Thiên Đồng

Thần Nông, Đế Nghiêu...có gốc từ Việt hay Hán?

4 bài viết trong chủ đề này

Xin vui lòng cho biết ông nghĩ thế nào về những lời trên đây của ông Hà Văn Thuỳ05/11/2006

Ông Hồ Thanh Thuỷ, 128 Tôn Thất Hiệp, P.13, Q.11, TPHCM: Trên KTNN 538, ông đã bác ý kiến của Nguyễn Tài Cẩn để khẳng định rằng Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Tân là tên bằng tiếng Hán của những nhân vật người Trung Hoa.

Nhưng trong bài Cuốn sách gây nhiều ngộ nhận, có sẵn trong máy chủ Google, tác giả Hà Văn Thuỳ đã viết:

“Tiếp thu toàn bộ vốn từ vựng của người Việt nhưng vì tự ái dân tộc nên sau này người Hán cố tình giấu nhẹm chuyện đó. Các tác giả tự điển, các công trình phục nguyên Hán ngữ không bao giờ đề cập gốc gác xa xưa hơn của những từ mà họ tra cứu. Đã từng xảy ra chuyện thế này: Vào những năm 70 của thế kỷ trước, để chứng minh cho sự độc lập của Đài Loan với Hoa Lục, chính quyền Tưởng Giới Thạch lệnh cho nghiên cứu lịch sử hòn đảo này. Nhưng khi thấy trước thời Khổng Tử, đất này của người Bách Việt, việc nghiên cứu bị dừng lại! Nhưng dù che giấu kỹ thế nào, ta vẫn có thể tìm thấy trong Hán ngữ những từ thuần Việt như Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc... và trong Kinh Thi cũng bắt gặp khá nhiều trường hợp in dấu ấn cách nói của người Việt như:

- Hồ vi trung lộ (Thức vi: trong sương)

- Trung tâm rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy)

- Trung tâm hữu vi (Cốc phong: trong lòng băn khoăn)

- Di vu trung cốc (Cát đàm: trong hang)

Tại sao hàng nghìn năm thực hiện nghiêm cẩn xa đồng quỹ thư đồng văn mà trong quyển kinh quan trọng nhất của văn hoá Trung Hoa vẫn giữ cách nói của người Việt trung lộ, trung tâm, trung cốc... mà không chuyển sang cách nói của người hán lộ trung, tâm trung, cốc trung...? Đấy chính là những hoá thạch ngôn ngữ mách bảo cho người biết nghe những điều thầm kín: những câu ca của người Miêu Việt!”

Xin vui lòng cho biết ông nghĩ thế nào về những lời trên đây của ông Hà Văn Thuỳ.

Trả lời:

Nếu chỉ tự hạn chế ở mức nói rằng người Hán đã tiếp nhận một số từ nhất định của tiếng Việt (Kinh) ngay từ thời cổ đại thì còn nghe được – mặc dù sự chứng minh thì hoàn toàn chẳng dễ dàng – chứ nói rằng họ đã “tiếp thu toàn bộ từ vựng của người Việt”, như ông Hà Văn Thuỳ đã viết, thì không còn là chuyện khoa học nữa. Không một nhà ngữ tộc học nghiêm túc nào lại nghĩ như thế. Nếu có là khoa học, thì đó chỉ khoa học giả tưởng.

Câu chuyện xảy ra vào những năm 1970 của thế kỷ trước mà ông Hà Văn Thuỳ đã kể làm quà cũng chẳng đáng tin vì ông cũng không hề cho biết xuất xứ. Huống chi, nếu phát hiện ra rằng trước thời Khổng Tử, đảo Đài Loan là của người Bách Việt (chứ không của người Hán) thì các nhà nghiên cứu và Chính phủ Đài Loan phải mừng mới đúng chứ tại sao lại ém nhẹm? Đã muốn độc lập với Hoa Lục thì phải khẳng định rằng “Wo.men bù shì Hànrén” (Chúng ta không phải là người Hán) chứ cớ sao lại ém nhẹm?

Đến như nói rằng Nữa Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc là những “từ thuần Việt” thì rõ ràng là hoàn toàn nghịch lý. Nếu quả đây vốn là những từ của tiếng Việt mà người Hán đã mượn, thì nó đã được phát âm theo đặc điểm của hệ thống âm vị của tiếng Hán. Những từ này về sau lại được người Việt mượn lại và đọc theo hệ thống âm Hán Việt là một hệ thống chỉ có thể xuất hiện từ đời Đường trở đi mà thôi. Những từ ngữ mà cái vỏ ngữ âm là Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, v.v. là những từ ngữ Hán Việt chứ thuần Việt thế nào được!

Đó là còn chưa kể rằng, đi vào cụ thể thì những Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, v.v., là những tên bằng tiếng Hán của các nhân vật người Trung Hoa, như chúng tôi đã chứng minh trên KTNN 538. Kỳ này xin nói rõ thêm về chữ đế như sau.

“Đế + X” (X là những tên như Nghiêu, Thuấn, Khốc (chứ không phải “Cốc” như nhiều người đã đọc) v.v.) là một cấu trúc thông dụng trước đời nhà Tần trong đó chữ đế chỉ có nghĩa là “nhân vật tối cao” chứ chưa có nghĩa như các danh từ emperor/ empereur trong tiếng Anh/ tiếng Pháp. Chỉ khởi đi từ Thuỷ hoàng đế của hà Tần thì chữ đế mới mang cái nghĩa này. Vậy Đế Nghiêu, Đế Thuấn, v.v., là “ông Nghiêu - nhân vật tối cao”, “ông Thuấn - nhân vật tối cao”, v.v., chứ không phải “ông hoàng đế tên Nghiêu”, “ông hoàng đế tên Thuấn”, v.v..

“Đế + X”

“X + Đế”

là hai cấu trúc khác hẳn nhau nhưng vẫn là tiếng Hán và đều có “cú pháp ngược” (định ngữ + bị định ngữ) thì ta làm sao có thể nói rằng cái trước là của tiếng Việt. Huống chi, “cú pháp xuôi” (bị định ngữ + định ngữ) đâu có phải là độc quyền của tiếng Việt. Vậy nếu nó không phải Hán thì nó cũng đâu có nhất thiết là tiếng Việt.

Còn cái cấu trúc “trung + danh từ” mà ông Hà Văn Thuỳ đưa ra thì, trước ông, một số người đã từng đưa ra. Tiếc rằng chưa thấy ai phản bác họ. Thực ra, cấu trúc kiểu trung lộ, trung cốc, v.v. không chỉ có trong Kinh Thị mà thôi. Nó còn thông dụng cả về sau này nữa mà chỉ trong Toàn Đường thi đại từ điển do Trương Địch Hoa chủ biên, quyển nhất, (Sơn Tây Nhân dân xuất bản xã, 1992), ta cũng đã có thể đếm được mấy chục trường hợp:

- trung châu (tr.146) là ở giữa bãi, chứ không nhất thiết là bãi giữa;

- trung dã (tr.149) là ngoài đồng, ngoài nội (“trong” phạm vi đồng nội);

- trung diên (tr.152) là trên chiếu, nghĩa là ở trong tiệc;

- trung đạo, trung đồ (tr.152) là “trong” đường, nghĩa là trên đường (đi);

- trung giang (tr.145) là “trong sông”, nghĩa là trên sông;

- trung lâm (tr.145) là trong rừng; v.v.

Những “hoá thạch ngôn ngữ” như thế này có quá nhiều trong tiếng Hán nên ta buộc phải xét lại xem chúng có “xứng đáng” với cái danh xưng đó hay không. Mà dù có đang gọi là “hoá thạch” thì đây cũng hoàn toàn có thể là một lớp trầm tích mà dòng chảy của Hán ngữ đã để lại. Phàm khi ta chưa đi vào ngữ pháp lịch sử (historical grammar, grammaire historique) của tiếng Hán thì ta dứt khoát chưa có quyền kết luận điều gì về cái hiện tượng mà ta đang quan sát này. Huống chi, như đã nói, “cú pháp xuôi” đâu có phải là độc quyền của tiếng Việt!

Tóm lại, ta không thể chứng minh một kết luận nào đó chỉ bằng ý chí; khoa học đòi hỏi những chứng cứ đầy đủ sức thuyết phục.

An Chi (Theo kienthucngaynay.vn)

Share this post


Link to post
Share on other sites

KỶ NIÊM VỚI NHÀ KHẢO CỨU AN CHI.

Ngày ấy (Khoảng năm 97/ 98), Nguyễn Vũ Tuấn Anh thật (Còn tôi - Thiên Sứ với Nguyễn Vũ Tuấn Anh là "giả", chỉ là bút danh) đang học lớp 7/ 12 . Trên Kiến thức Ngày nay có đăng lời hỏi của một người đào được con voi bằng đồng, có khắc hàng chữ Tầu viết thành hai hàng là: "Đại Tuyên niên . Minh Đức tạo". Ông ta hỏi Kiến Thức Ngày Nay đây có phải đồ cổ không và nó là thời nào? Nhà khảo cứu An Chi trả lời đại ý như sau:

Không có niên đại nào ở Việt Nam và Tàu có tên là Minh Đức và Tuyên Niên cả. Đây không phải đồ cổ.

Nguyễn Vũ Tuấn Anh thật trình độ 7/ 12 viết thư lên Kiến Thức Ngày Nay nói đại ý là:

Nhà ông Nội con có một cái đĩa cổ ghi hàng chữ:

Đai Tuyên Thái Niên và Minh Đức Bình Tạo.

Con thấy ộng nội con bảo rằng thì là: Chữ Tàu nó viết thành hàng dọc phải đọc như vấy:

Đại Tuyên Thái Niên

Minh Đức Bính Tạo.

Tức là" Đại Minh Tuyên Đức - Thái bình niên tạo"

Vậy con voi cổ kia cũng làm vào đời nhà Minh niên hiệu Tuyên Đức và phải đọc là:

Đại Minh Tuyên Đức niên tạo.

Nhà khảo cứu An Chi có phản hồi vuốt đuôi. Thư gửi tới ào ào bởi chủ nhân của con voi đồng và vài người muốn săn đồ cổ. Nguyễn Vũ Tuấn Anh thật trốn mất vì ông nội đã mất, gia đình sa sút từ lâu. Đồ cổ bán hết rùi.

Lâu quá không biết còn giữ mấy số báo kỷ niệm với ông An Chi của Nguyễn Vũ Tuấn Anh thật không. Nếu tìm được đưa lên đây cũng vui lăm.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hôm nay đỡ nhức đầu, buồn buồn ghé vào topic này, cũng tham gia đóng góp ý kiến cho xôm tụ:

Thiên Sứ tôi khẳng định rằng:

Thần Nông và Thần Bàn Cổ hoàn toàn thuần Việt và gốc Việt bị Hán hóa.

Tạm thời chưa chứng minh vội vì tôi chưa khỏi hẳn bệnh. Có nhiều bằng chứng sắc sảo liên hệ với điều này mà vấn đề danh từ như trên chỉ là một yếu tố.

Thiên Sứ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lang thang trên mạng, tìm được bài viết này. Phục Hy , Thần Nông , Đế Nghiêu có nguồn gốc từ Tổ Tiên Người Việt Cổ :D . Mong các bác tham khảo:

1). Đế Hoà,, tức Hoà Hy hay còn gọi là Hy Thúc, Hy Hoà, Hy Hoà là bố đẻ của Phục Hy. Cụ Hy Thúc là nhà thiên văn thuyết âm dương, làm ra lịch âm Việt Nam(2).

Vợ của Hoà Hy là Nữ Hoàng Anh, hiệu Diệu Quang Minh.

Mộ hai cụ ở thôn Thượng Lao, xã Thượng Vực, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây hiện nay.

2). Phục Hy (vua cả), đạo hiệu là Hư Không Giáo Chủ Đế Thiên Phục Hy định đô ở vùng thuộc Hà Tây hiện nay, nơi có bốn mùa hoa trái xanh tươi, là một trong những nơi phát tích sinh tụ, định đô của người Việt cổ. Cùng với bố là Đế Hoà, Cụ đã lập ra Kinh dịch đầu tiên. (Kinh dịch Phục Hy, NXB Khoa học Xã hội, 1997). Cụ mất Mồng 4 tháng Tư nhưng thường giỗ lệ vào mồng Một tháng Tư ở miếu Hy Sơn (đồi chùa Tây Phương).

Vợ Phục Hy là cụ Trinh Nương, hiệu Diệu Thái tử.

Hai Cụ sinh ra vua Thần Nông.

Mộ hai Cụ ở khu mộ cổ, bên cạnh miếu xóm Đồng, xã Tiên Phương. Chương Mỹ, Hà Tây. Tục truyền đây cũng là nơi mộ Phục Hy và 14 người giúp việc (phù tá) bị Hiên Viên giết.

3). Vua Thần Nông , là con Phục Hy, bị đuổi về chợ Rồng Đất, Chương Mỹ, sau khi Hiên Viên làm phản, đi cùng với cụ Hoà Hy (ông nội). Sau nhờ các sơn quân đánh đuổi Hiên Viên, Thần Nông lên trị vì. Mộ ở phía tây đình Sở Khê, miếu thờ ở Tiên Sơn (Tiên Lữ, làng Sở).

Vợ cả của vua Thần Nông có miếu thờ ở làng Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Tây. Ngày giỗ 29 tháng Chín.

Hai Cụ sinh ra Tiên Đế-Đế Tiết Vương.

4). Tiên Đế - Đế Tiết Vương và vợ là Nữ Hoàng Vân, hiệu Diệu Lan, mộ và miếu thờ ở Gò Sở, Quang Lãm, Thanh Oai. Cụ sinh ra đời thứ 5 là Sở Minh công.

5). Đế Quý Công hay là Đế Thừa Sở Minh công là cháu của vua Thần Nông. Cụ đứng đầu 9 bộ lạc (gọi là Cửu Long hay Cửu Chân Chính. Toà tượng Cửu Long ở chùa Việt Nam là biểu tượng 9 ông tổ của dòng người Việt. Mộ cụ ở Gò Ruối, Quang Lãm.

Cùng với Bà cả là Đại Nương, hiệu Diệu Diên, sinh ra Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Bà Hai, tên là Mỹ Lăng, hiệu Diệu Lan. Ở Gò Ruối, Quang Lãm, Thanh Oai, Hà Tây có miếu thờ và các mộ: Đế Quý công - Đế Thừa Sở Minh Công; Đế Thủ; Đế Trạch và cụ bà Đại Nương. (Trong phả cũ có chỗ ghi rất gọn một câu và thường không thấy nói đến trong các tài liệu khác, một vị là Đệ tam thúc phụ Nguyễn Nỏ, quan Thái sư.? (Đây chính là con thứ 3, con út của Sở Minh công. (Đ.T) tức Lý Long Cảnh hay ông Ba Đại vương).

Cụ Sở Minh Công cùng ba con và em thu phục 72 bộ lạc, lập nước Xích Quỷ. Sau khi dẹp loạn thu phục 72 bộ lạc, các động chủ, sơn quân tôn vinh Cụ là Chủ trưởng.

6). a. Nguyễn Minh Khiết, hiệu Thái Khương Công hay Khương Thái Công, tức là Đế Minh (cháu 4 đời của Thần Nông). Sau khi nối tiếp cha làm chủ 72 bộ lạc, Cụ giao quyền cho con trưởng (Kinh Dương Vương), về nơi Phục Hy ở quê cũ (vùng làng Sở), sau Cụ về ở với bà Hai ở Khương Thượng và mất ở đấy. Mộ Cụ ở làng Đình Công (có chỗ nói là Khương Thượng), gần Đền thờ. Giỗ Cụ ngày 2 tháng Hai âm lịch tại Khương Thượng (nay thuộc Hà Nội).

Miếu thờ cụ Đỗ Quí Thị

Gò Thiềm thừ

Bia con cóc

Cụ Bà, Đỗ (Quý thị), húy là Ngoan, còn gọi là Công chúa Đoan Trang. Tục truyền Cụ là con gái cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch(3) vùng Nghi Tàm (cụ Long Đỗ về sau còn được gọi là Thần Bạch Mã, một trong tứ trấn Thăng Long thành, thờ ở đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội).

Cụ Bà họ Đỗ tu theo đạo Sa Bà, đạo của Đế Thiên Phục Hy Hư Không giáo chủ cách đây khoảng 5.000 năm. Cụ sinh mồng 8 tháng Tư âm lịch, hoá ngày 15 tháng Bảy âm lịch ở Nội Tích, Đại Lôi (Ba La). Mộ táng ở Ba Lôi trong chùa Bồ tát Đa tát, Ba La. Dân thờ cụ ở chùa Đại Bi. Tên hiệu của Cụ là Tín Thiền Sư, Hương Vân Cái bồ tát.

Hai Cụ sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương, còn gọi là Vua cha Ngọc hoàng Thượng đế). Miếu thờ Cụ ở làng La Cả, La Khê (gần Ba La).

Cụ Đỗ Quý thị có 8 người em trai là Bát Bộ Kim Cương(4). Mộ 8 vị này ở gò Thiềm Thừ (nghĩa là gò Con Cóc) vùng Ba La.

Trước kia còn miếu thờ tám vị trên ở gò Thiềm Thừ (Con Cóc) vùng Ba La và có hai bia đá hình trụ (cao trên 1 mét, trụ 4 mặt, mỗi bề rộng 40cm, đỉnh trụ có một con cóc ôm quả cầu). Bốn mặt bia trụ có bài minh gồm 4 câu chữ Hán, đã được La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp dịch năm 1789 (theo ý):

- Phương phần bảo vật

- Vạn cổ nghiễm nhiên

- Chi hạng lưu hương

- Thiên thu trường tại

Dịch: Lối cũ dấu thơm

Nghìn xưa vẫn đó

Cây to báu vật

Muôn thuở còn đây.

Hai bia này hiện còn ở làng Cự Khê, Cự Đà, Thanh Oai, Hà Tây, sát bờ sông Nhuệ.

Tám vị Bát Bộ Kim Cương (cũng được tôn vinh thêm hai chữ Bồ Tát)(5)

- Đỗ Xương, hiệu là Thanh Trừ Tai Kim Cương

- Đỗ Tiêu, hiệu là Tịch Độc Thần Kim Cương

- Đỗ Kỹ, hiệu là Hoàng Tùy Cầu Kim Cương

- Đỗ Cương, hiệu là Bạch Tịnh Thủy Kim Cương

- Đỗ Chương, hiệu là Xích Thanh Hoả Kim Cương

- Đỗ Dũng, hiệu là Định Trừ Tai Kim Cương

- Đỗ Bích, hiệu là Từ Hiền Thần Kim Cương

- Đỗ Trọng, hiệu là Đại Lực Thần Kim Cương

b. Cụ Nguyễn Nghi Nhân tức Đế Nghi (em sinh đôi với cụ Nguyễn Minh Khiết, tức Đế Minh) được giao cai quản đất Ô Châu, lấy tên quê làng Sở đặt tên cho đất này là đất Sở (hay là nước Sở), sau thuộc Trung Quốc. Cụ mất ở nước Sở (Sở Hùng Thông), gần hồ Động Đình. Thi hài Cụ được đưa về quê cùng với một số các con cụ, trong đó có Đế Lai. Mộ để ở Khương Thượng. Cụ, anh và em Cụ hiện có tượng ban thờ ở chùa Sùng Nghiêm (Vân Nội). Đế Lai sinh ra Âu Cơ (vợ Lạc Long Quân). Một số con cháu Đế Nghi còn ở nước Sở là: Đế Ai, Đế Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí....

Thiên Cổ miếu ( Miếu Hy Sơn) ở đồi Chùa Tây Phương. Theo truyền lại, đây là nơi thờ Phục Hy

Đình thờ Lý Lang Công

Mộ Kinh Dương Vương

Đình thờ Lạc Long Quân

c. Cụ Nguyễn Long Cảnh (em cụ Đế Nghi) còn gọi là Lý Nỏ Ba Công, Lý Lang Công, Ba Công đại vương, được giao làm chủ đất Chân Lạp, Hồ Tôn, Ai Lao, nhưng không làm, mà chỉ giúp Đế Minh, đánh giặc ở Tử Di Sơn, đánh giặc Hồ Tôn. Cụ có công lớn giúp cháu (Kinh Dương Vương). Sau khi đánh Ma Mạc, Cụ định cư ở Châu Đức (sau này là Đám Nguyệt, Thanh Trì). Đền thờ Cụ ở La Cả do vua Lý Nhân Tông lập.

7). Húy là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, (con trai của Đế Minh và Đỗ Quý Thị), tự là Phúc Lộc, được cha (Đế Minh) giao làm chủ nước Xích Quỷ(6), sau được tôn xưng là vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế. Cụ sinh ngày 15 tháng Tám và mất ngày 25 tháng Chạp âm lịch. Mộ táng tại đình Phượng Hoàng, Hoa Cái Sơn (nay là thôn Vân Nội).

Vợ Kinh Dương Vương tên tự là Thanh Minh, Động Đình Tiên Nữ, tên húy là Đăng Ngàn, hiệu Thượng Ngàn, con Động Đình quân (chủ Động Đình) đất Sở, có công dạy dân nuôi tằm dệt lụa. Mộ ở Văn La thôn, còn gọi là khu Xích Hậu, giỗ mồng 3 tháng Ba (gọi là Hội Mẹ hay gọi là giỗ Bà Tổ Chân Tĩnh Bồ Tát).

Kinh Dương Vương có 5 con trai, một chết trẻ, bốn con trai còn chia làm bốn chi:

1. Hùng Nghiêm, tự Phúc Nghiêm, hiệu Pháp Phong (có chỗ gọi là Pháp Vân), mộ tại Hoa Cái Sơn (địa điểm của Cung điện cũ Phong Châu). Là Tổ chi một. Giỗ ngày 28 tháng Hai.

Vợ Cụ, hiệu là Diệu Đức, mộ tại thôn Văn La, Tiên La.

2. Hùng Quyền, tự Phúc Quyền, hiệu Pháp Vân (có chỗ gọi là Pháp Vũ), mộ táng tại khu Chùa Hai, cánh đồng Thượng Khánh cùng ấp. Cụ là Tổ chi hai.

Vợ Cụ là Từ Nhân, an táng tại cửa nhà thờ Thành Tiên Sơn.

3. Hùng Hiền, húy là Sùng Lãm (có chỗ gọi là Hùng Lâm), sau gọi là Lạc Long Quân. Tổ chi Ba. Mộ an táng tại ba gò đất trên đồng Bảo Cựu, sau đổi Bảo Hoa.

Chi ba được thừa kế làm trưởng thay cha, lập nước Văn Lang. Cũng từ đây phân ra 100 họ, lấy Nguyễn làm Trưởng tộc Việt. Thực ra 100 họ (Bách tính) là biểu tượng số rất nhiều dòng họ, không phải nghĩa đen chỉ là 100 họ.

Vợ Cụ, hiệu Từ Quý, an táng ở Tiên La, Động Hiền. Dân làm giỗ ngày 6 tháng Ba âm lịch.

4. Hùng Quyên, tự Phúc Quang, hiệu Pháp Điện, an táng tại Hy Sơn giếng, Liên Quyết, ấp Thủy Tiên, khu Vân Nội. Hùng Quyên là Tổ chi bốn.

Vợ, hiệu Từ Thọ, an táng tại Cửa Sơn Trạch, ấp Thủy Tiên.

Còn một con là Hùng Tiến, tự Pháp Vũ, hiệu Vũ Thiên, bị chết trẻ (mãnh tổ).

(Đời sau tôn thụy 5 ông là Ngũ vị Tôn ông và 4 bà là Tứ vị chầu Bà)

Kể từ đây Lạc Long Quân lấy họ Hùng và 18 triều đại về sau đều tôn xưng là Hùng. Và cũng từ đây, kế tiếp con cháu các đời của 18 triều Hùng, đều xưng là Lang Vương, Lang Quân (7).

Người đầu tiên, tên húy là Lâm (Lâm Lang Vương), tự là Phúc Tâm, mất ngày 28 tháng Năm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay