Sophia

Những Câu Chuyện Về Luân Hồi!

11 bài viết trong chủ đề này

Câu chuyện có thật về luân hồi: Sự ảnh hưởng của phương Tây với Trung Quốc

Tác giả: Tiểu Liên[Chanhkien.org]

Lời mở đầu:

Tiêu đề của bài viết chỉ ra rằng nền văn hóa phương Tây đã được đưa vào Trung Quốc từng chút một. Các nhà sử học tin rằng nền văn hóa phương Tây đã không được truyền nhập vào Trung Quốc cho tới giữa triều Minh. Bằng việc chia sẻ câu chuyện này, tôi muốn chứng minh rằng trong một tiền kiếp tại La Mã cổ đại, tôi đã từng du hành từ Đế chế La Mã sang phương Đông và hòa mình vào nền văn minh của dân tộc Trung Hoa. Tôi cũng muốn cho các bạn biết rằng người dân trên khắp thế giới đã từng coi Trung Quốc cổ đại như một thiên đường. Trên thực tế, Thần phải kiến tạo nền văn minh Trung Hoa để người dân Trung Quốc và xã hội Trung Quốc sẵn sàng đón nhận sự phổ truyền của Pháp Luân Phật Pháp.

* * * * * * * * * * * * * * * * * *

Trước công nguyên, có một hòn đảo mà ngày nay là đảo Sicily thuộc I-ta-li-a. Đó là một nơi dân cư thưa thớt và kém phát triển. Người dân trên đảo đều là ngư dân, và họ sống trong một ngôi làng có tên là Klein. Ở bờ biển phía Tây của ngôi làng, có một cặp vợ chồng trẻ sở hữu một con bò. Anh Duxi và vợ của anh, Laiya là những người lương thiện và họ sống một cuộc sống thật hòa thuận, tự do và nhàn tản.

Vào một ngày trời mưa to, anh Duxi đang đi làm vài việc lặt vặt ở bên ngoài còn Laiya ở nhà một mình. Cô đột nhiên nhớ rằng cô đã để lương thực ở ngoài trời mưa. Cô bèn đi ra sân để mang lương thực vào. Ngạc nhiên thay, sau một vài tiếng sấm, một con rồng nhỏ trông rất dễ thương rơi xuống từ bầu trời. Thân mình nó toàn màu vàng kim và nó có một cái vòng trông như một cái bớt [của trẻ sơ sinh] ở trên đỉnh đầu của nó. Nó trong suốt và trông như bị thương, có máu ở trên đuôi của nó. Laiya đứng sững sờ vì cô không biết được đây là loài sinh vật gì. Rồi cô bình tĩnh trở lại và tự lầm bầm: “Ngươi là ai? Tại sao ngươi lại rớt xuống từ bầu trời?” Kỳ lạ thay, con rồng nhỏ trả lời một cách chậm rãi: “Đừng sợ. Ta là một con rồng vàng đến từ phương Đông. Ta đã chiến đầu với một tà thần ngày hôm nay và không may bị nó đả thương. Đó là tại sao ta đã rơi xuống từ bầu trời. Xin hãy đắp vết thương trên đuôi ta bằng lá cây và cho ta vào một cái ao.

Không lâu sau ta sẽ có thể bay trở về thiên thượng.” Laiya hơi sợ, nhưng cô đã làm những gì con rồng vàng bảo với cô. Ngay khi Laiya vừa cho nó vào trong cái ao, lương thực mà cô để trong sân hoàn toàn bị ướt.

Khi chồng cô trở về nhà, anh trông thấy thức ăn đã bị hư ở trong sân. Anh phàn nàn: “Nhìn xem. Sao mình không mang lương thực vào bên trong? Giờ nó nhão nhoét rồi. Chúng ta lại phải đợi hôm nào trời nắng để phơi nó. Sẽ thêm công việc đây.” Laiya nói với một nụ cười: “Đoán xem em vừa mới nhìn thấy gì nào?” Anh Duxi cười tươi rồi nói: “Điều gì vừa mới xảy ra với người vợ yêu của tôi vậy?” (Họ là một đôi vợ chồng mới cưới). Laiya nói với chồng cô về điều đã xảy ra. Anh Duxi bị sốc và đứng lặng đi trong một lúc. Anh lầm bầm: “Đây là một giấc mơ phải không? Phương Đông? Một con rồng vàng đến từ phương Đông?”

Không lâu sau Laiya mang thai. Mười tháng sau cô sinh được một quý tử. Một điều đặc biệt về đứa bé là nó có một cái vòng tròn trên đỉnh đầu giống hệt như của con rồng vàng. Vì vậy, người ta gọi đứa bé là Viên Đông (Tên được phiên âm theo tiếng Hán Việt, nghĩa là ‘phương Đông tròn đầy.’) Khi Viên Đông đến tuổi đi học, Duxi gửi nó đến ở với một người bà con tại Rome. Anh hy vọng rằng Quan Đông có thể học tập và học võ thuật tại đó.

Người La Mã cổ đại gọi Trung Quốc là “đất nước của tơ lụa.” Lái buôn từ vùng Trung Á và Nam Âu vận chuyển lụa từ Trung Quốc về La Mã và bán nó với giá còn cao hơn vàng. Người La Mã cổ đại nghĩ rằng những dải lụa mượt mà này là mọc ở trên cây tại Trung Quốc. Theo trí tưởng tượng của họ, phương Đông giống như một thiên đường, bởi vì họ đã nghe nói rằng có một nền văn minh rất tiến bộ tại đó mà biết cách sử dụng các công nghệ. Viên Đông lớn lên khi nghe rất nhiều câu chuyện về phương Đông, và cậu bé thường mơ mộng về phương Đông.

Khi lên 18 tuổi, Viên Đông gia nhập quân đội La Mã. Không lâu sau, một hoàng tử La Mã tuyển anh làm vệ sĩ. Sau khi lập chiến công nơi chiến trường, anh được thăng lên làm Phó Tướng trong Ban Nguyên Soái. Vào năm 53 sau trước công nguyên, Đế chế La Mã tiến sang phương Đông. Họ đã không giành thắng lợi trong trận chiến tại Syria. Vị Nguyên Soái đã chết tại nơi chiến trường. Người con trai cả của Nguyên soái và Viên Đông đã lên kế hoạch đào thoát đêm hôm đó. Viên Đông nói với anh ta rằng: “Hãy đi về phương Đông!” Sau đó người con trai cả của Nguyên Soái đã dẫn gần 10.000 lính đi tới Trung Quốc. Họ đã băng qua vùng sa mạc Ả Rập, cao nguyên Iran, Pamirs, dãy Thiên Sơn và Biển Chết. Cuối cùng họ đã tới hành lang Hà Tây mà ngày nay thuộc huyện Vĩnh Xương, tỉnh Cam Túc. Mặc dù họ đã phải chịu rất nhiều cực khổ, họ đã vượt qua tất cả như thể là Thần đang trợ giúp họ. Khi họ tới huyện Vĩnh Xương, họ chỉ còn lại khoảng 1000 lính.

Sau khi nhận thấy rằng Vĩnh Xương là nơi sản xuất tơ lụa, họ đã quyết định định cư tại đây. Có rất nhiều hoạt động mậu dịch nơi biên giới ở gần hành lang Hà Tây vào thời điểm đó. Các tiểu quốc xung quanh đều có mối giao thương mật thiết với Trung Quốc. Đây thực sự là một trung tâm thương mại quốc tế. Người ta thường xuyên nghe thấy tiếng chuông kêu leng keng trên cổ lạc đà từ các đoàn lái buôn hay âm nhạc từ nhạc cụ của các bộ tộc. Người ta có thể thấy sự thịnh vượng kinh tế tại đây.

Sau khi họ đã khám phá đường đi quanh thị trấn, họ thu thập tài sản và quyết định đi sang phương Đông. Họ đã truyền bá nền văn hóa La Mã cổ xưa cho người dân Trung Quốc tại Vĩnh Xương. Người dân Trung Quốc đã nhận ra rằng ở Đế chế La Mã, một nơi vạn dặm xa xôi cách trở, người La Mã rất say mê nền văn hóa và sản phẩm đến từ Trung Quốc. Viên Đông và binh lính đã xây cất những lâu đài và nhà cửa theo kiểu La Mã cổ đại tại vùng đất mà ngày nay là Cao Xương. Thậm chí cho tới ngày nay, người ta có thể tìm thấy di tích của những kiến trúc này.

Viên Đông không bao giờ thành hôn. Trong thời gian rỗi, anh luôn luôn cảm thấy một duyên phận to lớn với phương Đông. Khi lên 40 tuổi, ông đã có một cuộc thị sát tại khu vực phụ cận Đôn Hoàng. Từ xa, ông đã để ý thấy một tăng nhân Phật Giáo với một chiếc bát cầm ở tay phải. Ông ngay lập tức bước tới vị tăng nhân. Vị tăng nhân nhìn ông và đọc một bài thơ:

Lực tẫn gian tân tưởng tự tại,

Kim triêu ngẫu ngộ lão tăng lai,

Chỉ điểm mê tân vĩnh khai hoài!”

Diễn nghĩa:

Trải qua bao gian nan để được tự tại,

Ngày hôm nay tình cờ gặp lão tăng,

Chỉ cho cách tìm kiếm hạnh phúc vĩnh hằng!”

Sau khi nghe xong bài thơ, Viên Đông hiểu ra rằng mình vừa gặp được một cao nhân. Ông muốn bái vị tăng nhân làm thầy với ước muốn tìm kiếm sự thanh tĩnh tự tại! Nếu may mắn, ông có thể đạt viên mãn và thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử! Ông quỳ xuống và nói: “Sư phụ, Ngài đã biết được lý do con sang phương Đông, vậy hãy thu nạp người dị bang [1] này làm đệ tử!”

“Được rồi. Có điều, ta đang nắm giữ một phương pháp tu luyện mà sẽ không còn hiệu lực khi đến thời kỳ Mạt pháp. Khi ấy sẽ có một cao nhân đại đức đến dạy nhà ngươi phương pháp giải thoát chân chính!”

Từ đó Viên Đông trở thành để tử dị bang của vị lão tăng. Viên Đông đã tu luyện gần 20 năm với vị lão tăng này. Vì ông có căn cơ rất tốt và không có nhiều chấp trước, Viên Đông cuối cùng đã tu thành Chính Quả. Vào thời điểm mà ông khai ngộ, Viên Đông thấy rằng ông đã thực sự chuyển sinh từ con rồng vàng nhỏ bé kia, đồng thời hiểu được đạo lý luân hồi cũng như nhớ lại những chuyện thần tiên trên thiên thượng trong quá khứ…

Lời kết:

Tôi sẽ kết thúc câu chuyện tại đây. Nếu thời gian cho phép, tôi sẽ chia sẻ thêm về những câu chuyện của tôi trên thiên thượng cũng như dưới nhân gian. Dù tôi có kể bao nhiêu câu chuyện đi nữa, tôi chia sẻ chúng chỉ với một mục đích. Lịch sử các kiếp luân hồi của chúng ta cho thấy rằng thật là một duyên phận hiếm thấy, một ‘vạn kiếp kỳ duyên’ [2] khi chúng ta được nghe Pháp giảng bởi đấng Chuyển Luân Thánh Vương nơi cõi người! Hỡi quý đồng bào và đồng tu, xin hãy trân quý duyên phận này! Chúng ta đã phải trải qua vô số khổ nạn chỉ để đắc Pháp trong đời này! Nếu chúng ta để lỡ khoảng thời gian này, chúng ta sẽ hối tiếc mãi mãi!

Chú thích của người dịch:

[1] ‘Dị bang’: Người nước ngoài, người ngoại quốc.

[2] ‘Vạn kiếp kỳ duyên’: Duyên phận khó gặp trong hàng vạn kiếp.

================================================================================

Tranh cãi về nguồn gốc người mắt xanh tại Trung Quốc

Nhiều nhà nhân chủng cho rằng những người mắt xanh ở phía tây bắc Trung Quốc là hậu duệ của một binh đoàn La Mã thất trận, song một số nhà khoa học khác bác bỏ giả thuyết đó.

Posted Image

Hai người dân trong làng Liqian. Ảnh: powerhousemuseum.com.

Kết quả kiểm tra ADN của người dân trong làng Liqian, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc cho thấy gần hai phần ba số họ là hậu duệ của người châu Âu. Giới khảo cổ cũng phát hiện một công sự theo phong cách La Mã và nhiều bằng chứng khác cho thấy sự hiện diện của người châu Âu trong huyện Vĩnh Xương. Vì thế nhiều nhà khoa học cho rằng dân làng Liqian có nguồn gốc từ đế chế La Mã.

Homer Dubs, một giáo sư lịch sử Trung Quốc của Đại học Oxford tại Anh, là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về việc binh đoàn La Mã thất trận chạy tới Trung Quốc để trốn tránh sự truy sát của kẻ thù, Telegraph cho biết. Vào năm 53 trước Công nguyên, tướng Marcus Licinius Crassus dẫn 6.000 quân La Mã tấn công vương quốc Partha (nay thuộc Iran). Cuộc tấn công nằm trong kế hoạch mở rộng lãnh thổ La Mã về phía đông. Tuy nhiên, đội quân La Mã bại trận trong một trận đánh tại vùng đất thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay và Crassus cùng một con trai bị chặt đầu.

Con trai út của tướng Crassus dẫn tàn quân chạy về phía đông để trốn kẻ thù trong hàng chục năm. Dần dần họ lưu lạc tới rìa sa mạc Gobi của Trung Quốc và bị binh lính bản địa bắt vào năm 36 trước Công nguyên. Sau khi được trả tự do, họ sống tại huyện Vĩnh Xương và lập nên làng Liqian.

Ban Gu, một sử gia Trung Quốc sống trong thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, để lại một tài liệu nói rằng quân đội nhà Hán từng chạm trán với một đội quân lưu vong từ châu Âu. Khi chiến đấu, đội quân lưu vong dùng khiên để che kín đội hình (kể cả phía trên). Đội hình vảy cá - tên gọi của kiểu dàn đội hình này - là chiến thuật chiến đấu đặc trưng của quân đội La Mã.

Một giả thuyết khác cho rằng binh đoàn La Mã chạy tới vùng đất thuộc Uzbekistan ngày nay. Sau đó họ tham gia cuộc chiến chống nhà Hán của người bản xứ và bị bắt vào năm 36 trước Công nguyên. Nhà Hán đày họ tới huyện Vĩnh Xương và nơi họ sống trở thành làng Liqian.

Posted Image

Hình minh họa đội hình vảy cá của quân đội La Mã. Ảnh: blogspot.com.

Mặc dù vậy, theo Xinhua, nhiều nhà nhân chủng học cho rằng những người dân có ngoại hình giống người châu Âu trong làng Liqian có thể không phải là hậu duệ của binh đoàn La Mã thất trận.

“Huyện Vĩnh Xương nằm trên Con đường tơ lụa. Vì thế rất có khả năng những thương nhân châu Âu tới Vĩnh Xương rồi kết hôn với người bản xứ. Việc ADN của dân làng Liqian giống người châu Âu không có nghĩa là họ được sinh ra bởi người La Mã”, Xinhua dẫn lời giáo sư Yang Gongle, một nhà nhân chủng của Đại học Sư phạm Bắc Kinh.

Giáo sư Yang nói thêm rằng làng Liqian được thành lập vào năm 104 sau Công nguyên, trong khi các giả thuyết về binh đoàn La Mã mất tích đều cho rằng họ tới Trung Quốc sau thời điểm đó tới hơn nửa thế kỷ. Ngoài ra, đội hình vảy cá cũng không phải chiến thuật mà chỉ có quân đội La Mã áp dụng.

Xie Xiaodong, một chuyên gia di truyền của Đại học Lan Châu, cũng có quan điểm giống giáo sư Yang.

“Ngay cả khi dân làng Liqian là con cháu của người La Mã thì họ vẫn không chắc những người lính La Mã là tổ tiên của họ”, ông nhận định.

Maurizio Bettini, một nhà nhân chủng học của Đại học Siena tại Italy, cho rằng việc binh lính La Mã lưu lạc tới Trung Quốc chỉ là chuyện cổ tích. Trong một buổi trả lời phỏng vấn của báo La Repubblica, ông nói những hiện vật đặc trưng của La Mã – như tiền, trang phục hay vũ khí – mới là bằng chứng đáng tin cậy để chấm dứt tranh cãi.

“Nếu không có những chứng cứ như thế, câu chuyện về binh đoàn mất tích chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng”, ông phát biểu.

Một thực tế nữa là sau khi tướng Crassus thất trận, đế chế La Mã vẫn rất hùng mạnh và đang thống trị một vùng rộng lớn từ châu Phi tới Tây Âu. Để có đủ lực lượng tiến hành các cuộc viễn chinh, giới cầm quyền La Mã chiêu mộ những chiến binh ngoại quốc ngay tại những vùng đất mà họ chiếm được. Vì thế một bộ phận quân đội La Mã có nguồn gốc từ nước ngoài. Nếu tàn quân của tướng Crassus thực sự tới Trung Quốc thì cũng chưa chắc họ là người La Mã chính gốc.

Minh Long

Theo vnexpress.net

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thêm 1 câu chuyện trên Đất Nước mình nữa....

==================================================

Thực hư chuyện cậu bé 'đầu thai' ở Vụ Bản

Cập nhật lúc 02/12/2010 06:30:00 AM (GMT+7)

Ngay khi mới biết nói, cậu bé ấy nằng nặc đòi về nhà “mẹ đẻ”, ngồi kể rành rọt những ký ức trước kia, nhớ mặt từng người hàng xóm… khiến tất thảy mọi người đều bàng hoàng, gật gù tin vào chuyện “đầu thai, chuyển kiếp”.

Câu chuyện về cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến (Thị trấn Vụ Bản, Nam Định) đã nổi tiếng tới mức khắp cái thị trấn nhỏ này, từ già đến trẻ ai ai cũng có thể kể rành mạch, thông tường.

Cổng nhà anh Tân có 3 cháu nhỏ khoảng 9-10 tuổi đang nô đùa. Thấy tôi cất lời hỏi thăm, một cháu bé nhìn trắng trẻo, ngôi ngô nhất trong đám trẻ nhanh nhảu: “Cô hỏi bố cháu à! Bố cháu đang ở trong nhà. Cô vào uống nước để cháu gọi bố”. Trong lúc chúng tôi đang ngờ ngợ đoán chừng cậu bé lúc nãy chính là bé Tiến “nổi tiếng” tiêu tốn không ít giấy mực của báo chí, thì anh Tân bước ra.

Câu chuyện “tái sinh” kỳ lạ

Anh Tân và chị Thuận cưới nhau được 6 năm mới sinh được cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến (28/2/1992). Cháu Tiến lớn lên bụ bẫm, xinh xắn, trong sự yêu chiều hết mực của cả gia đình. Thế nhưng, đến năm cháu 5 tuổi, tai họa bất ngờ ập xuống.

Hôm đó vào buổi chiều tháng Giêng, anh Tiến đang nằm đọc báo bỗng giật nảy mình chồm dậy, ruột gan như lửa đốt. Anh gọi chị Tân bảo: “Thằng Tiến đâu, tìm nó về đi”. Chị Tân tìm gọi mãi nhưng không thấy Tiến đáp lại, ra phía bờ sông gần nhà chị chỉ nhìn thấy đôi dép cháu để trên bờ. Dưới dòng nước xanh ngắt nhìn thấu tận đáy, không thấy điều gì bất thường. Chị chạy về báo anh Tân. Bỏ tờ báo, anh hớt hải ra phía bờ sông thì nhìn thấy xác cháu Tiến nổi cách bờ 3m.

“Tôi lao xuống dòng nước, ôm chặt lấy con nhấc lên bờ. Nhưng tất cả đã quá muộn!”, giọng anh lạc đi, không giấu vẻ kinh hoàng khi nhớ về cái ngày đau thương ấy.

Cháu Tiến mất đi khiến cả anh Tân, chị Thuận đều như kẻ mất hồn. Nỗi đau càng nhân lên gấp bội khi chị Thuận do vấn đề sức khỏe đã “không còn khả năng làm mẹ” nữa. Trong cơn vật vã, bà cụ hàng xóm mà sau này anh Tân mới biết là “bà mế” có sang vỗ vai anh và bảo: “Con yên tâm, sớm muộn gì nó cũng tìm về với con thôi!”. Khi ấy vì quá đau buồn anh cũng coi lời bà như lời an ủi của những người hàng xóm tốt bụng khác.

Năm 2006, cả hai vợ chồng vẫn chưa nguôi nỗi đau mất con thì nghe có người rỉ tai ở Xóm Cọi, xã Yên Phú, Lạc Sơn, cách nhà anh chị chừng 3km có cháu bé nghi là “con lộn” của Tiến. Cháu tên Bùi Lạc Bình (sinh ngày 6/10/2002) là con một gia đình người Mường nhưng ngay từ khi biết nói đã khăng khăng bảo mình là con người Kinh, nhà trên thị trấn Vụ Bản.

Vốn chưa bao giờ tin có chuyện “đầu thai” như kiếp luân hồi của nhà Phật, nhưng hai anh chị vẫn đánh bạo tìm đến nhà cháu bé nọ. Thật bất ngờ khi anh chị đến nơi cháu không hề thấy lạ mà gọi bố mẹ xưng con và quấn quít không rời. Anh chị ngỏ lời mời chị Dự, người sinh cháu Bình, tên bố mẹ “mới” đặt, đến nhà chơi. Nghe thấy thế, Bình vui lắm, trèo phắt lên xe hào hứng như đứa trẻ lâu ngày được về nhà.

Vừa vào nhà, Bình đã chạy quanh nhà tìm đồ chơi mà Tiến trước kia thích. Cháu còn tự nhiên vào giường anh Tân, chị Thuận nằm lên đó rồi bi bô: “Ngày xưa con thường ngủ chỗ này nhỉ bố nhỉ?”. “Ngay khi nhìn thấy cháu, nghe cháu nói, và thấy những hàng động của cháu vợ chồng tôi như chết đứng. Tất cả đều giống hệt như cháu Tiến thủa trước, có khác chỉ là khác về hình hài mà thôi”, anh Tân kể.

Kể từ ngày gặp cháu Bình thì ăn ngủ chẳng yên bởi giữa hai người với đứa trẻ xa lạ dường như có mối thâm tình gì đó day dứt lắm. Nhớ cháu, thương cháu nhưng lại sợ người ngoài bảo muốn cướp con. Vợ chồng anh hiếm muộn, nhưng vợ chồng chị Dự-anh Hoan cũng chỉ có duy nhất cháu Bình là con.

Về phần chị Dự, sau lần đến chơi nhà ấy, cháu Bình cứ nằng nặc đòi về “nhà bố mẹ”. Thấy con nhèo nhẹo khóc, chị Dự cũng không biết phải làm sao. Đưa cháu về nhà anh Tân, chị Thuận chơi thì sợ người ta dị nghị là “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Nhưng sau một lần Bình bị ốm nặng, sốt cao, cháu cứ luôn miệng “dọa”: “Mẹ không cho con về, con lại chết lần nữa!”. Hoảng quá, lần này chị đánh liều gọi cho anh Tân đưa cháu về nhà chơi. Cháu Bình về nhà anh thì khỏe khoắn, vui vẻ, không còn đau ốm nữa.

“Thấy cháu tha thiết quá, sau bao đắn đo chúng tôi dè dặt đề nghị gia đình anh Hoan, chị Dự cho cháu về ở với chúng tôi. Thật bất ngờ là cả vợ chồng anh chị và bà nội cháu đều gật đầu đồng ý. Chính bà nội cháu cũng bảo rằng: Ngay từ lúc thằng bé biết nói tôi đã biết nó không phải người Mường rồi”, anh Tân nói.

Theo lời anh Tân, kể từ ngày cháu về với anh chị, hết lần này đến lần khác hai người “thử” cháu. Thậm chí, nhiều người hàng xóm cũng sang nhà để “hỏi chuyện ngày xưa”. Tất cả cháu đều trả lời vanh vách. Từ tên bác hàng xóm, đến cô giáo mẫu giáo rồi bạn bè thân của cháu, cháu đều nhớ tên. Đường về nhà, hay những câu chuyện nhỏ nhặt như ngày xưa bà nội cho cháu uống bia ở đầu làng cháu cũng nhắc lại, ngay cả việc, “cháu đã từng chết như thế nào, bị ngã xuống nước ra sao”…

“Dù trước đó, chưa một lần tin có chuyện “hoang đường” như thế, nhưng đến lúc ấy cả vợ chồng tôi đều hoàn toàn tin rằng Bình chính là cháu Tiến, con chúng tôi 10 năm về trước”, anh Tân kể.

Từ ngày về ở với anh chị Tân, Thuận, Bình nằng nặc đòi gọi tên là Tiến, ngay cả tên đệm cháu cũng đòi giữ.

“Hãy coi con cháu những đứa trẻ bình thường”

Bé Tiến bây giờ đã bước sang tuổi thứ 9. Cháu trắng trẻo, khôi ngô, ngoan và lễ phép nhưng cũng hiếu động hệt như những đứa trẻ cùng trang lứa khác. Khi chúng tôi ngồi nghe anh Tân kể chuyện thì Tiến không ngừng nô đùa trước sân, chọc tổ ong khiến anh Tân mấy bận phải đứng dậy nạt cháu.

Câu chuyện dang dở thì chị Thuận mẹ cháu về, thoáng qua những dè dặt ban đầu, nhắc đến con chị cười nói xởi lởi lắm. Lần dở từng trang sách của cháu, đôi mắt chị vẫn ánh lên niềm hạnh phúc vô hạn: “Cháu đi học mấy năm liền đều đạt học sinh giỏi…”. Rồi chuyện trường, chuyện lớp, chuyện nghịch ngợm của trẻ nhỏ làm bầu không khí rộn ràng hẳn lên.

Mải chuyện đã quá trưa tự lúc nào, chị Thuận giữ chúng tôi ở lại ăn cơm, chúng tôi cũng vui vẻ đồng ý. Khi mâm cơm đã dọn tinh tươm, Tiến vẫn đứng ngoài sân mê mải đọc cuốn Hương Hiếu Hạnh của nhà sư Thích Tâm Hiệp viết về trường hợp “đầu thai” của Tiến. Nghe anh Tân bảo, nhà sư sau khi nghe câu chuyện của Tiến đã viết một bài in trong tập sách Hương Hiếu Hạnh và tặng anh chị một cuốn. Từ lúc rõ mặt chữ, Tiến lúc nào cũng cầm cuốn sách và đọc đi đọc lại câu chuyện kể về mình. Những câu chuyện ngày xưa cháu cũng dần quên.

Tôi đứng dậy gọi Tiến vào ăn cơm thì bất chợt cậu bé nắm tay tôi lắc lắc, chỉ ra phía con sông sau nhà: “Cô ơi, ngày xưa cháu chết ở kia kìa”. Dù đã nghe câu chuyện của cháu nhưng câu nói bất chợt của Tiến vẫn khiến tôi lạnh sống lưng.

Sau bữa cơm đầm ấm, chúng tôi xin phép hai anh chị tiếp tục lên đường. Trước khi đi, anh Tân trầm ngâm: “Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm tiềm năng con người đã nhiều lần điện thoại gặp nhưng tôi đều từ chối. Hiện giờ, tôi chỉ muốn mọi người hãy coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Cháu Tiến giờ ở nhà tôi với tư cách là "con nuôi". Cháu vẫn thường xuyên qua lại nhà mẹ đẻ...".

TS Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ - Tin học Ứng dụng (UIA):

Nếu giải thích theo luật nhân quả, kiếp luân hồi và lý thuyết nhân duyên trong phật giáo thì câu chuyện không có gì lạ cả.

Cá nhân tôi đã tham gia chương trình: “Giao lưu ngoại cảm” để tìm mộ liệt sĩ và các khả năng đặc biệt khác do 3 cơ quan hợp tác nghiên cứu (Liên hiệp Khoa học UIA; Viện Khoa học Hình Sự Bộ Công An, Trung tâm bảo trợ Văn hóa Kỹ thuật truyền thống, Hội Khoa học Lịch sử) nghiên cứu nhiều sự vật, hiện tượng lạ, khả năng đặc biệt của con người trong cuộc sống.

Gần 15 năm qua, tôi cùng nhiều giáo sư đầu ngành đã nghiên cứu và ghi nhận nhiều trường hợp tương tự như câu chuyện trên. Thậm chí, trên thế giới cũng có những hiện tượng như thế. Tuy nhiên, cũng như nhiều hiện tượng khoa học chưa thể lý giải trong cuộc sống khác, chúng tôi mới dừng ở bước ghi nhận và đang tiếp tục nghiên cứu phân tích. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tổ chức hội nghị Khoa học để lý giải làm rõ một số hiện tượng theo các góc cạnh khác nhau

Nguồn:http://www77.vietnamnet.vn/vn/tin-nhanh/1781/thuc-hu-chuyen-cau-be--dau-thai--o-vu-ban.html

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Câu chuyện có thật về luân hồi: Số phận của một Hoàng tử Minoan

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

Lời mở đầu: Trong kiếp sống hiện tại, tôi có một chấp trước rất xấu – Tôi đôi khi cảm thấy tự ti và muốn bỏ rơi chính mình. Nó dường như là một quan niệm đã được hình thành từ khi tôi sinh ra. Sau khi tôi bắt đầu tu luyện, tôi đã có thể loại bỏ được nó khá nhiều. Nhưng nó vẫn còn trỗi dậy hết lần này đến lần khác. Khi chính niệm của tôi không đủ mạnh, nó có thể khống chế tôi tới mức tôi gần như phát điên. Đây dường như là nhân tố biến dị lớn nhất nằm trong tôi. Không phải mới đây tôi mới nhận ra được nguồn gốc của chấp trước biến dị nhất này. Thực ra tôi biết rằng tôi không nên mang theo tâm thái này khi viết về nền văn minh Hy Lạp cổ đại trong lần đầu tiên. Nó thật không thích hợp. Nhưng tôi thấy không còn cách nào khác. Tôi đã quyết định viết ra kinh nghiệm của mình, với hy vọng rằng điều này sẽ thực sự loại bỏ nhân tố rất xấu này trong tôi. Nó không phải là một điều nên làm. Tôi hy vọng rằng, các bạn đọc, các bạn có thể tha thứ cho tôi.

Nền văn minh cổ Hy Lạp là một chương sáng trong lịch sử văn minh nhân loại chu kỳ này. Đảo Crete (Κρήτη) ở vùng biển Aegean được coi là nơi phát xuất nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Đế chế Minoan được tìm thấy trên hòn đảo này tồn tại trước hay vào khoảng năm 1.800 trước công nguyên. Người ta vẫn nhận thấy sự huy hoàng của những Cung điện Hoàng gia từ những tàn tích. Từ đó, người ta có thể có một cái nhìn tổng quan về sự thịnh vượng của nền văn minh này vào thời kỳ cực thịnh của nó.

Khoảng năm 1.700 trước công nguyên, Hoàng tử của Đế chế Minoan có tên là Tuyên Ân [Chú thích: Tất cả tên nhân vật trong câu chuyện này đều được phiên sang tiếng Hán Việt]. Anh là một người rất tốt bụng và lạc quan. Anh có một trái tim nhân hậu và một tấm lòng khoan dung độ lượng. Lúc ấy, Đế chế Minoan rất hùng mạnh. Những tiểu quốc quanh đó phải triều cống cho Đế chế hàng năm. Tuyên Ân có một người chú tên là Diệc Hãn, người già hơn anh 10 tuổi. Diệc Hãn có bề ngoài rất hiền lành và tốt bụng, nhưng thực ra ôngta rất độc ác và vô cùng nham hiểm.

Một lần, nhà Vua cùng với tướng sĩ đi tới phía Bắc Hy Lạp để đánh dẹp một cuộc nổi dậy. Diệc Hãn cố gắng sai người ám sát nhà Vua nhưng không thành công. Sáu tháng sau, nhà Vua an toàn trở về. Lúc ấy, Tuyên Ân, vị Hoàng tử, đang trên đường du ngoạn nơi bờ biển Aegean và gặp một thiếu nữ có tên là Ngải Luân. Cô là con gái của một người chài cá. Cô xinh đẹp mỹ lệ như một thiên thần. Tuyên Ân lập tức phải lòng cô. Họ đã ở bên nhau và cảm thấy rất tâm đầu ý hợp. Diệc Hãn trở nên ganh tỵ. Ông ta bắt đầu âm mưu chiếm đoạt Ngai vàng và chia rẽ Tuyên Ân cùng với Ngải Luân.

Một ngày, Tuyên Ân và Ngải Luân dạo chơi trên biển với một chiếc du thuyền. Họ gặp phải một cơn bão, và kết cục là bị lềnh đềnh vài ngày trên biển. Diệc Hãn nhân cơ hội này để tâu lên nhà Vua rằng Tuyên Ân và Ngải Luân đã bị bắt bởi kẻ thù của Vương quốc trên biển cả. Nhà Vua quả nhiên trúng kế và ông đã tự mình dẫn vài tùy tùng ra biển để tìm cứu Tuyên Ân cùng Ngải Luân. Trong khi nhà Vua đi vắng, Diệc Hãn chiếm lấy Ngai vàng và hành quyết tất cả những triều thần trung thành với nhà Vua. Ông ta cũng vô cùng tàn bạo và độc ác với người dân trong Vương quốc, và người dân đã phải chịu đựng rất nhiều. Nhà Vua và Tuyên Ân không biết được điều gì đang xảy ra ở nhà. Khi họ trở về đảo, họ mới biết được điều gì đã xảy ra, nhưng đã quá trễ. Họ ngay lập tức bị tay chân của Diệc Hãn bắt giữ. Nhà Vua bị sát hại ngay lập tức. Tuyên Ân bị nhốt vào một cái chuồng. Diệc Hãn bắt Ngải Luân đi. Ông ta cũng lung lạc trước vẻ đẹp kiều diễm của Ngải Luân. Ông ta vừa đe dọa Ngải Luân vừa lấy quyền lợi để dụ dỗ cô. Ông ta nói rằng ông ta sẽ cho cô làm Hoàng hậu nếu cô chịu lấy ông ta, hoặc là cô sẽ phải gánh chịu hậu quả.

Ngải Luân là một cô gái ham thích hư danh và ham muốn một cuộc sống xa hoa. Vì vậy trước tình thế ấy, cô đã đồng ý trở thành Hoàng hậu của Diệc Hãn. Cô đã đem sự trong trắng của mình trao cho Diệc Hãn ngay đêm hôm đó. Diệc Hãn muốn Tuyên Ân phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa. Những người theo ông ta đã đề nghị rằng Tuyên Ân nên bị đày ra đảo hoang và cho lính gác canh chừng anh, để anh phải chịu đau đớn nơi hoang vu. Diệc Hãn nghĩ rằng đó quả là một ý kiến hay. Cho nên ông ta đã ra lệnh lính gác mang Tuyên Ân đày ra một hòn đảo hoang mà ngày nay là đảo Malta (nó có một tên khác vào thời điểm đó). Lúc đó, Tuyên Ân đã ở bên bờ vực của sự sụp đổ về tinh thần. Chú ruột của anh đã giết hại cha anh, và đã trói anh bằng dây thừng. Anh sẽ bị đày ra hoang đảo. Vị hôn thê tương lai của anh đã bỏ rơi anh vào thời điểm then chốt. Anh không thể nào chấp nhận được sự thật nghiệt ngã này. Anh đã tích tụ một lòng căm thù đối với người chú và với Ngải Luân. Nhưng anh còn chán ghét chính bản thân mình hơn. Anh chán ghét lòng tốt và tính cả tin của bản thân mình. Anh trở nên đầy thù hận và cuồng loạn.

Anh đã bị đưa lên một chiếc thuyền đi ra đảo Malta dưới sự giám sát của lính canh. Trên thuyền, anh gần như phát điên. Anh cố gắng tự sát vài lần nhưng đã không thành công. Sau khi anh đến Malta, anh cảm thấy thậm chí đời sống của quỷ vẫn còn khá hơn thế này. Anh luôn tự lẩm nhẩm một mình như thể đang trò chuyện với người khác. Đôi khi anh ngồi lên một phiến đá và nói chuyện với đỉnh đồi có hình người ở trước mặt. Một ngày, do quá chán nản vì không có tiếng trả lời, anh trở nên giận dữ. Anh gần như phát điên và muốn tự kết liễu đời mình. Anh chạy lên đỉnh đồi và cố gắng đâm đầu mình vào một phiến đá. Nhưng không hiểu vì anh định hướng không đúng hay do mắt anh đánh lừa anh, anh đã không chết mà còn trở nên tỉnh táo hơn. Anh đã dần dần lấy lại lý trí của mình. Anh tự nói với chính mình: “Ta không còn gì cả. Ta sẽ không bao giờ thoát khỏi hòn đảo hoang vu này trong phần đời còn lại của ta. Thay vì cứ u mê mãi ở đây, ta nên cố gắng tìm thú vui và ý nghĩa của cuộc sống.” Rồi anh nhận ra rằng có quá nhiều lính gác ở quanh anh và anh phải không cho chúng thấy đầu óc anh đã trở lại bình thường. Vì vậy anh vẫn hành xử như một người điên ở trước mặt những tên lính. Không lâu sau, những tên lính cảm thấy anh đã thực sự phát điên và không cần phải trông chừng anh nữa. Chúng xin phép Diệc Hãn cho chúng để Tuyên Ân lại một mình trên hoang đảo. Lúc bấy giờ, Diệc Hãn và Ngải Luân đã có với nhau ba đứa con. Diệc Hãn đã cho phép những tên lính trở về Hy Lạp nhưng yêu cầu chúng phải nói cho Tuyên Ân biết về cuộc sống hạnh phúc tại Vương quốc giữa anh ta với Ngải Luân.

Sau khi Tuyên Ân nghe được tin này, anh thực sự đã trải quả một sự sụp đổ tinh thần. Anh đã thực sự muốn kết liễu chính mình. Không lâu sau khi những tên lính rời đi, vào một đêm trời đổ mưa, anh đã quyết định tự nhấn chìm mình xuống đáy đại dương. Trước khi chết, anh nghe thấy một giọng nói vang vọng từ bên trên: “Con đã phải chịu đựng thật nhiều nơi thế gian. Con có muốn tìm kiếm một nơi thanh tĩnh siêu thoát khỏi thế giới này?” Tuyên Ân trả lời trong nước mắt: “Trong cuộc đời này con không còn lối thoát nào khác ngoài cái chết. Nếu một nơi thanh tĩnh siêu thoát khỏi thế giới này thực sự tồn tại thì phải đợi đến đời sau của con.” Và rồi anh chìm xuống đáy đại dương.

Lời kết: Sau khi chết, nguyên thần của Tuyên Ân được luân hồi và chuyển sinh qua rất nhiều kiếp sống tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Anh đã thực hành tu luyện trong nhiều kiếp. Nhưng do anh đã phải chịu đựng rất nhiều trong kiếp sống nói trên, xu hướng tự kỷ vẫn còn đeo đuổi anh trong suốt những kiếp sống sau đó. Trong kiếp sống hiện tại của tôi, tôi vẫn còn khuynh hướng này. Nó rất mạnh mẽ. Đây không chỉ là một nhân tố xấu, mà nó còn được tích lũy qua nhiều kiếp sống khác nhau của tôi. Hôm nay, tôi viết ra bài chia sẻ những trải nghiệm trong quá khứ này để phơi bày căn nguyên chấp trước của tôi, để từ đó tôi có thể loại bỏ nó. Cùng lúc đó, tôi cũng muốn chia sẻ với độc giả một sự thật rằng mọi chấp trước của chúng ta trong kiếp sống hiện tại đều có nguồn gốc lịch sử sâu xa của nó. Tôi nói như vậy là đủ rồi. Tôi xin kết thúc bài viết tại đây.

Diệc Hãn vẫn là một quyến thuộc của tôi trong đời này. Anh ta vẫn là một người độc ác và đã gây ra rất nhiều đau khổ cho gia đình tôi. Ngải Luân và tôi có cùng họ với nhau và chúng tôi có thể là họ hàng xa trong đời này. Không ai trong số hai người họ đã đắc Pháp. Thời gian tới đây khi có cơ hội, tôi sẽ vẫn tiếp tục làm sáng tỏ sự thật với họ. Sau cùng, bất kể là điều gì đã xảy ra, việc ba chúng tôi gặp lại nhau trong đời này đã cho thấy rằng chúng tôi vẫn còn quan hệ tiền duyên.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Câu chuyện có thật về luân hồi: Thầy tu trên sông Hằng

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

Lời mở đầu: Câu chuyện này có thể xóa sạch hết thảy cát bụi trong tâm thức chúng ta, cho phép chúng ta tu luyện tinh tấn, thăng tiến hơn nữa trong thời khắc cuối cùng của Chính Pháp, và để chúng ta thực sự trân quý cơ hội khó gặp khi được tu luyện trong Chính Pháp!

* * * * * * * * * *

Khi đề cập đến sông Hằng, người ta có thể liên tưởng ngay đến đất nước Ấn Độ cổ. Đức Thích Ca Mâu Ni đã bắt đầu truyền Pháp của Phật Giáo tại đất nước Ấn Độ cổ vào khoảng hai ngàn năm trăm năm trước đây. Sau khi đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và rời khỏi địa cầu, Pháp trong Phật Giáo của đức Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng, với sự ủng hộ và quảng bá của vua A Dục (Ashoka) cùng triều đại Mauryan. Hàng trăm năm sau, do những người trị vì sau đó tại Ấn Độ đã bắt đầu cấm Phật Giáo, và cũng do các đồ đệ của đức Thích Ca đã trộn lẫn những nguyên lý của Bà La Môn giáo và các tôn giáo nguyên thủy khác vào Pháp của Phật Giáo, Pháp trong Phật Giáo của đức Thích Ca đã dần dần suy hoại.

Vào khoảng thời gian đó, có một người đàn ông hào hoa phong nhã sống trong lưu vực sông Hằng. Ông sở hữu một trang viên và sinh sống bằng cách trồng cây ăn quả. Ông kiên trì ủng hộ Pháp trong Phật Giáo của đức Thích Ca và tu luyện bằng cách chiểu theo nghiêm ngặt Pháp của đức Thích Ca. Một ngày, vợ của ông sinh hạ được một quý tử. Bởi vì người theo Phật gia rất thích hoa sen, cho nên họ đã đặt tên đứa bé là Ailianduo (Ái Liên Hoa), trong tiếng Trung Quốc có nghĩa là người rất thích hoa sen.

Sau khi đứa trẻ sinh ra, cha nó bế nó và mang tới một bức tượng Phật Tổ. Ông chắp tay trong thế hợp thập và nói: “Hôm nay, con hiến dâng đứa con trai của con cho Đức Phật, với hy vọng rằng Phật sẽ gia trì và cấp cho nó một con đường tu luyện tốt đẹp trong tương lai, để nó có thể rời khỏi Tam Giới, và đắc Chính Quả!” Vào thời điểm đó, Ái Liên Hoa mở to đôi mắt rất sáng và đang chớp chớp của nó, rồi bỗng nhiên nói: “Con sẽ kiên định một lòng tu hành theo ý nguyện của Phật Tổ! Cuộc đời của con sẽ trở nên vô nghĩa nếu con không thể rời khỏi Tam Giới!” Cha đứa bé sửng sốt đến nỗi ông suýt lỡ tay đánh rơi đứa bé xuống nền nhà. Cha đứa bé đột nhiên nhận ra rằng Ái Liên Hoa vừa mới mở miệng nói và nó đã phát nguyện tu hành. Ông ngay lập tức khấu đầu trước tượng Phật Tổ và liên tục dập đầu xuống sàn để thể hiện lòng tôn kính với đức Phật.

Ái Liên Hoa lớn lên trong môi trường tu hành Phật Pháp. Nó có một sự nhận thức rõ ràng về Phật Pháp thậm chí ngay từ khi còn rất nhỏ, và có rất nhiều thần thông. Khi lên 12 tuổi, cha của nó gửi nó tới một ngôi chùa gần đó, nơi nó trở thành vị thầy tu trẻ tuổi nhất ở đó. Trong chùa, nó học cách tụng kinh và kiên định trì giới tu hành. Trong thời gian rỗi, nó cũng bổ củi và chuẩn bị bữa ăn cho các hòa thượng khác trong chùa. Nó đã thực sự trở thành một “tiểu hòa thượng.”

Vì nơi đó thuộc vùng Nam Á, nên thời tiết đôi lúc rất nóng. Trong mùa mưa, mưa nặng hạt liên tục không dừng. Khi Ái Liên Hoa lên 18 tuổi, cả ngôi chùa gần như bị đổ sập trong một trận mưa bão dữ dội, ngoại trừ ngôi nhà nơi nó và vị sư trụ trì đang ở. May mắn thay, tất cả hòa thượng khác trong chùa đều ở bên ngoài vào thời điểm đó, và chỉ có Ái Liên Hoa và vị sư trụ trì, người gần 80 tuổi, là ở trong chùa. Sau khi trận mưa bão qua đi, những hòa thượng khác trở về và thấy ngôi chùa đã bị hư hại nghiêm trọng. Họ trở nên lo lắng. Phải cần một dự án lớn để xây dựng lại ngôi chùa! Phải cần biết bao nhiêu tiền mới có thể đủ để trùng tu lại ngôi chùa đó! Phải cần biết bao nhiêu thời gian để họ ra ngoài xin ăn và của bố thí! Vì vậy, tất cả hòa thượng khác đều lần lượt ra đi. Không lâu sau, vị sư trụ trì viên tịch, và Ái Liên Hoa trở thành người duy nhất còn sót lại trong ngôi chùa.

Nhìn ngôi chùa đổ nát, một cảm giác mạnh mẽ xuất hiện trong tim của Ái Liên Hoa. Không từ ngữ nào có thể mô tả được cảm giác đó. Nó tự nghĩ rằng: “Thế giới con người mới ngắn ngủi và bấp bênh làm sao! Trước sức mạnh của thiên nhiên, con người và mọi thứ được con người xây dựng thật quá nhỏ bé và kém cỏi. Thêm vào đó, tu luyện Phật Pháp là nghiêm túc phi thường. Ngôi chùa đổ nát là một khảo nghiệm cho chúng ta và đã phơi bày được rất nhiều tâm người thường. Ta không nên rời khỏi đây bằng bất cứ giá nào. Có lẽ đây là quan ải của Phật nhằm khảo nghiệm xem ta kính trọng Phật đến đâu và ta tin vào Phật đến đâu.” Kể từ đó, nó bắt đầu đi ra ngoài và lang thang để xin ăn và hóa duyên. Bất cứ địa phương nào nó đến, nó đều thuyết giảng Pháp của Phật Giáo cho mọi người, cùng lúc xin quỹ để xây dựng lại ngôi chùa và trùng tu tượng Phật.

Trong bốn hay năm năm sau đó, nó đã đi khắp vùng cao nguyên Deccan. Những nguy hiểm luôn theo sau rình rập nó. Bị người đời nhạo báng, chế giễu và thậm chí là nguyền rủa, nhưng nó đều không động tâm. Khi sự quyết tâm của nó là không đủ, Phật thường triển hiện và cho nó điểm hóa cùng những chỉ dẫn, làm nó tăng cường tín tâm và kiên định thực hiện sứ mạng. Cuối cùng, sau khi nó đã tích trữ đủ tài vật để trùng tu ngôi chùa, Ái Liên Hoa khám phá ra rằng ngôi chùa đã trở nên ngày càng huy hoàng và trang nghiêm hơn (nhưng bề ngoài của ngôi chùa vẫn đổ nát). Nó tự nghĩ: “Đây phải là một sự khích lệ từ đức Phật.”

Trong vòng vài ngày, một trận lụt xảy ra ở gần đó và tất cả nhà cửa của dân làng trong vùng phụ cận đều bị phá hủy. Tuy nhiên, ngôi chùa xiêu vẹo không chỉ không đổ sập xuống, mà nó còn trở nên huy hoàng hơn. Những bức tường lớn và phòng ốc trở nên đẹp hơn so với lần mà Ái Liên Hoa tới ngôi chùa lần đầu tiên, như thể nó đã được trùng tu lại mới. Ái Liên Hoa nhận ra rằng đây là sức mạnh của Phật Tổ. Do đó nó quỳ xuống và nói: “Xin cảm ơn Người, Phật Tổ. Con sẽ sống vì Phật, sẽ tu hành tốt và sẽ dũng mãnh tinh tấn!”

Sau đó, nó đi ra khỏi ngôi chùa và nhìn thấy cảnh đau khổ của dân làng. Nó đã khóc. Nó nghĩ: “Tại sao ta không lấy tài vật mà ta đã xin để trùng tu ngôi chùa đem cho người dân làng để họ xây lại nhà của họ?” Vì vậy nó đã gọi những người dân làng quanh đó lại và nói: “Tất cả tài vật này đáng lẽ dùng để xây lại ngôi chùa, nhưng Phật Tổ từ bi đã dùng Phật lực để trùng tu lại nó. Ta muốn đưa lại những tài vật này cho mọi người để mọi người xây lại nhà cửa. Hãy biết ơn sự từ bi của Phật Tổ!” Mọi người đều rất cảm động và sau đó tất cả họ đều trở thành tín đồ Phật Giáo.

Sau đó, một trong những cận thần của Quốc vương đã nghe được sự triển hiện từ bi của đức Phật. Người cận thần này có một thuộc hạ là tu sĩ Bà La Môn giáo. Vị tu sĩ này rất độc ác, nham hiểm và đầy lòng đố kỵ. Khi người cận thần hỏi ông ta về sự hiển hiện từ bi của đức Phật, tu sĩ Bà La Môn giáo này ngay lập tức đề nghị rằng người cận thần nên đến gặp Quốc vương, cầu xin Quốc vương ủng hộ Bà La Môn giáo trên diện rộng, xóa bỏ Phật Giáo của đức Thích Ca, và buộc Ái Liên Hóa phải cải sang Bà La Môn giáo. Quả nhiên vị Quốc vương đần độn này đã chấp nhận lời kiến nghị của người cận thần. Vì vậy ông đã ra một chiếu thư, trong đó Quốc vương cấm tất cả mọi người trong Vương quốc tin vào Phật Giáo, bắt tất cả mọi người cải sang Bà La Môn giáo, và yêu cầu người dân hiến tế trinh nữ trong những nghi lễ tạ thần Bà La Môn. Bất cứ ai dám vi phạm sắc lệnh đều bị chém đầu ngay lập tức. Những lời kêu oán vang khắp đất nước sau khi sắc lệnh được ban ra. Hầu hết những người tin theo Phật Giáo đều đã cải đạo. Chỉ có Ái Liên Hoa và vài chục vị hòa thượng khác là từ chối nghe theo sắc lệnh. Họ vẫn kiên định tin vào Pháp của đức Thích Ca. Vì những người này trái lệnh, nên đích thân người cận thần kia cùng vài thuộc hạ đã tới để giết Ái Liên Hoa cùng những người khác. Ái Liên Hoa không hề sợ hãi trước cường quyền bạo ngược, nó vẫn từ bi khuyên nhủ họ không nên hủy hoại Phật Pháp. Nó nói với họ rằng nếu họ tiếp tục thực hiện những hành vi xấu xa, họ sẽ bị rớt xuống A Tỳ Địa ngục. Họ không hề nghe lời Ái Liên Hoa. Ái Liên Hoa đã đưa bàn tay ra cho họ. Họ đã cắt đi cả mười ngón tay của Ái Liên Hoa, sau đó là chặt đầu và chặt đứt tay chân nó. Khi họ làm xong, họ có dáng vẻ rất nghênh ngang. Tuy nhiên không lâu sau những phần cơ thể của Ái Liên Hoa xuất hiện trở lại và nó đang ngồi trên một tấm nệm. Phần cơ thể mà đã bị phanh thây bởi những kẻ độc ác kia chỉ là “thân giả” do nó diễn hóa ra. Điều kỳ diệu này làm xáo động những người dân làng gần xa, và ngày càng nhiều người hơn tin vào Pháp trong Phật Giáo của đức Thích Ca.

Khi tin tức đến tai của những kẻ độc ác, chúng vô cùng giận dữ. Vào một đêm trăng sáng và trời lác đác sao, chúng đột nhập vào phòng của Ái Liên Hoa. Khi ấy, Ái Liên Hoa đang ngồi trong định và nó không hề có một tạp niệm nào trong tâm trí. Nó biết rằng chúng đã vào trong nhưng nó không hề chú ý đến chúng. Thay vào đó, nó thấy Phật đang hiện ra phía trước mặt và nghiêm túc nhìn nó, và điều này đã làm nó tăng thêm tín tâm trong tu luyện. Do đó nó vẫn tiếp tục thiền định. Những kẻ tà ác này nghĩ rằng thật là một cơ hội tốt. Chúng đã mang vũ khí vào và bước tới đằng sau nó. Chúng đã cắt đi tay chân của Ái Liên Hoa. Ngay khi chúng đang ăn mừng thắng lợi, chúng khám phá ra rằng cơ thể của chúng đã nhanh chóng bị hạ xuống A Tỳ Địa ngục. Nhiều người trong số họ vẫn còn ở nơi đó cho đến tận hôm nay. Mặc dù vài người trong số họ đã được đầu thai trở lại, họ vẫn làm nhiều điều xấu nhằm phá hoại Đại Pháp trong đời này. Họ đã bị hình thần toàn diệt. Tuy nhiên, kiếp số của họ vẫn chưa hết vì Chính Pháp vẫn chưa kết thúc, nên họ vẫn chưa bị tiêu hủy.

Trong khi đối mặt với khảo nghiệm sinh tử, Ái Liên Hoa đã chọn đức tin chân chính và kiên định, cho nên nó đã bước lên một đài sen, bay ra khỏi Tam Giới, và tới miền đất tịnh độ của Phật quốc!

Đúng là:

Đô thuyết tu luyện khổ hựu nan

Nhân tâm tư niệm trọng trọng lan

Khảo nghiệm diện tiền sinh tử đoạn

Túc thừa liên hoa phi cửu thiên!

Tạm diễn nghĩa:

Tất cả đều nói tu luyện vừa khó khăn vừa gian khổ

Tâm người thường và ý niệm ích kỷ chắn hết đường

Khảo nghiệm xem có xả bỏ được [chấp trước] sinh tử hay không

Bước lên đài sen và bay lên chín tầng trời!

Lời kết: Mục đích của bài viết này không phải là để tuyên dương điều gì cả, mà là để kể lại việc chúng ta đã kiên định trong chính tín với Phật Pháp như thế nào khi chúng ta tu luyện ở những đời trước trong lịch sử.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Năm 1912, tờ Thông Thiên Học tạp chí "Ubtra" (Revue Théosophique), dưới ngòi bút của Ðại Úy Florendo Battista, người nước Ý, có thuật chuyện lạ dưới đây:

Tháng 8 năm 1905, lời của Ðại Úy, tiện nội có mang vừa được ba tháng. Trong khi nằm trên giường còn thức, bỗng thấy đứa con gái chúng tôi chết hơn 3 năm rồi, hiện hình về nói với mẹ nó: "Nầy má, con sẽ trở lại với má đa". Nói xong nó liền biến mất. Tiện nội đem chuyện lạ ấy thuật lại tôi nghe và nói nếu thiệt sanh con gái, thì nên đặt tên là Blanche, tức là tên đứa gái đã qua đời. Tôi cho là chuyện mộng mị và mặc dầu không tin, tôi vẫn hứa cho tiện nội vui lòng. Phải biết, thuở giờ, tôi không chịu tin cái thuyết đầu thai nhiều kiếp.

Sáu tháng sau, tiện nội quả sanh được một đứa gái giống hệt con Blanche, vợ tôi hết sức vui mừng. Sự giống nhau đó, đối với tôi, không có chi là lạ, vì tôi tự nghĩ hễ có mang mà mơ tưởng đến ai, khi sanh con, nó giống người ấy, thế thôi.

Lúc con bé được sáu tuổi, nó càng giống thêm chị nó, cho tới lời ăn tiếng nói và nết na cũng vậy. Tuy nhiên tôi không thế nào tin đuợc con Blanche chuyển kiếp. Kịp đến khi xảy ra chuyện lạ dưới đây, tôi mới chịu đổi ý kiến.

Nguyên hồi trước chúng tôi giao con Blanche cho một chị vú chăm nom tên Marie, người nước Thụy Sĩ nói rành tiếng Pháp, mỗi lần ru em ngủ, Marie thường hát bài "Cantilène" bằng tiếng Pháp.

Sau khi con bé tôi bất hạnh, chị vú không còn phận sự nên xin về xứ. Từ đó, trong nhà tôi, không còn nghe bài hát ấy nữa, vả lại, có ai biết hát đâu?

Chín năm lặng lẽ trôi qua, một hôm vợ chồng tôi đang loay hoay làm lụng khít bên phòng con Blanche em, bỗng nghe có tiếng ai hát bài "Cantilène" trong phòng ấy.

Ngạc nhiên đến cực độ, chúng tôi không ai bảo ai, bước vội vào phòng, thấy con Blanche em, mắt mở trao tráo, miệng hát bài ru em ấy theo giọng Pháp một cách đường hoàng đứng đắn thật là lạ.

Tiện nội hỏi nó hát bài gì, nó đáp hát bài hát tiếng Pháp (mà có ai dạy nó tiếng Pháp đâu?)

Mẹ nó lại hỏi ai dạy nó hát, thì nó nói: "Không ai dạy hết tự một mình nó biết mà thôi".

Từ đây tôi mới chịu tin có kiếp Luân hồi.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Câu chuyện có thật về luân hồi: Thông linh bảo ngọc

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] ‘Bảo ngọc’ mà tôi nói tới không phải là miếng ngọc bội quý giá được đeo bởi nhân vật Giả Bảo Ngọc trong truyện Hồng Lâu Mộng. Đó là một vật vô cùng quan trọng ở một trong những kiếp luân hồi của tôi.

Câu chuyện bắt đầu từ phủ Bảo Định, tỉnh Hà Bắc trong một ngày mùa hè dưới thời Chánh Đức (1505-1521 sau công nguyên) ở triều Minh. Một ngày, trong phủ tổ chức một buổi họp chợ lớn ngoài trời náo nhiệt mà thu hút rất nhiều người mua và người bán. Một lão nhân khoảng 60 tuổi cũng tới khu chợ. Bà đến từ một gia đình văn nhân và là người có học thức, nhưng sau này gia đình bà lụn bại dần. Chồng của bà chết 5 năm trước và bà đã mất liên lạc với con cái, không biết rằng chúng còn sống hay đã chết. Do vậy, bà phải tự chăm sóc lấy bản thân và thường tới khu phố để mua sắm vật dụng đã 5 năm nay. Hôm đó là một ngày nắng đẹp, nhưng sau đó trời bắt đầu đổ mưa phùn. Sau khi mua một vài vật dụng cần thiết, vị lão nhân vội vã trở nhà bà ở Ngọc Lâm Bảo, một khu ngoại ô cách phủ Bảo Định khoảng 65 dặm. Trên đường về nhà, cơn mưa phùn chuyển thành cơn mưa rào. Lão nhân trông thấy một ngôi miếu đổ nát bên đường và bà nhanh chóng chạy vào bên trong để trú mưa.

Sau khi lão nhân bước vào trong sảnh ngôi miếu, bà nhận thấy rằng đây là một ngôi miếu thờ Phật Di Lặc. Không có tăng nhân nào ở bên trong và mọi thứ đều bị phủ lên một lớp bụi dày. Dường như đây là một ngôi miếu bị bỏ hoang. Đột nhiên lão nhân nghe thấy tiếng một đứa bé đang khóc trên chiếc bàn dùng để đựng đồ cúng dường. Bà lần theo tiếng khóc và thấy một đứa bé trai được bọc trong một tấm chăn. Đứa bé trông thật thanh tú và khả ái. “Không biết ai đã để quên đứa bé này ở đây nhỉ?” lão nhân tự hỏi. Bà giở tấm chăn ra và trông thấy một bức thư cùng một đôi ngọc bội được giấu bên trong. Trong thư viết: “Tôi là một thiếu nữ thuộc một gia đình danh tiếng ở phủ Bảo Định. Phụ mẫu tôi đã hứa gả tôi cho một gia đình, do đó tôi không thể cưới người đàn ông mà tôi thực sự yêu. Một năm trước, tôi có hẹn hò với người đàn ông đó vào ban đêm và tôi đã có mang sau đó. Tôi vô cùng xấu hổ với chính mình. Tôi không thể về đối mặt với gia đình, nhưng tôi cũng không muốn trốn đi cùng người đàn ông kia. Tôi đã quyết định để lại đứa bé trước tượng Phật trong dịp họp chợ lớn [Họp chợ lớn – ‘đại tập’, trong tiếng Trung phát âm giống với ‘đại cát’ – may mắn lớn]. Tôi xin những người hảo tâm hãy thu nhận đứa bé này. Hài tử được sinh vào mùng 8 tháng đông năm ngoái. Tôi đã không được thấy nó được sinh ra với miếng ngọc bội bởi vì tôi bất tỉnh khi lâm bồn. Nhưng khi tỉnh dậy, tôi trông thấy miếng ngọc bội trên ngực nó. Đó phải là một kho báu quý giá. Có lẽ đó là dấu hiệu chỉ ra đứa bé đến từ một nơi rất cao. Tôi mong nó sẽ được mạnh khỏe và vượt qua mọi tai ương. Tôi đã để lại một chút vàng bạc làm phí tổn để nuôi nó trưởng thành. Sau khi tôi viết xong bức thư, có lẽ tôi sẽ gieo mình xuống sông tự vẫn. Chừng nào đứa bé tìm được một gia đình tốt nhận nuôi nó, tôi sẽ vui lòng nhắm mắt…”

Lão nhân bày tỏ cử chỉ thể hiện sự đồng cảm với người thiếu nữ xấu số. Rồi bà nhặt miếng ngọc bội lên và nhìn nó kỹ hơn. Đây là một miếng ngọc trong veo và đẹp đến nỗi không có một chút tỳ vết. Nó vô cùng tròn trịa và hơi lớn hơn đồng xu một chút. Có một cái lỗ tròn ở bên trong nó để người ta có thể xỏ một cái dây qua và dùng làm đồ trang sức. Sau khi xem xét kỹ càng, lão nhân nhận thấy có nhiều thứ đang chuyển động và cả các vị Thần ở bên trong miếng ngọc. “Đây phải là một miếng thông linh bảo ngọc [1],” lão nhân tự nói với chính mình. Bà bật khóc, bế đứa bé lên rồi cất miếng ngọc đi. Rồi bà nhìn qua cửa sổ và thấy cơn mưa rào đã tạnh. Bà nghĩ: “Chiếc chăn này quá mỏng. Nếu ta mang đứa bé ra ngoài trong một chiếc chăn mỏng thế này, nó sẽ bị cảm lạnh mất. Liệu còn cái chăn nào lớn hơn và dày hơn không nhỉ.” Và rồi một vệt sáng màu vàng kim xuất hiện. Một chiếc chăn bay từ trên trời xuống. Nó không quá dày hay quá mỏng. Nó không cháy khi bị quăng vào trong lửa. Nó cũng không thấm nước khi bị ném vào trong nước. Ngoài ra, có một ký tự “duyên” bằng tiếng Trung Quốc được thêu lên đó. Lão nhân nhanh chóng lượm tấm chăn lên. Lúc ấy bà đã tin rằng đứa bé phải đến từ trên thiên thượng. Với đứa bé trong tay, bà quỳ xuống rồi khấu đầu trước tượng Phật Di Lặc. Bà bảo đảm với Phật Di Lặc rằng bà sẽ chăm sóc tốt cho đứa bé. Rồi bà ẵm đứa bé về nhà của bà ở Ngô Linh Bảo.

Chăm sóc một đứa trẻ nhỏ thường là một công việc mệt nhọc và đòi hỏi cao. Nhưng đứa bé rất dễ thương và hiền lành. Nó hầu như không bao giờ khóc hay la hét om sòm. Nó lớn lên ngày qua ngày. Lão nhân vô cùng xúc động. Vì dường như đứa bé có một tiền duyên to lớn với Phật Di Lặc, bà đã đặt tên đứa bé là Thuận Duyên, có nghĩa là ‘tùy theo duyên phận’ ở tiếng Trung Quốc. Tiểu Thuận Duyên gọi vị lão nhân là ‘bà’. Lão nhân cười vui suốt cả ngày với nó như thể bà không thể hạnh phúc hơn khi có một đứa cháu trai. Bảy năm đã trôi qua nhanh chóng.

Một buổi trưa vào mùa xuân, trong khi tiểu Thuận Duyên đang chơi đùa trong sân nhà, một tăng nhân đi vào sân với một cái bát khất thực cầm trên tay phải. Vị tăng nhân trông rất uy nghiêm và có một thần thái vô cùng ngay chính. Tiểu Thuận Duyên nhận thấy ông rất quen thuộc và tiến đến bên ông. Nó cầm tay ông rồi dẫn ông vào trong nhà. Nó gọi lão nhân: “Bà ơi, chúng ta có khách! Chúng ta có khách!” Lão nhân dừng việc nấu ăn và rồi chạy ra ngay. Khi bà trông thấy một tăng nhân đang khất thực, bà bèn mời ông vào trong. Vị tăng nhân rất thẳng thắn và cởi mở. Ông ngồi trong phòng khách rồi nói với bà: “Tôi tới đây để xin một bữa ăn và để nói một chuyện quan trọng. Bà phải dưỡng dục đứa trẻ thật tốt bằng cách dạy nó lễ nghĩa để nó trọng đức hành thiện. Bằng cách này, khi thập ác [2] đầu độc thế gian, tiền duyên với Phật Pháp của nó sẽ khởi tác dụng và lại dẫn nó đến với Phật Pháp, và cả hai người sẽ được đắc độ khi đức Chuyển Luân Thánh Vương ở cõi người. Tôi hy vọng rằng bà sẽ chú ý đến những lời tôi nói. Hãy nhớ lấy! Hãy nhớ lấy!” Lão nhân hỏi: “Đây có phải là thế giới thập ác trong thời kỳ mạt pháp và Phật Thích Ca Mâu Ni đã đề cập tới không?” Vị tăng nhân đáp: “Thiên cơ không thể tiết lộ. Bà sẽ biết khi thời điểm tới. Thật bất ngờ, mẹ của đứa bé vẫn còn sống. Cô ấy đã trở thành một ni cô và tu hành trong một nữ tu viện Phật giáo. Đừng nghĩ đến chuyện tìm cô ấy bây giờ vì tất cả sẽ có cơ hội nghe đức Chuyển Luân Thánh Vương giảng Phật Pháp.” Sau khi nói xong những lời này, ông bước đi với một bát đựng đầy cơm và rồi mất hút trong tầm mắt.

Vị lão nhân nghĩ về việc làm sao bà có thể giáo dục Thuận Duyên cho tốt trong suốt đêm hôm đó và cuối cùng bà nhớ rằng chồng bà biết một tiên sinh họ Triệu ở phủ Bảo Định, người đã từng là thầy dạy học. Triệu viên ngoại là người rất hiền đức và có học vấn uyên bác. Bà nhân cơ hội buổi họp chợ lớn để tới phủ Bảo Định và bà cũng đưa Thuận Duyên đi cùng để gặp Triệu viên ngoại. Sau khi bà kể chi tiết cho Triệu viên ngoại nghe câu chuyện về Thuận Duyên kể từ ngày bà nhận nuôi, Triệu viên ngoại đồng ý dạy học cho Thuận Duyên tại nhà ông ngay lập tức. Kể từ ngày đó, Thuận Duyên ở cùng với Triệu viên ngoại để được ông dạy dỗ tại nhà. Triệu viên ngoại dạy cậu bé các kiến thức về kinh điển và lễ nhạc. Trong thời gian rảnh rỗi, Thuận Duyên giúp các việc lặt vặt cho gia đình Triệu viên ngoại như là quét tuyết và nhổ cỏ, và được cả ông cùng gia đình ông quý mến. Khi Thuận Duyên lên 13 tuổi, một bệnh dịch lan khắp các thôn trang quanh phủ Bảo Định. Lão nhân bị nhiễm bệnh và qua đời. Trước khi bà qua đời, Triệu viên ngoại đưa Thuận Duyên đến thăm bà. Bà nhân cơ hội đưa lại bức thư từ người mẹ đẻ của Thuận Duyên, miếng ngọc bội cùng tấm chăn khác thường cho Thuận Duyên và nói cậu bé đừng bao giờ để mất chúng. Bà cũng nói cậu bé phải trở thành một người có học thức và là người tốt. Điều quan trọng nhất là, bà nói với Thuận Duyên rằng cậu bé phải đắc Pháp khi đức Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế phổ truyền Pháp và họ sẽ gặp lại nhau lúc đó. Không lâu sau khi họ gặp gỡ, lão nhân qua đời. Khi Thuận Duyên nghe tin, cậu bé đã phải vượt qua nỗi buồn này. Cậu bé chôn cất lão nhân trong nước mắt và vái ba vái trước mộ của bà.

Sau khi Thuận Duyên trở về từ mộ của bà, Triệu viên ngoại nói: “Con ơi, con cực kỳ xuất chúng và đã vượt qua ta. Ta biết một cao nhân họ Tăng là người có học thức cao và rất tài năng. Tiên sinh sống cách đây 100 dặm. Ta đã quyết định đặt con dưới sự giám hộ của tiên sinh. Tăng tiên sinh thực ra là một tu sĩ Phật gia. Ông rất tinh thông về thiên văn, lịch sử và pháp thuật, nhưng ông không phải là một tăng nhân. Thực ra, tiên sinh có gia đình với vợ và một đứa con gái. Con gái ông ngang tầm tuổi con. Ông ấy có nhiều điều hơn là một ẩn sĩ sống trong một túp lều tranh. Con sẽ thấy điều ta nói khi con đến đó. Thực ra, ‘túp lều tranh’ đó còn hơn cả nhà của ta. Ông ấy cũng có rất nhiều bạn bè. Tại sao con không gói ghém mọi thứ ngay ngày hôm nay? Chúng ta sẽ xuất phát vào ngày mai.” Thuận Duyên nói: “Con sẽ không bao giờ quên ơn bác như là người từ tâm lớn với con. Nhưng sau khi con rời đi, ai sẽ đến quét tuyết và nhổ cỏ cho bác?” “Con ngốc ơi. Đây là lỗi của ta khi không học đủ rộng để dạy dỗ con. Để nói với con sự thật, ta cảm thấy rất miễn cưỡng. Ta có một ý này. Khi con đắc Pháp từ đức Chuyển Luân Thánh Vương vào thời mạt pháp, con phải nói với ta điều đó để ta cũng có thể đắc Pháp. Con nghĩ sao?” Thuận Duyên đáp: “Con sẽ làm vậy. Nếu bác không tin tưởng con, hãy bắt tay để giữ lời hứa.” Thuận Duyên cuối cùng ngừng khóc và cười lên trong hạnh phúc.

Ngày hôm sau, tiểu Thuận Duyên và Triệu viên ngoại đi trên một chuyến xe ngựa đến nhà Tăng tiên sinh. Sau khi họ đến nơi, khi Triệu viên ngoại sai người ở gõ cửa thì Tăng tiên sinh bất ngờ xuất hiện trên bục cửa và bái kiến họ. Tăng tiên sinh nói: “Tôi biết ông sẽ đến hôm nay! Thật là một chuyến đi dài!” “Xin mời vào!” Tăng tiên sinh nói. Khi mọi người an tọa và uống trà, Tăng tiên sinh giải thích với họ về điều đã xảy ra.

Tiên sinh nói: “Ngày hôm qua, vợ tôi, con gái tôi và tôi mỗi người đều có một giấc mơ về miếng ngọc quý. Ông biết rất rõ về gia đình tôi, nhưng có một điều quan trọng mà ông chắc hẳn không biết. Vào ngày mà con gái tôi sinh ra, một miếng ngọc bội xuất hiện trên ngực của nó. Sau khi con gái tôi biết nói, nó nói với tôi rằng đó hẳn phải là một đôi ngọc bội mà miếng kia thuộc về một người khác. Đêm hôm qua, con gái tôi nằm mơ thấy một đôi ngọc quý được treo trên hành lang nhà tôi. Tôi thì nằm mơ thấy hai đứa trẻ đang chơi đùa bên Điện Ngọc trên Thiên Đình. Rồi một giọng nói âm vang và mạnh mẽ vang lên từ trên thiên thượng: ‘Ta sẽ đi phổ truyền Pháp nơi cõi người. Những ai muốn nghe đức Chuyển Luân Thánh Vương giảng Pháp nơi cõi người phải xuống thế giới con người cùng ta!’ Rồi hai đứa trẻ quỳ xuống và phát nguyện xuống thế giới con người. Để gặp lại nhau nơi cõi người, chúng đã mang theo một đôi ngọc bội để chúng có thể tìm thấy nhau. Khi tôi tỉnh giấc vào buổi sáng, tôi có một linh cảm rằng những vị khách quý sẽ tới nhà tôi hôm nay. Ông thấy không? Ông đã tới đây hôm nay!” Triệu viên ngoại ngạc nhiên đến sững cả người. Ông khó có thể tin được một điều kỳ lạ như thế có thể xảy ra trên thế gian này. Tăng tiên sinh hỏi: “Thuận Duyên có mang miếng ngọc theo bên mình không? Tôi có thể xem nó không?” Thuận Duyên bèn lấy miếng ngọc từ trong túi và kể cho Tăng tiên sinh nghe về câu chuyện từ khi cậu bé sỉnh ra. Tăng tiên sinh xem xét miếng ngọc hết sức cẩn thận. Ông la lên: “Nó giống hệt với miếng ngọc bội của con gái tôi!” Sau khi nghe xong câu chuyện của Thuận Duyên, ông gọi vợ và con gái ra để gặp họ.

Ngay khi tiểu Thuận Duyên trông thấy con gái của Tăng tiên sinh, Tiểu Như, cậu bé hành xử như thể cậu bé cuối cùng đã tìm thấy thân nhân trong gia đình, người mà đã xa cách trong một thời gian dài. Cậu bé bật khóc và không thể thốt lên lời nào. Tiểu Như cũng xúc động không kém. Sau khi quan sát phản ứng của hai đứa trẻ, Tăng tiên sinh tuyên bố: “Không phải nói thêm câu nào nữa. Kể từ bây giờ, Thuận Duyên là con rể ta. Ta sẽ cho Tiểu Như thành thân với cậu bé khi nó lớn lên. Khi Thuận Duyên vượt qua được kỳ thi khoa cử, chúng ta sẽ làm đám cưới. Ta chắc chắn sẽ khiến Thuận Duyên trở thành một đấng trượng phu có học vấn và đạo đức.” Sau khi từ biệt Triệu viên ngoại, Tăng tiên sinh bắt đầu dạy Thuận Duyên các kinh điển của đạo Khổng, lễ nhạc, phương pháp tu luyện của Phật gia và thậm chí là cả pháp thuật Đạo giáo.

Khi Thuận Duyên lên 18 tuổi, Tăng tiên sinh cho cậu tham dự kỳ thi khoa cử. Tăng tiên sinh có hai mục đích. Ông muốn Thuận Duyên đạt được công danh. Ngoài ra ông cũng muốn Thuận Duyên giúp Triều đình khôi phục lại lễ nghĩa trong thiên hạ. Thuận Duyên đã vượt qua được kỳ thi hương, thi hội rồi tới thi đình. Cậu đậu kỳ thi đình ở vị trí thứ hai (bảng nhãn). Điều đó xảy ra khi Bộ Lễ còn khuyết một chức quan, và cậu được bổ nhiệm làm chức Lễ Bộ Thị Lang. Trước khi cậu nhậm chức, cậu trở về phủ Bảo Định thăm lại Triệu viên ngoại và cưới Tiểu Như. Trước khi cậu và Tiểu Như đi nhận chức vụ, Thuận Duyên nói với Tăng tiên sinh và Tăng phu nhân rằng: “Nhạc phụ, nhạc mẫu, tại sao hai người không đi cùng chúng con và tận hưởng vinh hoa phú quý?” Tăng tiên sinh đáp: “Mẹ và cha các con đã quen sống trong túp lều tranh này. Chúng ta không thích thú cuộc sống nơi thế gian. Giờ con gái ta đã trở thành vợ của con. Ta mong con sẽ đối xử tốt với nó. Nhưng ta nghĩ ta cần xây thêm hai túp lều tranh nữa. Có như vậy, các con mới có chỗ để ở khi các con về. Hãy bảo trọng!” Thuận Duyên cùng Tiểu Như quỳ xuống và khấu đầu trước Tăng tiên sinh và Tăng phu nhân. Rồi họ lên xe ngựa và rời đi. Tăng phu nhân rất buồn và không muốn phải xa họ. Bà lầm bầm với chính mình: “Khi nào thì chúng trở về?” Tăng tiên sinh nói với vợ một cách lạc quan: “Chúng sẽ trở về. Chúng chắc chắn sẽ trở về.” Trên đường tới Bắc Kinh, Thuận Duyên và Tiểu Như đi ngang qua Ngô Linh Bảo, nơi cậu đã từng sống với lão nhân. Thuận Duyên tu sửa lại ngôi mộ của lão nhân và xây một ngôi đền nhỏ ngay cạnh đó. Cậu cũng cử người chăm lo cho ngôi mộ cả ngày lẫn đêm.

Tại Triều đình, Thuận Duyên nhận chức chức Lễ Bộ Thị Lang và đã góp công lớn trong việc khôi phục lễ nhạc của quốc gia. Không may thay, sau này khi đạo đức xã hội suy đồi, nhân tâm biến dị, các tham quan đã giành được quyền lực. Thuận Duyên không thể làm gì hơn. Khoảng mười năm sau, Thuận Duyên từ quan quy ẩn. Cậu và Tiểu Như trở về ngôi nhà của Tăng tiên sinh. Ngay khi họ về đến cửa, Tăng tiên sinh nói: “Đúng như ta đã nói với các con, các con sẽ trở về vào một ngày nào đó. Ta đã xây hai túp lều tranh cho các con. Tại sao hai con không chung sống với chúng ta nốt phần đời còn lại? Trong kiếp tới và các kiếp sau, chúng ta sẽ được gặp đức Chuyển Luân Thánh Vương và đắc Pháp.” Kể từ đó, Thuận Duyên và Tiểu Như sống trong túp lều tranh mới xây và vui thú điền viên trong phần đời còn lại.

Lời kết:

Tôi đã viết bài viết này trong nước mắt. Việc biết được bao nhiêu khó nạn mà tôi đã phải chịu đựng để đắc được Pháp đã làm tôi cảm kích hơn trước sự khó nhọc mà Sư Phụ đã phải chịu đựng để phổ truyền Pháp. Các bạn đồng tu, chúng ta đã không đắc được Pháp nếu Sư Phụ không trông chừng chúng ta hay nếu chúng ta không chịu đựng rất nhiều đau khổ trong các kiếp trước! Đây là một tiền duyên cao cả và thiêng liêng mà chỉ đến một lần từ vạn cổ! Hãy cố gắng tiến bước cùng nhau trong tu luyện và trở về mái nhà yêu quý của chúng ta.

Cuối cùng, tôi sẽ nói với các bạn những nhân vật trên là ai trong kiếp này. Thuận Duyên là tôi. Tiểu Như là một bạn đồng tu mà tôi gọi là “chị gái thứ hai” của tôi. Vị tăng nhân đó chính là Sư Phụ trong kiếp này. Tôi không rõ có phải Tăng tiên sinh cũng chính là Sư Phụ trong kiếp đó hay không. Còn về Triệu viên ngoại và vị lão nhân, họ đều đã đắc Pháp. Tôi đã gặp “lão nhân” chỉ một tháng trước đây. Ngay khi tôi gặp cô ấy, tôi cảm thấy rất thân thuộc nhưng tôi không biết loại tiền duyên nào mà chúng tôi có. Một đêm tôi bước vào một giấc mộng dài. Bài viết này chính là phần tổng kết những hình ảnh trong giấc mơ của tôi. Người thiếu nữ đã sinh ra Thuận Duyên và cố gắng tự vẫn đó đã trở thành mẹ của tôi trong kiếp này, cho thấy không ai có thể thoát khỏi quan hệ nhân duyên.

Khi thời gian cho phép, tôi sẽ biên soạn và xuất bản những câu chuyện về những kiếp sống khác của tôi. Để bài viết không quá dài, tôi xin dừng bút tại đây. Nếu các bạn không tin tôi, hãy chỉ coi nó là một câu chuyện thần thoại.

Chú thích của người dịch:

[1] Thông linh bảo ngọc: Thứ ngọc quý giá và linh thiêng.

[2] Thập ác: Mười điều ác, điều Phật Thích Ca Mâu Ni đề cập đến thế giới con người trong thời mạt pháp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Luân hồi đầu thai tại Ấn Độ: Trường hợp bé Shanti Devi

( 8:04 PM | 24/12/2010 ) Trái với tưởng tượng của chúng ta, kiến thức về hiện tượng luân hồi đã có từ rất lâu trước khi tôn giáo xuất hiện và nó hoàn toàn không phải là sản phẩm của tôn giáo. Quy luật luân hồi đầu thai đã được hiểu biết từ những thời kỳ bí ẩn xa xưa, từ trước khi Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, vv… ra đời nhiều ngàn năm.

Ngay từ những thời kỳ đầu tiên của các nền văn minh cổ Ai Cập, Lưỡng Hà, cổ Hy Lạp,… hiện tượng Luân hồi tái sinh đã được đề cập đến như là một quy luật của sự sống. Những thập kỷ gần đây, ngày càng nhiều nhà khoa học có tên tuổi, các giáo sư tiến sỹ, các nhà nghiên cứu, và đặc biệt là các bác sỹ bắt đầu đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu hiện tượng luân hồi đầu thai. Trong khi đó tại khắp nơi trên thế giới hiện tượng luân hồi tái sinh vẫn liên tục xảy ra, dù các trường hợp ấy có được người ngoài cuộc biết đến hay không.

Câu chuyện có thật về cô bé Shanti Devi đã một thời chấn động toàn thể đất nước Ấn Độ. Những tờ báo lớn, đài phát thanh, các phái đoàn khoa học quốc tế ngày đó, thậm chí cả Ghandi cũng đã từng đích thân tới gặp mặt Shanti hỏi chuyện.

Posted Image

Shanti Devi (ở giữa tấm ảnh) khi còn bé

Tại Delhi, hầu như ai cũng biết chuyện bé Shanti tái sinh. Về sau ông Viresh Narair người anh ruột của Shanti đã thường đón tiếp các nhà báo, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới đến tìm hiểu và ông đã kể lại mọi chi tiết về trường hợp của em gái mình. Nhiều năm sau khi Shanti Devi qua đời, trường hợp độc nhất vô nhị của bà vẫn thu hút sự quan tâm của rất nhiều người.

Cô bé Shanti Devi sinh ngày 11/12/1926 tại Dehli, Ấn Độ. Bé biết nói vào năm 3 tuổi, chậm hơn các trẻ em bình thường khác nhiều. Bé thường trầm tư một cách lạ thường. Đôi khi những đứa trẻ khác chọc ghẹo quấy phá, ồn ào xích mích thì Shanti thường tỏ ra nhẫn nhục chịu đựng, nhưng đồng thời cũng nghiêm trang như một người lớn và dàn xếp mọi chuyện một cách êm đẹp. Một ngày, khi Shanti ngồi chung với gia đình trong bữa cơm chiều, bé bảo mẹ:

- Mẹ ơi! Mẹ nấu những món ăn khác với những gì con đã ăn lúc ở thị trấn Mathura quá. Những món này con ăn không quen. Còn quần áo cũng khác với nơi con đã sống trước đây. Mẹ biết không, gia đình con hồi đó có một tiệm bán áo quần và căn nhà con đã ở sơn màu vàng.

Mọi người trong nhà lúc đầu rất ngạc nhiên nhưng sau đó trở thành quen và không ai còn quan tâm đến đứa bé con đôi khi phát ngôn những câu “bậy bạ”… Tuy nhiên, Shanti ngày càng tỏ ra nôn nóng và năn nỉ cha mẹ dẫn mình đến thăm căn nhà cũ ở Mathura, và để thăm người chồng ngày xưa hiện vẫn còn sống ở đó.

Một nhà giáo ở Delhi nghe chuyện lạ về Shanti bèn tới tìm hiểu thực hư. Lúc đó Shanti đúng 8 tuổi. Người giáo viên này yêu cầu bé rằng nếu kiếp trước quả thật bé đã sống ở thị trấn Mathura và có chồng ở đó thì hãy thử nhớ lại tên người đó xem. Shanti liền trả lời: “Nếu cháu gặp anh ấy cháu sẽ nhận ra ngay”. Theo báo cáo ghi lại, sở dĩ Shanti không nhắc đến tên chồng là do phong tục của người Ấn theo đạo Hindu thì người vợ không bao giờ nói tên chồng mình cho người khác biết. Thế là ông giáo này bèn mua quà cho bé, và còn hứa rằng nếu bé nói ra tên người chồng tiền kiếp thì ông ta sẽ giúp bé đến thị trấn Mathura. Shanti suy nghĩ một hồi rồi xích lại gần nhà giáo và nói nhỏ vào tai ông ta: “Ông nhớ giữ kín nhé! Tên chồng cháu lúc đó là Pandit Kedernath Chowbey“.

Người cha của bé Shanti cho biết: “Chẳng có ai trong gia đình biết về những gì bé Shanti đã nói cả. Không ai muốn tìm hiểu xem căn nhà ở Mathura hay người mà Shanti nói là chồng ấy là có thật hay không! Cả nhà chúng tôi chỉ mong sao Shanti quên hết những gì cháu thường nhắc đến mà thôi”.

Về sau, ông giáo ấy lại đến lần nữa và lần này đi cùng một người có vai vế ở trường, đó là ông Lala Kishan Chand. Hai người này yêu cầu Shanti mô tả thật rõ ràng căn nhà ở Mathura, cả số nhà, tên đường nữa. Họ ghi chép lại cẩn thận và hỏi về người đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_002.gifàn ông mà Shanti bảo là người chồng tiền kiếp của mình. Sau đó, ông Chand viết một lá thư trình bày sự việc gởi tới tay Pandit Kedenmath Chowbey ở thị trấn Mathura theo địa chỉ ấy. Họ gọi đây là “một bức thư may rủi” vì họ không chắc có người và http://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_003.gifđịa chỉ như Shanti đã nói hay không.

Chẳng bao lâu sau, họ nhận được một lá thư từ thị trấn Mathura gởi đến. Tất cả mọi người trong gia đình Shanti ở Delhi khi nhận được bức thư đều vô cùng kinh ngạc vì trên phong bì có ghi rõ họ tên của người Shanti đã từng bảo là chồng mình, là Pandit Kedernath Chowbey. Khi đọc lá thư, ông Chand vô cùng sửng sốt, vì những gì viết trong thư đều khớp với những gì mà Shanti đã mô tả. Người viết thư này chính là Chowbey. Chowbey cho biết rằng anh ta có một người vợ tên là Lugdi Bai đã chết. Anh ta cũng rất ngạc nhiên về những điều mà ông Chand đã viết trong thư về chuyện Shanti. Chowbey viết thêm là anh ta sẽ nhờ một người em họ đang ở Delhi đến gặp mặt Shanti để sáng tỏ thật hư. Khoảng 2 tuần sau, người em họ của Chowbey tên là Pandit Kanjimall đã tìm đến nhà. Ngay lập tức Shanti nhận ra người em họ của chồng mình và hỏi thăm đủ chuyện về con cái, về gia đình ở Mathura, hỏi luôn cả cửa tiệm bán quần áo ở trước ngôi đền Dwarikadesh tại Mathura của nhà Chowbey. Thấy Shanti còn nhỏ nhưng lại nói chuyện như người lớn và mọi người trong gia đình cô bé cũng chưa ai từng đặt chân tới thị trấn Mathura, Kanjimall vô cùng kinh ngạc. Tất cả những gì mà Shanti mô tả đều hoàn toàn đúng sự thật.

Vào ngày 12 tháng 11 năm 1935, sau khi nhận được thư của người em họ kể lại chuyện lạ lùng về Shanti, Chowbey bán tín bán nghi, vừa nôn nao hồi hộp, vội vã đáp tàu hỏa từ Mathura đến Đề Li để gặp Shanti.

Chowbey khi đi còn dẫn theo đứa con trai nhỏ, tên là Nabanita Lall. Ngoài ra, đi theo Chowbey còn có người em họ là Kanjimall và người vợ mới mà Chowbey đã cưới sau khi Lugdi qua đời. Khi cả bốn người này tới nhà Shanti thì cô bé còn đi học chưa về.

Trong khi chờ đợi, người trong gia đình Shanti tiếp chuyện Chowbey và kể về trường hợp lạ lùng của con gái họ là bé Shanti. Khoảng một giờ sau Shanti đi học về. Bước vào nhà, cô bé ngạc nhiên vì thấy có nhiều người trong phòng khách. Shanti vừa chào khách vừa xem mặt từng người. Khi Shanti nhìn thấy Chowbey thì bỗng nhiên cô bé tỏ vẻ kinh ngạc rồi bước ngay tới ngồi gần một bên Chowbey một cách e lệ. Tất cả mọi người có mặt đều im lặng theo dõi. Người nhà Shanti chỉ vào Chowbey và nói:

- Đây là người anh cả của chồng cháu ngày xưa, cháu có nhận ra không?

Shanti vừa mân mê vạt áo vừa trả lời:

- Không phải đâu, đây là chồng của con. Con đã kể chuyện này nhiều lần cho cả nhà nghe nhưng không ai tin con cả.

Mọi người nghe Shanti nói, người này nhìn người kia, còn Chowbey thì nhìn Shanti chăm chăm. Trong khi đó, người vợ kế của Chowbey ngơ ngác như đang trải qua một giấc mơ. Shanti chợt thấy đứa con trai đứng bên Chowbey thì nắm tay nó tỏ vẻ âu yếm vừa hôn vừa khóc sụt sùi một hồi rất lâu. Shanti bảo mẹ đi tìm đồ chơi cho nó và có lẽ sợ mẹ đi tìm chậm nên Shanti đã hăm hở chạy đi lục lọi đủ mọi thứ quà http://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_004.gifđem lại cho “con”.

Cha của Shanti đã kể lại cảnh tượng lạ lùng mà ông đã chứng kiến rõ ràng khi ấy. Mặc dầu Shanti còn nhỏ nhưng phong thái, cử chỉ lời nói, nét mặt và ánh mắt đều biểu lộ rõ ràng những đức tính của một người mẹ thương con. Từ đó không ai còn xem Shanti là một đứa bé con nữa cả. Còn Shanti thì nước mắt trào ra vì sung sướng. Mọi người thấy cảnh tượng ấy cũng tự nhiên mủi lòng rơi lệ…

Mặc dù gia đình Shanti giấu kỹ không muốn để người ngoài biết về chuyện của cô bé, nhưng câu chuyện về bé Shanti vẫn chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp vùng. Nhiều người đổ xô về nhà bé Shanti để tận mắt chứng kiến câu chuyện lạ thường này.

Chiều hôm đó, Shanti vui vẻ giục mẹ làm cơm mời gia đình Chowbey và chỉ mẹ những món ăn mà Chowbey thường thích. Shanti trông thấy người vợ mới của Chowbey đeo nhiều nữ trang trước đây của mình (lúc ấy Shanti là Lugdi Devi, sau khi Lugdi mất, Chowbey đã lấy nữ trang ấy cho người vợ kế đeo).

Sau bữa cơm, Shanti mới hỏi Chowbey:

- Anh Chowbey, tại sao anh lại cưới chị ấy? Chẳng phải chúng ta đã đồng ý với nhau trước khi tôi nhắm mắt là anh sẽ không cưới vợ lần nữa kia mà?

Mọi người lại một phen kinh ngạc. Câu nói ấy hoàn toàn là của người lớn, đầy vẻ trách móc, than oán, giận hờn, với lý lẽ mà ngoài người lớn ra một đứa trẻ tuyệt đối không thể nào phát ngôn một cách tự nhiên như vậy được.

Trong khi mọi người còn đang ngơ ngác thì Chowbey đưa hai tay ôm đầu cúi gục xuống không nói một lời. Có lẽ Chowbey đang tưởng nhớ lại người vợ cũ của mình cùng những gì mà hai người đã ước hẹn thề nguyền với nhau ngày trước.

Hồi lâu, Chowbey ngẩng mặt lên nhìn Shanti và hỏi:

- Shanti đã mô tả về ngôi nhà trước đây ở thị trấn Mathura như vậy, Shanti có biết trong vườn nhà có những gì chăng?

Shanti gật đầu nói:

- Phải, tôi còn nhớ rất rõ ngôi nhà và cả khu vườn. Ở góc vườn có một cái giếng. Tôi thường ngồi bên giếng để giặt quần áo, rửa đồ đạc và tắm nữa…

Chowbey lại hỏi:

- Làm thế nào Shanti nhận ra con trai Nabanita của mình, vào giây phút Shanti qua đời lúc đó Nabanita chỉ mới được có 9 ngày thôi?

Shanti trầm ngâm một chút rồi trả lời Chowbey:

- Bởi vì Nabanita chính là cuộc sống của tôi, là cuộc đời tôi…

Ngày 24 tháng 11 năm 1935, một nhóm những người nghiên cứu về hiện tượng Shanti đến nhà cô bé và cùng đáp tàu hỏa đến thị trấn Mathura để tìm hiểu và nghiên cứu. Lúc bấy giờ câu chuyện về Shanti đã lan truyền khắp cả nước. Báo chí Ấn Độ đăng tải nhiều bài về Shanti, những tờ báo lớn nhất Ấn Độ như Indian Press, The Tej… thường dành nhiều trang lớn để kể về câu chuyện Shanti.

Cùng đi với đoàn có Shanti và cha mẹ ruột của cô bé. Trên chuyến tàu, khi gần đến nơi, Shanti thốt lên:

- Đã 11 giờ rồi, cổng đền Dwarikadesk sắp đóng đấy.

Trong câu nói ấy, Shanti đã dùng từ ngữ địa phương đặc biệt của người Ấn Độ giáo, vốn khá xa lạ đối với rất nhiều người.

Dân chúng ở thị trấn Mathura trong những ngày ấy xôn xao về chuyện cô bé tái sinh Shanti sẽ đến thăm lại nơi tiền kiếp cô bé đã sống. Báo chí Ấn Độ đưa tin ngày hôm đó có đến hơn 10.000 người tề tựu ở Sân ga của thị trấn Mathura để xem mặt bé.

Khi đó, Shanti ngồi gọn trong lòng ông Deshbandu, một thành viên trong nghị viện Ấn Độ. Bỗng Shanti thấy một người đàn ông bước về phía mình, bé liền chạy đến sờ chân người đàn ông ấy với vẻ kính trọng xong đứng sang một bên nói với Deshbandu: “Đây là người anh chồng lớn tuổi nhất của tôi khi xưa”. Mọi người nghe Shanti nói thì hết sức kinh ngạc vì quả thật người đàn ông này chính là anh ruột của Chowbey. Ông ta ở Delhi và đã đáp tàu đến Mathura thăm gia đình Chowbey vì đã nghe chuyện lạ lùng do Kanjimall kể lại và bất ngờ gặp nhóm người này ngay tại đó.

Khi bước xuống sân ga, ông Deshbandu bế Shanti lên chiếc xe ngựa chờ sẵn và bảo người đánh xe cứ nghe theo lời bé Shanti dẫn đường thử xem sao. Trên đường đi, Shanti cho biết rằng ngày xưa (khi Shanti còn là Lugdi, vợ của Chowbey) con đường dẫn tới nhà mình chưa được rải đá tráng nhựa gì cả.

Đến nơi, Shanti bảo người đánh xe ngựa ngừng lại, leo xuống đất rẽ vào một con đường rồi bước vào một ngôi nhà trồng nhiều cây cối. Shanti gặp một người Bà La Môn già liền dừng lại kính cẩn chào, xong quay lại nói với những người đi theo sau:

- Đây là cha chồng của tôi!

Trong khi đó, hai bên đường làng, dân chúng nghe tin từ trước về chuyện “Shanti về thăm ngôi nhà tiền kiếp” đã tụ tập rất đông để được chứng kiến tận mắt sự việc.

Shanti sau khi chào cha chồng thì đi ngay vào ngôi nhà một cách rất tự nhiên. Đây đúng là ngôi nhà của người cha chồng, nơi mà trong tiền kiếp, Lugdi (Shanti) đã cùng Chowbey đến ở một thời gian.

Shanti đã chỉ chỗ mà trước đây mình đã ngủ, nơi mình đã treo, móc, và cất quần áo. Shanti còn tỏ ra quen thuộc tự nhiên với những người ở trong ngôi nhà này. Điều kỳ lạ nhất là trong đám đông đứng gần nhà, Shanti đã nhận ra người anh ruột của mình ở tiền kiếp và một ông già mà Shanti gọi là anh của bố chồng.

Đến trưa, những người ở trong nhóm nghiên cứu bảo Shanti chỉ đường cho họ đến thăm ngôi nhà của vợ chồng Chowbey và Lugdi ngày trước. Cô bé đã chỉ đường một cách rõ ràng và dễ dàng. Tại đây, Shanti nói rằng ở khu vườn nhà có cái giếng và thường ngồi tắm ở đó, nhưng bây giờ không ai thấy cái giếng đâu cả. Shanti tỏ ra bối rối và suy nghĩ. Sau đó, Shanti đến góc sân dùng chân dậm dậm xuống đất và nói:

- Chỗ này này! Tôi nhớ rõ chính nơi này ngày trước có cái giếng mà…

Những người có mặt xung quanh liền lại ngay nơi Shanti đã dẫm chân lên. Họ quan sát thật kỹ và khám phá ra rằng có một phiến đá lớn tại đó và do lâu ngày cỏ, đất phủ lên nên không còn thấy miệng giếng nữa. Mấy người đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_009.gifàn ông liền cố sức đẩy phiến đá đi và miệng giếng lộ ra.

Bỗng Shanti như chợt nhớ ra điều gì nên vội vã quay vào trong nhà. Shanti gọi những người trong nhóm nghiên cứu theo mình. Lúc này có mặt cả Chowbey. Bước vào một căn phòng, Shanti chỉ xuống đất và nói:

- Đây là phòng ngủ của hai vợ chồng tôi lúc đó, tôi có đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_010.gifào xuống nền nhà của phòng này để chôn giấu một số tiền. Hãy đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_011.gifào chỗ này lên sẽ thấy cái hộp, trong đó tôi có để tiền…

Khi nền nhà http://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_012.gifđược đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_013.gifào bới lên, mọi người có mặt thấy một cái hộp đặt dưới một phiến đá nhưng khi mở hộp ra thì không thấy có gì trong hộp cả.

Shanti nhíu mày suy nghĩ rồi cương quyết nói:

- Tôi đã để tiền vào trong cái hộp này mà! Ai đã lấy tiền đó vậy?

Khi đó Chowbey có mặt tại chỗ liền nói:

- Lugdi vợ tôi có chôn hộp tiền xuống nền nhà của phòng này. Khi Lugdi chết, tôi đã phải đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_014.gifào lấy tiền trong hộp để trang trải mọi thứ.

Posted Image

Góc nhà ở Mathura của vợ chồng Chowbey, nơi Lugdi chôn giấu hộp tiền năm xưa

Shanti nghe Chowbey nói liền cúi đầu im lặng. Shanti còn chỉ căn nhà của cha mẹ mình ở tiền kiếp cho những ngưới trong nhóm điều tra nghiên cứu xem. Shanti bước chân rất tự nhiên và vững vàng lên các bậc tam cấp của ngôi nhà tựa hồ như đã ở đây hàng nhiều năm rồi. Ngay tại ngôi nhà ấy, đã có hàng mấy chục người cả đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_016.gifàn ông phụ nữ và trẻ em đứng ngồi chờ xem Shanti có thể nhận ra cha mẹ ruột tiền kiếp của mình không.

Khi chuyện Shanti lan truyền khắp nơi, gia đình Lugdi vẫn còn nhiều ngờ vực. Sau đó người nhà Lugdi (tiền kiếp của Shanti) đứng lẫn trong đám đông chờ Shanti tới, để xem cô bé có nhận ra được cha mình ở kiếp trước không? Thế rồi khi Shanti đến, cô bé đi thăm toàn thể ngôi nhà và đi ngang qua đám đông sắp thành hàng ngang đứng quanh vườn nhà. Bỗng Shanti rẽ qua đám đông, tiến lại nắm tay một người phụ nữ và kêu lên:

- Mẹ! Mẹ…

Sau đó, Shanti lại nhận ra được người cha tiền kiếp của mình đứng lẫn trong đám đông. Người Shanti nhận là cha ruột của mình ở kiếp trước chính là cha ruột Lugdi, vợ của Chowbey. Mọi người có mặt lúc bấy giờ đã la hét vang rền và vỗ tay nồng nhiệt vì đã được trông thấy tận mắt bằng chứng sống động của hiện tượng tái sinh luân hồi. Shanti còn đưa nhóm điều tra nghiên cứu đi thăm những nơi mà trước đây Shanti đã sinh sống khi còn là Lugdi. Dân chúng quanh vùng càng ngày càng đổ xô đến xem chuyện lạ. Thị trấn Mathura tự nhiên ồn ào náo nhiệt lạ thường. Bốn ngày sau đó Shanti cùng đoàn trở về Dehli. Thị trấn Mathura xa dần trong tầm mắt và càng lúc Shanti càng u buồn. Rồi vì quá mệt mỏi, Shanti ngủ thiếp đi rất lâu trên đường về.

Posted Image

Tiến sỹ K. S. Rawat chụp ảnh với Shanti Devi vào những năm cuối của đời bà

Có một điều đáng lưu ý là khi gặp Chowbey, nhà nghiên cứu Sushil Bose đã có dịp hỏi Chowbey chồng của Lugdi về tình trạng sức khỏe và bệnh tình của Lugdi ra sao đến nỗi phải chết. Chowbey cho biết vợ anh lúc đó là Lugdi bị nhiễm trùng do đạp phải một mảnh xương và chết vào 10h sáng ngày 4/10/1925. Sau đó khi trở về Dehli, ông Bose mới hỏi Shanti:

- Shanti bảo trước đây Shanti là Lugdi, vợ của Chowbey. Vậy Shanti có nhớ lúc mình là Lugdi, thì đã bị thương tích, đau ốm nguy hiểm gì trước khi qua đời không?

Shanti suy nghĩ một hồi rồi trả lời:

- Lúc ấy tôi rất sùng đạo, tôi thường hành hương nhiều nơi và hành lễ đúng thủ tục, đôi khi còn vượt xa các thủ tục đã đề ra. Một hôm, tôi đã đi bộ bằng chân không quanh ngôi đền lớn ở Harchapiri cả trăm lần. Nhưng không may tôi đã giẫm phải một mảnh xương sắc nhọn và bị nhiễm độc rất nặng. Chất độc lan vào máu và bác sĩ đhttp://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_018.gifành phải bó tay.

Khi nghe Shanti kể xong, ông Bose đã ghi vào cuốn sổ tay của mình một câu như sau:

- Không còn nghi ngờ gì nữa về hiện tượng tái sinh luân hồi trong trường hợp của Shanti Devi, một trường hợp điển hình. Tất cả những gì chính cô bé mô tả đều phù hợp hoàn toàn với thực tế. Đó là http://tin180.com/khoahoc/files/2010/12/Lu...180.com_019.gifđiều khẳng định sự thật hiển nhiên rằng Shanti là kiếp sau của Lugdi và Lugdi chính là tiền kiếp của bé Shanti.

Posted Image

Trường hợp đầu thai luân hồi của Shanti Devi đã được viết thành sách và dịch ra nhiều thứ tiếng

Câu chuyện có thật về Shanti từ năm 1935 đến nay đã có rất nhiều các sách vở và các tài liệu ghi chép được lưu trữ tại các văn khố và thư viện quốc gia khắp thế giới. Tài liệu “Shanti” được xem là tài liệu mẫu mực bậc nhất cho các nhà nghiên cứu về tiền kiếp và hậu kiếp tham khảo.

Trước khi Shanti lìa đời 3 hôm, Shanti đã nói với anh mình: “Em nghĩ em luôn luôn là người chung thủy, trước sau như một với chồng em, cho dù anh ấy là chồng kiếp trước của em. Hơn nữa anh ấy vẫn còn sống, vì thế em không muốn tái sinh lại lần nữa”.

Được biết suốt đời Shanti sống độc thân không lấy chồng cho đến ngày nhắm mắt. Bà mất ngày 27/12/1987, hưởng thọ 61 tuổi.

Minh Trí

(tổng hợp)

Theo tin180.com

Share this post


Link to post
Share on other sites

Câu chuyện có thật về luân hồi: Bỏ mạng nơi hoang dã

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

Lời mở đầu:

Đây là một phần của câu chuyện về cá nhân tôi trong suốt quá trình lịch sử, về việc tôi đã nhận quả báo như thế nào sau khi làm những điều xấu ác. Mục đích của tôi khi viết ra bài này là để minh chứng rằng, khi bản thân chúng ta chấp trước vào những sai lầm và thiếu sót của người khác, chúng ta nên suy nghĩ cẩn thận về nó. Có thể chính chúng ta cũng đã từng phạm phải những tội lỗi nghiêm trọng trong quá khứ. Tuy nhiên, Sư Phụ từ bi đã không để ý tới những việc làm xấu ác trong quá khứ của chúng ta. Chúng ta nên đánh giá một người một cách toàn diện, và chắc chắn không nên thu hẹp phạm vi bằng cách đánh giá người đó trong một khoảng thời gian nhất định hay riêng về khía cạnh nào đó. Miễn là họ có thể làm tốt trong hiện tại, và khắc phục được lỗi lầm, thì họ vẫn xứng đáng được đánh giá cao! Tất nhiên, nguyên tắc của vũ trụ ‘thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ vẫn là điều mà không sinh mệnh nào có thể chống lại! Bây giờ hãy trở lại câu chuyện của tôi.

Câu chuyện xảy ra là trong thời nhà Tùy (581 – 618 sau công nguyên). Kênh đào lớn Kinh Hàng đang được xây dựng vào khoảng thời gian đó, và đã mang đến sự ảnh hưởng và thịnh vượng cho khu vực Dương Châu. Có một tiên sinh họ Hà sống tại thành phố Dương Châu. Ông là người rất thành thật và trung hậu. Ông và vợ của ông làm việc rất chăm chỉ trong cửa hàng lụa tơ tằm của họ. Họ chỉ có một người con trai tên là Hạ Dương. Gia cảnh của gia đình rất khá giả. Tuy nhiên, Hạ Dương khá hư đốn từ khi còn nhỏ và cậu bé đã phát triển rất nhiều tật xấu. Hơn nữa, Hạ Dương có một bản tính nổi loạn vô cùng đặc biệt. Cha mẹ của cậu đã mời về các lão sư (thầy giáo) để giáo dục cậu, nhưng cậu luôn muốn đi chơi và không bao giờ tập trung vào việc học tập. Sau đó, cha cậu đã mời về một lão sư dạy võ để dạy cậu võ thuật. Một thời gian sau, vị lão sư này nhận thấy rằng Hạ Dương không có đủ đức hạnh để học võ thuật; cậu rất tàn ác và muốn gì là làm nấy. Vì vậy, lão sư chỉ dạy cậu một số kỹ năng võ nghệ nông cạn bề ngoài. Ông nói với Hạ Dương: “Con đừng nên làm bất cứ điều gì xấu. Nếu không con sẽ hại người khác, cũng như hại chính mình đó.” Sau đó, vị lão sư rời đi. Vào lúc đó, Hạ Dương đã gần hai mươi tuổi. Cậu rất khỏe mạnh cường tráng và không sợ bất cứ ai. Một ngày nọ, cậu cãi cọ với cha cậu chỉ vì một điều nhỏ nhặt. Rồi cậu rất tức giận và bỏ nhà ra đi mà không hề nói với cha mẹ câu nào.

Ngay sau khi rời khỏi nhà, cậu đã kết bằng hữu với một đám côn đồ loạn đảng. Bởi vì cậu biết một chút võ nghệ, cậu đã trở kẻ cầm đầu của băng đảng nhỏ này. Những kẻ lưu manh dành phần lớn thời gian của chúng vào việc tiệc tùng, uống rượu, bài bạc và ăn chơi trụy lạc. Không lâu sau, chúng đã tiêu hết số tiền mà chúng có, rồi bắt đầu đột nhập vào nhà dân chúng để trộm cắp tài vật và cưỡng hiếp các cô gái xinh đẹp. Trong một thời gian ngắn, chúng đã khuấy động khắp thành Dương Châu và nơi này bị rơi vào cảnh náo loạn. Lời than vãn của toàn dân trăm họ được nghe thấy ở khắp mọi nơi. Sau khi cha mẹ cậu nghe được tin cậu đã làm những điều độc ác như vậy, họ vô cùng tức giận rồi lần lượt qua đời. Sau đó, quan phủ đã truy bắt những kẻ lưu manh trong băng đảng này và hành quyết chúng. Hạ Dương không có mặt ở đó khi những kẻ đồng bọn bị bắt, và cậu ta đã may mắn thoát khỏi tai họa. Thay vì phản tỉnh sau bài học này, cậu ta vẫn tỏ ra không hề hối cải. Sau khi lẩn trốn trong vòng một năm, cậu ta bắt đầu tác oai tác quái trở lại, và với thủ đoạn còn hạ lưu và tàn nhẫn hơn nữa.

Một ngày nọ, vào lúc trời nhá nhem tối, cậu ta lẻn vào tư gia của gia đình Triệu viên ngoại, một điền chủ giàu có. Thật tình cờ, tiểu thư nhà họ Triệu đang chuẩn bị xuất giá trong hai ngày nữa, và căn nhà được trang hoàng bằng đèn lồng, giấy màu, với bầu không khí tràn đầy niềm phấn khởi và hạnh phúc. Sau khi Hạ Dương phát hiện ra điều này, cậu ta nghĩ rằng: Ta nghe nói rằng tiểu thư nhà họ Triệu xinh đẹp như hoa như ngọc, nếu ta có thể…. Ta có thể được cả người đẹp lẫn tiền bạc! Vì vậy, cậu ta đã lẻn đến khuê phòng của Triệu tiểu thư, vận dụng mánh khóe của mình bằng cách liếm ướt giấy dán cửa sổ, sau đó chọc thủng một lỗ nhỏ ở đó để quan sát. Khi nhìn vào bên trong thông qua cái lỗ nhỏ đó, cậu ta thấy Triệu tiểu thư đang ngồi bên cạnh một chiếc bàn và làm một số việc thêu thùa. Cô đang thêu một cặp vịt uyên ương chơi đùa trên mặt nước. Ngay lúc ấy, Triệu tiểu thư ngẩng đầu lên và tủm tỉm cười một mình. Có lẽ cô đang nghĩ tưởng về tương lai tươi sáng và hạnh phúc của mình. Vẻ đẹp của cô đã làm cho Hạ Dương vô cùng sửng sốt. Có thể nói rằng sự kiều diễm của cô khiến cho mặt trăng bị lu mờ và làm cả nụ hoa phải xấu hổ. Sự mỹ lệ của cô có thể khiến cho chim sa cá lặn, và thậm chí một nàng tiên trên thiên giới cũng phải e thẹn khi so sánh với dung nhan của cô! Sự mỹ lệ của cô đơn giản là ngoài sức mô tả. Hạ Dương cảm thấy khó cưỡng lại trước vẻ đẹp của Triệu tiểu thư. Và sau đó, cậu ta đã quyết định sử dụng một phương pháp mà giới giang hồ coi là hạ lưu đê tiện nhất. Cậu ta đã thắp lên một loại hương mà có thể làm cho người ta rơi vào trạng thái mê man. Một lúc sau, Triệu tiểu thư bắt đầu hắt hơi rồi ngã xuống sàn. Sau khi Hạ Dương thấy mình đã thành công, cậu ta nhảy vào phòng của Triệu tiểu thư qua đường cửa sổ, thổi tắt nến và bế cô lên giường. Trong khi cưỡng hiếp cô, cậu ta còn nói: “Triệu tiểu thư, nàng là người trinh nữ thứ năm mà ta đã cưỡng hiếp!” Đúng lúc ấy, đột nhiên có tiếng nói vọng từ bên ngoài: “Tại sao ánh nến trong phòng Triệu tiểu thư lại bị tắt vậy? Tại sao cửa sổ lại mở toang thế này?” “Không tốt rồi! Khẳng định là tên thái hoa dâm tặc đã đột nhập vào phòng tiểu thư! Tên tiểu tử lưu manh đó không có điều ác nào là không làm! Người đâu!!” Và sau đó người ấy hô hoán lên để báo động cho gia nhân chạy tới lùng bắt Hạ Dương. Sau khi Hạ Dương nhận thấy hành vi đồi bại của mình đã bị phát hiện, cậu ta nhanh chóng mặc quần áo vào rồi lao ra khỏi cửa. Nhân lúc người nhà không chú ý, cậu ta trèo qua bờ tường ở phía sân sau rồi chạy trốn.

Vừa khi cậu ta nhảy ra khỏi sân sau, những người lính gác nhìn thấy cậu ta và đuổi theo cậu ta rất gắt gao. Hạ Dương không còn cách nào khác ngoài việc cắm đầu chạy thục mạng theo những ngõ hẻm cũng như tìm mọi cách để trốn thoát. Rồi cậu ta chạy tới một nơi hoang vu. Khi ấy cậu ta quay lại nhìn và thấy rằng không còn một ai ở phía sau. Cậu ta muốn ngồi xuống và nghỉ một chút. Ngay lúc đó, cậu ta trông thấy một người tiến đến gần. Người này được giang hồ biết đến với cái tên Vương Thiên Tả đại hiệp, vị hảo hán chuyên hành hiệp trượng nghĩa với một cây cương đao trong tay . Khi Hạ Dương vừa trông thấy Vương Thiên Tả, cậu ta dựng ngay dậy và cắm đầu cắm cổ chạy. Thực ra Vương Thiên Tả không hề chú ý đến Hạ Dương cho tới khi cậu ta cố gắng chạy đi. Vương Thiên Tả bèn quan sát người đang bỏ chạy, và nhận ra đây chính là Hạ Dương, tên vô lại không điều ác nào mà không làm. Vì vậy, Vương Thiên Tả đã đuổi theo Hạ Dương và giết cậu ta bằng cây cương đao của mình. Sau đó Vương Thiên Tả vứt xác của Hạ Dương vào một nơi hoang vu, và đó là quả báo mà cuối cùng Hạ Dương đã phải nhận. Số phận của Hạ Dương giống hệt những gì mà nhà văn Ngô Thừa Ân vào triều Minh sau đó hàng trăm năm đã miêu tả trong một bài thơ (Ngô Thừa Ân là tác giả cuốn tiểu thuyết Tây Du Ký):

“Nhân tâm sinh nhất niệm,

Thiên địa tận giai tri,

Thiện ác nhược vô báo,

Càn khôn tất hữu tư!”

Phần diễn nghĩa của người dịch (tham khảo):

“Khi một niệm khởi phát từ tâm con người,

Cả trời và đất đều biết,

Thiện và ác mà không có báo ứng,

Thì vũ trụ này thật quá ích kỷ!”

Một lúc sau, Vương đại hiệp đến gặp thân nhân trong gia đình Triệu viên ngoại và gia đình họ kể với Vương đại hiệp về điều đã xảy ra. Vương đại hiệp vô cùng tức giận và anh đi tìm xác của Hạ Dương để cho thêm vài nhát chém nữa. Sau đó, xác của Hạ Dương bị ăn bởi những con chó hoang nơi rừng núi. Khi Vương đại hiệp và gia đình họ Triệu trở về nhà thì họ thấy Triệu tiểu thư đã treo cổ tự vẫn sau khi cô phát hiện ra mình đã bị cưỡng hiếp. Gia đình Triệu viên ngoại phải trải qua nỗi đau buồn khôn tả khi hỉ sự của gia đình chuyển thành tang sự.

Hãy để sang một bên việc gia đình Triệu viên ngoại tổ chức tang lễ như thế nào và trở lại với Hạ Dương. Sau khi Hạ Dương bị giết, nguyên thần của cậu ta rời khỏi thân thể. Bởi vì Hạ Dương đã làm rất nhiều điều ác khi còn sống, cậu ta bị giáng xuống địa ngục tầng thứ sáu. Sau một thời gian dài trả nghiệp ở nơi đó, cậu được chuyển sinh làm thú vật, và phải mang thân trâu ngựa trong hơn một trăm năm trong tầng thứ đó. Khi cậu phải chịu đựng đau khổ nơi địa ngục tầng thứ sáu, một vị Bồ Tát tình cờ phái thị nữ của mình đi thị sát một số nơi trong tầng thứ thấp. Sau khi người thị nữ của Bồ Tát thấy cảnh Hạ Dương phải chịu đau khổ dưới địa ngục, cô đã thưa lại câu chuyện với Bồ Tát sau khi trở về. Bồ Tát bèn sử dụng huệ nhãn của mình để nhìn thấu lai lịch của Hạ Dương. Sau đó, Bồ Tát đã nảy ra một ý tưởng nhằm giúp Hạ Dương giải quyết ác duyên của cậu với năm cô gái mà cậu đã cưỡng hiếp.

Dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì, trong thành Dương Châu, có một gia đình họ Hạ cũng có một cậu con trai tên là Hạ Dương. Cậu bé này tình tình thật thà đôn hậu, và có tài năng từ khi còn rất nhỏ. Hàng ngày, cậu làm việc siêng năng và điều hành cơ sở kinh doanh, một ngân hàng nhỏ, cùng với cha cậu. Trước khi cậu bước sang tuổi hai mươi, rất nhiều gia đình các cô gái tới gia đình họ để đề nghị kết làm thông gia. Hai cô gái đầu tiên mà cậu đã hứa hôn lâm bệnh nặng rồi qua đời. Gia đình họ Hạ bèn hỏi một thầy toán mệnh lý do, và họ nói rằng hai cô gái này đã được chùa gọi về để tu hành. Sau đó, Hạ Dương cưới ba người vợ khác. Người vợ cả đanh đá và rất hay ghen. Người vợ thứ hai thì tính tình khá tốt và là người mà Hạ Dương yêu thương nhất. Người vợ thứ ba là người đẹp nhất trong số ba người phụ nữ trên, nhưng cô ta rất yêu chuộng tiền bạc.

Hạ Dương yêu quí người vợ thứ hai của mình hơn cả. Vài năm sau, người vợ cả, do quá ghen đã nhảy xuống một cái giếng tự vẫn. Không lâu sau, người vợ thứ hai cũng qua đời vì một căn bệnh cấp tính. Những tai ương liên tiếp giáng xuống đầu Hạ Dương lớn đến mức mái tóc của cậu đã chuyển thành màu trắng ngay trước khi cậu ba mươi tuổi. Ngoài ra, cậu còn bị người khác lừa đảo trong một giao dịch buôn bán, và ngân hàng nhỏ phá sản, khiến cậu lao đao và vô cùng tuyệt vọng. Sau khi người vợ thứ ba thấy cậu đã rơi vào cảnh khốn cùng, cô ta đã gói ghém những đồ vật có giá trị vào một bao nhỏ rồi rời đi. Giờ đây, Hạ Dương không còn lại gì cả.

Tại thời điểm đó, Hạ Dương đã khóc đến cạn cả nước mắt. Cậu nghĩ, “Điều gì đã làm cho số phận của ta đen đủi đến như vậy?” Không còn sự lựa chọn nào khác, cậu đành tha hương và lưu lạc khắp nơi. Một ngày nọ, cậu nằm ngủ trên đỉnh núi Thái Sơn và đã có một giấc mộng dài. Trong giấc mộng ấy, cậu đã thấy tất cả điều ác mà cậu đã gây ra vào thời nhà Tùy. Sau khi tỉnh dậy, cậu nhận thấy rằng [luật] nhân quả báo ứng quả nhiên có thật! Vì vậy, cậu đã trở thành một đạo sĩ tu luyện trong một Đạo viện gần núi Thái Sơn.

“Ân oán vô thường nghiệp tùy thân,

Thiện ác tất báo quả thị chân,

Nhược đắc phúc báo thiện vi nhân,

Càn khôn lãng lãng thiện ác phân!”

Phần diễn nghĩa của người dịch (tham khảo):

“Ân oán không bao giờ ngớt, nghiệp vẫn đi theo mỗi người,

Thiện ác đều có báo ứng, quả nhiên là điều chân thực,

Muốn được phúc báo thì phải lấy thiện đãi người,

[Luật] Vũ trụ phân biệt rõ thiện và ác!”

Lời kết:

Người nào tinh ý thì sẽ biết ngay rằng nhân vật Hạ Dương được đề cập đến trong bài viết chính là tôi. Tôi đã từng làm rất nhiều điều ác. Tuy nhiên, Sư Phụ vẫn không bỏ rơi tôi và Ngài đã an bài cho tôi đắc được Pháp Luân Đại Pháp, một may mắn vô cùng khó gặp từ thuở xa xưa. Trong thời nhà Tùy, người trinh nữ thứ năm mà tôi đã cưỡng hiếp chính là người vợ thứ hai của tôi trong triều đại Võ Tắc Thiên. Ba trong số năm cô gái trên đã đắc Pháp trong kiếp sống hiện tại của họ, nhưng hai người còn lại, tiếc là, không đắc được thân người. Thay vào đó, họ đã chuyển sinh thành những cái cây.

Việc xem xét lại lịch sử và hiểu biết rõ ràng tất cả quan hệ nhân quả có thể xóa sạch hết thảy bụi bặm trong tâm trí của chúng ta. Bằng cách xem xét bản thân và khám phá nguồn gốc sự tồn tại của tất cả những người xung quanh chúng ta, mục tiêu cơ bản của tôi khi viết ra loạt bài về luân hồi này là để phán xét một người một cách toàn diện. Tất cả mọi thứ là để chứng thực Pháp. Con đường chúng ta đi phải thật ngay chính. Chúng ta không nên để lại bất cứ một sự hối tiếc nào và phải xứng đáng với lời thệ nguyện linh thiêng mà chúng ta đã lập trước vị Phật Chủ!!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Câu chuyện có thật về luân hồi: Đạo tặc cũng phải có ‘đạo’

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org] Hôm nay, tôi muốn chia sẻ một câu chuyện có thật về luân hồi của tôi, khi tôi còn là một đạo tặc trước khi tôi bắt đầu tu luyện và đạt viên mãn.

Câu chuyện bắt đầu vào triều đại Bắc Tống (960 –1127 sau công nguyên). Sau khi liên tục thất trận, triều Bắc Tống cuối cùng đã phải ký hiệp ước ‘Thiền Uyên’ với nước Liêu. Trong hiệp ước đó, Bắc Tống đồng ý cống nạp một số tiền lớn cho nước Liêu hàng năm. Kết quả là, Bắc Tống đã phải thu thuế cao từ người dân, làm bách tính ngày càng trở nên nghèo khổ hơn. Những người dân nước Tống sống gần biên giới giữa Tống và Liêu thì phải chịu đựng khổ cực trong suốt cả năm trời. Ngược lại, nước Liêu đã đạt đến đỉnh điểm của sự thịnh vượng vào thời bấy giờ.

Hồi ấy, tôi được luân hồi thành một vị công chúa của nước Liêu tên là Thiên Hành (天行). Thiên Hành công chúa tính tình khá rắn rỏi và mạnh mẽ. Do sinh trưởng tại phương Bắc nên công chúa có một dáng dấp tương đối đậm đà. Một lão sư tinh thông võ nghệ đã dạy võ cho Thiên Hành công chúa từ khi cô còn nhỏ. Trước khi vị lão sư dạy võ cho cô, ông đã đưa cho công chúa một thanh bảo đao sắc bén đến nỗi có thể cắt sắt ra làm đôi. Vị lão sư nói với công chúa rằng cô phải không được giết người vô cớ. Khi lão sư ra đi thì công chúa đã tròn 20 tuổi. Để lo lắng cho việc hôn sự của Thiên Hành, phụ vương của công chúa đã phải hao tổn rất nhiều tâm tư. Ông đã tìm nhiều người để cô lựa chọn nhưng Thiên Hành công chúa vẫn không ưng một ai. Công chúa cũng luôn cảm thấy sầu muộn về vấn đề hôn sự của mình.

Một ngày, Thiên Hành công chúa có một giấc mơ, trong đó một bạch diện thư sinh vô cùng khôi ngô tuấn tú đọc cho cô nghe một bài thơ:

“Xuân hoa thu nguyệt hà thời liễu,

Nhân sanh phồn hoa chi đa thiểu,

Tuế nguyệt du du thiên bách độ,

Công thành danh tựu thân thể khô.

Hà xứ thị vĩnh hằng?

Duy hữu tu luyện phương thành kim cương bất hoại thân!“

Tạm diễn nghĩa:

“Khi hoa xuân tàn và trăng thu lặn,

Sự phồn hoa nơi cõi người còn được bao lâu,

Hàng ngàn năm dần dần trôi qua,

Đến khi công thành danh toại thì thân thể đã khô mòn.

Cõi vĩnh hằng ở nơi đâu?

Chỉ có cách tu luyện thành thân thể kim cương bất hoại!”

Lúc ấy, công chúa cảm thấy vô cùng thân thiết với người thư sinh này. Đến khi cô định bước tới và chào hỏi thì người thư sinh lập tức biến mất. Cô vô cùng ngạc nhiên và choàng tỉnh.

Sau khi tỉnh dậy từ giấc mơ, cô quay sang nhìn những thị nữ của mình và thấy họ đang ngủ. Công chúa châm lên một ngọn đèn và ngắm nhìn dung mạo như hoa như ngọc của mình phản chiếu lên tấm gương đồng. Mặc dù không có dáng vẻ ‘liễu yếu đào tơ’ của một nàng tiểu thư suốt ngày ở trong khuê phòng, công chúa có một vẻ đẹp cương dương mạnh mẽ. Nhưng vì một vài lý do, cô cảm thấy không có gì là chân thật trong đó. Thời gian liên tục trôi đi như một dòng sông. Làm sao cô có thể bảo trì vĩnh viễn tuổi trẻ và nhan sắc của mình? Công chúa nghĩ về giấc mơ vừa qua và bắt đầu sầu muộn. Cô luôn luôn bất như ý về chuyện hôn nhân của mình. Đột nhiên, một quyết tâm mạnh mẽ thúc giục cô rời khỏi Hoàng cung. “Ta muốn ra đi để tìm kiếm triết lý nhân sinh.” Cô đã quyết định ra đi ngay lập tức bởi vì cô biết rằng phụ vương cô sẽ không bao giờ đồng ý. Cô đã viết một bức thư gửi cho phụ vương: “Thiên Hành sẽ rời khỏi Hoàng cung đêm hôm nay. Thưa phụ vương, xin thứ lỗi cho Thiên Hành đã không chào từ biệt phụ vương. Hài tử phải ra đi một mình để tìm kiếm chính Pháp. Hài tử sẽ tự thân giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử và thoái xuất khỏi tam giới. Đến khi tu thành chính quả, hài tử nhất định sẽ quay trở lại cứu độ song thân!”

Sau khi viết xong bức thư, Thiên Hành công chúa gạt những giọt nước mắt lăn trên má. Công chúa cưỡi trên một con kỵ mã và rời khỏi Hoàng thành với thanh bảo đao. Sáng hôm sau, những thị nữ của công chúa không tìm thấy cô đâu và ngay lập tức bẩm báo với Hoàng thượng. Sau khi đọc xong bức thư, Hoàng thượng đã khóc một lúc lâu. Phải mất một thời gian lâu sau, Hoàng hậu mới làm cho vị Hoàng đế nguôi ngoai đi. Cuối cùng, ông nói một cách lạc quan: “Thậm chí nếu Thiên Hành có ở bên ta, chúng ta cũng vẫn phải xa nhau trong vài chục năm nữa. Nếu hài tử thực sự có thể tìm được chính Pháp và thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, chẳng phải sẽ tốt hơn sao? Khi Thiên Hành còn nhỏ, nó không bao giờ thích thú với những tranh đoạt quyền lợi nơi trần thế. Nó rời khỏi Hoàng cung cũng là một việc tốt. Nó sẽ sống một cuộc sống thanh thản. Ta cảm thấy toại nguyện khi nó được hạnh phúc. Nó một thân võ nghệ và không kể nó đi đâu, không ai có thể bắt nạt nó.” Gần mười năm sau khi công chúa rời khỏi Hoàng cung, phụ vương và vương hậu của công chúa qua đời.

Sau khi Thiên Hành công chúa rời khỏi Hoàng thành, cô đi lang thang trong khoảng 2 tuần cho tới một ngày nọ, khi cô du ngoạn tới một ngọn núi cao có tên là Đại Thanh Sơn. Cô nhớ lại rằng phụ vương cô đã từng nói rằng có một sơn trại trên Đại Thanh Sơn. Theo lời kể của phụ vương, trại chủ tên là Khổng Tâm, tự xưng là ‘kim đao vô địch’ nhưng do chỉ là một người ‘hữu dũng vô mưu’ nên đã bị triều đình nhà Tống cử gian tế xâm nhập. Tên gian tế lẩn trốn tại một nơi phụ cận Đôn Hoàng và đã giết chết trại chủ. Hiện tại sơn trại trên núi đang ở trong trạng thái vô thủ [lĩnh].

Trong khi công chúa đang nghĩ về cuộc đối thoại giữa mình và phụ vương thì một đám lâu la chạy xuống núi và bao vây lấy cô. Dẫn đầu đám lâu la là một đại hán mặt đỏ với cây đại chùy trong tay. Hắn vừa chắn ngang đường vừa nói: “Xú nha đầu, mau đưa tiền ra thì bổn đại gia sẽ tha mạng cho. Bằng không, ta sẽ cho ngươi một chùy.”

“Ngươi dám à! Nếu có bản sự thì lại đây, bổn cô nương sẽ đấu với ngươi một phen!” Thiên Hành rút thanh bảo đao ra và không hề tỏ ra sợ hãi chút nào. Sau một vài phen giao tranh, cây đại chùy của tên đại hán mặt đỏ đã bị thanh bảo đao của Thiên Hành bổ ra làm đôi.

Thiên Hành nhảy lên ngựa và định rời đi, tuy nhiên tên đại hán ôm quyền rồi nói: “Xin cô nương dừng bước. Tại hạ có điều muốn thương lượng, không biết có được hay không?”

“Có gì thì ngươi cứ nói thẳng ra đi.”

“Không biết cô nương có nghe nói về việc bổn sơn trại đang trong trạng thái vô thủ [lĩnh] hay chưa. Hôm nay thấy cô nương võ nghệ siêu quần, nhất định là người hành hiệp trượng nghĩa. Chúng tôi mong cô nương lên núi làm trại chủ, huynh đệ chúng tôi nguyện nghe theo sự điều khiển của cô nương.” Thiên Hành thầm nghĩ mình đang không có nơi nào để dung thân nên đã đáp ứng yêu cầu của họ. Kể từ đó, Thiên Hành trở thành trại chủ của sơn trại.

Trong mười năm sau đó, Thiên Hành và nhóm thổ phỉ này đã giết chết nhiều tham quan trụy lạc và kẻ giàu có ăn chơi sa đọa. Họ đã bảo vệ sự công bằng cho rất nhiều người. Tuy là hành hiệp trượng nghĩa nhưng họ cũng đã giết hại rất nhiều người. Người dân quanh đó đã đặt cho Thiên Hành một cái tên – ‘bảo đao nữ hiệp’. Trong lúc nhàn rỗi, Thiên Hành thường nghĩ rằng: “Ta đã rời Hoàng cung để tầm Đạo cầu Pháp, nhưng số phận run rủi đã dẫn dắt ta trở thành cường đạo! Than ôi! Khi nào ta mới tìm được chân Pháp để tu luyện đây?”

Hai ngày sau, trong khi Thiên Hành và băng nhóm đang tụ họp trong sơn trại ăn thịt uống rượu thì một tên tiểu lâu la vào bẩm báo: “Ở dưới núi có khoảng sáu người đang đi ngang qua, trông rất giống mấy tên tham quan và nhà giàu. Liệu chúng tôi có nên ‘mãi mại’(cắt hợp đồng) với chúng?”

Thiên Hành ra lệnh: “Cứ làm như mọi khi. Tại sao nhà ngươi chần chừ thế?”

Một lúc sau, tên lâu la quay lại bẩm báo: “Chúng tôi đã giết chết tất cả bọn họ, ngoại trừ một tên có dáng dấp thư sinh. Khi chúng tôi định hạ thủ thì hắn nói rằng hãy để hắn vào nói với trại chủ ba câu rồi muốn làm gì hắn cũng được.”

Thiên Hành nói: “Kẻ nào có gan nói ra những câu này? Đem hắn lên đây. Ta muốn xem mặt mũi hắn ra sao.”

Không lâu sau, người thư sinh được đưa lên núi trong tư thế bị trói. Thiên Hành thầm nghĩ: “Dường như ta đã gặp hắn ở đâu rồi thì phải.” Nhưng cô không có thời gian để nghĩ ngợi. Cô trừng mắt nhìn anh ta rồi quát: “Nghe nói ngươi muốn nói vài lời với bổn trại chủ. Nói nhanh lên rồi chịu chết.”

Người thư sinh không có vẻ sợ hãi chút nào. Anh ta nói với Thiên Hành: “Nghe nói trại chủ được dân chúng vùng phụ cận phong cho đại danh là ‘bảo đao nữ hiệp’, nhưng hôm nay được gặp mặt mới thấy rằng cũng chỉ là hư danh.”

Thiên Hành cảm thấy rất không vừa ý. Cô hỏi: ‘Ngươi định ám chỉ điều gì?”

“Người hành hiệp trượng nghĩa không bao giờ lạm sát người vô tội. Nhưng hôm nay cô nương không thèm hỏi xem tại hạ là ai, đây có phải là tùy tiện giết người hay không?”

Thiên Hành đáp: “Được rồi, để ta hỏi ngươi mấy câu. Tại sao ngươi lại đi cùng những người đó?”

“Tại hạ là nhân sĩ vùng Liêu Đông, tên là Lý Bằng Phi. Tại hạ đi học từ thuở còn nhỏ, sau đó được gặp một vị sư phụ dạy cho pháp môn tu luyện. Sư phụ từng nói với tại hạ hãy đi lên núi Hoa Sơn để tìm gặp một cao nhân dạy cho cách thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Trên đường tới núi Hoa Sơn, tại hạ gặp những viên quan và người giàu có đó rồi đi cùng với họ. Bây giờ đến lượt tại hạ hỏi cô nương vài câu hỏi. Thứ nhất, khi nào thì cô nương ngừng việc sát nhân? Thứ hai, cô nương có cảm thấy mất tự do khi sống trong thế giới con người này hay không? Thứ ba, cô nương có biết rằng ‘thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo’ chính là đạo lý của thần linh trên thiên thượng hay không?”

Thiên Hành trở nên sững sờ và không nói được câu nào sau khi nghe xong những lời này. Đột nhiên cô nhớ lại giấc mơ mà cô đã có về người thư sinh. Cô nghĩ rằng: “Có thể nào người đàn ông này đã xuất hiện trong giấc mơ của ta?” Cô tự mình cởi trói cho anh ta và lệnh cho đám lâu la đưa anh ta đi.

Đêm hôm ấy Thiên Hành trằn trọc mãi không ngủ được. Cô cứ nghĩ mãi về vấn đề nhân sinh, hôn nhân và lý tưởng của mình. Một điều cứ ám ảnh cô mãi là cô đã giết rất nhiều người trong 10 năm qua và là thủ lĩnh của một băng nhóm thổ phỉ. Một khi cô bắt đầu tu luyện, quá khứ sát nhân của cô có gây chướng ngại cho cô không? Ngoài ra, cô đã phát triển rất nhiều thói xấu khi là trại chủ ở sơn trại này. Cô có khả năng loại bỏ những điều ấy nếu tu luyện trong đời này hay không? Cô không ngừng nghĩ ngợi về những vấn đề này và không sao ngủ được.

Ngày hôm sau, cô kể về nỗi khổ sở của mình cho Lý Bằng Phi nghe. Bằng Phi nói: “Không có vấn đề gì chừng nào cô nương còn có thiện niệm và thiện hành. Phật chỉ nhìn vào tâm người. Cổ nhân có câu: “Tri thác năng cải thiện mạc đại yên.” (Người tự biết lỗi và cải thiện chính mình thật là bao dung vĩ đại). Phật Pháp có sức mạnh tiêu diệt những quan niệm hậu thiên và đưa con người trở về bản lai thuần chính. Ngoài ra… Cô nương đã quên mất tại hạ, tại hạ sẽ luôn ở bên cô nương. Nếu có vấn đề gì thì xin cô nương cứ nói với tại hạ để chúng ta cùng giải quyết!”

Nhìn Bằng Phi thân đầy chính khí, Thiên Hành bất giác nảy sinh lòng ngưỡng mộ. Cô thầm nghĩ: “Ta rất vui lòng tầm Đạo cầu Pháp với người thư sinh này. Huống hồ anh ta rất giỏi thơ phú, và ta sẽ không buồn chán khi ở bên anh ta.” Cô bèn phóng tâm nói với Bằng Phi: “Kể từ bây giờ, nếu ngươi không đối xử tốt với ta, ta sẽ cho ngươi nếm mùi bảo đao đấy!” Bằng Phi nói: “Tại hạ đâu dám bắt nạt cô nương. Chừng nào cô nương không lớn tiếng hay nổi cơn thịnh nộ, tại hạ sẽ vô cùng biết ơn!” Hai người cười nói với nhau một lúc. Và rồi Thiên Hành triệu tập tất cả huynh đệ trong sơn trại để an bài sự việc của hai người. Sau đó hai người họ thành thân và cùng nhau xuống núi.

Khi đến chân núi Hoa Sơn, hai người hỏi bất cứ ai mà họ gặp về vị cao nhân kia. Họ không ngừng hỏi từ chân núi cho tới tận đỉnh núi, nhưng không ai từng nghe về một cao nhân như vậy. Trời đã bắt đầu tối, cho nên họ phải nghỉ qua đêm trong một ngôi miếu hoang trên đỉnh núi. Sáng sớm hôm sau, họ được chứng kiến cảnh Phật quang xuất hiện trên đỉnh núi. Tới tận hôm nay, tôi vẫn còn nhớ khoảnh khắc thiêng liêng ngày hôm đó! Đúng là:

“Thất thải phật quang tự thiên hàng,

Vạn bàn tường thụy phá mê mang

Thù thắng mỹ diệu mãn khung vũ,

Thần Phật từ bi chiếu đại thiên!”

Tạm diễn nghĩa:

“Phật quang chiếu thẳng xuống từ bầu trời như bảy sắc cầu vồng,

Ánh sáng huy hoàng xua tan đi đám sương mù buổi sớm,

Thật là một cảnh tượng thiêng liêng và mỹ diệu,

Sự từ bi của Thần Phật tỏa sáng trên thế giới này!”

Họ vô cùng vui sướng và mong ước một điều thật kỳ diệu sẽ xảy đến.

Và rồi một điều gì đó thậm chí còn khó tin hơn đã xảy ra: Trong ánh quang huy, một vị Phật to lớn (cự Phật) xuất hiện, thật vô cùng đẹp đẽ và uy nghiêm! Với đài sen vàng dưới chân, Phật du hành khắp mọi nơi và cứu độ chúng sinh với lòng từ bi vô hạn, đồng thời hiển hiện chân tượng trước mặt những người tu luyện chân chính để điểm hóa cho họ! Cặp vợ chồng khấu đầu không ngừng trước vị Phật. Vị cự Phật chỉ nhìn họ rồi nói một câu: “Dụng tâm lai tu, tất thành chính quả.” Rồi Phật biến mất trong ánh kim quang.

Cặp vợ chồng ôm chầm lấy nhau trong nước mắt! Họ chưa bao giờ hy vọng sẽ có cơ hội được gặp và nhìn tận mắt một cự Phật trong giây phút thiêng liêng ấy! Họ nghĩ: “Chúng ta chắc phải tích được rất nhiều phúc phận từ những kiếp trước!” Kể từ đó, họ sống trên ngọn núi Hoa Sơn và bắt đầu tu luyện. Mỗi khi họ thiếu Phật Pháp để chỉ đạo tại mỗi tầng thứ, họ lại nhận được những điểm hóa trong giấc mơ để giúp họ tiếp tục thăng hoa. Sau khi tu luyện trong gần 30 năm, khi đang ngồi đả tọa vào buổi trưa, họ đột nhiên nghe được tiếng Pháp nhạc trên bầu trời. Không lâu sau, nhiều đóa hoa trong suốt rơi xuống từ trên không trung, trông mười phần mỹ diệu. Sau đó, hai người họ bắt đầu phiêu đãng bay lên; cơ thể họ trở nên thông thấu (trong suốt) và vô cùng uy nghiêm. Rồi họ lại trông thấy vị cự Phật đang cười với họ. Sau đó, từ trên thiên thượng bay xuống một đài sen cùng một con hạc tiên. Thiên Hành bước lên đài sen còn Bằng Phi cưỡi trên lưng hạc tiên và bay lên trời. Những đám mây đầy màu sắc cũng theo họ bay lên trên thiên thượng. Cuối cùng họ đã được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử!

Lời kết:

Có một câu nói của cổ nhân Trung Hoa: “Đạo tặc cũng phải có ‘đạo’”. Không kể là chúng ta đã làm gì trong quá khứ hay bao nhiêu việc xấu chúng ta đã làm, chúng ta vẫn có thể đạt viên mãn chừng nào chúng ta còn tinh tấn trong tu luyện. Câu chuyện về luân hồi của tôi đã minh chứng rất rõ điều này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Câu chuyện có thật về luân hồi: Số phận của một Hoàng tử Minoan

Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

Lời mở đầu: Trong kiếp sống hiện tại, tôi có một chấp trước rất xấu – Tôi đôi khi cảm thấy tự ti và muốn bỏ rơi chính mình. Nó dường như là một quan niệm đã được hình thành từ khi tôi sinh ra. Sau khi tôi bắt đầu tu luyện, tôi đã có thể loại bỏ được nó khá nhiều. Nhưng nó vẫn còn trỗi dậy hết lần này đến lần khác. Khi chính niệm của tôi không đủ mạnh, nó có thể khống chế tôi tới mức tôi gần như phát điên. Đây dường như là nhân tố biến dị lớn nhất nằm trong tôi. Không phải mới đây tôi mới nhận ra được nguồn gốc của chấp trước biến dị nhất này. Thực ra tôi biết rằng tôi không nên mang theo tâm thái này khi viết về nền văn minh Hy Lạp cổ đại trong lần đầu tiên. Nó thật không thích hợp. Nhưng tôi thấy không còn cách nào khác. Tôi đã quyết định viết ra kinh nghiệm của mình, với hy vọng rằng điều này sẽ thực sự loại bỏ nhân tố rất xấu này trong tôi. Nó không phải là một điều nên làm. Tôi hy vọng rằng, các bạn đọc, các bạn có thể tha thứ cho tôi.

Nền văn minh cổ Hy Lạp là một chương sáng trong lịch sử văn minh nhân loại chu kỳ này. Đảo Crete (Κρήτη) ở vùng biển Aegean được coi là nơi phát xuất nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Đế chế Minoan được tìm thấy trên hòn đảo này tồn tại trước hay vào khoảng năm 1.800 trước công nguyên. Người ta vẫn nhận thấy sự huy hoàng của những Cung điện Hoàng gia từ những tàn tích. Từ đó, người ta có thể có một cái nhìn tổng quan về sự thịnh vượng của nền văn minh này vào thời kỳ cực thịnh của nó.

Khoảng năm 1.700 trước công nguyên, Hoàng tử của Đế chế Minoan có tên là Tuyên Ân [Chú thích: Tất cả tên nhân vật trong câu chuyện này đều được phiên sang tiếng Hán Việt]. Anh là một người rất tốt bụng và lạc quan. Anh có một trái tim nhân hậu và một tấm lòng khoan dung độ lượng. Lúc ấy, Đế chế Minoan rất hùng mạnh. Những tiểu quốc quanh đó phải triều cống cho Đế chế hàng năm. Tuyên Ân có một người chú tên là Diệc Hãn, người già hơn anh 10 tuổi. Diệc Hãn có bề ngoài rất hiền lành và tốt bụng, nhưng thực ra ôngta rất độc ác và vô cùng nham hiểm.

Một lần, nhà Vua cùng với tướng sĩ đi tới phía Bắc Hy Lạp để đánh dẹp một cuộc nổi dậy. Diệc Hãn cố gắng sai người ám sát nhà Vua nhưng không thành công. Sáu tháng sau, nhà Vua an toàn trở về. Lúc ấy, Tuyên Ân, vị Hoàng tử, đang trên đường du ngoạn nơi bờ biển Aegean và gặp một thiếu nữ có tên là Ngải Luân. Cô là con gái của một người chài cá. Cô xinh đẹp mỹ lệ như một thiên thần. Tuyên Ân lập tức phải lòng cô. Họ đã ở bên nhau và cảm thấy rất tâm đầu ý hợp. Diệc Hãn trở nên ganh tỵ. Ông ta bắt đầu âm mưu chiếm đoạt Ngai vàng và chia rẽ Tuyên Ân cùng với Ngải Luân.

Một ngày, Tuyên Ân và Ngải Luân dạo chơi trên biển với một chiếc du thuyền. Họ gặp phải một cơn bão, và kết cục là bị lềnh đềnh vài ngày trên biển. Diệc Hãn nhân cơ hội này để tâu lên nhà Vua rằng Tuyên Ân và Ngải Luân đã bị bắt bởi kẻ thù của Vương quốc trên biển cả. Nhà Vua quả nhiên trúng kế và ông đã tự mình dẫn vài tùy tùng ra biển để tìm cứu Tuyên Ân cùng Ngải Luân. Trong khi nhà Vua đi vắng, Diệc Hãn chiếm lấy Ngai vàng và hành quyết tất cả những triều thần trung thành với nhà Vua. Ông ta cũng vô cùng tàn bạo và độc ác với người dân trong Vương quốc, và người dân đã phải chịu đựng rất nhiều. Nhà Vua và Tuyên Ân không biết được điều gì đang xảy ra ở nhà. Khi họ trở về đảo, họ mới biết được điều gì đã xảy ra, nhưng đã quá trễ. Họ ngay lập tức bị tay chân của Diệc Hãn bắt giữ. Nhà Vua bị sát hại ngay lập tức. Tuyên Ân bị nhốt vào một cái chuồng. Diệc Hãn bắt Ngải Luân đi. Ông ta cũng lung lạc trước vẻ đẹp kiều diễm của Ngải Luân. Ông ta vừa đe dọa Ngải Luân vừa lấy quyền lợi để dụ dỗ cô. Ông ta nói rằng ông ta sẽ cho cô làm Hoàng hậu nếu cô chịu lấy ông ta, hoặc là cô sẽ phải gánh chịu hậu quả.

Ngải Luân là một cô gái ham thích hư danh và ham muốn một cuộc sống xa hoa. Vì vậy trước tình thế ấy, cô đã đồng ý trở thành Hoàng hậu của Diệc Hãn. Cô đã đem sự trong trắng của mình trao cho Diệc Hãn ngay đêm hôm đó. Diệc Hãn muốn Tuyên Ân phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa. Những người theo ông ta đã đề nghị rằng Tuyên Ân nên bị đày ra đảo hoang và cho lính gác canh chừng anh, để anh phải chịu đau đớn nơi hoang vu. Diệc Hãn nghĩ rằng đó quả là một ý kiến hay. Cho nên ông ta đã ra lệnh lính gác mang Tuyên Ân đày ra một hòn đảo hoang mà ngày nay là đảo Malta (nó có một tên khác vào thời điểm đó). Lúc đó, Tuyên Ân đã ở bên bờ vực của sự sụp đổ về tinh thần. Chú ruột của anh đã giết hại cha anh, và đã trói anh bằng dây thừng. Anh sẽ bị đày ra hoang đảo. Vị hôn thê tương lai của anh đã bỏ rơi anh vào thời điểm then chốt. Anh không thể nào chấp nhận được sự thật nghiệt ngã này. Anh đã tích tụ một lòng căm thù đối với người chú và với Ngải Luân. Nhưng anh còn chán ghét chính bản thân mình hơn. Anh chán ghét lòng tốt và tính cả tin của bản thân mình. Anh trở nên đầy thù hận và cuồng loạn.

Anh đã bị đưa lên một chiếc thuyền đi ra đảo Malta dưới sự giám sát của lính canh. Trên thuyền, anh gần như phát điên. Anh cố gắng tự sát vài lần nhưng đã không thành công. Sau khi anh đến Malta, anh cảm thấy thậm chí đời sống của quỷ vẫn còn khá hơn thế này. Anh luôn tự lẩm nhẩm một mình như thể đang trò chuyện với người khác. Đôi khi anh ngồi lên một phiến đá và nói chuyện với đỉnh đồi có hình người ở trước mặt. Một ngày, do quá chán nản vì không có tiếng trả lời, anh trở nên giận dữ. Anh gần như phát điên và muốn tự kết liễu đời mình. Anh chạy lên đỉnh đồi và cố gắng đâm đầu mình vào một phiến đá. Nhưng không hiểu vì anh định hướng không đúng hay do mắt anh đánh lừa anh, anh đã không chết mà còn trở nên tỉnh táo hơn. Anh đã dần dần lấy lại lý trí của mình. Anh tự nói với chính mình: “Ta không còn gì cả. Ta sẽ không bao giờ thoát khỏi hòn đảo hoang vu này trong phần đời còn lại của ta. Thay vì cứ u mê mãi ở đây, ta nên cố gắng tìm thú vui và ý nghĩa của cuộc sống.” Rồi anh nhận ra rằng có quá nhiều lính gác ở quanh anh và anh phải không cho chúng thấy đầu óc anh đã trở lại bình thường. Vì vậy anh vẫn hành xử như một người điên ở trước mặt những tên lính. Không lâu sau, những tên lính cảm thấy anh đã thực sự phát điên và không cần phải trông chừng anh nữa. Chúng xin phép Diệc Hãn cho chúng để Tuyên Ân lại một mình trên hoang đảo. Lúc bấy giờ, Diệc Hãn và Ngải Luân đã có với nhau ba đứa con. Diệc Hãn đã cho phép những tên lính trở về Hy Lạp nhưng yêu cầu chúng phải nói cho Tuyên Ân biết về cuộc sống hạnh phúc tại Vương quốc giữa anh ta với Ngải Luân.

