bọc kín bằng vải trắng. Ngày tết được con cháu rước xuống làm lễ tắm gội, thay khăn choàng mới. Nước tắm là thứ nước thơm chế từ loại vỏ cây “sum mụ”.

Nhảy dâng gà

Sau lễ tắm gội cho tượng, con cháu lại tổ chức các điệu nhảy dâng gà. Thầy cả và 3 thanh niên tay cầm gà trống đỏ và vàng nhảy theo nhiều động tác dâng gà, có động tác rước gà trên đầu, có động tác “vác” gà qua hai vai, có động tác vừa múa vừa vặt đầu gà…

Kết thúc Tết nhảy của người Dao đỏ là điệu múa cờ.

Tết nhảy của người Dao đỏ (Lào Cai - Tả Phìn) chứa đựng nhiều giá trị văn hóa cổ, đâu đó vẫn còn phảng phất tín ngưỡng thờ gà làm vật tổ (Totem giáo), cầu mong sự bảo hộ và che chở của vật tổ cho sự phát triển và tồn tại của tộc người mình. Ngoài ra, lễ tết này còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong nghi thức thờ cúng tổ tiên (mời, rước và tắm tượng gỗ - hay lễ mộc dục).

Mùa xuân là mùa của sự giao hòa giữa trời và đất, mùa của những lễ hội vui tươi. Nếu yêu thích những lễ hội dân tộc, xin mời bạn hãy đến với xứ sở sương mù để tắm mình trong không khí lễ hội của Lào Cai quê mình

(Theo Viettravel)

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay