Posted 11 Tháng 11, 2010 Lang thang và chu cha . Trong ngôn ngữ Việt có 2 từ láy rất hay dùng , những từ này mang nặng phong cách dân dã chứng tỏ là nó thuộc về đại chúng , đã ngấm trong máu nên người ‘đời’ dùng nhiều hơn là ...xuất hiện trong văn chương khoa bảng. Là những từ nằm trong lòng phát ra ‘cửa miệng’ chẳng cần suy nghĩ lựa lời chi cả nhưng lại ít ai biết căn nguyên của nó ; quen rồi cứ ‘xài’ không cần biết nó ở đâu ra và tại sao lại dùng như thế ; sách vở chưa hề có lời giải thích ..., Tự điển tiếng Việt cũng vậy không có dòng nào đề cập đến vấn đề này . 2 từ quen mà lạ này là: ‘lang thang ‘ và ‘chu cha’ hay ‘châu cha’ . 1 - Lang thang . Lang thang là đi hết chỗ này đến chỗ khác 1 cách bất định không có chủ đích rõ rệt , lạ là ở chỗ lang và thang trong tiếng Việt không mang ý nào liên quan đến sự đi lại cả . Từ lang nghĩa thông thường là : - Thày thuốc đông y . : thầy lang , ông lang , lang băm , lang vườn ... - 1 loại đồ ăn thức uống : khoai lang . - Người đứng đầu 1cộng đồng nhỏ cỡ làng ; từ này còn thấy trong vài dân tộc ít người như Thái và Mường. Từ thang : - Vật dụng để trèo lên cao ; bắc thang lên hỏi ông Trời ... - Gói thuốc trong đông y : thang thuốc . Vậy mà khi dùng lang đi liền với thang thành ‘lang thang’ lại chỉ sự di chuyển không mục đích rõ rệt ...thế mới lạ . Thực ra đây là từ láy có gốc rễ ở 1 sự kiện trong lịch sử Trung hoa xa xưa : Nhà Thương là triều đại dời đô nhiều nhất trong lịch sử Trung hoa , trong khoảng 300-400 năm đã 5 lần thay đổi kinh đô , ta biết mỗi lần dời đô như thế là cả 1 sự kiện trọng đại , xây dựng được 1kinh thành thì hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc và sức lực , kinh đô nào để cho xứng tầm cũng phải nguy nga tráng lệ chứ đâu có như cái nhà bếp cỏn con của đám dân đen , có khi phải đến vài chục năm mới có thể hoàn tất chứ nào chỉ ngày một ngày hai vậy mà ở chưa nóng ...mông vua quan nhà Thương đã bắt dân chúng xây kinh đô mới ...thực biết bao cơ cực cho kẻ làm dân ....chính vì thế sự việc này mới hằn sâu trong tâm trí mọi người để trở thành 1 điển cố lịch sử không thể quên cứ thế truyền mãi cho đến tận ngày nay để trong ngôn ngữ ‘bình dân’ Việt nam có từ láy... ‘lang Thang’ . Lang là thủ lãnh là vương là vua , Thang chỉ nhà Thương vua sáng lập là Thành Thang , lang Thang nghĩa là vua nhà Thương , chính vì 5 lần dời đô mà trở thành từ láy mang ý nghĩa như ngày nay . Sự giải thích này xem ra có lý ...nhưng kẹt một điều là vua nhà Thương là vua cổ của Trung hoa thì có liên quan gì đến dân chúng Việt mà sự cố ‘lang thang’ được khắc ghi trong tâm trí truyền lưu hơn 3000 năm đến tận ngày nay .??? Mời các bạn đọc Sử thuyết họ Hùng để thấy những điều trái khoáy thực ra không trái khoáy chút nào ,những chuyện tưởng như... kỳ quái mà thực ra lại rất chân xác ... 2 - Chu cha hay Châu cha. Khi gặp điều gì gây ngạc nhiên sửng sốt người ta buột miệng kêu ‘chu cha’ hay ‘châu cha ơi’..., gọi là buột miệng vì lời nói bật ra từ vô thức không nghĩ suy chi cả , người xứ Quảng phát âm thành ‘chu choa’ , người nam trung bộ là ‘chu che’ nhưng tất cả là cùng 1 ý , đặc biệt người Quảng hay kéo thêm cái đuôi thành ra ‘chu choa chèng đéc ơi’. ‘Chèng đéc’ là biến âm từ ‘Trời đất’ mà ra , còn ‘chu cha’ thì rõ ràng gọi người cha hay bố có tên là Chu , vậy hóa ra CHU là tên bố chung của mọi người Việt sao?. Trong sử Việt chẳng đã có vì vua được dân xưng tụng là ‘Bố cái đại vương’ đấy sao , đấng minh quân quên mình vì nước vì dân được dân mến mộ coi như cha mẹ vừa thể hiện sự kính trọng vừa là sự biết ơn xâu sắc trong tâm tình người Việt với đạo lí : uống nước nhớ nguồn ăn qủa nhớ kẻ trồng cây, khi nước ta đã trở thành ‘văn hiến chi bang’ thì đời đời không quên người đã mang đến ánh sáng văn minh ấy , Dịch lý là nền tảng văn minh Á đông , Chu văn vương là người có công đầu trong việc tác tạo Dịch học , trong tứ thánh của Dịch học thì Phục Hy là nhân vật thần thoại , Văn vương là con người thực công lao đứng đầu rồi mới đến Chu công và Khổng tử , không ai có thể tự hào hơn người Việt vì lịch sử còn ghi rõ tổ quốc của họ là đất nước của VĂN LANG tức nước của vua Văn , hàng ngàn năm trước công nguyên khi Hán tộc chưa hề đến đây thì trong kinh Dịch đã nói đến trống đồng và trên trống đồng cũng thể hiện Dịch học ,đây là bằng chứng vật thể đã không thể chối cãi về sự liên hệ giữa nước Văn lang và Chu văn vương nay lại thêm thói quen của người Việt mọi chi tộc luôn mở miệng gọi ‘Chu cha’ hay ‘Châu cha ơi là’ là điểm nhấn văn hoá phi vật thể bổ sung thêm chắc chắn và làm cho sự liên quan này trở nên không thể chối bỏ . Đã đến lúc lịch sử Việt nam ,Trung hoa và Hán tộc phải viết lại . Những thông tin lịch sử tồn tại trong dân gian tuy có vẻ giản đơn mong manh nhưng thực ra lại rất chắc chắn vì không ai có thể cạo sửa ‘bia miệng’ nên một khi đã tìm ra thì những thông tin này hầu như không thể bác bỏ , vua Tàu Càn long có thể cạo sửa toàn bộ sử sách Trung hoa nhưng không thể nào sửa được cụm từ ‘Lục lâm thảo khấu’ trong dân gian , đã là bia miệng thì chỉ có nước giết hết người Bách Việt mới phi tang được cái gốc cướp rừng cướp núi của đám quân Lục lâm , đám quân đã giúp lập nên hãn quốc đầu tiên ở Thiểm tây và ‘Lục lâm thảo khấu’ bỗng lột xác đổi đời... thành Hãn quân của đế quốc Hán kẻ đã đạp Trung hoa dưới móng ngựa có đến 500-600 năm . Các bạn nghĩ thử coi nếu Lục lâm quân là những anh hùng giúp kiến lập 1triều đại huy hoàng của Trung hoa thì trong dân chúng Trung hoa làm sao có cụm từ ‘giặc cỏ Lục lâm’ vừa vạch mặt chỉ tên là giặc lại vừa khinh bỉ là cỏ rác ... Trong ngôn ngữ bình dân Việt nam đã tìm thấy Dấu tích 4 triều đại của cổ sử Trung hoa: Lang Thang là các vua triều thương hay Thang . Lang Văn xếp ngược theo cấu trúc Hán văn là Văn lang vua tổ của triều Chu. Lang sói chỉ vị vua bạo ngược hàng nhất trong lịch sử là Tần thủy hoàng . Lang Bang là Lưu Bang Hiếu cao vua kiến lập Triều Tây Hán ( ???) Và độc đáo hơn hết là những ông Hãn gốc tộc Liêu họ Lưu lập quốc xưng là Hán ở phương trời ‘mờ – tối – đen’ được sử dân gian Việt gọi bằng mỹ danh ... Lưu manh ( manh ═ mù) , Lưu manh nghĩa là gì thì chắc không cần gỉai thích... Chỉ 1 từ kép này thôi đã chỉ rõ : Hán là Hán Hoa là Hoa , mập mờ đánh lận con đen...nhập Hán và Hoa làm một là ‘lưu manh’ . 4 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 16 Tháng 11, 2010 Xin nói thêm về từ ‘lang bang’. Người ta thường nói ‘lang bang’ hay kéo dài thêm thành ‘lang ba , lang bang’ có nghĩa là đi đó đi đây khắp nơi khắp chốn , sở dĩ như vậy là cụm từ này có gốc từ ‘bôn ba’ mà ra , bôn ba cũng là đi khắp đó đây nhưng khác ‘lang thang’ ở chỗ đi có mục đích rõ rệt , bôn ba còn hàm ý gian nan vất vả , khi nói nhà cách mạng bôn ba nơi hải ngoại thì ngoài ý vượt ngàn dặm đường còn ẩn chứa ý ca tụng sự hy sinh chịu đựng vượt qua gian khổ hiểm nguy để cứu dân cứu nước . Ông Lưu Bang từ khi khởi nghĩa ở núi Muang Đang và được dân chúng cử làm thủ lãnh nơi huyện Bái là bắt đầu cuộc ‘bôn ba’ ..., dân đất Phong quê nhà lại không theo ông để đến nỗi phải bỏ xứ mà đi ...đầu quân làm tướng dưới trướng Sở Hoài vương ở vùng Trường giang , bao năm đánh đông dẹp bắc với chiến công lẫy lừng là cầm quân chiếm kinh đô Hàm dương của Tần nhưng khi nhà Tần đổ do sự hiềm khích thù hằn Hạng vũ đã đày ông đến miền hãm địa là tây bắc Trung hoa ( miền đất có kinh đô của 2 nhà Chu ???), sau đó nổ ra cuộc Hán Sở tranh hùng ...lại chinh chiến từ bắc xuống nam , khi lên ngôi Hoàng đế Trung hoa rồi cũng không yên ...đánh Hung nô bị vây hãm suýt bỏ mạng ở vùng núi non Sơn tây, trong nước cũng không yên lành gì lại phải tiếp tục ‘bôn ba’ hành quân đánh Trần Hy phản loạn ....nói chung cho đến khi nhắm mắt suôi tay cuộc đời của Lưu Bang là cà 1chuỗi ngày ‘bôn ba’ vất vả . Chính từ cuộc đời của Lưu Bang mà có từ kép ‘bôn ba’. Lưu bang còn có tên là Qúy , thực ra đây không phải là tên riêng mà theo phong tục Trung hoa con trai cả gọi là thái , thứ hai gọi là trọng và thứ ba gọi là qúy , tên gọi qúy cũng giống như cách gọi ‘ thằng ba anh ba’ ở Việt nam vậy thôi . Lang là từ Việt cổ đồng nghĩa với vương với vua ngày nay , lang Ba - lang Bang nghĩa gốc chỉ là ... ông vua tên là Ba ,ông vua tên là Bang nhưng chính Cuộc đời chinh chiến khắp nơi của ‘ông Ba –Lưu bang’ đã tạo ra từ kép ‘bôn - ba’ làm nền cho cụm từ ‘lang Ba - lang Bang’ trong tiếng Việt nghĩa là đi khắp đó đây . Lưu Bang hay ông Qúy (thứ ba) sau khi lên ngôi hoàng đế Trung hoa gọi là Hiếu cao ; ‘cạo sử gia’ người Hán biến Hiếu cao thành Hán cao tổ...nghĩa là ông tổ đã tạo dựng nên Hãn quốc ; lạ là ở chỗ cả tên và tên ‘thường gọi’ trong nhà là Bang và Ba lại ‘nằm vùng’ trong dân gian Việt không biết từ thuở nào với cụm từ ‘lang Ba- lang Bang’ ? Một sự trùng hợp không hiểu nổi ... nếu lấy từ kép ‘bôn ba’ làm nền thì diễn giải ra phải là ‘lang Ba - lang Bôn’ mới đúng sao lại là ‘lang Ba - lang Bang’??? Chính việc đổi ‘Bôn’ thành ‘Bang’ này là sự kiện chứng thêm phần chắc chắn cho Sử thuyết họ Hùng khi cho Lưu Bang trong sử Trung hoa chính là Lý Bôn trong sử Việt , 2 dòng sử cùng viết về 1thời kỳ lịch sử huy hoàng của người Bách Việt , vua quan người Hán đã dùng thủ thuật ‘đổi nghĩa tráo chữ’ biến triều Hùng trịnh vương Hưng đức lang thành ‘nhà’ tây Hán ; Hưng đế thành Hán đế để tháp nối lịch sử Tây hãn quốc vào lịch sử họ HÙNG tiền nhân của người bách Việt ...tất cả những việc này là thủ đoạn lừa bịp vô cùng thâm hiểm để triệt tiêu hoàn toàn sức phản kháng của người Trung hoa-Bách Việt trước sự chiếm đóng và cai trị của giặc Hán phương bắc . Triều ‘Tây hán’ của Lưu Bang và triều ‘đại Đường’ là 2 triều đại huy hoàng bậc nhất trong lịch sử trung hoa , điều lý thú là 2 triều đại cách nhau ngàn năm định đô cùng trên một vùng đất ; sử Trung hoa viết rõ ràng : nhà Đường xây kinh đô trên nền thành cổ có tên là thành ĐẠI HƯNG ; tại sao không gọi là thành đại Hán ???...đế đô của Hưng đức lang hay Hưng đế gọi là thành đại Hưng đấy là quy luật ngôn ngữ ....; tên thành đại Hưng này đã chỉ ra điều hết sức quan trọng của lịch sử Trung hoa : Trung hoa không hề có triều đại nào gọi là Hán cả ; chỉ có thời kỳ Trung hoa bị nước Hãn hay Hán quốc của Hán tộc xâm chiếm và cai trị mà thôi . Chính sách diệt quốc diệt tộc bằng thủ đoạn ‘diệt văn hoá’ từ thời Quan vũ –Mã viện đã được bố con ông cháu Khang hy – Càn long tái dụng hết sức thành công đến độ ....ngày nay bản thân người Trung hoa đã bị tẩy não nên ‘vui vẻ’ nhận mình thuộc Hán tộc ....thực đau xót biết bao cho Hoàng đế , Nghiêu –Thuấn – Vũ .... hồn các vị chắc hơn thiêu hơn đốt khi nhìn lũ hậu nhân mãi vẫn không mở được mắt ra ; mãi còn gọi giặc là cha không biết đến bao giờ ...??? 4 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 11, 2010 đoạn ...Thái trọng qúy xin sửa là ...mạnh trọng qúy . thành thực xin lỗi bạn đọc . Văn nhân Share this post Link to post Share on other sites
Posted 25 Tháng 12, 2010 Điều mới biết về người Tiên ty và Khiết đan Tiên ty là tộc người chiếm lãnh vùng đông bắc trung quốc ngày nay , họ bắt đầu có tên tuổi trong lịch sử Trung quốc từ năm : 269 khi Vũ Tuyên Đế Mộ Dung Hối được vua Tây Tấn phong là Liêu đông quận công từ đó họ Mộ Dung coi như làm chủ vùng đông bắc Trung quốc nhưng mãi tới năm 337 họ mới chính thức lập quốc . Tiền Yên là nhà nước đầu tiên của người Tiên Ty do Mộ Dung Hoảng thành lập năm 337, diệt vong năm 370. Tôn thất quan lại nhà Tiền Yên nối nhau lập nên các nước : Hậu Yên, Nam Yên, Bắc Yên , Tây Yên tới năm 410 thì các nước Yên của nhà Mộ Dung diệt vong khi kết thúc tời ‘ngũ Hồ loạn Hoa... Người Trung Quốc họ Mộ Dung nổi tiếng - Các vua nước Tiền Yên (337-370) bắt đầu từ Mộ Dung Hoàng - Các vua nước Hậu Yên (383-407) bắt đầu từ Mộ Dung Thùy - Các vua nước Tây Yên (384-394) bắt đầu từ Mộ Dung Hoằng - Các vua nước Nam Yên (398-410) bắt đầu từ Mộ Dung Đức Nước Yên của người Tiên ty chìm vào bóng tối hơn 500 năm mãi cho tới năm 1115 thì họ Hoàng nhan kiến lập nước Kim . Nước Kim tồn tại từ 1115 đến 1234, là vương triều của người Nữ Chân, đây cũng là tổ tiên của những người Mãn Châu đã lập ra triều đại nhà Thanh khoảng 500 năm sau. Năm 1113 A Cốt Đả (1068 – 1123) được bầu làm đại bối lặc (tù trưởng các bộ lạc , phải chăng bối lặc chỉ là chữ viết sai của ‘bố lạc’ là cha là thủ lãnh của bộ lạc ?). Năm 1114 ông lãnh đạo 2500 người Nữ Chân tại Lưu Thủy nổi dậy chống lại nhà Liêu. Đội kỵ binh này chiếm Ninh giang châu (Cát Lâm) và đánh bại 7 ngàn quân Liêu tại trận Chuhedian vào tháng 11. Sau những thắng lợi liên tiếp tháng 1 năm 1115 A Cốt Đả đã thành lập nước Kim tại miền bắc Mãn Châu. Acuta tuyên bố lên ngôi vua Kim, đóng đô ở Hội ninh phủ (Hắc Long Giang). Quốc gia này đã lần lượt xâm lấn và cuối cùng đã tiêu diệt vương triều nhà Liêu của người Khất Đan (Khiết Đan) vào năm 1125 (liên minh cùng nhà Tống để diệt Liêu) là những người đã thống trị khu vực Mãn Châu và biên giới phía bắc Trung Quốc trong vài thế kỷ trước . Vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 lực lượng nhà Kim đã chiếm Khai Phong, thủ đô của triều đại Bắc Tống, bắt giữ cả hai vua nhà Tống là Tống Khâm Tông và cha của ông là vua Tống Huy Tông, là người đã từ bỏ ngôi báu do sợ hãi lực lượng nhà Kim. Sau khi Khai Phong thất thủ, lực lượng nhà Tống dưới sự lãnh đạo của nhà Nam Tống kế tiếp vẫn tiếp tục chiến đấu với nhà Kim trong hơn mười năm tiếp theo, cuối cùng đã dẫn đến ký kết hiệp ước hòa bình năm 1141, và cắt toàn bộ miền bắc Trung Quốc cho nhà Kim năm 1142 để đổi lấy hòa bình . Nước Kim tồn tại đến năm 1234 thời Mạt đế Hoàn Nhan Thừa lân thì bị Mông cổ diệt . Người Tiên ty lại nhẫn nhục trong phận tôi đòi gần 500 năm , mãi tới năm 1616 họ mới quật khởi khi dòng họ Ái tân giác la lập nên nước Hậu Kim , đến năm 1636 thì đổi quốc hiệu thành Mãn Thanh , nhà nước của người Tiên Ty này đã tái chiếm Bắc Kinh từ tay nhà Minh năm 1644 ( Bắc kinh đã có thời là Yên kinh phải chăng là thủ đô của nước Yên – họ Mộ dung tiên tổ của họ Ái tân giác la ? ) và tồn tại mãi tới năm 1912 mới chấm dứt địa vị thống trị trên lục địa Trung hoa , cuộc cách mạng Tân hợi đã biến Trung hoa trở thành 1 dân quốc ý là quốc gia của mọi người chứ không là ‘của riêng’ ông vua bà chúa nào , chính xác hơn là chính biến 1911 đã cho ra đời hợp chủng quốc của chung cả những người thống trị và đám cựu nô lệ trên lãnh thổ đế chế Mãn thanh cũ . Trong các bài viết về văn minh và Dịch học họ HÙNG đã nhiều lần nói đến chuyện Bắc – Nam đã lộn ngược nay lại thêm bằng chứng nữa : Yên là biến âm của ôn việt ngữ là ấm chỉ vùng nóng bức , chính danh thì hướng Xích đạo phải là hướng Bức trong thế đối nghịch Bắc – nam , nóng bức - lạnh kăm , Bắc chỉ là biến âm của ‘bức’ mà thôi...nhưng cũng từ Dịch học mà hình thành quan niệm hướng màu đỏ hành hoả ở miền xích đạo là hướng của văn minh , ngược lại hướng màu đen hành thủy là tăm tối man dã nên ông vua bà chuá nào cũng nhận mình là văn minh đứng trên người khác thế nên về địa lý mình ở chốn nào thì chốn đấy đổi thành hướng bắc bất chấp nghịch lý ...vùng ‘ôn –ấm’ mà vua quan thiết triều run lập cập như ngồi trong ngăn đá tủ lạnh vậy ... Với quốc hiệu là Yên của người Tiên ty thì xem ra bắc nam đã lộn ngược từ thời nhà Tấn hèn chi mà ngũ man bị biến thành ngũ Hồ loạn Hoa... Khi nhìn tiên thiên bát quái đồ bằng nhãn quan khoa học thì đấy chính là trục toạ đồ không thời gian 4 chiều : Quẻ Đoài trấn phía bắc , Cấn phía nam . Đoài là cái hồ , cấn là núi tiếng Khơme là Bnâm , núi tiếng Việt còn gọi là non ; như thế Hồ phải ở hướng Xích đạo quẻ Đoài và Bnâm hay non cũng là nam đã lộn ngược thành hướng bắc ngày nay. Với Dịch học thì hướng hành thủy màu đen có những đặc tính : đen tối mờ lạnh nhỏ thấp.v.v. Đen cũng là mun ; - mun →man →mãn →mỉn (minh-tối) – mông - Mờ - lu. - Căm ( rét ) - Kim Dựa vào cái nền Dịch học mà xét thì Xem ra Yên là tên do người Tiên ty tự xưng còn lại những Mông Mãn Lu Kim là tên người Trung hoa gọi những tộc người ở về phía Nam ( xưa theo Dịch học ngược với ngày nay ) của họ . Bản thân từ Tiên ty cũng chỉ nghĩa là phương nam theo Dịch học ; tiên là đầu tiên hay nguyên thủy , ty là thấp cả 2 đều là tính chất của phương hành thủy –màu đen . Nước Mãn thanh có nghĩa là nước ở phía Đông – Nam , Mãn là biến âm của Mỉn nghĩa là tối chỉ hướng Nam , Thanh là màu xanh chỉ phía đông theo dịch học , đạo quân khổng lồ của đế quốc Nhật thời thế chiến 2 đóng ở Mãn châu gọi là đạo quân Quan đông cũng nghĩa như thế ; quan là nom là nhìn biến âm thành Nam , đông là phía đông...nhiều sách vở biến ‘quan – đông’ thành ‘quang đông’ chẳng còn nghĩa ngọn gì cả . Họ của Hoàng tộc Mãn thanh là Ái tân giác la mới nghe cứ tưởng là tiếng Mãn ký âm Hán tự thực ra đó là 1trận đồ chữ nghĩa do những sử gia Hán tộc giăng ra để làm đảo điên mọi sự như vậy mới có thể dễ bề ‘lộng gỉa thành chân’ ...mà không bị phát hiến . - Ái tân thiết là Yên. - Giác la thiết là gia ,tiếng Việt là ‘nhà’ như nhà Lý , nhà Trần v.v.. Ái tân giác la chỉ nghĩa là ‘nhà Yên’ mà thôi , sử gia Trung quốc thời xưa không phân biệt quốc và gia như sử gia Việt , trong Hán sử thì quốc cũng là gia nhà Đường cũng là nước Đường , nhà Yên cũng là nước Yên ...; Ái tân giác la – Yên gia cho thấy có sự truyền dòng nối kết xuyên suốt từ thời nước Yên nhà Mộ dung tới họ Ái tân giác la nước Mãn thanh của người Tiên ty.. Cũng dùng phép phiên thiết mới vỡ lẽ ...thì ra làm gì có họ Mộ Dung . Mộ Dung thiết là Mung hay Mun chính là gốc của từ Mông mãn ngày nay . Nối kết họ Mộ Dung trước và họ Ái tân giác la sau là họ Hoàng nhan của hoàng đế nước Kim hay kăm . Khi nghe tên các vua ... Hoàn nhan Hợp lạt , Hoàn nhan Thịnh . Hoàn nhan Ung v.v.người ta cứ tưởng có 1 họ gọi là Hoàn nhan ....đến nay mới biết : Hoàn nhan thiết là Han –hãn nghĩa là vương là chúa trong ngôn ngữ người Nam man...Hoàn nhan Hợp lạt chính xác là Hãn Hợp lạt hay khan Hợp lạt , là vua là chúa tên là Hợp lạt chứ làm gì có họ Hoàn nhan . Chính vì cái họ Hoàn nhan - hãn này mà Mông cổ sau khi chiếm trọn Trung hoa đã chia người phía bắc tức dân nước Kim cũ là người Hán và dân phía nam của nhà Tống là dân Nam ...hỏi 1 câu đơn giản vậy Kim là Trung hoa hay Tống là Trung hoa ? .... đứa trẻ con người Hoa cũng trả lời ngay được người Tống mới là Trung hoa..., Việc sử gia Hán tộc thay các ‘từ’ bằng ‘phiên thiết’ Hán văn đã tạo ra Sự nhiễu loạn thông tin ghê gớm khiến người đời sau khó mà biết được lịch sử Trung hoa thực ... Nhà Liêu 907-1125, đôi khi còn được biết đến như là Vương quốc hay Đế chế của người Khiết Đan gốc Mông Cổ, do dòng họ Da Luật thành lập trong những năm cuối của nhà Đường . Nhà Liêu bị nhà Kim thôn tính năm 1125. Tuy nhiên, con cháu của nhà Liêu do Da Luật Đại Thạch dẫn đầu đã chạy về phía tây để thành lập nhà Tây Liêu 1125-1220, còn được gọi là hãn quốc Kara-Khiết Đan, nhà nước này tồn tại cho đến khi kỵ binh Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn tràn xuống. Kara trong tiếng Anh là Cathay có nghĩa là "Trung Quốc" và đều bắt nguồn từ tên gọi của dân tộc này , người Việt gọi người Khiết Đan là ‘Tàu cây’do : Ca thay thiết là cây . Phiên thiết Hán văn còn tạo ra nhiều chuyện độc đáo lắm như : Khan ký âm Latinh từ thủ lãnh trong ngôn ngữ bắc phương nói chung , Khan được phiên thiết thành : Khiết đan và Khả hãn . Như vậy Khiết đan không phải chỉ là tộc danh của riêng người nước Liêu mà còn là của người Hán người Mông cổ và Hung nô nói chung vì tất cả họ đều gọi thủ lãnh là Khan. Marco Polo là 1 đại quan của Mông cổ lần đầu tiên viết trong cuốn du ký của mình giới thiệu phương Đông với thế giới phương Tây đã chỉ biết tới nước Khiết đan không hề biết có nước gọi là Trung hoa . Tới tận ngày nay, các nước nói tiếng Slave vẫn gọi Trung Quốc là Khiết Đan (Kitan hay Kitai) như thế thì trong lịch sử Trung hoa làm quái gì có triều Nguyên của người Mông cổ ??? Ngộ nghĩnh nhất là họ ‘Da luật’ của các vua Liêu quốc như Gia luật A bảo cơ , Da luật Đức quang .v.v. .... Khiết đan – Liêu đánh Tống quốc ngật ngừ , người Trung hoa căm ghét gọi họ là ‘giặc’ ; giặc A bảo cơ , giặc Đức quang .v.v. ; nhưng cái ‘hồ lô’ phiên thiết Hán văn hô biến ‘giặc’...thành ‘Da luật’...như thế chỉ có thánh may ra mới biết thực sự những gì diễn ra trên đất Trung quốc thời đó . Xét tới đây thì rõ ràng Hoa là Hoa và Hán là Hán làm gì có thứ lịch sử chung của cả Hoa và Hán...Viết sử kiểu này đúng là sử ‘thập cẩm’ cũng như món lẩu thập cẩm của dân nhậu vậy, nếu gọi là sử “đầu Ngô mình Sở” thì vẫn còn chưa đúng lắm vì Ngô và Sở cùng dòng giống nam Mongoloid ,... phải gọi sử Trung quốc hiện nay là lịch sử ‘đầu rồng mình ngựa’ mới thật chính xác , rõ ràng 2 dòng 2 giống khác hẳn nhau mà xào nấu biến thành ‘một’ tức là ...sử gia Hán tộc đã đẻ ra thứ luận lý ‘tương đối’ cực kỳ hiện đại :... đen cũng là trắng và trắng cũng là đen...trắng đen là một ...Hán –Hoa 1 nhà . Tương đối kiểu này thì thông thái như Einstin cha đẻ thuyết tương đối ...thật cũng phải chào thua gọi họ là đại ca...huống hồ gì người thường mắt thịt ; hèn chi “đầu rồng mình ngựa” ...biết bao nhiêu năm rồi mà có ai nói gì đâu ??? 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 12, 2010 ...ở những dòng cuối chữ Einstin xin sửa là Einstein . thành thực xin lỗi bạn đọc . nqn Share this post Link to post Share on other sites
Posted 14 Tháng 1, 2011 Anh Văn Nhân cho hỏi nếu Khiết Đan bao gồm các nhánh Hán - Liêu, Thát - Mông và Kim - Mãn thì người Hung Nô có xếp vào Khiết Đan hay không? Hung Nô có thể phiên thiết thành Hồ, như trong Chiêu Quân cống Hồ (cống Hung Nô). Thiền Vu người Hung Nô gọi là Mông, Mán. Vào thế kỷ thứ 3 người Hung Nô còn lập liên minh là Thiết Phất (thiết là Thát?). Tiếp theo thời bát vương chi loạn người Hung Nô chuyển họ Lưu và cũng xưng là Hán. Vậy phải xếp Hung Nô vào nhánh nào của Khiết Đan? Share this post Link to post Share on other sites
Posted 19 Tháng 1, 2011 Minh Xuân said: Anh Văn Nhân cho hỏi nếu Khiết Đan bao gồm các nhánh Hán - Liêu, Thát - Mông và Kim - Mãn thì người Hung Nô có xếp vào Khiết Đan hay không? Hung Nô có thể phiên thiết thành Hồ, như trong Chiêu Quân cống Hồ (cống Hung Nô). Thiền Vu người Hung Nô gọi là Mông, Mán. Vào thế kỷ thứ 3 người Hung Nô còn lập liên minh là Thiết Phất (thiết là Thát?). Tiếp theo thời bát vương chi loạn người Hung Nô chuyển họ Lưu và cũng xưng là Hán. Vậy phải xếp Hung Nô vào nhánh nào của Khiết Đan? Thưa Bạn Bách Việt 18 và các bạn . Riêng về Hung nô thì tôi đã cố gắng tìm hiểu nhiều ...nhưng càng đọc càng rối ...không dám xác quyết điều gì . Đúng như bạn viết ...Có những thông tin cho ta thấy họ cũng thuộc dòng Thát - Mông nhưng bên cạnh còn nhiều thông tin khiến ta nghĩ có thể họ là người da trắng ở trung á ...như : - Bản thân từ 'Hung' trong tiếng Việt có nghĩa là màu nâu đỏ rất có thể là nước da trắng mà nắng gió nhiều thì thành nâu đỏ . - người Hung nô theo văn hoá Thổ nhĩ kỳ chứ không phải cùng dòng văn hoá với Mông cổ như thế có thể họ cùng giống với người Thổ da trắng - có thuyết cho Hung nô là tổ tiên của người Hungary da trắng hiện nay . - Hung nô được người Mông cổ gọi là dân 'sắc mục ' , người có con ngươi không đen thì chắc không phải thuộc chủng Mongloid Cổ sử Trung hoa còn chép chuyện kỳ cục ...là Hung nô bị đồng hoá biến thành người Khiết đan - Hán (nước Hán của Lưu Uyên )...không biết biến cách nào mà giống này có thể biến thành giống khác được ... bó tay ... Share this post Link to post Share on other sites
Posted 13 Tháng 3, 2011 Trong Thiên Nam ngữ lục, sau khởi nghĩa Bà Triệu có Đỗ Viện được nhà Tấn phong làm thái thú Giao Chỉ. Trong phần tâu bày của Đỗ Viện lên vua Tấn về sự "hà ngược" ở Giao Chỉ có câu: Cho nên con chẳng có cha Lang bồn lẩn lút người ta dày vòCâu trên được giải nghĩa là dân phải bôn ba trốn tránh ở nơi hẻo lánh và bị khổ nhục.Như vậy ở thế kỷ 17 từ "lang bồn" vẫn dùng với nghĩa như "lang bang". Đây là một bằng chứng cho thấy Bang có thể là Bôn là tên của Lưu Bang và Lý Bôn. Share this post Link to post Share on other sites