Posted 11 Tháng 10, 2010 Dã sử và chính sử Trích bài của Hà Tùng Long, trên báo Gia đình Xã hội cuối tuần số 40 ngày 7 – 10 – 2010: Theo các cụ cao niên làng Thịnh Liệt thì nơi tọa ngự của gò Đống Đa ngày nay, xa xưa thuộc đất làng Khương Thượng, huyện Quảng Đức, phủ Thuận Thiên. Đây cũng là một trong các chiến trường trong trận Hoàng Đế Quang Trung đại phá quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Sau chiến thắng như vũ bão,quân Tây Sơn giải phóng kinh thành Thăng Long, khu vực Đống Đa xác giặc chết ngổn ngang khắp nơi. Vua Quang Trung cho thu nhặt lại chôn thành 12 gò, sau gọi là “kình nghê quán” (gò chôn xác giặc dữ như cá kình cá nghê ngoài biển). 12 gò xưa nằm rải rác từ làng Thịnh Quang đến làng Nam Đồng và ở trong khu vực có tên là “xứ Đống Đa”. Điều này còn được ghi lại khá rõ trong bài thơ “Loa sơn điếu cổ” (viếng núi Ốc) của thi sĩ đương thời Ngô Ngọc Du: “Thành Nam thập nhị kình nghê quán, chiếu điện anh hùng đại võ công” (mười hai gò xác giặc phía nam thành, ngời sáng chiến côngcủa bậc anh hùng). Đến năm 1851 do mở đường, mở chợ, quá trình đào xẻ thấy có nhiều hài cốt giặc,người dân đã thu nhặt chôn vào một hố to sau đó đắp to lên thành gò cạnh núi Ốc (Loa Sơn). Dần dần ngôi gò mới này được đắp rộng và cao thêm ,dính liền vào núi Ốc và cũng dược gọi là gò Đống Đa. Sau khi chiếm thành Hà Nội, thực dân Pháp đã bạt đi tất cả 12 chiếc gò, chỉ còn lại gò ở núi Ốc. Do đó gò Đống Đa hiện nay thực chất là chiếc gò thứ 13 còn sót lại. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vĩnh Phúc cũng cho rằng, dưới thời vua Minh Mạng, ông Đặng Văn Hòa – tổng đốc Hà Nội xưa – khi mở vùng Nam Đồng, Thịnh Quang đã đào được rất nhiều hài cốt. Ông cho lính khiêng hài cốt đắp lên một gò cũ đà tàn. “Nguyên sơ ở vùng đó có 12 gò và gò còn lại là gò thứ 13. Đó là gò duy nhất may mắn còn giữ lại được cho đến ngày nay” – ông Phúc nhấn mạnh. Ông Phúc còn cho biết thêm, ông Đặng Văn Hòa từng cho xây một ngôi chùa bên phía đông của gò, gọi là chùa Đồng Quang vì nằm trên đất chung của hai làng Nam Đồng, Thịnh Quang. Cạnh ngôi chùa này trước kia còn có một nghĩa địa chung, trong nghĩa địa có một bàn thờ gọi là “nghĩa chủng”- nơi thờ cúng các cô hồn không nơi bám víu. Cụ Lê Hữu Đáp (86 tuổi) nhà ở phố Nguyễn Lương Bằng (thuộc khu Nam Đồng) cho biết ,khi còn nhỏ cụ thấy gò Đống Đa cũng chỉ còn lại một gò. Tuy nhiên ông bà của cụ vẫn kể lại rằng ngôi gò còn sót lại là gò chôn xác giặc Thanh. Hàng năm, đến ngày 5 tháng Giêng người dân hai làng Nam Đồng, Thịnh Quang vẫn thường tổ chức “ giỗ trận” – tức giỗ những người bị tử trận. Có ý kiến cho rằng người tử trận ở đây là quân Thanh, người làm giỗ cho họ là những người đã làm nên chiến thắng Kỷ Dậu, điều đó thể hiện tấm lòng khoan dung, độ lượng của một dân tộc vốn ưa chuộng hòa bình (chuyện khác xưa hơn, sự tích trả gươm cho rùa ở hồ MặcThủy để về sau thành cái tên là hồ Hoàn Kiếm cũng nói lên điều này). Một điểm đáng lưu ý là cố giáo sư Trần Quốc Vượng không cho rằng gò Đống Đa là nơi chôn xác giặc Thanh trong trận Ngọc Hồi Đống Đa. Theo cố giáo sư, các gò ở Đống Đa không phải là “ kình nghê quán” gì cả, bởi nó đã có từ trước năm 1789 . Những gò này có liên quan đến trường thi Bắc cử vào thời Hậu Lê. Theo cố giáo sư, khoảng năm Thiệu Trị (1840 – 1847) tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hòa sai thu táng những di hài ở đầu đường, cuối ngòi lại thành 12 gò, lấy công điền của hai trại Thịnh Quang và Nam Đồng (khoảng 12 mẫu) để làm mộ địa. Quan bố chính Nguyễn Cửu Trưởng bói ngày làm nền tự đàn (nơi tế lễ các vong hồn). Tổng đốc Đặng Văn Hòa cho lấy nửa số ruộng đất đó (cày cấy quanh 12 gò mộ) để làm ngân phí sắm đồ tế lễ hàng năm. Đây chính là tự đàn lộ thiên giữa khu mộ địa lớn nhất trong vùng. Đến năm Tự Đức thứ 4 ( 1851) . Quan Nguyễn Đăng Giai khi mở đường , mở chợ mới ở vùng này thấy nhiều xương khô quá nên sai đắp thêm một gò mộ nữa. Vậy là có 13 gò mộ. Như vậy sau trận Ngọc Hồi Đống Đa hơn nửa thế kỷ, dưới thời Tự Đức, các gò tự nhiên mới được có tro cốt đắp lên. Số tro cốt này được mặt sau của bia Đồng Khánh 1888 “giải mã” là năm 1886 quan tri huyện Thọ Xương cho di chuyển 2 đến 3 vạn mộ ở phía tây chùa Đồng Quang rồi mới bẩm lên quan trên. Và cũng đến năm 1888 tự đàn lộ thiên trong vùng mới được lợp ngói và hương khói thường xuyên. Độ “vênh” giữa dã sử và chính sử là cái dễ nhận rõ không phải chỉ trong sử thời cận đại mà còn trong sử cách nay 5000 năm. Chỉ có điều chắc chắn là ký ức của nhân dân chẳng bao giờ sai. Nếu vì “ húy” thì họ lưu giữ bằng các hình thức nghệ thuật truyền miệng như kể “ trường ca” hay “chuyện cổ tích”, thành ngữ, ca dao v.v. và bằng các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ chân chính đầy tài năng và sáng suốt như tượng, đền thờ, chùa , tích tuồng v.v.Như chùa Bộc gần gò Đống Đa, trong suốt thời triều Nguyễn chắc chẳng ai biết là chùa thờ vua Quang Trung, đến năm 1961 các nhà sử học nghiên cứu mới phát hiện sau lưng chân tượng có khắc dòng chữ “năm… tạc Quang Trung tượng”. Bức tượng là một vị hoàng đế ngồi trên ghế tay ngai, một chân trong hài , một chân để trần dẵm trên chiếc hài, để nói người anh hùng áo vải đã lên làm vua, không những đã thống nhất đất nước mà còn đánh tan quân xâm lược, để lại niềm kính trọng muôn đời trong lòng dân. Có lẽ chẳng có từ điển ngôn ngữ nào trên thế giới có từ “ giỗ trận” như ở tiếng Việt. Nó là một tình tiết văn hóa đầy tính nhân bản của tâm hồn Việt. Tục ấy đã có truyền thống từ xa xưa. Đơn cử tục “giỗ trận” ở vùng bên sông Bạch Đằng Quảng Ninh có từ thời Trần: Ở đoạn quốc lộ 10 từ nhà máy kẽm Quảng Yên ra miếu Vua Bà thuộc địa phận xã Yên Giang huyện Yên Hưng Quảng Ninh có một gò đất lớn nằm phía bắc bãi cọc lim, gọi là gò mả Ngụy. Chuyện xưa kể rằng trận đánh năm 1288 , giặc Thát sa vào bãi nhử đầy cọc lim sắc nhọn của ta, khi nước rút, bị quân dân nhà Trần tấn công bất ngờ, thuyền của chúng xô nhau chạy đâm vào cọc vỡ tan hoang, xác giặc chết ngập dòng nước. Sau trận thắng, quân dân ta thu gom xác giặc chôn không xuể phải tấp bên doi đất cổ có con đường mòn đi ra bến đò, đổ đất lấp thành gò, nên gò ấy gọi là gò Mả Ngụy. (Quân Nguyên Mông vốn là dòng giống của tộc Hãn cổ đại, là tộc đã lập nước Ngụy của Tào Tháo xưa ở phía bắc Hoàng Hà, mà dân ta vẫn quen gọi là nước “ Tàu”, thời tam quốc đánh giành đất đai của hai nước Ngô và Thục ở phía nam là dân thuộc tộc Hữu Hùng Thị . Trần Hưng Đạo vẫn gọi giặcThát là giặc Ngụy vì lý do đó). Ông Lê Hữu Lịch, hội viên hội văn hóa nghệ thuật Quảng Ninh có hai bài thơ về địa điểm lịch sử và về tục “giỗ trận” ở địa điểm lịch sử đó, trong tập thơ “Nắng và sóng” NXB VHNT, xin giới thiệu bạn đọc . Gò Mả Ngụy Gò Mả Ngụy cái tên nghe kinh dị Bởi ngày xưa xác giặc lấp ngang dòng Mùi xú uế bay lên đen ngọn gió Tấp nên gò nên đống máu xương khô Đêm hè về chập chờn bầy đom đóm Sương mùa đông phủ lạnh buốt cành gai Trăng thu sáng cũng úa bờ cây ráng Gió xuân làm run rẩy bụi trầm hôi Xương giặc Thát chất chồng bao oan khuất Hồn Toa Đô tơi tả đám hoa tàn Ta đốt cháy câu thơ chiều bỏng rát Buông tàn rơi xuống cỏ tím gò hoang. Ngày giỗ trận Ngày chiến thắng Bạch Đằng giang Ông bà ta gọi là ngày giỗ trận Ngày Tám tháng Ba khí thiêng bất tận Sóng xuân bát ngát sóng xô bờ Ngày tưởng niệm cha ông giữ đất Sao xót thương mấy kiếp hoang hồn? Dẫu trăm năm ngàn năm không mất Nỗi đau xương trắng chân cồn Lừng lững nước sông trong ngày giỗ Lăng lăng ngọn sóng trắng màu thương Trống giục cờ bay trời nổi gió Non sông rộn rã khách hành hương Đến độ giao mùa ta lại về giỗ trận Bến sông quê đầy nắng Bạch Đằng giang Mặt nước rưng rưng khói hương chầm chậm Tro vàng bay lấp nẻo sa trường! 7 people like this Share this post Link to post Share on other sites