Sau khi Tuyên Ân nghe được tin này, anh thực sự đã trải quả một sự sụp đổ tinh thần. Anh đã thực sự muốn kết liễu chính mình. Không lâu sau khi những tên lính rời đi, vào một đêm trời đổ mưa, anh đã quyết định tự nhấn chìm mình xuống đáy đại dương. Trước khi chết, anh nghe thấy một giọng nói vang vọng từ bên trên: “Con đã phải chịu đựng thật nhiều nơi thế gian. Con có muốn tìm kiếm một nơi thanh tĩnh siêu thoát khỏi thế giới này?” Tuyên Ân trả lời trong nước mắt: “Trong cuộc đời này con không còn lối thoát nào khác ngoài cái chết. Nếu một nơi thanh tĩnh siêu thoát khỏi thế giới này thực sự tồn tại thì phải đợi đến đời sau của con.” Và rồi anh chìm xuống đáy đại dương.

Lời kết: Sau khi chết, nguyên thần của Tuyên Ân được luân hồi và chuyển sinh qua rất nhiều kiếp sống tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Anh đã thực hành tu luyện trong nhiều kiếp. Nhưng do anh đã phải chịu đựng rất nhiều trong kiếp sống nói trên, xu hướng tự kỷ vẫn còn đeo đuổi anh trong suốt những kiếp sống sau đó. Trong kiếp sống hiện tại của tôi, tôi vẫn còn khuynh hướng này. Nó rất mạnh mẽ. Đây không chỉ là một nhân tố xấu, mà nó còn được tích lũy qua nhiều kiếp sống khác nhau của tôi. Hôm nay, tôi viết ra bài chia sẻ những trải nghiệm trong quá khứ này để phơi bày căn nguyên chấp trước của tôi, để từ đó tôi có thể loại bỏ nó. Cùng lúc đó, tôi cũng muốn chia sẻ với độc giả một sự thật rằng mọi chấp trước của chúng ta trong kiếp sống hiện tại đều có nguồn gốc lịch sử sâu xa của nó. Tôi nói như vậy là đủ rồi. Tôi xin kết thúc bài viết tại đây.

Diệc Hãn vẫn là một quyến thuộc của tôi trong đời này. Anh ta vẫn là một người độc ác và đã gây ra rất nhiều đau khổ cho gia đình tôi. Ngải Luân và tôi có cùng họ với nhau và chúng tôi có thể là họ hàng xa trong đời này. Không ai trong số hai người họ đã đắc Pháp. Thời gian tới đây khi có cơ hội, tôi sẽ vẫn tiếp tục làm sáng tỏ sự thật với họ. Sau cùng, bất kể là điều gì đã xảy ra, việc ba chúng tôi gặp lại nhau trong đời này đã cho thấy rằng chúng tôi vẫn còn quan hệ tiền duyên.

Đọc xong câu chuyện này của Sophia, 1 ý niệm chợt hiện lên trong đầu Chân Tâm: Phải chăng việc con người không thể nhớ được những sự việc xảy ra trong tiền kiếp của mình là một đặc ân mà Phật Tổ đã ban cho con người??

Nhớ làm gì khi mà những quá khứ ấy chỉ toàn là đau khổ. Đời là bể khổ mà. Đã sinh ra làm con người là sẽ phải chịu khổ rồi. Để rồi khi nhớ lại những đau khổ đã phải trải qua trong tiền kiếp, con người sẽ càng khổ đau, sầu não hơn. Tuyên Ân trong câu chuyện trên trong những kiếp sau của mình nếu như nhớ lại được kiếp trước của mình thì anh ta sẽ ra sao?? Chẳng phải vẫn sẽ đau khổ như trước khi anh ta tự nhấn chìm mình xuống đại dương sao? Thậm chí sẽ còn thấy đau khổ hơn nếu như trong kiếp này, Diệc Hãn và Ngải Luân sẽ tiếp tục lừa dối, hãm hại anh. Rồi còn ý niệm về sự trả thù nữa. Tuyên Ân trong tiền kiếp của mình bị đày ra đảo nên không thể có cơ hội để trả thù những kẻ đã hãm hại anh và gia đình. Nhưng có dám khẳng định trong kiếp sau của mình, khi mà vai trò, vị trí của các nhân vật đã thay đổi: Tuyên Ân không phải là hoàng tử, Diệc Hãn không phải là chú ruột Tuyên Ân, Ngải Luân không còn là hoàng hậu - thì - khi có cơ hội để trả thù liệu Tuyên Ân có thể đủ sự vị tha và lòng bao dung để quên hết chuyện cũ và không tính toán đến chuyện trả thù??

Thế nhưng nếu kiếp sau, con người không còn nhớ đến những khổ đau của kiếp trước nữa thì con người sẽ bớt đau khổ hơn nhiều. Và quá trình tu tập của con người chắc cũng sẽ bớt gian nan hơn nhiều. Chẳng phải nếu Tuyên Ân vẫn còn nhớ về những điều mà Diệc Hãn và Ngải Luân đã gây ra cho mình, anh sẽ khó để có thể vị tha và bao dung hơn là khi anh đã hoàn toàn quên hết chuyện cũ từ kiếp trước??? Và như thế quá trình tu tập của anh qua các kiếp sẽ gian nan hơn khi mà cứ tương oan tương báo, báo thù nối tiếp báo thù đến bao giờ!

Một đứa trẻ khi chào đời tiếng khóc là tiếng đầu tiên nó cất lên. Phải rồi, sinh là làm người là khổ rồi, khổ thì phải khóc chứ sao. Nó khóc vì kiếp này sinh ra làm người là phải chịu khổ, nó khóc vì kiếp trước nó cũng đã phải trải qua nhiều cái khổ; nhưng kiếp này, ngay tại lúc này đây, nó như một tờ giấy trắng tinh, vô tư, hồn nhiên, không nhớ gì về quá khứ hết, chỉ có hiện tại và hướng tới tương lai. Nó sẽ bắt đầu học lại từ đầu từ đây. Nó học được những điều hay, điều thiện thì nó trở nên con người chân chính. Nó thường xuyên phải tiếp xúc với cái ác, cái xấu và nó học theo những cái đó thì nó trở nên sa ngã...

Hey za, đến lúc này có quá nhiều điều, quá nhiều suy tưởng trong đầu Chân Tâm nhưng Chân Tâm không thể nào thâu tóm mà viết hết ra đây được. Suy nghĩ nhiều quá, bắt đầu mông lung rồi... Dừng lại thôi!

Chỉ muốn kết luận một câu cuối cùng: Phật Tổ đã rất thương xót cho con người. Người đã ban cho chúng ta một đặc ân khi " reset " lại tất cả chúng ta trong mỗi một kiếp mới. Rất công bằng, ai cũng thế thôi, kiếp trước tôi có là một sát nhân, anh có là một anh hùng hiệp nghĩa đi chăng nữa, khi được " reset " lại trong kiếp này, chúng ta đều là những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng, vô tư và tinh khiết như nhau thôi. Hãy cứ cố mà tu tập trong từng kiếp người của mình đi, những gì xấu kiếp này ta đã loại bỏ được thì kiếp sau ta sẽ không mắc phải nữa. Cứ dần dần...từng kiếp...từng kiếp một...mỗi kiếp tu tập một chút ít...cho đến khi ta trong sáng và tinh khiết như những đứa trẻ mới chào đời vậy. Mọi con đường đều dẫn tới thành Rôm, dài ngắn khác nhau, gian nan khác nhau, nhưng sẽ đều dẫn tới thành Rôm. Chỉ có điều...ta có muốn bước hay không Posted Image

Edited by Chân Tâm

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chia sẻ của bạn Chân Tâm quả là đầy trăn trở, rất thú vị! Cảm ơn bạn!

Câu chuyện có thật về luân hồi: Thiên nhai hành giả Tác giả: Tiểu Liên

[Chanhkien.org]

Lời mở đầu:

Trong kiếp sống hiện tại của tôi, tôi vui sướng khi hòa mình với non nước thiên nhiên. Sở thích này dường như đã hình thành từ khi tôi sinh ra. Dù bận rộn đến đâu, tôi vẫn luôn có một cảm giác thanh tĩnh trong nội tâm. Tâm thái này càng trở nên rõ ràng hơn sau khi tôi bắt đầu tu luyện. Dường như trái đất này là non nước của đại lục Trung Quốc, đi tới đâu tôi cũng có cảm giác thân quen! Khi đọc các tài liệu về phong cảnh, núi non , tôi có thể cảm nhận chúng và cả tâm hồn của chúng ngay trong tâm tôi, như thể tôi cảm nhận chính da thịt của mình vậy. Chỉ gần đây, tôi mới hiểu được lý do vì sao tôi cảm thấy như vậy. Không phải vì tôi đã tu luyện nhiều lần trong các kiếp trước, hay tôi đã có hoàn cảnh trên quả Địa cầu khi còn ở trên thiên thượng. Đó là bởi vì bằng chính đôi chân của mình,tôi đã từng chạm vào những tinh thần cổ xưa này.

Hãy cùng theo tôi đến núi Trường Bạch ở vùng Đông Bắc Trung Quốc vào cuối thời nhà Nguyên (1271 – 1368 sau công nguyên). Tại đó, gần hồ Thiên Trì có 1 gia đình nhà họ Lục! Nhà họ có 1 đôi vợ chồng và 1 ông lão bị bại liệt! Ông lão không phải là cha của đôi vợ chồng. Trên đường trở về nhà sau 1 chuyến đi dài, ông Lục gặp ông lão bên đường. Ông Lục cảm thấy ông lão này thật đáng thương và đã cõng ông lão về nhà.Vừa đi ông Lục vừa nghĩ: “Liệu phu nhân của ta có vui không khi ta đưa về nhà một người lạ? Nhưng ta không thể thấy chết mà không cứu vì mạng người là trân quý nhất. Phụ thân của ta luôn nói làm điều tốt không cầu báo đáp và khi ấy cuộc đời của ta mới có một kết cục tốt đẹp.” Khi họ về đến nhà, Lục phu nhân đang giặt giũ quần áo trong sân. Bà ngay lập tức bước tới giúp khi trông thấy chồng và ông lão. Rồi bà đi nấu cơm.

Đến đêm, ông Lục kể lại sự tình cho vợ nghe. Lục phu nhân cười và nói: “Tướng công, xin đừng lo lắng. Trước khi thiếp xuất giá, mẫu thân thiếp đã nói rằng phải luôn lấy thiện đãi người. Bà nói rằng hãy đối xử tốt với người khác như đối xử với chính bản thân mình và rồi con cháu sẽ được phúc đức.” Từ đó ông lão sống cùng đôi vợ chồng này. Hai người họ đối xử với ông lão như thể cha ruột của mình. Nhưng không những ông lão không tỏ ra biết ơn mà lại thường gây khó khăn cho đôi vợ chồng nhà ông Lục. Dẫu vậy, họ vẫn không hề phàn nàn điều gì!

Thời gian cứ thế trôi qua. Hai hay ba năm sau, Lục phu nhân có mang. Ông lão vẫn gây khó khăn cho họ như mọi khi. Một ngày nọ, ông Lục không còn cách nào khác ngoài việc nói với ông lão: “Thưa cụ, chúng tôi đối xử tốt với cụ. Tại sao cụ cứ làm khó chúng tôi như thế? Bây giờ vợ tôi đã có mang, cụ có thể đối xử với chúng tôi tốt hơn một chút được không?”. Ông lão ra hiệu rồi đọc một bài thơ:

Tích đức hành thiện thuyết vô cầu,

Vạn sự du du hữu nhân do,

Vật luận đối phương chẩm dạng tố,

Thiện tâm thường tại tâm trung lưu!”

Tạm diễn nghĩa:

“Tích đức hành thiện mà không truy cầu,

Mọi sự việc đều có nguyên do của nó,

Đừng để ý người khác hành xử ra sao,

Lòng tốt vẫn luôn ở trong tâm.”

Rồi cụ nói: “Tuy các con vẫn chưa hành xử đúng như những gì đã nói nhưng các con vẫn còn đủ thiện tâm”. Ông Lục cảm thấy rằng ông lão không phải là một người bình thường sau khi nghe những lời này. Rồi ông đối xử với ông lão hòa hảo thân thiết hơn nữa. Ông lão cảm thấy vô cùng phấn khởi.

Đứa bé chào đời không lâu sau đó. Đó là một bé trai. Ông lão đặt cho đứa bé một cái tên: “Lục Tu Tĩnh”. Đây là một cái tên mang đậm sắc thái tu luyện.

Ông lão thường chơi đùa với Tu Tĩnh và kể cho nó nghe rất nhiều câu chuyện. Một lần nọ, Tu Tĩnh nằm ngủ cùng phụ mẫu và hỏi: “Tại sao có nhiều ngựa đẹp và tiên nữ bay lượn trên thiên thượng thế ạ? Tại sao chúng mỹ diệu thế ạ?” Đôi vợ chồng vô cùng ngạc nhiên. Họ biết rằng ông lão rõ ràng có lai lịch không phải tầm thường.

Đến khi Tu Tĩnh chập chững biết đi, ông lão nằm liệt giường bỗng nhiên bước tới và nói với đôi vợ chồng: “Đã đến lúc ta nói cho các con biết sự thật. Ta không có bệnh tật gì cả. Ta cố ý giả vờ bị liệt để khảo nghiệm tâm tính của các con. Ta muốn dạy Tu Tĩnh công phu tu luyện bắt đầu từ ngày hôm nay. Ta cũng muốn nói với các con điều này: Ta đã 103 tuổi. Ta đã tu luyện đắc Đạo và đạt viên mãn vào tuổi 40. Ta đã đi tìm một đồ đệ tốt từ lâu lắm rồi. Ta muốn truyền cấp phương pháp tu luyện trong pháp môn của ta cho nó. Như các con biết, rất khó để tìm được một đồ đệ tài đức song toàn. Nhiều năm trước, ta đã được một vị Thần tiên điểm hóa trước khi gặp Lục tiên sinh. Các con đã đạt tiêu chuẩn trong phương pháp tu luyện của ta. Tuy nhiên, đồ đệ của ta phải là đồng tử. Vì vậy ta đã đợi để đứa trẻ được sinh ra. Bây giờ Tu Tĩnh đã biết đi. Ta biết rằng nó có một căn cơ tốt và tâm tính cũng tốt như các con. Ta phải nói với các con tất cả điều này.” Ngay lúc ấy, Tu Tĩnh bước vào phòng rồi quỳ gối xuống và nói: “Hôm qua, trong giấc mộng, một vị Thần tiên đã nói với con rằng nếu con tu luyện với sư phụ, con sẽ có thể trở về thiên thượng. Con đã hỏi rằng sư phụ của con là ai. Vị Thần tiên nói rằng ông lão trong nhà chính là sư phụ. Bây giờ con đã rõ tất cả. Thỉnh cầu ân sư thu nhận con làm đồ đệ!”. Kể từ đó, Tu Tĩnh bắt đầu tu luyện trong pháp môn của ông lão.

Khi Tu Tĩnh khoảng hai mươi tuổi, ông lão rời đi. Trước khi ra đi, ông lão đưa cho Tu Tĩnh một cái bình quý. Cái bình này có thể tùy ý biến hóa thành bất cứ thứ gì theo ý muốn của chủ nhân. Ông lão yêu cầu Tu Tĩnh đi vân du năm châu bốn biển, đặc biệt phải đến bốn nơi sau: Sa mạc ở vùng lòng chảo Tarim thuộc Tân Cương, hồ Điền Trì thuộc tỉnh Vân Nam, núi Ngũ Chỉ thuộc đảo Hải Nam và đảo Bồng Lai thuộc tỉnh Sơn Đông. Sau cùng, ông lão nói: “Đi ngay đi! Ta sẽ đợi con trên đỉnh núi Lư Sơn!”.

Tu Tĩnh bắt đầu cuộc hành trình với hành trang đơn giản, chiếc bình quý và lòng kiên tín vào sư phụ. Cậu phải ngủ ngoài trời và chịu đựng rất nhiều gian nan. Nguy hiểm và khó nạn luôn rình rập khắp mọi nơi. Lúc ấy, khởi nghĩa loạn lạc nổ ra ở nhiều địa phương. Tu Tĩnh bị coi là gian tế và đã bị bắt một lần. Lần khác, cậu thực sự đã bị đem ra tử hình. Ngạc nhiên thay, cậu đã sống lại ngay khi những tên đao phủ rời đi. Nhiều lần khi bị hết nước nơi hoang mạc, cậu mở chiếc bình ra. Cậu thấy rằng không những có một chút nước ở bên trong bình mà đó còn là một thế giới rộng lớn. Thế giới này vô cùng mỹ diệu và thần thánh. Cậu không còn cảm thấy khát chút nào nữa. Khi thể hiện quyết tâm vào tu luyện và và tín niệm vào phản bổn quy chân, cậu đã thoát được mối đe dọa sinh tử.

Cứ như vậy, cậu đã đi khắp núi nam bể bắc trên đôi chân của mình. Chuyến hành trình đã làm phong phú tâm hồn cậu và giúp cậu hiểu được ý nghĩa của cuộc sống. Hiện nay, người ta nghĩ rằng người xưa du sơn ngoạn thủy chỉ để giải trí, thật ra không phải vậy. Trên đường đi vân du, Tu Tĩnh đã thiết lập được sự trân quý đối với các sinh mệnh. Chuyến hành trình đã giúp cậu trở về với bản nguyên của tự nhiên và vũ trụ. Đây là sự phản ánh trạng thái tu luyện của cậu. Cậu đã hoàn toàn siêu thoát khỏi cảnh giới của người thường. Cậu không hề cố gắng chạy trốn khỏi thế giới trần tục này.Chân chính giúp cậu giải thoát, tắm mình trong mưa gió để hòa mình với thiên nhiên,. Trong con mắt của Tu Tĩnh, mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông đều có sinh mệnh riêng của chúng. Chúng cũng có mừng vui, giận hờn, yêu thương như con người. Chúng được các vị Thần tiên trên thiên thượng phái xuống đây để giúp ích cho con người. Cậu đối xử với chúng như tri kỷ. Cậu kể cho chúng nghe về kinh nghiệm tu luyện và cuộc hành trình của mình.

Tu Tĩnh hoàn thành chuyến hành trình của mình trong vòng 20 năm. Cuối cùng, cậu đã leo lên được đỉnh núi Lư Sơn. Tuy nhiên, cậu không thấy bóng dáng một ai trên đó cả. Hai ngày sau, sư phụ vẫn không xuất hiện. Tu Tĩnh nghĩ rằng có thể sư phụ đang bận việc gì đó và ông sẽ không đến trong vài ngày nữa. Cậu muốn đợi sư phụ ở phía giữa của ngọn núi này. Do vậy, cậu bắt đầu trèo xuống. Trên đường đi xuống, cậu đi ngang qua một lão bà. Lão bà là một người còng lưng. Bà la lên khi gặp Tu Tĩnh: “Cậu ơi, cậu đã từng gặp ai không giữ lời hứa chưa? Con trai lão hứa là sẽ đợi lão, nhưng nó đã không giữ lời hứa. Nó đã đi rồi. Làm sao nó có thể làm như vậy chứ?” Tu Tĩnh cảm thấy chấn động: ‘Lẽ nào đây là sư phụ…” Nghĩ lại, cậu thấy sư phụ đã từng biến thành một ông lão bị liệt. Hôm nay, sư phụ cũng có thể biến thành một lão bà để điểm hóa cho cậu. Vì vậy cậu nói: “Là một người con, cậu ấy nên giữ lời hứa. Nếu không, cậu ấy có đáng tin hay không? Cậu ấy có còn là một chính nhân quân tử hay không?” Rồi cậu lại leo ngược trở lên đỉnh núi. Cậu đã qua đêm trên đỉnh núi đó. Sáng sớm hôm sau, mặt trời mọc lên từ phương Đông. Ngay lúc ấy, cậu đột nhiên trông thấy rất nhiều vị Thần tiên bay lượn trên không trung. Sư phụ của cậu xuất hiện đầu tiên trong số những vị Thần tiên ấy. Tu Tĩnh khấu đầu mãi không thôi. Vị Thần nói: “Con đã công thành viên mãn rồi. Hãy đi đi!” Tu Tĩnh đứng dậy rồi bay lên không trung. Cậu đã bay đi cùng sư phụ của cậu.

“Tẩu biến thiên nhai,

Tứ hải vi gia,

Phản bổn quy chân,

Vô khiên vô quải,

Xá tẫn danh lợi,

Tâm vô sở cầu,

Trì chi dĩ hằng,

Cước thừa liên hoa.”

Tạm diễn nghĩa:

“Đi khắp mọi nơi,

Bốn biển là nhà,

Phản bổn quy chân,

Không còn chấp trước,

Xả bỏ danh lợi,

Tâm chẳng truy cầu,

Nỗ lực kiên định,

Bước lên đài sen.”

Lời kết:

Đây là một bài viết khác mà đã giúp tôi giải quyết được vấn đề trong tâm mình. Sau hàng ngàn năm luân hồi, các chủng nhân tố khác nhau vẫn còn lưu tồn rất nhiều ở bên trong tôi. Những chủng nhân tố này, dẫu là chính diện hay phụ diện, vẫn đang khởi tác dụng trong quá trình tu luyện ngày hôm nay của tôi. Chỉ sau khi lý giải được những khúc mắc trong tâm, chúng ta mới có thể loại trừ đi những nhân tố bất thuần để tiến nhập vào vũ trụ mới. Rất quan trọng khi chúng ta có nhận thức đúng đắn về những vấn đề này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay