Posted 22 Tháng 10, 2010 Thiên hạ họ Hùng- nguồn gốc họ Nguyễn Người họ Nguyễn ở Trung Quốc có 81 vạn người, đông thứ 162 trong các họ, chiếm 0,065% dân số. Họ Nguyễn phân bố chủ yếu ở vùng ven biển đông nam và đông Trung Quốc, riêng bốn tỉnh Triết Giang, Hồ Bắc, Quảng Đông, Phúc Kiến chiếm 50% số người trong họ, trong đó nguyên Triết Giang chiếm 15% số người trong họ; thứ đến năm tỉnh Hà Nam, Thiểm Tây, Giang Tây, Sơn Đông, Giang Tô chiếm 26% người trong họ. Điều này cho thấy rằng người họ Nguyễn còn lại đông nhất là ở địa bàn các nước Bách Việt thời cổ đại, mà đông nhất là ở nước Việt xưa của Việt vương Câu Tiễn là vùng Triết Giang. Nhưng các nước Bách Việt chỉ là sự phục hồi vào giai đoạn Xuân Thu của tộc Họ Hùng dòng giống Việt thời thượng cổ, có không ít họ của dòng Hùng đã lui về phía nam khỏi lưu vực Hoàng Hà trước áp lực của các tộc du mục phương Bắc. Họ Nguyễn đông chỉ ở miền nam Trung Quốc . Ma kao phát âm là “Un”, Hồng Kông phát âm là “Yuén”, Đài Loan phát âm là “Chuen”, mà ở tiếng Mân Nam - Đài Loan “choen” còn có nghĩa là tiếng xưng hô “tôi” giống như từ “choa” trong tiếng Nghệ An, từ “Việt Nam” người Hoa phát âm là “Yue nán” cũng lướt thành “Yuén, người Căm Pu Chia gọi là “Yuôn” hay “Duôn”, tiếng phổ thông Trung Quốc phát âm là Roản.Tiếng phổ thông Trung Quốc mới chỉ xuất hiện 400 năm nay, do phát minh của người Mãn (về phát âm và về ngữ pháp, chỉ có chữ thì vẫn dùng chữ nho cổ truyền).Tại sao người phương Bắc lại phát âm là Roản, có mấy thuyết cho rằng: Hoặc do kết quả của việc chính phủ triều đình Mãn Thanh chèn ép triều Nguyễn của Việt Nam. Hoặc vào thời nhà Nguyên của các “Khan” Mông Cổ trước kia người họ Nguyễn phải kỵ húy chữ Nguyên. Hoặc do khi nhà Nguyên kết thúc, người Mông Cổ gặp phải sự tẩy chay của người Hoa nên người họ Nguyễn, để tránh vạ lây với người Nguyên, mà phát âm là Roản. (Theo http://www.baike.baidu.com/view/569974.htm) Theo sách sử Trung Hoa thì thời Chu cứ lấy đất phong hầu thành một nước chư hầu nhỏ của nhà Chu, nên số lượng các họ gia tăng. Trước thời Hạ, Thương, các bộ lạc là thị tộc thì “thị” vốn là “con cháu của rồng” vẫn cùng tồn tại sinh sôi nảy nở trên mảnh đất thiên hạ nhà Chu, các nước lớn nhỏ đều lấy tên nước làm họ. Những nước con con như vậy kỳ thực là những thị tộc bộ lạc. Có tất cả 64 nước. Phong nhiều nước chư hầu như vậy nhưng vị thế các nước ấy không như nhau, cũng có thứ bậc là “ Công 公, Hầu 侯, Bá 伯, Tử 子, Nam 男” ( theo ý chữ thì tương ứng thì là “Ông”, “Hầu”, “Bác”, “Con”, “Trai” , thật chẳng có nghĩa gì về cái “tước” được phong cả, mà cũng chẳng theo cái “chục con”= “thập can” như là đếm thứ tự gì cả, kỳ thực đấy chỉ là do người đời sau dùng chữ nho dịch lại những âm tiếng Việt là “Chắc”, “Hai”, “Ba”, “Tư”, “Năm” mà thôi, nó mới ra thứ bậc tương ứng là 1 – 2 – 3 – 4 – 5 ). Kẻ được phong nước có dân đông thì đều là môn đệ quyền thế ngoại thất của vua Chu hoặc là công thần của vua Chu, còn những tiểu bang tiểu quốc thì nhiếu như rừng. Chế độ phong 5 đẳng cấp ấy sản sinh ra 5 cấp “Hầu” là Quốc Hầu 國侯, Ấp Hầu 邑侯, Quan Hầu 闗侯, Hương Hầu 鄉侯 và Đình Hầu 亭侯. Lễ chế nhà Tây Chu 西周 qui định cứ 1250 hộ họp thành một hương 鄉, một hương quản 10 đình 亭, một đình quản 10 lý 里. Do vậy lại xảy ra khi dân số càng đông lên, lại lấy tên các đơn vị hành chính làm họ, số họ trong thiên hạ càng ngày càng nhiều. Có thuyết nói nguồn gốc họ Nguyễn là từ họ Cơ 姬. Theo “Xuân Thu công tử phổ 春秋公子譜” thời Xuân Thu 春秋 có công tử nước Trịnh 郑国 là một nước của họ Cơ 姬, tên là Phong Hựu Đại Phu 豐又大夫 tên tự là Thạch 石, con cháu về sau lấy tên tự làm họ gọi là họ Thạch 石氏. Đến đầu thời Đông Tấn 東晉 con cháu họ Thạch phải chạy loạn đến vùng Nguyễn Tích 阮厝 của nước Sở 楚国 (nay là Cụ Châu 衢州 tỉnh Triết Giang 浙江, cũng có thuyết nói nay là Hạ Môn 厦門 tỉnh Phúc Kiến 福建), rồi lấy tên nơi cư ngụ mới là vùng Nguyễn Tích 阮厝làm họ gọi là họ Nguyễn 阮. Sau đó họ chạy dần về nam là đất Giao Chỉ thành họ Nguyễn ở Việt Nam. Còn một họ Nguyễn khác ở Trung Quốc là hậu duệ dòng Thác Bạt. Thác Bạt là quí tộc của tộc Tiên Ti là một sắc dân du mục phía bắc Hoàng Hà, tới thời Hiếu Văn Đế họ Thác Bạt đổi thành họ Nguyên 元, về sau lại ghi là Nguyễn 阮. Lại nữa, thời thượng cổ có dân du mục Trung Á tiến nhập lưu vực Hoàng Hà, họ có cây đàn bốn dây giống cây đàn “nguyệt”, dân gọi là đàn “nguyễn 阮”. Về sau họ cũng thành người mang họ Nguyễn 阮. Họ Nguyễn ở Việt Nam là một trong 5 họ đông nhất trong dân số ( Nguyễn = 38,4%,Trần = 11% , Lê = 9,5%, Hoàng = 5,1%, Phạm = 5%, Phan = 4,5%, Vũ = 3,9%, Đặng = 2,1%, Bùi = 2,1%, Đỗ = 1,4%, Hồ = 1,3%, Ngô = 1,3%, Dương = 1%, Lý = 0,5%). Tại sao người họ Lý ở Việt Nam ít ? Có thuyết nói rằng khi nhà Trần thay nhà Lý thế kỷ 12, vua Trần viện cớ rằng họ Lý vốn xưa có gốc là họ Nguyễn nên lệnh cho người họ Lý toàn quốc đổi sang họ Nguyễn, làm gia tăng “cơ học” dân số họ Nguyễn. Điều này còn phải chờ ý kiến xác minh của các nhà sử học Việt Nam. Nhưng sau thời Lý không phải chỉ có Hoàng tử Lý Long Tường và bộ hạ vượt biển sang Hàn Quốc lập thành dòng họ Lý ở Hoa Sơn, mà còn một Hoàng tử nữa của họ Lý cũng vượt biển sang Hàn Quốc và lập nên một dòng họ Lý khác ở Hàn Quốc.( Họ tên người Hàn Quốc cũng là ba tiếng và kết cấu là họ trước tên sau như ngữ pháp tiếng Việt, chính trước phụ sau. Đó là vì người Hàn Quốc đã sử dụng chữ nho từ thời ông Tề Công ở nước Tề truyền bá sang cho họ. Thời nhà Đường ba lần sang bình định Hàn Quốc mà không được, nước Hàn Quốc vẫn là nước độc lập, dù dùng hoàn toàn chữ nho. Quân Nguyên Mông xâm lăng Hàn Quốc bị thua, trong đó cũng phải kể đến công lao kháng chiến của người họ Lý ở Hoa Sơn dưới sự lãnh đạo của Hoàng tử Lý Long Tường. Đến thế kỷ 13 một vị vua anh minh của Hàn Quốc mới sáng tạo ra chữ vuông chứa các ký tự ghi âm gom thành ô vuông là chữ Hàn Quốc ngày nay, nhưng bộ giáo dục Hàn Quốc đến nay vẫn bắt buộc trẻ em từ mẫu giáo phải học thuộc 1800 chữ nho nguyên thủy, Nhật Bản thì bắt buộc phải học thuộc 2500 chữ nho. Chứ tiếng Hàn Quốc là ngôn ngữ chắp dính đa âm tiết, ngữ pháp là phụ trước chính sau, thời thượng cổ họ vốn là dân du mục từ Trung Á sang, ngôn ngữ họ gần gũi với ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ). Một lý do “cơ học” nữa là thời nhà Nguyễn nhiều người họ khác khi được làm quan thì đổi sang họ Nguyễn. Ví dụ một họ Nguyễn ở Sơn Tây có gia phả nói rằng họ vốn là họ Hà ở Quảng Yên Quảng Ninh đến định cư ở Sơn Tây, do triều Nguyễn tuyển người có học vào “biên chế” chức hương lại nên quan sở tại khuyên họ đổi sang họ Nguyển để dễ được xét tuyển, sau 1945 con cháu họ lại lấy lại là họ Hà. Kỳ thực thời thượng cổ họ Lý và họ Nguyễn đều có cùng gốc tổ là họ Cơ. Tiên tổ họ Nguyễn là Cao Đào 皋陶 được phong đất Yên 偃. Đất Yên thời thái cổ là đất vùng Ôn 温 nhiệt tức xứ nóng gần xích đạo, ở phía nóng “bức” hơn đất Giữa là Giao Châu, nay là vùng Trung Bộ Việt Nam và Lào, mà người Căm Pu Chia gọi đất Yên ấy là Yuôn hay Duôn. Sử sách Trung Hoa về sau gọi nước đó là Lâm Ấp hay Việt Thường tức ấp quốc ở phía “lam” tức phía “nam”, Lâm Ấp còn một biến âm là Chăm Pa hay nước Chàm, nước Chiêm Thành. Từ An Nam 安南 (an nan) có về sau như sử sách Trung Hoa gọi, cũng là do âm Yên 偃 (yan) thời thái cổ ra mà thôi. Vì tên nước là An Nam nên thế kỷ 15 các nhà truyền giáo phương Tây (sau khi đã đặt chân đến Philipin, Đài Loan, Ma Cao rồi mới biết đến nước An Nam) gọi người nước An Nam là “An Nam mít” theo nghĩa tiếng Tây là “người An Nam”, các cụ nho nghe từ “mít” đồng âm với “mít đặc” nên bảo là nó gọi thế để miệt thị dân mình, đó chỉ là sự suy diễn, có miệt thị chăng chỉ là ở chỗ bọn thực dân cướp mất chủ quyền quốc gia để độc quyền khai thác khoáng sản tài nguyên bóc lột thuộc địa. Nhưng từ An Nam vì thế mà chịu “ấn tượng ngôn ngữ” thành tiếng xấu . Về sau Nguyễn Phúc Ánh kiến lập triều Nguyễn đổi quốc hiệu “An Nam” thành “Việt Nam” là chữ có từ thời ông Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng, chữ Việt này người Hoa phát âm là Yuê, phiên âm Anh ngữ là Yuen, tương tự như Nguyễn. Hậu duệ họ Cơ 姬 tức là con cháu Họ Hùng được phong đất Yên lấy tên đất làm họ gọi là họ Nguyễn. Dùng chữ nho để ghi âm tên đất như tên Yên (Yan 偃) chẳng hạn chỉ là của sách sử về sau. Tuy vậy chữ nho “Nguyễn 阮” gồm bộ “ấp” và chữ “nguyên 元” tức đầu tiên nên nó có nghĩa là “ấp đầu tiên”, cũng giống chữ “Trần 陳” gồm bộ “ấp” và chữ “đông 東” có nghĩa là “ấp phía đông” tức ven biển, mà ta quen gọi Trần là Đông A tức ấp phía đông, hay chữ Lê thời cổ viết là gồm bộ hòa 禾 nghĩa là cây lúa + chữ hắc 黑 là màu đen tương ứng nước theo ngũ hành + nét của chữ "bao" trong có một nét của chữ "nhân" nghĩa là người bao dung hiền hòa, thành chữ 黧, về sau nhà nho thay chữ hắc 黑 màu đen theo ngũ hành tương ứng nước bằng chữ thủy 水 ở dưới + chữ nhân 人 ở giữa, thành chữ 黎, hai chữ đều có nghĩa biểu thị là “cư dân lúa nước hiền hòa”. Truy ngược lại, như phát âm của người Hoa, “yan” (Yên 偃) chỉ là âm lướt của “ yue nan” (Việt Nam 越南), mà “yue nan” (Việt Nam 越南) cũng còn lướt thành “yuan” (Nguyễn 阮). Bởi vì các qui tắc chủ đạo tạo ra từ đơn âm tiết trong ngôn ngữ Bách Việt là : Vo, Tách đôi Âm Dương (bao gồm cả Láy), Lướt, vẫn diễn ra rất tự nhiên trong ngôn ngữ dân gian ( từ “mấy dẩu” = "không” trong tiếng quan thoại, người Quảng Đông lướt thành “mẩu”= “không” vì họ còn nhớ từ “mô” = ”không” của tiếng Việt, nên họ hay bị người quan thoại nhạo vì cái từ “mẩu” này), còn qui tắc Ghép từ chỉ là có về sau khi ngôn ngữ đã thành hàn lâm. Ví dụ Vuông = Miếng = Mánh (Nghệ An) = Mảnh (Quảng Đông), nhưng từ “Mảnh” của từ mảnh ruộng vào cái thời thấy sự cần thiết phải “dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất” để có nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, đã xuất hiện một cách tự nhiên sự chia Âm Dương nó ra để có từ “Manh-Mún” và người dân cũng đã lấy ngay từ “Mún” để đặt tên tạm thời cho bé gái sơ sinh gọi là “con Mún” quả là tinh ý và nhạy bén cực kỳ. Qui luật chia Âm Dương để luôn tạo ra từ mới này không thể nào tìm thấy trong tiếng phổ thông Trung Quốc. Để tạo từ mới thời hiện đại, ngôn ngữ phổ thông Trung Quốc chỉ xoáy vào mỗi một qui tắc là Ghép từ, tất nhiên ghép hai chữ Hán từ kho tàng chữ Hán đồ sộ đã có sẵn cũng tạo ra được vô cùng nhiều khái niệm mới hoặc dùng để dịch khái niệm mới của phương Tây, nhưng nếu tiếng Việt cứ ăn sẵn từ “Hán-Việt” để bưng của họ về dùng thì sẽ làm loạn từ tiếng Việt mất, và sự hiểu sai do lẫn lộn vì từ đồng âm sẽ xảy ra càng nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông đại chúng. 9 people like this Share this post Link to post Share on other sites