Chemwind

BẢn HÙng Ca CỦa ĐỊa LÝ ĐẠi ViỆt

15 bài viết trong chủ đề này

Posted (đã chỉnh sửa)

CHÀO MỪNG ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 1000 NĂM THĂNG LONG – HÀ NỘI

=====o0o======

THIÊN ĐÔ CHIẾU

BẢN HÙNG CA CỦA ĐỊA LÝ ĐẠI VIỆT



LS. Thiên đô chiếu hay Chiếu dời đô do vua Lý Thái Tổ viết, nội dung chính là nhằm giải thích về lý do và quyết sách của triều đình mới ( Triều Lý) trong việc dời kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ( Ninh Bình) đến thành Đại La ( Thăng Long , Hà Nội).Văn bản súc tích chỉ với 214 chữ hán, mà nội dung khúc triết chặt chẽ, mạch văn lưu loát ngoài giá trị về mặt văn chương, chính trị, kinh tế, lịch sử còn có giá trị về mặt khoa học và địa lý.

Posted Image

Tuy chưa xác định chính xác được bản khắc này có từ thời Lê hay thời Nguyễn, nhưng có thể nói, tính đến thời điểm hiện nay, đây là bản khắc cổ nhất còn lại của Việt Nam về nội dung “Chiếu dời đô”.



Bản phiên âm Hán-Việt:

Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.

Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?



Bản dịch tiếng Việt:

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.

Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[1], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước (2). Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.

Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

**********



Thiên đô chiếu được vua Lý Thái Tổ viết với nội dung chính là nhằm giải thích về lý do và quyết sách của triều đình mới ( Triều Lý) trong việc dời kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư ( Ninh Bình) đến thành Đại La ( Thăng Long , Hà Nội).

Bản văn súc tích chỉ với 214 chữ hán, mà nội dung khúc triết chặt chẽ, mạch văn lưu loát ngoài giá trị về mặt văn chương, chính trị, kinh tế, lịch sử còn có giá trị về mặt khoa học và địa lý.

Đầu tiên Thiên đô chiếu đã nêu việc dời đô xưa nay cũng là chuyện đã từng có, không có gì lạ. Mục đích chuyển đô là : “.. để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh.” Đồng thời nêu cái nhược điểm và hậu quả do định đô nơi Hoa lư của hai nhà tiền nhiệm là Đinh, Lê. Và tỏ thái độ, cũng như ý kiến : “Trẫm rất đau đớn, không thể không dời”

Kế đó, nêu tiếp ý tại sao chọn Đại La là nơi dời đô về. Là vì nơi đây có tư thế địa lý đắc cách : “ ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.”

Có cả so sánh, để cân nhắc, quyết định : “Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương,”

Để rồi kết luận : “đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.”

Và quyết định : “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở”

Chỉ thiếu chăng một vài bản vẽ kiến trúc qui hoạch ( gọi là thiết kế sơ bộ), một con số về kinh phí thực hiện và nguồn vốn , Thiên đô chiếu như một dự án đầu tư về xây dựng, qui hoạch khả thi thời nay.



THIÊN ĐÔ CHIẾU LÀ BẢN HÙNG CA CỦA ĐỊA LÝ ĐẠI VIỆT

Trừ mở đầu là dẫn sử, phân tích cái thiệt thời của kinh đô cũ và các ý kiến so sánh, phân tích kết luận. Nội dung chính của Thiên đô chiếu là nói về địa lý dương trạch của thành Đại La : Hợp cách, Đắc địa, rất tốt cho định kinh đô mới.

Trong Địa lý dương trạch, Loan đầu (Hình thế ) pháp có các khái cơ bản về tư thế của dương trạch: Tiền Chu Tước- Hậu Huyền Vũ; Tả chi Long – Hữu thủ Hổ ( Trước mặt là Trĩ đỏ ( Nam )– Sau lưng là Rùa đen ( Bắc) ; Bên trái là tay Rồng ( Đông) – bên phải là tay Hổ ( Tây) ). Trước cửa căn nhà, hay khu đất thường gọi là Minh Đường.


Posted Image

Đắc thế của địa hình phải trái trước sau là : Minh đường tích (tụ) thủy, Huyền vũ tàng phong, Hỷ động Thanh Long, Tịnh lâm Bạch hổ. hay Huyền Vũ phải cúi đầu, Chu Tước dang cánh, Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ thuận quy.



- Minh đường ( trước mặt) phải khoáng đạt ( Chu Tước dang cánh), để xuôi thuận trong việc chuyển tiếp khí lực vào cho khu đất, căn nhà. Minh đường khoan sương, bình viễn nghĩa là phong quang , vuông vắn bằng phẳng là những minh đường tốt. Phải có sông hồ tích tụ nước(Minh đường tích thủy) có vậy mới dồi dào sinh khí ( vì nước là mẹ của khí ). Minh đường triều tiến, dung tụ nghĩa là có nước chầu về, dung kết là những minh đường hay cát lợi.



- Huyền vũ ( sau lưng ) nghĩa đen là nóc nhà màu đen,là sơn mạch đằng sau, từ đó mà long mạch rót khí vào. Để tàng phong ( giữ gió) - vì gió lộng làm khí tán , nên Huyền vũ phải cao,nhưng có triền thoải (Huyền Vũ phải cúi đầu ) vững chãi.



- Thanh Long ( bên trái) nghĩa đen là rồng xanh. Thuộc phương đông, hành mộc (theo ngũ hành) mộc là cây cối, hoa lá. Cây hoa tốt là phải tưoi xanh, phô vươn, khoe sắc. Thuộc cung Chấn ( trong bát quái) Chấn là lôi ( sấm) thuộc dương, dương thì phải tán mới hợp, sấm muốn oai thì phải động ( chuyển), phải vàng rền (kéo dài). Là Rồng đắc cách thì phải tung bay, uốn khúc, trải dài.



- Bạch hổ ( bên phải) nghĩa đen là hổ trắng. Thuộc phương tây, hành kim ( theo ngũ hành). Kim là kim loại, kim loại quý là loại hiếm và phải ẩn tàng ( Mỏ vàng qúy gia hơn thùng vàng, bởi do trữ lượng khuất giấu) Thuộc cung Đoài ( trong bát quái ) Đoài là trạch ( là nhà, là đầm nước) thuộc âm, âm phải tụ mới đúng cách. Là trạch muốn vững, muốn mạnh thì phải trầm chắc, tĩnh tịnh. Nên Hổ đắc cách thì phải trầm ẩn, triều phục, thu gần.

Posted Image

Thủ đô của các nước thịnh trị trên thế giới đều có cùng vị thế như Thăng Long - Hà Nội;

Cũng: "nơi ở giữa"; "thế đất cao mà sáng sủa"; "là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương"



Chi trung, chi thế, chi vị, chi nghi : Thăng long Đắc địa.

Đại La thành : ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước” ( Theo mộc bản Thiên đô chiếu cổ nhất, được cho từ thời nhà Lê mới tìm thấy gần đây, nếu địch sát nghĩa : “tiện giang sơn hướng bối chi nghi” là tiện nghi Núi sau sông trước mới đúng ý Địa lý Loan Đầu pháp)

- Trạch thiên địa khu vực chi trung - Ở giữa khu vực trời đất. Thời đó địa giới hành chính của Đại Cồ Việt, phía nam mới chỉ đên Châu Hoan ( nghệ an), nên Đại La nằm gần như ở trung tâm của đồng bằng bắc bộ, cũng gần như trung tâm của mặt bằng cả nước, thật là thuận lợi trong giao thương , quản lý. Một ý nữa là nằm ở trung tâm Đất Trời ứng với Nhân, thật thuận hợp với thuyết Tam tài trong Đạo học.

- Đắc long bàn hổ cứ chi thế - Ý nói : tả được thế Long cuộn ( Hỉ động, tung bay, vũng vẫy ) hữu được thề hổ chầu ( Tịnh lâm,trầm nịch )

- Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị - Chính giữa nam bắc đông tây, vậy là vị trí nằm vào trung tâm, phạm vi hành thổ ( theo ngũ hành ) với tính vuông vắn, cân bằng thì quả là vững trãi, ứng với thế thông trị của quân vương .

- Tiện giang sơn hướng bối chi nghi – Thuận tiện trước mặt là sông, sau lưng là núi. Với trước mặt Đại La là cả đồng bằng bắc bộ, có cá sông lớn tụ họp về . Sau lưng là dãy Ba Vì, thoải tựa vào Trường Sơn thật là Huyền Vũ tàng phong, Minh Đường tụ thủy.

Đại La ở miền bình địa, được cách : “Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải.” - Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa.

Cũng theo Loan đầu (Hình thế ) pháp thì miền Sơn cước ( miền núi ) là âm, Bình địa ( đồng bằng) là dương địa hình chi tiết thì khu đất có thế bằng phẳng là Dương, còn có gò đống cao thì là Âm. Đât Sơn Cước nên chọn nơi trũng thấp, mạch gầy . Đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí cao, mạnh lớn để khởi đột (toạ lạc). Như thế là phép hài hòa âm dương, hợp cách mà phát triển.

Posted Image

Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội) và Tử Cấm Thành (Bắc Kinh) đều được bố trí ở vị thế: "giữa khu vực trời đất"; "chính giữa nam bắc đông tây" Với trục chính theo hướng Bắc - Nam (trục của trái đất) lệch < 15 độ;



Theo Lý khí pháp, thì Khí ( Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí...) là một yếu tố rcấuu thành và ất quan trọng trong khoa địa lý,.Cuộc đất có hình hài đẹp đến đâu, mà vô khí hay nhược khí thì chẳng ích lợi. Cũng giống như cái Hồn ở người, người đẹp đến đâu mà vô hồn thì đúng là vô nghĩa.

Khí bản thể như vô hình, không nghe , không thấy, không sờ được nhưng luôn hiện hữu trong vũ trụ , thông qua các biểu hiện của môi trường, hình thái con người và biểu hiện của sinh động vật, người có trình độ y -lý số -địa lý học có thể biết được tình trạng của khí ở đó. "Hình giả, khí chi trứ; khí giả, hình chi trưng. Khí ẩn nhi nan tri; hình hiển nhi dị kiến - Hình là biểu hiện bên ngoài của khí; khí là cấu tạo bên trong của hình. Khí ẩn nên khó biết; hình hiện nên dễ thấy" (Mạnh Hạo - Tuyết tâm phú chính giải).

Một ngôi nhà nhiều sinh khí, thì thấy phong quang, mát mẻ , đồ vật tươi sáng, gọn ghẽ, người ở trong đó mạnh khỏe, nhanh nhẹn, kinh tế gia đình phát triển. Còn một gia đình thiếu khí, hay tù khí, thì thấy lãnh lẽo, u ám hay nóng bức, đồ vật ảm đảm, bừa bộn, người tronng nhà thì yếu ớt, cù mì, kinh tế trì chậm, thất thoát… Đến vùng đất nào thấy cây cối, cỏ hoa xanh tươi, mượt mà, phát triển thì biết đó là vùng có Khí vượng. Còn thấy khô héo, úa nát, èo uột thì rõ là vùng Khí suy. Thấy nhà nào có con mèo tự đến ở, luận sắp gặp xui xẻo, không may ( Mèo nhập gia thì khó) là bởi Ất Mão - mộc, thuộc âm. Âm quyện âm thấy đâu âm Khí cường thì nó tự đến, đó là biểu hiện âm khí thịnh mà âm khí nhiều thì dễ suy thoái. Còn thấy có con chó đến ở lại( Chó nhập gia thì giàu) , là do Mậu Tuất - thổ, thuộc dương. Dương quý dương, chó thấy nơi nào dương Khí thịnh thì lại, dương khi thịnh thì dễ phát đạt.. Chư không phải chúng là sứ giả đem đến may mắn hay xui xẻo cho gia chủ, mà chúng chỉ là tín hiệu thông báo.

“Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong.” - dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh..

Nghĩa đen có thể hiểu là hiện lúc đó tại Đại La dân chúng không khốn khó về kinh tài, dốt nát tối tăm về tri thức. Nhà cửa, cây cối, ruộng đồng, cảnh quan, người và vật ( muôn vật ) đều tươi tốt phồn thịnh. Còn theo Địa lý thì đó là biểu hiện cho vùng đất có nhiều sinh Khí.

Vậy một nơi có địa lý hành chính tốt, Địa lý trạch cư đẹp, thì có lý nào mà không vận dụng, để an cư lạc nghiệp !

Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

Một quyết sách sáng suốt, được minh chứng ở nghìn năm sau..

Với 1000 năm lịch sử, kinh đô Thăng Long cũng trải qua nhiều thăng trầm bởi chiến tranh, bởi thay đổi các triều đại trong lịch sử. Suốt 850 năm ( trừ đi 7 năm nhà Hồ dời đô vào Thanh Hóa và 143 năm nhà Nguyễn dời đô vào Huế ) Thăng Long ( Hà nội) không chỉ là kinh đô của 215 năm vương triều Lý thịnh trị, mà còn là đô thành đầu não của các triều Trần, Hậu Lê, Mạc, Lê Trung Hưng và nay là thủ đô nước CHXHCN Việt Nam, là trung tâm của cả nước về chính trị, kinh tế và văn hóa. nghệ thuật.

Một kinh đô nghìn năm văn hiến. Một đô thị, từ xa xưa có những con phố mang tên Hàng, là nơi sầm uất và thịnh vượng về kinh tế (Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến) Một vùng địa linh, nơi sản sinh và hội tụ anh tài,nhân kiệt. Vùng đất, cảnh quan, cuộc sống và con người nơi đây, luôn là nguồn cảm hứng cho các thi nhân, nhạc sĩ sáng tác nhiều tác phẩm nghệ thuật giá trị bao đời.



Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An



“ Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.”


Posted Image


(Chemwind - Lý Hóa Phong )







TẠI SAO VUA LÝ THÁI TỔ CÙNG VƯƠNG TRIỀU ĐẦU NHÀ LÝ LẠI GIỎI LÝ HỌC NHƯ VẬY ?

(Còn tiếp ..)


Edited by Chemwind
2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites


TẠI SAO VUA LÝ THÁI TỔ LẠI GIỎI LÝ HỌC NHƯ VẬY ?

Chiếu dời đô là những văn bản đầu tiên và có giá trị của nhà Lý trong việc điều hành, quản lý đất nước. Nội dung có tính dân chủ cao, theo nhà văn hóa Vương Trí Nhàn :

“ Trong Chiếu dời đô, Dân có bóng dáng một thứ chủ thể quốc gia, với nghĩa nhà cầm quyền nghĩ về Dân như những đối tượng mà mình phải lo lắng, phải chịu trách nhiệm; đời sống của Dân cũng là thước đo để nhà cầm quyền soi vào mà xem xét đánh giá mình.”

Dân gian có câu “ba lần chuyển nhà bằng một lần cháy nhà”, nên xét về mặt tỏ chức hành chính, dời kinh đô là việc quan trọng, có ảnh hưởng đời sdo61ng dân chúng và tốn kém cho lương đống quốc gia, vì vậy tất có lời bàn ra nói vào trong dân cũng như bộ máy chính quyền. Những suy nghĩ cố hữu, những tư tưởng chưa hòa đồng giữa Nho - Thích trong quan quân, thậm chí là những tư tưởng chống đối không thể không có.

Vậy để quyết định được thông nhân tâm, quan quân tâm phục khẩu phục, đồng lòng nhất trí thì “ dự án “ phải có lý, phải thuyết phục. Có được văn bản mang tính quyết sách, nội dung giá trị như vậy thì bản thân vua phải có những chủ trương, định hướng, xem xét, cân nhắc,suy nghĩ. Quần thần phải có những nghiên cứu, tham mưu và nội dung không có gì cao hơn là thể hiện tính dân chủ, mục đích không gì to lớn hơn là vì dân, mưu lợi cho dân, cho đất nước.

Xét về khía cạnh lý học, thì việc nhận định Đại La thành có địa lý đắc địa, hợp cách cho một kinh đô muôn đời phát triển, không phải là suy nghĩ bột phát, tức thời. Bằng cách nhắc đến Cao Biền ( một phong thủy gia đời Đường – TQ) : “Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương “ là đã biểu hiện sự nhìn nhận, xem xét địa lý Đại La từ người trước. Triều đình lúc đó lại có nhiều thiền sư giỏi thuật số, thông thiên văn, tường địa lý như Quốc sư Vạn Hạnh; thiền sư Đa Bảo ... tham dự chính sự. Rồi bản thân Lý Công Uẩn được nuôi dạy bởi thiền sư Vạn Hạnh từ nhỏ, thông tỏ tư tưởng Tam giáo, nên kiến thức về Địa lý âm dương trạch của ông không phải là tầm thường. Để có một “quyết định phê duyệt dự án” dời đô, thì trước đó là cả một quá trình khảo sát, nghiên cứu địa lý Đại La như lập một “dự án”.

Dưới đây là trích lược bài Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn của tác giả Trần Viết Điền


“ Miền Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung tâm Phật Giáo Luy Lâu, trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu Sơn, đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa cổ, với các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông, Vạn Hạnh... Sứ quân Lý Khuê đặt bản doanh ở Siêu Loại, đủ biết vị sứ quân này được lực lượng tín đồ tam giáo, đứng đầu là Phật giáo ủng hộ...Chúng ta có thể đoán định sứ quân này dựa vào lực lượng tam giáo, nòng cốt là trí thức và tín đồ Phật giáo lúc bấy giờ vậy. Sứ quân Lý Khuê lãnh đạo dân chúng miền Siêu Loại, cái nôi của Phật giáo, đòi tự chủ thì ông phải là một Phật tử có uy vọng, và tất nhiên không thể không có liên hệ với chùa Tiêu. Qua Thiền uyển tập anh ngữ lục, được biết Thiền sư ĐỊNH KHÔNG (730-808) thời thuộc Đường, người họ Nguyễn (thực ra là họ Lý), thuộc hương Diên Uẩn, giỏi thuật số, có khát vọng về hương Diên Uẩn của ngài được củng cố và phát triển, họ Lý của ngài sẽ làm vua, nước Việt độc lập và Phật pháp được chấn hưng. Khi sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở quê nhà khoảng (785-805), đào được pháp khí cổ, sư giải đoán họ Lý về sau có người làm vua, có ý đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Tâm nguyện của thiền sư được ký gửi qua bài kệ:

Pháp lại xuất hiện

Thập khẩu đồng chung

Lý thị hưng vương

Tam phẩm thành công.

Dịch:

Pháp khí hiện ra

Khánh đồng mười tấm

Họ Lý làm vua

Công đầu Tam phẩm

Trong bài kệ dự đoán, câu cuối " Tam phẩm thành công " được dịch " Công đầu tam phẩm "phải chăng chưa ổn ? Họ Lý hưng thịnh, quan đến tam phẩm mới lập công thì có gì đáng kể mà phải viết thành kệ rồi " truyền thừa " cả trăm năm! Ở đây có thể hiểu " Tam phẩm " là " ba đời họ Lý uy vọng " mời thành công nghiệp đế vương. Sư Định Không đã dặn dò đệ tử là thiền sư Thông Thiện: " Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành. ". Quả " dị nhân đến phá hoại mạch đất " là Cao Biền. Đệ tử Thông Thiện đã truyền " pháp ý " của sư Định Không cho đệ tử của mình là Trưởng lão Đinh La Quí An (852-936). Thiền sư họ Đinh này đã phá thuật yểm đất của Cao Biền ở hương Diên Uẩn (Cổ Pháp), căn dặn đệ tử là thiền sư Thiền Ông (902-979) (họ Lữ, người hương Cổ Pháp) về những pháp thuật " tài bồi thiên đức " cho vọng tộc Lý của hương Cổ Pháp... Và tất nhiên Thiền Ông đã truyền " tâm nguyện " của các tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An cho thiền sư Vạn Hạnh(939(?)-1025) và Vạn Hạnh đã hoàn thành rất xuất sắc " sứ mạng " mà các tổ giao phó. Đưa người họ Lý lên làm vua là " chiến lược trăm năm " được vạch từ thời thiền sư Định Không. Sứ quân Lý Khuê chiếm cứ vùng Siêu Loại, sát hương Cổ Pháp, để trở thành sứ quân Lý Lãng công(966-967) là một mắt xích trong " chiến lược trăm năm ", được thầy trò Thiền Ông- Vạn Hạnh đang ở chùa Tiêu Sơn điều hợp...Chùa Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn, vào đầu thế kỷ X, theo Thiền uyển tập anh, là nơi tập trung các vị sư, có khát vọng về một vị minh quân ra đời, nhằm chấn hưng xã hội nói riêng và Phật Giáo nói chung và tất nhiên có niềm khát vọng độc lập cho nước Việt. Trưởng lão Đinh La Quí An của chùa Thiên Tâm, biết phong thủy, giỏi Thái ất đã vận động những người hằng tâm hằng sản, lấp sông, hồ nhằm triệt phá những huyệt yểm của Cao Biền, bổ cứu long mạch đế vương của hương Cổ Pháp (Diên Uẩn), thậm chí đã dự đoán họ Lý hương Cổ Pháp sẽ làm vua. Thật vậy nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Khôi từng trích Thiền uyển tập anh: " "... Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, trước đây Cao Biền đắp thành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng Chánh pháp..." Năm Bính Thân, niên hiệu Thanh Thái thứ 3 thời thuộc Đường (936), khi trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, Trưởng lão Đinh La Quý An có đọc bài kệ:

Đại Sơn long đầu khởi

Cù Vĩ ẩn Minh Châu

Thập bát tử định thành

Miên thụ hiện long hình

Thỏ kê thử nguyệt nội

Định kiến nhật xuất thanh"

Tương truyền, cố GS sử học Trần Quốc Vượng sinh thời từng dịch và sau lần điền dã về khảo sát những di tích ở làng Dương Lôi. Khi tận mắt chứng kiến nền chùa Minh Châu và tìm hiểu địa danh trong vùng, biết có ngọn núi Đại Sơn ở cách chùa Minh Châu 1km, đã hoàn chỉnh bài dịch bài kệ như sau:

"Đầu rồng hiện ở Đại Sơn

đuôi rồng thì giấu ở chùa Minh Châu"

Họ Lý nhất định thành

khi cây gạo hiện hình rồng

chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột

chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh".



===== o0o =====



I – TIỂU SỬ LÝ CÔNG UẨN

Theo truyền thuyết dân gian mà hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng dẫn lại trong cuốn "Các triều đại Việt Nam, ông thân sinh ra Công Uẩn nhà nghèo khó, đi làm ruộng thuê ở chùa Tiêu Sơn, huyện An Phong, phải lòng một tiểu nữ rồi nàng có mang. Nhà sư thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai vợ chồng mang nhau đi, đến chỗ rừng Báng, mỏi mệt ngồi nghỉ mát. Chồng khát nước, xuống chỗ giếng giữa rừng uống nước, chẳng may sẩy chân, chết đuối. Vợ chờ lâu không thấy, đến giếng xem thì đất đã đùn lấp giếng,người vợ khóc lóc một hồi, rồi vào ngủ nhờ ở chùa ứng Tâm gần đấy.

Ông sư chùa Ứng Tâm, đêm hôm trước nằm mê thấy ông Long thần báo mộng rằng: "Ngày mai dọn chùa cho sạch, có Hoàng đế đến". Nhà sư tỉnh dậy, sai tiểu quét dọn sạch sẽ, chực đợi từ sáng đến chiều chỉ thấy một người đàn bà xin ngủ nhờ. Được vài tháng, có một đêm thơm nức cả chùa, nhà sư trông ra tam quan, thấy sáng rực lên. Nhà sư sai bà hộ chùa ra thăm thì người đàn bà ấy đã sinh một đứa con trai, hai bàn tay có bốn chữ son: "Sơn hà xã tắc". Sau đó, trời bỗng nhiên nổi cơn mưa to gió lớn, mẹ chú bé chết ngay sau khi sinh con và chú bé ở lại với nhà sư. Khi 8, 9 tuổi chú bé được nhà sư cho theo học sư Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn.



Theo Đại Việt Sử Ký ( ĐVSK) : Lý Công Uẩn, người châu Cổ Pháp, Từ Sơn Bắc Ninh. Mẹ là bà Phạm Thị, trước thường lên chùa Thiên Tâm và chùa Tràng Liêu ở núi Tiêu Sơn, huyện Yên Phong để lễ Phật. Bà không lấy chồng mà giao hoan với thần sinh ra con trai là Lý Công Uẩn.

Hồi Lê Ngọa Triều đang thi hành chính sách bạo ngược, bị thiên hạ ghét bỏ, thì tại Cam Tuyền, chùa Thiên Tâm có một con chó mới sinh sắc trắng, xuất hiện trên lưng có các đốm đen, kết lại thì thành hai chữ “thiên tử”. Thiên hạ bèn đồn rằng con chó là tượng trưng cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sẽ sinh vào năm Tuất sẽ xuất hiện cũng vào năm Tuất (tức năm 1010).

Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 (974) thời Đinh. Do điều kiện không rõ tung tích người cha, trước áp lực của chế độ phong kiến hà khắc, bà Phạm Thị phải gửi con vào chùa Hộ Pháp cho sư Lý Khánh Văn, sư Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi.



Posted Image

Chùa cổ nuôi dưỡng Lý Công Uẩn



Từ khi còn bé, Lý Công Uẩn thể hiện sự thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Được nghĩa phụ Lý Khánh Văn gửi Thiền sư Vạn Hạnh ở chùa Tiêu Sơn cho nuôi dạy. Công Uẩn không mấy quan tâm tới việc làm giàu và học kinh sử cũng rất qua loa nhưng lại luôn tỏ ra "khẳng khái, có chí lớn". Ông cũng rất tinh nghịch, có nhiều trò chơi khác thường.. Một hôm ông trốn học, bị sư Vạn Hạnh trói cả đêm ở Tam quan. Đêm không ngủ được vì bị muỗi đốt, ông xuất khẩu làm bài thơ :

Thiên vi khâm chẩm, địa vị chiên,

Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên.

Dạ thâm bất cảm tràng thân túc,

Chi khùng sơn hà xã tắc điên.

Dịch :

Trời làm màn gối, đất làm chăn

Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên

Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi

Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng



Sư Vạn Hạnh nghe thấy, khen rằng: "Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ. Sư đã ra công dưỡng giáo.

.Lớn lên, được sư Vạn Hạnnh tiến cử làm quan nhà Lê, trong đời Ứng Thiên, xuất thân thờ Lê Trung Tông. Vua Lê Đại Hành băng hà , Trung Tông bị giết, ông ôm xác mà khóc, Lê Ngọa Triều khen là người trung, cho làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, thăng đến chức Tả thân vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ.

Theo Thiền uyển tập anh : “ Lý Thái Tổ lúc chưa lên ngôi, Sư Đa Bảo (1) thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường, bèn bảo: "Chú này cốt tướng khác phàm, ngày kia làm vua ắt là nó đây."

Lý Công Uẩn cả kinh thưa : "Hiện đức Thánh thượng anh minh còn đó, trong ngoài cả nước yên vui, thầy ta sao lại nói lời phải tội tru di này?" Sư bảo: "Mệnh trời đã định, người dù muốn trốn cũng chẳng được nào. Giả như lời này mà đúng, thì mong chớ bỏ nhau."

Khi vua lên ngôi, nhiều lần triệu Sư vào cung, hỏi bàn yếu chỉ của Thiền và lễ Sư rất hậu. Vua đã xuống chiếu trùng tu chùa Sư ”



Theo sách "Việt sử thông giám cương mục" (VSTGCM) do Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn, trước khi diễn ra sự việc này, tại làng Diên Uẩn có cây gạo bị sét đánh, vết hằn hiện lên bài thơ, trong đó có những câu sau: "Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành, Đông A mộc địa, Dị mộc tái sinh"... Sư Vạn Hạnh đã lý giải ngay: "Hòa đao mộc" là chữ Lê, "Thập bát tử" là chữ Lý, có nghĩa là họ Lê (nhà Tiền Lê) đổ thì họ Lý sẽ lên, trong khoảng 6-7 năm thiên hạ thái bình (còn "Đông A" là họ Trần, "nhập địa" là giặc phương Bắc vào lấn cướp, và "Dị mộc tái sinh" nghĩa là họ Lê, tức nhà Hậu Lê, lại nổi lên...). Rồi sư Vạn Hạnh nói với Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn: "Xét theo lời sấm, xem ra sắp tới lúc họ Lý khởi nghiệp lớn...".

Đến khi vua Lê Ngọa Triều băng hà, được triều thần tôn xưng làm hoàng đế hoàng đế, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đóng đô ở thành Thăng Long, đại xá thiên hạ. Ở ngôi 18 năm (1010-102), thọ 55 tuổi (974-1028), băng hà ở điện Long An, táng ở Thọ Lăng.

Posted Image

Quốc-kỳ triều Lý (1010-1225)

Đánh giá về Lý Thái Tổ

ĐVSKTT viết: "Vua ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận, là người khoan thứ nhân từ, tinh tế hòa nhã, có lượng đế vương".

Còn sử thần Ngô Sĩ Liên thì bình: "Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành mở ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về, lại vừa sau lúc Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua thì vốn có tiếng khoan nhân, trời thương tìm chủ cho dân, dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai! Xem việc vua nhận mệnh sâu sắc lặng lẽ, dời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cũng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc đế vương...".

Posted Image

Tượng thờ vua Lý Thái Tổ ở đền Bát Đế - Bắc Ninh

Lý Thái Tổ

Trị vì 1009 – 1028

Niên hiệu : Thuận Thiên: 1010 – 1028

Thụy hiệu Thần Vũ Hoàng Đế

Miếu hiệu Thái Tổ

Triều đại Nhà Lý

Thân phụ Hiển Khánh Vương

Thân mẫu Minh Đức thái hậu Phạm thị

Sinh 974

Từ Sơn, Bắc Ninh

Mất 1028

An táng Thọ Lăng

Tôn giáo Phật giáo



=====================

(1.) Thiền sư Đa Bảo, tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng, Tiên Du, thuộc thế hệ thứ 5 dòng Vô Ngôn Thông. Là đệ tử của Đại sư Khuông Việt, khi tham học được Đại sư khen là người gặp việc thì chóng hiểu, xử sự cẩn thận, nên riêng cho nhập thất. Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bát, tiêu dao ngoại vật. Sau được chùa Kiến Sơ, bèn đến ở đó.



II- SỐNG Ở CHÙA LÀ PHẬT TỬ LÝ CÔNG UẨN NHƯNG LẠI ĐƯỢC GIÁO DƯỠNG TRONG CÁI NÔI ĐẠO HỌC VÀ LÝ HỌC.



THIỀN SƯ VẠN HẠNH



Posted Image



Theo Thiền Uyển Tập Anh, Vạn Hạnh Thiền sư họ Nguyễn, người châu Cổ Pháp, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức (nay là làng Đình Bảng, Thuận Thành, Bắc Ninh) năm sinh không rõ, nhưng theo Lê Mạnh Thát cho rằng, Ngài có thể sinh vào năm 932 hay sau đó một thời gian, xuất thân trong một gia đình đời đời tín Phật. Thuở nhỏ, ngài đã có tư chất khác thường, tinh thông Tam học, nghiên cứu trăm luận, xem thường công danh. Năm 21 tuổi, xuất gia tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông ở chùa Lục Tổ. Ngài thuộc thế hệ thứ bảy, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi của chùa Pháp Vân. Sau khi Thiền Ông qua đời, ông dốc chí luyện tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê Ðại Hành rất tôn kính ông. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời này sau ứng nghiệm. Khi vua Lê Ðại Hành muốn can thiệp vào Chiêm Thành để cứu sứ giả bị Chiêm Thành bắt giữ nhưng còn do dự, thì Vạn Hạnh nói đây là cơ hội đừng để mất. Sau đó lời này nghiệm, và trận ấy quân Lê thành công.



Thiền sư Vạn Hạnh chính là người đã dày công giáo dưỡng Lý Thái Tổ (1010-1028) ở trong chùa từ nhỏ, lúc vua còn là chú tiểu Lý Công Uẩn, theo nghĩa phụ Lý Khánh Văn đến chùa Tiêu Sơn học đạo. Khi thấy Lê Long Đĩnh bạo ngược, trăm họ sống trong cảnh lầm than, bấy giờ Lý Công Uẩn đang giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ nhà Lê, Thiền sư đã vận động quần thần trong triều suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập ra nhà Lý. Về sau, cũng chính Thiền sư đã tham mưu cho Lý Thái Tổ trong việc dời đô, từ kinh đô Hoa Lư về Thăng Long, để tính kế phồn thịnh muôn đời cho con cháu. Ngày rằm tháng 5 năm 1025, khi công hạnh đã viên mãn. Ngài thị tịch. Vua Lý Thái Tổ và tất cả triều thần nhà Lý đến làm lễ Trà tỳ, thỉnh Xá lợi của ngài về thờ tại chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Cảm mộ đức hạnh của Thiền sư, về sau, vua Lý Nhân Tông (1072-1127) có bài kệ truy tán rằng:

(Vạn Hạnh dung tam tế

Chân phù cổ sấm cơ

Hương quan danh Cổ Pháp

Trụ tích trấn vương kỳ).

Dịch :

“Vạn Hạnh thông ba cõi

Thật hợp lời sấm xưa

Quê hương tên Cổ Pháp

Chống gậy trấn kinh vua”.



Như vậy Lý công Uẩn là con, là học trò của những vị cao tăng xuất sắc đương thời, là truyền thừa của các vị tổ tinh thông Tam học.

Trải suốt triều đại nhà Lý ( 215 năm) với 8 đời vua, chủ trương Tam Giáo Đồng Nguyên luôn duy trì và phát triển.

Về Phật giáo :Các vua nhà Lý đều là Phật tử, trong việc trị nước an dân các vua đều thỉnh mời các thiền sư đương thời tham dự chính sự. Thực hiện việc xóa nợ, đại xá cho những người có tội. Không khắc nghiệt như những triều đại trước, việc hành pháp trị quốc an dân đều có bóng dáng và tinh thần từ bi hỷ xả của nhà Phật. Phát triển Phật Pháp bằng việc cử người sang Tống thỉnh Tam Tạng kinh điển ; Đầu tư xây dựng nhiều công trình kiến túc mỹ thuật Phật giáo (đóng góp 2/4 An Nam tứ đại khí là Tháp báo thiên và Chuông Quy Điền ; dựng chùa Hưng Thiên Ngự Tự, chùa Thắng Nghiêm,, chùa Tứ Đại thiên Vương,chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ….) số lượng chùa xây dựng khá lớn và quy mô, nhiều công trình đến nay rất giá trị như chùa Diên Hựu (chùa một cột) , chùa Hương…. Thời Lý, có thể nói là thời kỳ thịnh nhất của Phật giáo Việt Nam, là quốc giáo trong suốt 215 năm vương triều Lý.


Posted Image

Rùa đá trong Văn Miếu



Về Nho giáo : Từ tinh thần của Vua Thái Tổ bằng tính dân chủ, Thiên đô chiếu với câu kết :” Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?” - Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào? để liên kết nhân tâm, quy tụ và thuyết phục tầng lớp khanh tướng chủ trương theo Nho vốn hay trái lòng khó tánh, để cùng thuận ý đồng tâm góp sức với triều đình chuyển đô, chấn hưng đất nước.

Các đời vua sau tinh thần trọng Nho, trên nền tảng tinh thần “cư Nho mộ Thích ‘ được duy trì, vận dụng và phát triển bằng những dấu ấn cụ thể . Như trong việc lập kỷ cương để trị quốc, năm 1042 vua Lý Thái Tông đã hình thành và ban hành khá hoàn chỉnh bộ luật hình thư, nội dung rành rẽ dễ hiểu, tính nghiêm khắc nhưng lại có chất nhân văn, hòa quyện Nho – Thích.

Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho đầu tiên, 1076 lập Quốc tử giám ( trường đại học đầu tiên của Việt nam) để đào tạo nhân tài cho đất nước, rồi lập Văn miếu thờ Khổng Tử …Đó là những tiêu biểu cho tinh thần trọng Nho cuả triều Lý.

Posted Image

Tượng đầu chim phượng thời nhà Lý



Về Đạo học: Tuy là một Phật tử, Lý Công Uẩn từ khai sinh đã mang sẵn trong mình “ thiên mệnh” theo cái Lý của Đạo. Lại được sống và đào tạo trong một môi trường nhiều chất Đạo học từ nhỏ . Với các vị tổ biết trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giỏi Thái ất truyền từ Sư Định Không, Thiền sư Thông Thiện, Trưởng lão Đinh La Quí An,Thiền Ông. Thiền Ông truyền cho thiền sư Vạn Hạnh và Vạn Hạnh thâm hiểu Lý học, Đạo giáo cũng như đắc pháp Tổng Trì Tam Ma Ðịa của nhà Phật.Nên ông ít nhiều thông hiểu Lý học, Đạo pháp. Nội dung Thiên Đô chiếu là một trước tác thể hiện tầm nhìn cao siêu về địa lý phong thủy của ông, cũng như các vị “ tham mưu “ cho ông.

Tinh thần Đạo pháp của ông và hậu duệ còn thể hiện qua việc “trấn trạch” đất kinh kỳ như xây đền thờ một con chó ở Long đỗ trấn yểm đất kinh thành ; Xây đền thờ Bạch Mã để thờ Quảng Lợi Bạch Mã Tối Linh Thượng đẳng thần đã có công giúp vua xây thành Thăng Long. Lập đền Đồng Cồ ở phía bắc Thăng Long để thờ thần núi Khả Lao đã giúp vua thắng Chiêm Thành; Xây đền Hai Bà ( đền Nhị Nữ ) để thờ Hai Bà Trưng ; đền Voi Phục ( thờ thần Linh Lang ) dựng nhiều đạo quán để thờ Đạo, như quán Trấn Vũ ( đền quán Thánh ) để thờ Thánh Trấn Vũ;( Trấn Vũ là tên gọi tại Việt Nam của thần Chân Vũ, người Việt còn gọi là Trấn Võ, là một trong những vị thần được thờ phụng phổ biến tại Trung Quốc và các nước Á Đông. Vị thần này tượng trưng cho sao Bắc cực, và là một vị thần lớn của Đạo giáo thống trị phương Bắc, kiêm quản lý các loài thủy tộc nên cũng được coi là thủy thần hay hải thần. Theo hầu Chân Vũ là hai tướng Quy, Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và sức mạnh, và Ngũ long thần tướng. Theo tín ngưỡng dân gian người Trung Quốc, tất cả vì sao đều di chuyển vị trí, riêng sao Bắc Cực là bất động, do đó được xem là ngôi sao tôn quý nhất. Do đó, họ đã thần thánh hóa ngôi sao này với chức vị "Bắc Đẩu Tinh quân", do một vị thần "Huyền Thiên Thượng Đế" trấn giữ.)

Đặc biệt là cho xây dựng rất nhiều tháp thờ khắp nơi, vừa là thờ phụng thần Phật, vừa là để “ An thần nhập định” vừa là để “trấn trạch” cho đất kinh kỳ ( như dựng lại tháp Tường Long ở Đồ Sơn đời Lý Thánh Tông năm 1058 ).

Tháp Báo thiên :

Trấn áp đông tây củng đế kỳ

Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy

Sơn hà bất động kình thiên bút

Bản dịch

Trấn áp đông tây giữ đế kỳ

Một mình cao ngất tháp uy nghi

Chống trời cột trụ non sông vững

( Thơ Phạm Sư Mạnh( TK14) tiến sĩ đời Lý )


Posted Image

Tượng đầu Rồng thời nhà Lý


Với Địa lý dương trạch : Sau khi dời đô ra Thăng Long, để có nơi thiết triều và chỗ ở cho hoàng thất, Lý Công Uẩn đã tổ chức một công trình xây dựng lớn. Kết quả là một cụm kiến trúc trung tâm được hoàn thành bao gồm 8 điện và 3 cung.

Sách Đại Việt Sử ký toàn thư chép: “Phía trước, dựng điện Càn Nguyên, làm chỗ thiết triều, bên tả làm điện Tập hiễn, nơi tập hợp quan văn trí thức; bên hữu là Điện Giảng Võ, nơi tập huấn các võ tướng, quân sư. Lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn. Hướng chính nam dựng Điện Cao Minh, đều có thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía…”.

Các cung điện được bao quanh bằng một vòng thành được bảo vệ nghiêm ngặt, gọi là Tử Cấm thành hay Cấm thành. Hoàng thành là một vòng thành thứ hai. Phía ngoài đào hào, mở 4 cửa là Tường Phù ở phía Đông, Quảng Phúc ở phía Tây, Đại Hưng ở phía Nam và Diệu Đức ở phía Bắc. Cấm thành và Hoàng thành nằm ở phía Tây Hà Nội ngày nay (tọa lạc ở khu vực quận Ba Đình).

Đại La thành (hoặc gọi tắt là La thành) là vòng thành lũy thứ ba, được đắp bằng đất nện chặt, vừa có chức năng bảo vệ vòng ngoài cho Hoàng thành và Tử Cấm thành, lại vừa là đê chống lụt cho cả kinh thành.

Cấm thành và Hoàng thành là khu vực hành chính, trung tâm đầu não chính trị của cả nước. Cạnh Cấnh thành, Hoàng thành và Đại La thành là khu vực thị - khu vực dân cư tập hợp thành những phố, những phường làm các nghề thủ công, buôn bán, bên những xóm làng làm nông nghiệp và một hệ thống chợ, bến sầm uất ven các sông Tô, sông Đáy, sông Kim Ngưu, vừa là nơi cung ứng, vừa là phương tiện giao thông, vừa là nơi thoát nước, chống úng.

Bản đồ dựng lại quang cảnh Thăng Long thời Lý đã chứng minh cho năng lực quy hoạch và am tường Địa Lý hình thể của Lý công Uẩn từ 1000 năm trước.

Posted Image

Hoàng thành Thăng Long

Nhà Lý cũng cho xây dựng nhiều công trình đài tháp, ngoài thờ phụng còn là vật khí trấn trạch vượng địa. Thời nhà Nguyễn, khi dời đô vào Huế, triều đình đã cho người ra phá một số tháp để lấy gạch về xây dựng, chắc không phải lý do ở Huế thiếu gạch xây dựng, mà sâu xa đằng sau là muốn triệt trạch Thăng Long ?

Về Địa lý âm trạch : Để cho con cháu thịnh vượng, dòng họ dài lâu các vua nhà Lý chọn vùng quê cũ là Cổ Pháp , Đình Bảng , Bắc Ninh là nơi có long mạch , huyệt đạo tốt ( Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, trước đây Cao Biền đắp thành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng Chánh pháp..) – Theo Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn của tác giả Trần Viết Điền. ) Để xây lăng mộ tổ tiên. Nơi đây có lăng mộ của 8 vị vua đời Lý gọi là lăng Lý Bát Đế.

Thời nhà Lý tương truyền trong dân gian có nhiều cao nhân về lý học, giỏi địa lý , độn đoán , bốc dịch và các thuật tu.


Posted Image

Rồng đá ở điện Kính Thiên

Có thiên bẩm, tư mệnh xuất sắc hơn người, lại được nuôi dưỡng trong một cái nôi tôn giáo, lý học từ nhỏ với các bậc quốc sư tinh thông lý học, tất nhiên vua Lý Công Uẩn và chắc là sẽ có nhiều quần thần dưới quyền, rất giỏi về Lý học.

( Còn tiếp....)

(Lý Hóa Phong - Chemwind )


2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài đọc thêm

( Trước khi bàn tiếp )

Ai khai sinh ra thành Đại La?

Hoàng Hải Vân

TNO .  Lý Nam Đế là vị vua đầu tiên đóng đô ở nơi mà sau này Lý Thái Tổ dời đô đến, nơi trở thành Thăng Long - Hà Nội 1.000 năm.

Lần theo những chi tiết ghi trong sử sách kết hợp với những tài liệu mới nhất về cổ địa chất, chúng ta có thể hình dung rõ hơn quá trình hình thành, phát triển và lý do bị chôn vùi của Hoàng thành Thăng Long (Hoàng thành); đồng thời cũng cung cấp thêm những căn cứ cho việc phát triển thủ đô... Trong Chiếu dời đô bất hủ, Lý Công Uẩn viết: “...Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời...”.

Nghìn năm trôi qua thời gian đã khẳng định tầm nhìn của Lý Thái Tổ. Chi tiết “nhạy cảm” trong đoạn trích ở trên là ông đã nhắc đến Cao Biền mà ông trân trọng gọi là “Cao Vương”. Nhiều nhà nghiên cứu lấy làm tiếc rằng áng văn này chưa mạnh mẽ dứt khoát bằng Bình Ngô đại cáo hay Nam quốc sơn hà vì có chỗ “khuyết” đó. Bởi Cao Biền tuy được sử sách nước ta nhìn nhận theo nhiều cách khác nhau nhưng trước hết ông ta vẫn là một viên quan đô hộ.

Người Việt Nam cho đến nay dù ít dù nhiều đều có nghe những câu chuyện huyền thoại hư hư thật thật về nhân vật này. Chúng đã được ghi lại trong Lĩnh Nam chích quái Việt điện u linh. Người ta bảo Cao Biền thường cưỡi diều giấy đi khắp nơi xem xét các hình thế đất đai sông núi, nơi nào có “long mạch” thì dùng bùa phép yểm đi. Ở nước ta hiện vẫn còn lưu truyền một số sách địa lý phong thủy được cho là do Cao Biền viết, như Cao Biền di cảo, Cao Biền địa cảo tập, An Nam địa cảo lục. “Đời Đường Ý Tông (860 - 873)... Nghĩ đến việc Triệu Đà xưng đế, vua bèn sai Thái sử Cao Biền làm đô hộ An Nam. Khi Biền sắp ra đi, vua triệu vào điện bảo: “Trẫm nghe An Nam có nhiều ngôi đất thiên tử, ngươi tinh thâm về địa lý, nên hết sức yểm đi và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem”. Biền đến An Nam, dạo qua sông núi nào tốt thì đều yểm cả. Biền có làm tờ tấu tâu rằng chỉ có núi Tản Viên là rất thiêng, yểm không được, nên không đụng đến” (trích lời tựa Cao Biền di cảo, dẫn theo Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo VN tập II). Có lẽ do bản năng chống ngoại xâm luôn luôn trỗi dậy mạnh mẽ trong dân gian, nên đi kèm từng chuyện “trấn yểm” của Cao Biền là những sự tích linh thiêng địa linh nhân kiệt làm cho họ Cao phải nể sợ, như chuyện thần núi Tản Viên, sự tích đền Bạch Mã, chuyện Cao Lỗ,sự tích núi Cánh Diều... Không thể xác minh những sách vở được lưu truyền trên có phải là của Cao Biền thật hay không, chỉ biết chắc rằng sử sách Trung Quốc hoàn toàn không ghi những chuyện đó. Nhưng truyền thuyết cũng đã bị đáp trả bằng truyền thuyết.

Chuyện Cao Biền “trấn yểm” cũng gặp phải sự phản kháng quyết liệt của các cao tăng Phật giáo, điều này được ghi lại trong Thiền uyển tập anh, một trong 3 cuốn sách cổ nhất viết từ thời nhà Trần còn truyền bản đến ngày nay (2 cuốn kia là Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái). Thiền uyển tập anh đã ghi lại lời của một thiền sư - Trưởng lão La Quý (852 - 936) dặn đệ tử trước khi viên tịch: “Trước kia, Cao Biền xây thành ở Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt sông Điềm và những ao Phù Chẩn... đến 19 chỗ để trấn yểm. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa...”. Nhưng chính sử thì “án phải tự hồ sơ”, nên đã có cái nhìn hơi khác. Không giống như Sỹ Nhiếp (người có tổ tiên 6 đời ở nước ta, nên thực chất là một người Việt), Cao Biền chính hiệu là một viên quan phương bắc cử sang đô hộ. Họ Cao làm quan có công với nhà Đường, được thăng chức Tần Châu Phòng ngự sứ trước khi được sai đi “đánh dẹp” ở phương nam và cử làm “Tĩnh hải quân Tiết độ sứ” cai trị nước ta. Tuy nhiên, sau khi phá xong quân Nam Chiếu, Cao Biền đã có động thái rất không bình thường. Sử Trung Quốc không hề ghi Cao Biền được phong vương, nhưng chính sử nước ta lại viết: “Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian” (Đại Việt sử ký toàn thư - ĐVSKTT, tập 1, tr.200, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004). Việc “giữ phủ xưng vương” này đương nhiên không phải do triều đình nhà Đường sai bảo, đây có khả năng là hành động tự ý cát cứ. ĐVSKTT còn chép rằng, sau khi xây xong thành Đại La, Cao Biền còn thực hiện một kỳ công là đục đá ngầm mở đường biển cho thuyền bè đi lại. “Nay khai đường biển để giúp dân sinh, nếu mình không theo lòng riêng thì có gì khó”, Cao Biền tuyên bố. Còn sử thần Ngô Sĩ Liên của nước ta thì bình luận: “Đó là vì việc làm hợp lẽ cho nên được trời giúp”. Do lo ngại về mưu đồ cát cứ của Cao Biền, nên đến năm 875 (đời Đường Hy Tông), Cao Biền bị triệu hồi về làm Tây Xuyên Tiết độ sứ. Đến cuối đời Đường, nhân loạn Hoàng Sào, Cao Biền kháng chỉ từ chối đem quân về cứu giá, sau đó tạo phản chiếm giữ Dương Châu. Cuối cùng thua quân triều đình, bị bắt và bị giết. Vì lẽ đó, cũng như công tâm ghi nhận trong khi cai trị nước ta Cao Biền đã có công xây thành đắp lũy, mở mang giao thông cũng như một số chính sách an dân, ngăn chặn sự nhũng lạm của đám quan lại thừa hành, nên Cao Biền được chính sử Việt Nam có một cái nhìn khá trân trọng. Lý Công Uẩn gọi Đại La là “đô cũ của Cao Vương”, ngoài lý do nói trên, có lẽ còn có lý do quan trọng khác mà ông muốn nhấn mạnh: Cao Biền là người rất giỏi về địa lý và phong thủy. Chúng ta có thể thấy điều đó đằng sau những chuyện “trấn yểm” mang tính huyền thoại kia. Nhưng thành Đại La có từ bao giờ? Dựa theo những ghi chép từ lịch sử, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó bắt đầu được xây dựng từ năm 621 do Đại tổng quản Giao Châu của nhà Đường là Khâu Hòa thực hiện, gọi là Tử Thành, có chu vi 900 bộ. Kế đó, vào năm 767, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi đã cho đắp thêm cao hơn, gọi là La Thành. Năm 791, một quan cai trị khác là Triệu Xương đắp lại kiên cố hơn. Năm 808, Trương Chu đắp thêm một lần nữa... Đến năm 866 Cao Biền đến đây “giữ phủ xưng vương” và đắp thành hoành tráng như đã nói. Như vậy là thành Đại La, tiền thân của Hoàng thành Thăng Long, chỉ là thành cũ do các quan cai trị phương bắc dựng lên và mở rộng, làm cho kiên cố dần. Có đúng như vậy không? Hãy lật lại những trang sử trước nữa.

Vào năm 541, theo ĐVSKTT, Lý Bí “dấy binh đuổi giặc (nhà Lương), xưng là Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên”. Những người dịch ĐVSKTT ghi chú: “Vị trí của thành Long Biên đến nay vẫn chưa xác định được, có thể ở vùng gần thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc”. Ghi chú này có liên quan đến chương về Sỹ Nhiếp cũng trong ĐVSKTT, tại đây ghi Sỹ Nhiếp làm Thái thú Giao Châu, “đóng đô ở Liên Lâu (tức Long Biên)”, tuy nhiên những người dịch ĐVSKTT lại ghi chú: “Liên Lâu: cũng thường đọc là Luy Lâu, ở Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, nay còn di tích thành, theo nhiều nhà khoa học, thành Liên Lâu không phải là Long Biên”. Thế thì Long Biên ở đâu? Lần theo sử Trung Quốc thì sẽ thấy Lương thư ghi rằng: Lý Nam Đế “dựng thành lũy bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch” (dẫn theo Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo VN tập II). Đối chiếu với lời của nhà sư La Quý (chú ý: La Quý là người sống cùng thời với Cao Biền) ghi trong Thiền uyển tập anh đã dẫn ở trên “Trước kia, Cao Biền xây thành ở Tô Lịch...”, chúng ta có thể thấy nơi mà Lý Nam Đế đóng đô chính là nơi Cao Biền dựng thành. Thành Long Biên của Lý Nam Đế là tiền thân xưa nhất của thành Đại La. Thành này Lý Nam Đế đã dựng cung Vạn Thọ làm nơi triều hội và xây chùa Khai Quốc tồn tại đến ngày nay (nay là chùa Trấn Quốc). Mãi đến năm 602, Lý Phật Tử còn sai anh là Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên, nghĩa là nó tồn tại suốt hơn 60 năm trước khi bị quân xâm lược phương bắc chiếm giữ. Có thể dẫn thêm một số chi tiết khác “ẩn” trong sử sách để minh chứng cho điều này, nhưng chừng ấy cũng đủ để khẳng định Lý Nam Đế là vị vua đầu tiên đóng đô ở nơi mà sau này Lý Thái Tổ dời đô đến, nơi trở thành Thăng Long - Hà Nội 1.000 năm. Nó do chính người Việt Nam ta phát hiện, chứ không phải do người Trung Quốc.

(Theo TNO )

Posted Image

Ngói trang trí trên nóc nhà thời nhà Lý

Cách địệu từ hình chiếc lá Bồ Đề, trong trang trí hoa văn hình rồng tinh xảo 

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài tham khảo :

Tiến sĩ Nguyễn Việt làm “sống dậy” người Việt cổ

Vũ Xuân Bân

(TT&VH) - TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã không còn xa lạ với công chúng khi những công trình “ứng dụng” các kết quả nghiên khảo cổ học của anh liên tiếp ra mắt với đầy sức lôi cuốn. Trong những ngày Đại lễ, anh đã cho ra mắt cuốn sách Hà Nội, thời tiền Thăng Long với những tìm tòi về cộng đồng cư dân Việt cổ trên vùng đất rồng cuộn hổ ngồi này.

TS Nguyễn Việt chính là người đã phục dựng 5 khuôn mặt đầu tiên từ những hộp sọ thời Đông Sơn gây xôn xao dư luận cách đây chưa lâu. Mặc dù còn nhiều tranh cãi, nhưng công trình này ít nhiều đã khiến cho người ta rưng rưng xúc động như nhìn thấy gương mặt tổ tiên của mình bị ẩn khuất bởi lớp thời gian hơn 2.000 năm. Ông cũng là người đã phục dựng nỏ thần An Dương Vương, một huyền thoại sống động diệu kỳ trong tâm thức người Việt.

Nét tài hoa của người Hà Nội

Ấn tượng sâu sắc đối với người bạn học gốc “Hà Nội thứ thiệt” tại nơi sơ tán Trại Chuối, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên cách nay hơn 42 năm, khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn quyết liệt nhất, là bức họa Thảo mã thượng phi ngay trong buổi học đầu tiên mô tả vó ngựa trên thảo nguyên mênh mông... làm cho cánh sinh viên “nhà quê” chúng tôi thán phục. Chàng sinh viên có nét tài hoa đó chính là Nguyễn Việt.

Nguyễn Việt sinh ra và lớn lên ở khu vực “36 phố phường” Hà Nội... Vào đại học, anh là sinh viên hệ Khảo cổ của Khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội cũ dưới sự chăm sóc giảng dạy của thế hệ giáo sư Lâm - Lê - Tấn - Vượng (Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng)... Kết thúc đại học, anh thuộc thế hệ những sinh viên tòng quân chống Mỹ trong những tháng năm rực lửa 1972 làm lính hải quân. Chiến tranh chấm dứt, cuối năm 1975, anh về công tác tại Viện Khảo cổ học. 

Ở cái tuổi tam thập nhi lập, anh đứng tên chủ biên, cùng hai bạn đồng môn là Vũ Minh Giang và Nguyễn Mạnh Hùng hoàn thành bản thảo cuốn sách đầu tay: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm dày trên dưới 500 trang, được NXB Quân đội Nhân dân phát hành năm 1983 với trên 11 ngàn bản.

Năm 1984, anh được cơ quan cử đi nghiên cứu sinh tại CHDC Đức và nhận bằng tiến sĩ Khảo cổ tại Berlin với điểm ưu vào đầu năm 1989, đồng thời là đồng tác giả tham gia viết công trình Những nghiên cứu mới về tiền sử, sơ sử Việt Nam (dưới ánh sáng của Niên đại Carbon phóng xạ C14) xuất bản bằng tiếng Anh tại Berlin năm 1988. Sau khi về nước công tác một vài năm, anh trở lại nước Đức làm cộng tác viên cho các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến tiền sử Việt Nam. Năm 1999, anh cùng một số nhà khoa học Việt Nam sáng lập Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á và trực tiếp làm giám đốc cho tới ngày hôm nay.

Đến kỳ công phục dựng gương mặt tổ tiên

Ngay từ thời còn sinh viên ở nơi sơ tán, không chỉ giỏi vẽ, Nguyễn Việt đã đam mê nặn tượng. Học đến chuyên đề khảo cổ học, khi GS Hà Văn Tấn giới thiệu về phục chế mặt người qua sọ theo trường phái Gerasimov (tên một nhà khoa học ở Liên Xô cũ), cánh sinh viên chúng tôi đã khuyên, động viên, hy vọng Nguyễn Việt là người “khéo tay” sau này sẽ thành công về lĩnh vực phục chế này.

Hy vọng đó đến nay đã thành hiện thực. Sau nhiều năm nghiên cứu không chỉ phương pháp của Gerasimov mà cả của Anh, Mỹ, Đức, TS Nguyễn Việt và nhóm các nhà khoa học thuộc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đã phục chế thành công khuôn mặt người Việt buổi đầu Công nguyên. Những chiếc sọ được TS Nguyễn Việt chọn để phục chế khuôn mặt được tìm thấy trong khu mộ táng Động Xá (Kim Động - Hưng Yên) có niên đại từ 2.000 đến 2.500 năm. Đó là giai đoạn lịch sử quan trọng của thời kỳ dựng nước đang rất cần làm rõ.

Công trình phục dựng mặt người Động Xá hơn 2.000 năm trước ngay lập tức đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học và công luận. Đề tài khoa học đã được Hội đồng Khoa học của Hội Nghiên cứu Đông Nam Á Việt Nam nghiệm thu và được trình bày tại Viện Goethe (Viện Phát triển văn hóa và ngôn ngữ Đức) tại Hà Nội năm 2005.

5 khuôn mặt đầu tiên của thời Đông Sơn từ hơn 2.000 năm trước đã được TS Nguyễn Việt giới thiệu. Họ được phục dựng từ năm chiếc sọ còn khá nguyên vẹn khai quật ở khu mộ táng Động Xá. Chân dung đầu tiên làm từ sọ một cô gái ở độ tuổi 17-18. Số còn lại gồm hai thanh niên (một nam, một nữ) và hai nữ trung niên khác nữa. Tuy cùng thời và cùng một làng nhưng họ đại diện cho ba kiểu dáng sọ khác nhau ít nhiều về đặc điểm nhân học. Họ đại diện cho những nhóm loại hình người khác nhau cùng tồn tại trong một thời kỳ văn hóa Đông Sơn muộn ở địa bàn đương thời thuộc huyện Chu Diên (nay thuộc Hưng Yên) và rất có thể họ đã cùng gia nhân hào trưởng nhà Thi Sách chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra chỉ mấy chục năm sau đó.

Sẽ mở trung tâm phục chế mặt người cổ

Việc Trung tâm tiền sử Đông Nam Á tiếp tục phục dựng cơ bắp thân thể người gắn với việc phục chế trang phục từ những miếng vải khai quật được và hình ảnh con người còn lưu giữ trên các đồ đồng cùng thời hé mở lần đầu tiên những hình ảnh chân thực, có giá trị khoa học về tổ tiên chúng ta thời dựng nước. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà khoa học trong việc tìm ra đặc trưng chủng tộc của từng khu vực qua chân dung người cổ đã được tái tạo.

Từ thành công này, TS Nguyễn Việt kỳ vọng trong tương lai gần sẽ mở ra một trung tâm đầu tiên phục chế mặt người dựa trên hộp sọ khảo cổ phát hiện trong khu vực Nam Trung Quốc và Đông Nam Á.

Đến thăm Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á những ngày cận kề Đại Lễ 1.000 năm Thăng Long, chúng tôi chứng kiến những nỗ lực của TS Nguyễn Việt và các nhân viên đang gấp rút hoàn thành chân dung phục dựng từ một bộ xương đời Lý và hai loại vũ khí công thành cỡ lớn mà Lý Thường Kiệt đã sử dụng trong trận đánh chiếm thành Ung Châu trên đất Tống xưa kia.

Tiếp tục tìm về với người Việt “thời tiền Thăng Long”

Một thông tin đáng mừng là đúng dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, trong tủ sách “Hà Nội ngàn năm văn hiến” do NXB Hà Nội ấn hành, có một cuốn sách dày hàng ngàn trang do TS Nguyễn Việt biên soạn nhan đề Hà Nội, thời tiền Thăng Long.

Tuyến chủ đạo của cuốn sách là nhằm giới thiệu với người đọc cội nguồn của vùng đất có thế “rồng cuộn hổ ngồi” của thủ đô Hà Nội ngày nay, sự ra đời và phát triển mãnh liệt và trường tồn của các cộng đồng cư dân Việt cổ trên vùng đất này cho đến khi trở thành Thăng Long - Thủ đô của nhà nước Đại Việt vào thế kỷ 11. Nhiều nguồn sử liệu trước đây cũng như những tài liệu và tư liệu được đề cập trong cuốn sách này cho thấy vào những thời trước Thăng Long, vùng Hà Nội đã có vai trò là một đô thị, nơi tập trung dân cư đông đúc, nơi hội tụ đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội có tính trung tâm lớn, nhỏ khác nhau tuỳ trình độ phát triển mỗi thời.

Anh vẫn như vậy, kiên trì, thầm lặng dâng hiến trí tuệ và tài hoa cho Thăng Long, Hà Nội với niềm tự hào giấu kín của một người “Hà thành thứ thiệt”.

(Theo VH &TT )

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Bài tham khảo :

Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010

(Bài 1): “Ngọn đèn không tắt”

Thứ Hai, 04/10/2010 07:35 

Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010

1.000 năm Thăng Long - Hà Nội được tính từ tháng Bảy Âm lịch năm Thuận Thiên thứ nhất, tức năm 1010. Khi ấy, Lý Thái Tổ, sau 9 năm lên ngôi, thấy Hoa Lư chật hẹp, thưa dân, hiểm trở, không có thế mở mang ra làm chỗ đô hội được, quyết định dời đô về thành Đại La (hay La Thành). Theo truyền thuyết, khi ra đến La Thành, ông trông thấy rồng vàng bay lên trời nên đổi tên Đại La thành sang Thăng Long thành. Cái tên Thăng Long có từ lúc ấy, mở đầu cho một thời kỳ thịnh vượng mới của dân tộc Đại Việt.

Nhưng không phải chỉ có Chiếu dời đô với tầm nhìn thiên niên kỷ, Lý Thái Tổ và nhà Lý, vương triều lần đầu tiên giữ vững được chính quyền lâu dài đến hơn hai trăm năm (khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm), bảo toàn và mở rộng lãnh thổ của Đền Đô thờ các vị vua triều Lý mình, ngoài còn có nhiều đóng góp to lớn, đặt nền móng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam, một đặc sắc văn hóa ở Nam Á và Đông Nam Á.

1.000 năm đã đi qua, tinh thần, văn hóa ấy như ngọn đèn không tắt.

Chuyên đề tuần này lấy “điểm nhìn” từ Hà Nội năm 2010 và từ những góc nhìn riêng của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, của họa sĩ - nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Nguyễn Quân và của tiến sĩ - kiến trúc sư trẻ Phó Đức Tùng, với hy vọng không chỉ hiểu được những giá trị lớn lao được gieo mầm từ văn hóa Thăng Long mà còn nhìn thấy cả những thách thức cho văn hóa Hà Nội sau ngàn năm và ngàn năm sau nữa...

Tổ chức chuyên đề PHẠM THỊ THU THỦY

(TT&VH Cuối tuần) - Trong cuốn băng tôi xem mấy năm trước, ghi hình buổi nói chuyện của một thiền sư người Việt nổi tiếng thế giới. Thiền sư kể ông đã giảng pháp rất nhiều lần cho người ngoại quốc, nhưng nhớ mãi buổi ở Đức, giảng cho người Việt Nam, đa phần là dân lao động bình thường, sang đây buôn bán hoặc làm thuê… Kết thúc buổi giảng, một đệ tử phương Tây đi theo đoàn, thắc mắc rằng thầy giảng vẫn như mọi khi, vậy mà thấy bầu không khí ở đây khác, nhưng nghĩ mãi vẫn không biết cái khác đó là gì. Thiền sư trả lời: Có lẽ đối với tôi, nói chuyện với người Việt cảm thấy như mình trở về nhà. Còn về phía người nghe, có lẽ vì người dân Việt Nam là một dân tộc theo Phật giáo. Ngày nay, có nhiều người không phải là Phật tử, nhưng cha mẹ, ông bà họ vốn là Phật tử. Những chủng tử Phật giáo của cha ông vẫn truyền tới cho họ. Vì thế, khi nghe tôi nói, họ thấy không xa lạ. Vấn đề này ta phải truy nguyên từ thời dân Việt dựng nước.

1. Phật giáo vào Việt Nam đã 2.000 năm (phía Nam từ Ấn Độ, phía Bắc từ Trung Hoa) chủ yếu do hai dòng thiền Tì ni đa lưu chi và Vô ngôn thông mà tổ đình là chùa Dâu (Thuận Thành) và chùa Kiến Sơ (Phù Đổng). Hai dòng thiền này, khác hẳn các dòng thiền Trung Hoa, quan niệm thuyết địa linh cho mảnh đất Đại Việt là đất linh thiêng tất sẽ sinh minh chúa. Rồi “Phật ở mọi nơi”, “Tây Thiên cõi này, cõi này Tây Thiên” tức là các thiền phái đều quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam này thành một cõi Tây Thiên, đất Phật.

Trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi, phong trào đấu tranh giành độc lập rất sôi nổi. Các triều đại ngắn ngủi ra đời. Những anh hùng dân tộc xuất hiện. Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành. Những trí thức cũng tham gia, nhất là các trí thức Phật giáo. Như sư Khuông Việt phò vua Đinh Tiên Hoàng, sư Pháp Thuận phò vua Lê Đại Hành, sư Vạn Hạnh phò Lý Công Uẩn. Không thấy những trí thức Nho giáo. Có lẽ từ thời Sĩ Nhiếp, người Tàu dạy Nho học cho người Việt nhưng chỉ ở mức sơ đẳng, chỉ đủ sức làm thư lại, tức là làm tay sai cho ngoại bang. Còn những trí thức lớn thì phải là các nhà sư! Triết lý đạo Phật sâu sắc, phải có một học lực thâm sâu, thậm chí phải giỏi cả Khổng, Lão mới hiểu được Phật. Mà những thiền phái Việt Nam lại rất yêu nước. Người Phật tử hiểu rằng chỉ khi đất nước được độc lập thì Phật giáo mới phát triển được. Từ đó tôi hiểu tại sao thời Lý Trần, Phật giáo lại là quốc giáo và tại sao nói dân tộc Việt là dân tộc Phật giáo.

Thiền sư Vạn Hạnh là một con người uyên thâm, hết lòng vì đạo, hết lòng vì đời, ở ngay giữa đời mà tu đạo, không câu nệ, không chấp trước điều gì, miễn là làm cho đất nước được hòa bình, cường thịnh. Ông phò ba triều đại Đinh, Lê, Lý. Ông tham dự vào việc Lê Hoàn phá Tống. Ông dạy dỗ, đào tạo Lý Công Uẩn. Ông đưa Lý Công Uẩn vào làm quan cho Lê Đại Hành. Ông tham dự vào việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ông quân sư cho Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long. Có thể nói như vậy vì sư Vạn Hạnh là người giỏi sấm ký, phong thủy. Không có Vạn Hạnh thì không có việc Lý Công Uẩn lên ngôi, như vậy cũng không có triều Lý, không có Thăng Long. Đọc bài kệ lúc sắp thị tịch của người, lòng rung lên niềm cảm phục: Thân như bóng chớp có rồi không/Cây cối xuân tươi, thu não nùng/Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi/Thịnh suy, ngọn cỏ giọt sương đông. Hai câu đầu nói về thân phận cá nhân, hai câu sau nói về xã hội. Đó là triết lý của con người hành động, hết lòng với đời, nắm vững quy luật sống chết thịnh suy, điềm nhiên, hết lòng vì cuộc sống. Tôi thích bài thơ của sư Vạn Hạnh, nên một nhân vật thiền sư trong cuốn sách mới của tôi có tên là Vô Úy.

2. Đầu năm nay, ngày mùng Một chúng tôi đi lễ chùa. Đoàn có các vãi già, ông bạn thời nhỏ từng tham gia bảo vệ Thủ đô năm 46, ông giám đốc về hưu, ông đại tá về hưu. Thời trẻ, có thể chưa biết đạo Phật là gì, chúng tôi đã không có lòng tin. Nhưng bây giờ, các bạn tôi, vẻ mặt đều hớn hở và kính cẩn. Vả lại, đi lễ chùa vào ngày mồng Một Tết, nếu không phải là người kính Phật thì không thể đi.

Chúng tôi đến chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh, nơi trụ trì của sư Vạn Hạnh và là nơi học tập của Lý Công Uẩn… Khác hẳn Tiêu Sơn hoang vu ngày xưa, mà có đôi lần tôi đã tới. Không áo nâu áo, không áo mớ ba mớ bảy, không đường đất đỏ, không cả cảm nghĩ và không khí lãng mạn của Tiêu Sơn tráng sĩ mà Khái Hưng tưởng tượng. Bây giờ đường vào chùa rộng rãi, có vỉa hè và cây trồng như đường phố. Chùa Tiêu Sơn đang hiện đại hóa.

Cứ tưởng chúng tôi là người xông đất nhà chùa. Nào ngờ, trước đó đã có một xe ô tô đưa các cô giáo và các em học sinh đến dâng hương. Các cô giáo ăn mặc đẹp, hiện đại nghiêm trang kính cẩn trước ban thờ Phật. Các cháu học sinh chắp tay trước ngực trong khói hương mờ ảo. Tôi chợt nhớ lời vị thiền sư giảng pháp ở Đức kể trên kia: Mỗi người Việt Nam đều có những yếu tố Phật giáo trong người…

Có hai nhân vật của triều Lý khiến tôi có nhiều suy nghĩ: vua Lý Thánh Tông và bà Ỷ Lan. Trong đám tù binh của nhà Lý có một thiền sư tên là Thảo Đường. Ông là người Trung Hoa sang Chiêm Thành truyền giáo mà bị bắt. Qua trò chuyện, Lý Thánh Tông khâm phục sự học và đạo đức của Thảo Đường bèn phong làm quốc sư và xin làm đệ tử! Phái Thảo Đường thành lập, tổ đình là chùa Khai quốc.

Posted Image

Bia tiến sĩ Văn Miếu năm 1884

Lý Thánh Tông cũng chính là người mở cửa để Nho học chính thức xuất hiện ở Việt Nam. Trước kia, Phật giáo có công rất lớn trong nền giáo dục đào tạo nhân tài cho đất nước. Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàng, Lý Công Uẩn, Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh và nhiều quốc sư khác đều nhờ nhà chùa mà thành danh nhân đất nước. Ngoài ra nhà chùa còn đào tạo nhiều anh tài khác để làm việc ở các cấp chính quyền. Thời ấy nhà chùa ngoài chức năng tín ngưỡng còn là một trường học. Ở đấy người ta học chữ, học Phật pháp. Nhà chùa vốn bao dung cởi mở nên các vị thiền sư còn dạy cả Nho học và Lão trang.

Tuy nhiên dần dần người ta thấy riêng Phật giáo rất khó điều khiển đất nước bởi Phật giáo quan tâm tới chính trị nhưng không nghiên cứu chính trị, lo đến giải thoát con người hơn là đến cai trị. Còn Nho giáo thì khác. Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là mối quan tâm chủ yếu của Nho giáo, lại có cả một hệ thống để cai trị và mở mang bờ cõi. Thiền sư Thảo Đường chủ trương dung hợp giữa Phật giáo và Nho giáo. Trong khi ấy, nhà Lý đang thời kỳ cực thịnh và muốn phát triển xuống phương Nam... Nhà Lý muốn có một chính quyền tập trung mạnh mẽ. Từ yêu cầu lịch sử ấy, Lý Thánh Tông là người đầu tiên cho xây Văn Miếu. Và bà Ỷ Lan nhiếp chính đã thay con cho mở hội thi Nho học đầu tiên để kén chọn người tài. Ỷ Lan là một phụ nữ kiệt xuất, từ một nông dân bình thường trở thành một phụ nữ uyên thâm Phật giáo, rồi lại hai lần thay vua điều hành chính trị. Có thể do tự tay điều hành đất nước nên bà mới rõ tầm quan trọng của Nho giáo. Bà xây dựng 100 ngôi chùa nhưng lại là người cho mở khoa thi Nho giáo.

Tôi nghĩ, trong văn hóa Việt, Phật giáo là phần âm, còn Nho giáo là phần dương. Phật giáo là cái phần mềm dẻo, tinh tế, chịu đựng, hiền hòa trong con người Việt. Nó là phần năng lượng tiềm ẩn. Mềm dẻo chịu đựng đấy, nhưng khi bùng nổ lên thì cũng ghê gớm. Còn Nho giáo là phần năng động, thực tế, kiên quyết. Nó là sức mạnh xẻ núi ngăn sông. Hai phần đó thiếu phần nào cũng không được. Một con người, một đất nước đều cần cả hai. Phải cảm ơn triều Lý đã tạo ra cho dân tộc ta tố chất ấy để phát triển đến ngày hôm nay.

Một đặc điểm nổi bật nữa của Phật giáo Việt Nam là tính chất nhập thế. Tính chất ấy bộc lộ rõ từ triều Lý. Trần Nhân Tông đệ nhất tổ phái Trúc Lâm viết Cư trần lạc đạo thả tùy duyên. Phải tùy duyên, ở ngay chính cõi trần này mà vui với đạo. Tư tưởng ấy đã có sẵn từ Phật giáo thời Lý! Sư Khuông Việt là học trò sư Vân Phong. Vân Phong là học trò sư Thiện Hội. Sư Hội dạy sư Phong: Phải ở trong sống chết, biết nắm lấy cái không sống chết thì mới được (nghĩa là Phật tử phải ung ung tham dự vào mọi sinh hoạt của cuộc đời, coi hoàn thành việc đời là chứng minh cho sự hoàn thành việc đạo).

Lý Thái Tông, người xây dựng chùa Một Cột vừa làm vua vừa làm cư sĩ thiền sư. Theo gương Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông cũng đều vừa làm vua vừa làm thiền sư.

Sau này, nhà Lê, nhà Nguyễn lên ngôi. Nho giáo trở thành độc tôn ở triều đình. Phật giáo không tham dự triều chính nữa, nó rút lui về làng xã. Nhưng Phật giáo mãi mãi là một thành tố trong tâm hồn người Việt, trong văn hóa Việt.

Trong văn hóa Việt, Phật giáo là phần âm, còn Nho giáo là phần dương. Phật giáo là cái phần mềm dẻo, tinh tế, chịu đựng, hiền hòa trong con người Việt. Nó là phần năng lượng tiềm ẩn. Mềm dẻo chịu đựng đấy, nhưng khi bùng nổ lên thì cũng ghê gớm. Còn Nho giáo là phần năng động, thực tế, kiên quyết. Nó là sức mạnh xẻ núi ngăn sông. Hai phần đó thiếu phần nào cũng không được. Một con người, một đất nước đều cần cả hai. Phải cám ơn triều Lý đã tạo ra cho dân tộc ta tố chất ấy để phát triển đến ngày hôm nay.

Làng nào cũng có đình và có chùa. Đình tượng trưng cho Nho giáo, là nơi sinh hoạt của đàn ông. Chùa là Phật giáo, là nơi sinh hoạt của phụ nữ, cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của thanh niên, trẻ nhỏ trong những ngày hội. Người phụ nữ khi có chồng con thường vào hội bà vãi. Người mẹ nào cũng đi lễ chùa và cũng có nhiệm vụ dạy dỗ con cái. Hầu như đứa trẻ Việt Nam nào cũng có lần theo mẹ đi lễ chùa. Đi lễ chùa, tuy không được hiểu những giáo lý Phật giáo một cách sâu sắc, nhưng ít nhất người ta cũng biết được những đạo lý, biết rằng làm việc thiện là tốt, biết rằng phải giúp đỡ những người đau khổ thiệt thòi và phải tránh xa điều hung bạo, điều ác

Có lẽ những ngôi chùa làng là những ngọn đèn tiếp nối ánh sáng từ bi Phật giáo. Nó rực sáng vào thời Lý và kéo dài cho tới ngày nay.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh

(Theo VH& TT )

Edited by Chemwind
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010

(Bài 2): Mỹ thuật Lý & cuộc hội nhập khu vực và quốc tế "lần thứ nhất"

Thứ Ba, 05/10/2010 07:22  

(TT&VH Cuối tuần) -1. Quá trình Phật giáo hóa Đông Á và Đông Nam Á diễn ra muộn nhất ở Đại Việt với vai trò quốc giáo của Phật giáo trong thời nhà Lý và nhà Trần. Mỹ thuật Lý là giai đoạn mỹ thuật vương quyền và mỹ thuật Phật giáo cực thịnh, hoàn chỉnh nhất.


Tính chất vương quyền thể hiện ở kết cấu, quy hoạch và quy mô kiến trúc hoàng thành Thăng Long cũng như các không gian cung đình khác ở Bắc Ninh và các địa phương. Một hệ thống dày đặc các chùa Phật được xây dựng với quy mô lớn nhất, lớn hơn mọi thời kỳ sau. Kết cấu kiến trúc và phong cách mỹ thuật hoàn toàn thống nhất đến mức hiếm có. (Năm 973 Đinh Liễn khắc 100 cột kinh Phật ở Ninh Bình, năm 1007 Minh Đề và Hoàng Thành Nhã sang Tống xin sách Nho và kinh đại tạng, năm 1040 triều đình làm tượng Phật, tranh Phật, đại phan mỗi thứ 1000 bản, năm 1075 dựng chùa Phật Tích, năm 1087 dựng chùa Dạm, ngoài ra còn có tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền - chùa Một Cột..., tất cả đều quy mô nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam). Mô hình hòa nhập vương quyền và thần quyền (các vua đều đi tu, thậm chí Lý Thánh Tông còn khai minh phái Thảo Đường, phát triển Phật học, tăng lữ tham gia triều chính, làm quốc sư, chăm lo giáo dục đào tạo. Theo Lê Văn Hưu thì thời Lý “nhân dân quá nửa là sư, sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa”. Mô hình này sẽ dẫn tới đồng nhất thần - vua như “Phật Hoàng” Trần Nhân Tông ở ta hay gương mặt Jayavarman VII và mặt Phật Bayon ở Cambodia sau này. Các ngôi chùa thời Lý chắc chắn từng là những trung tâm đào tạo và trung tâm văn hóa quan trọng nhất của đời sống Đại Việt.

2. Trong quá trình củng cố vương quyền và khuếch trương đạo Phật, mỹ thuật tất nhiên đã đóng vai trò quan trọng nhất, hơn mọi ngành văn nghệ khác. Cũng tất nhiên là nền mỹ thuật có vẻ là non trẻ nhất trong thế giới Đông Á và Đông Nam Á sẽ giao hòa mọi ảnh hưởng từ các nền mỹ thuật lân cận, đậm nét nhất là với mỹ thuật Trung Hoa và mỹ thuật Chăm. Tuy nhiên trực tiếp hơn, gần gũi hơn, sâu nặng hơn là với mỹ thuật Chăm bởi có sự tham gia cụ thể trực tiếp của các thầy và thợ Chăm từ phía Nam ra định cư ở đất Bắc. Mỹ thuật ở Hoàng thành Thăng Long, chùa Dạm, chùa Phật Tích và các di tích Lý khác nói lên điều đó. Cột biểu chùa Dạm với kết hợp kỳ lạ có một không hai Linga-Yoni-Rồng là biểu trưng sáng rõ của sự giao hòa máu thịt này. Sự giao hòa văn hóa Bắc - Nam không chỉ trong mỹ thuật mà còn rộng rãi ở mọi lĩnh vực: ca, múa, nhạc, diễn xướng… (Năm 1060 triều đình dịch nhạc khúc và đánh điệu trống Chiêm Thành, sai nhạc công ca hát. Sự giao hòa có lúc “quá đà” đến mức năm 1374 triều đình Trần phải cấm quân dân mặc áo kiểu người phương Bắc - dân Tống sang lánh nạn mang theo hàng hóa phong tục của họ - cấm bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm, Lào!…). Giao lưu hàng hóa, thương mại với các nước Indonesia, Malaysia, Xiêm La…cũng làm cho cuộc giao hòa thêm sặc sỡ. Thiết tưởng mỹ thuật Lý nói riêng và văn hóa Đại Việt thời Lý nói chung từng là kết quả của một cuộc hội nhập khu vực và quốc tế “lần thứ nhất” khá sâu rộng. Mỹ thuật Lý đặc sắc chính bởi những kết quả hội nhập đó.

3. Nhà Lý mở đầu và kết thúc bằng hai lần nhường ngôi “êm ả”. Hai thế kỷ Lý cũng là thời kỳ thanh bình, khoan hòa, an lạc nhất trong lịch sử Việt Nam. Mỹ thuật Lý thấm đậm lý tưởng Phật giáo nhu hòa, bao dung, hỷ xả. Tính tinh tế, kỳ bí, mềm mại, uyển chuyển và dày đặc của nghệ thuật trang trí kiến trúc cũng như các thành phần điêu khắc giàu chất trang trí trên hai chất liệu chính là đá và gạch nung là sự đối lập hữu cơ với tính hoành tráng, đồ sộ uy nghi của các công trình. Đường cong họa tiết, các đồ án hình tròn, bán viên và hoa dây lên ngôi, làm mẫu mực cho các thời kỳ sau. Nghệ thuật gốm đạt đỉnh cao chưa từng có với gốm men ngọc, men lam và men nâu của các “lò quan” cung đình cũng như “lò chợ” dân gian. Điêu khắc - tháp Chăm, gốm Lý Trần Mạc và tượng gỗ - đình chùa Bắc bộ thế kỷ 16-18 chắc chắn là những ba đóng góp đáng kể nhất của văn hóa Việt Nam vào văn hóa nhân loại.

4. Nói đến mỹ thuật Việt Nam nói chung và mỹ thuật Lý nói riêng chúng ta thường nêu ra chủ đề tranh luận về ảnh hưởng của mỹ thuật Trung Hoa và mỹ thuật Chăm tới mỹ thuật Việt như là ảnh hưởng hay tiếp biến văn hóa từ Bắc xuống và từ Nam lên. Điều đó cũng có nghĩa là ta đã đánh đồng mỹ thuật của người Việt - Kinh với mỹ thuật Việt Nam. Đó là một khía cạnh bất công và sai lầm bởi mỹ thuật Việt Nam bao gồm các thành phần khác quan trọng và rực rỡ như mỹ thuật Chăm, mỹ thuật Hoa, mỹ thuật K’me, mỹ thuật của các dân tộc Tây Nguyên - Miền Trung và mỹ thuật của các dân tộc thiểu số miền Bắc.

Trong khi mỹ thuật của người Kinh trong thiên niên kỷ thứ nhất còn là một dải băng trắng thì mỹ thuật Việt Nam chúng ta có mỹ thuật Chăm làm xương sống, phát triển rực rỡ đến tầm nhân loại ở một vương quốc độc lập duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay.

Một trong những giá trị nổi bật, tiêu biểu của mỹ thuật thời Lý chính là Hoàng thành Thăng Long, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Trong thiên niên kỷ thứ hai mà mở đầu là nhà Lý, mỹ thuật của người Chăm giao hòa với mỹ thuật của người Kinh để phát triển mỹ thuật Việt Nam tới thế kỷ 19. Cộng đồng người Chăm ở miền Trung và cả ở miền Bắc đã giao hòa với người Việt góp phần phát triển tộc người Việt cận hiện đại. Mặt khác cộng đồng người Chăm còn tồn tại độc lập như một tộc thiểu số vẫn có mỹ thuật riêng của mình. Quá trình giao hòa văn hóa và dòng tộc này gắn với quá trình mở đất về phương Nam. Có thể nói không quá rằng đoạn kết của giai đoạn “Tam Quốc” Chúa Trịnh - Chúa Nguyễn - và các Vua Chăm là sự hình thành quốc gia và dân tộc Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Tôi từng cảm thấy có lỗi và xấu hổ khi nhiều sinh viên hỏi tôi vì sao họ không được học lịch sử các vương quốc Chăm và lịch sử mỹ thuật Chăm (trong cả phần lịch sử mỹ thuật Việt Nam cũng như lịch sử mỹ thuật thế giới). Họ “lý luận” rằng nếu Tần Thủy Hoàng hay Hán Cao Tổ thống nhất Trung Quốc và chữ Hán được dùng cho tất cả các tộc người trên đất Trung Hoa thì mỹ thuật Trung Hoa cũng vẫn là thống nhất bao gồm cả mỹ thuật Tây Vực, Tần, Hán, Sở, Việt, Ngô…và cả Nguyên-Mông, Kim-Thanh…sau này nữa. Tôi ước mong các nhà giáo dục lịch sử Việt Nam và các nhà lịch sử mỹ thuật trong tương lai gần sẽ trả lời và đáp ứng được nhu cầu của họ.


Họa sĩ, nhà phê bình Nguyễn Quân

(Theo VH& TT )

 

đón đọc Bài kết: Phong thủy & tầm nhìn chiến lược cho tương lai Hà Nội

http://thethaovanhoa.vn/133N20101004151235895T0/van-hoa-thang-long-tu-diem-nhin-ha-noi-2010-bai-2-my-thuat-ly-cuoc-hoi-nhap-khu-vuc-va-quoc-te-lan-thu-nhat.htm

Edited by Chemwind
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn hóa Thăng Long từ điểm nhìn Hà Nội 2010

Bài kết
Phong thủy tầm nhìn chiến lược cho tương lai Hà Nội

TS.KTS Phó Đức Tùng

(TT&VH Cuối tuần) - Một ngàn năm trước, Lý Công Uẩn đã chọn Thăng Long, vùng đất phong thủy thuận lợi, với thế tựa núi nhìn sông, rồng chầu hổ phục làm nơi đế đô muôn đời. Từ đó tới nay, tính đắc địa của mảnh đất này đã nhiều lần được phân tích và ca tụng. Tuy nhiên, phong thủy là tiềm năng, phát huy được hay không lại do con người. Đức năng thắng số, một vùng đất không thuận lợi mà biết cách phát triển vẫn có thể vươn lên, trong khi nhiều nơi thuận lợi đủ đường mà chủ quan vẫn cứ là trì trệ, lạc hậu. Tri nan hành dị, lịch sử loài người đã có quá nhiều minh chứng cho những con người, những vùng đất, quốc gia vươn lên từ việc ý thức được khó khăn, trong khi những điều kiện mỹ mãn lại dẫn tới suy vong. Vì vậy, dù đúng hay sai thì bản thân việc ca tụng phong thủy Hà Nội đẹp đẽ, trân quý thế nào thực tế có hại nhiều hơn lợi. Điều quan trọng là làm gì để phát huy được tiềm năng của thiên nhiên, hòa quyện được văn hóa, truyền thống vào đó để trở thành thế mạnh cho tương lai.

Đất - Nước; Sơn - Thủy

Dù là hình thế gì thì trong phong thủy nói chung và truyền thống văn hóa Việt Nam nói riêng cũng luôn tồn tại cặp khái niệm Đất - Nước hay Sơn - Thủy. Ở vùng cao thường hay nói là sơn thủy, ở đồng bằng thì quan niệm đất nước. Tuy nhiên, phong thủy có nói tại bình địa cao một tấc cũng là sơn, vì vậy hai cặp khái niệm này có thể coi là một. Phong thủy tốt ắt phải có một sự cân bằng và hài hòa giữa hai yếu tố này. Cân bằng tất nhiên không có nghĩa là diện tích bề mặt phải bằng nhau, mà là sự tương quan lực lượng. Châu thổ sông Hồng nói chung và vùng đồng bằng Hà Nội nói riêng dù sao vẫn là một vùng đất thấp, với sự hiện diện thường trực của nước. Cư dân vùng này có văn hóa sống rất gần nước, nhưng lại không hẳn là hòa đồng như những người dân Nam bộ sống theo mùa nước nổi, mà luôn có nỗ lực trị thủy. Câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh thể hiện rõ thiên hướng phù Sơn lấn Thủy trong một ngàn năm qua. Tuy nhiên, khi nước bị lấn át quá đáng thì thế cân bằng sẽ bị phá vỡ. Dù một thế phong thủy ban đầu có đẹp mấy cũng cạn nguồn sinh lực. Vả lại, rồng vốn gốc từ nước, làm chủ hành Thủy. Bởi vậy, câu chuyện của ngàn năm tới có lẽ phải bắt đầu từ một truyền thuyết cứu hộ Thủy Tinh chăng?

Sơn chầu thủy tụ


Phong thủy Thăng Long có thế sơn chầu thủy tụ rất rõ ràng, điều này ai cũng đã biết. Như vậy, thế đất này vốn không phải chỉ loanh quanh một vùng hành chính thủ đô, mà có những mạch lạc cơn cớ từ rất xa. Vượng khí của thủ đô do đó cũng rất phụ thuộc vào việc gìn giữ được tiềm lực thiên nhiên từ đầu nguồn, đó chính là gìn giữ long mạch, giống như cây muốn ra trái ngọt không thể chặt phá cội rễ. Những năm gần đây, vùng cao phía bắc bị tàn phá nhiều, trên thì san núi chặt rừng, dưới thì ngăn sông đào mỏ, chắc hẳn không thể không có ảnh hưởng tới phong thủy của thủ đô. Trong các nguồn sơn thủy tụ về Thăng Long thì mạch chính là dãy Hoàng Liên Sơn và sông Hồng lại có khởi nguồn ít nhất từ Vân Nam, có nghĩa là vượt khỏi địa phận hành chính của nước ta. Muốn bảo vệ đầu nguồn ắt phải có những thỏa thuận liên quốc gia dưới dạng một tiểu vùng sinh thái, tương tự như tiểu vùng sông Mê Kông. Dù sao đi nữa thì một chủ đề quan trọng của Thăng Long ngàn năm sau ắt sẽ phải là bảo vệ đầu nguồn. Không làm được điều này thì thế đất có đẹp mấy cũng chỉ còn là một cái xác không hồn mà thôi.

Thăng Long

Nước ta trước đó lấy Hoa Lư làm kinh đô, chủ yếu vì lý do dễ thủ khó công. Từ đó mà ra chỗ đất rộng phẳng định đô, lấy sự hội tụ tinh hoa bốn phương làm ý tưởng chủ đạo là một bước trưởng thành vượt bậc, từ một tư duy phiên quốc núi rừng thành một tư duy thiết lập đại quốc, có thể nói ứng với con rồng từ dưới khe núi bay lên giữa trời vậy. Dù cho ý tưởng này có thể được gợi ý bởi địa thế phong thủy có dáng rồng bay nào đó, nhưng rõ ràng cái ý chí lập quốc này mới thực là Thăng Long. Trở lại vấn đề phong thủy, Thăng Long là địa thế hội tụ văn minh, nhưng chưa chắc là linh địa có thể phát sinh nhân kiệt. Lịch sử ngàn năm qua đã chứng tỏ điều đó tương đối rõ. Mặc dù điều kiện kinh tế, văn hóa ở kinh đô đứng đầu nước nhưng nhân tài xuất chúng đa số có xuất xứ từ những vùng khác chứ không phải trực tiếp từ kinh thành. Sự thịnh suy của Thăng Long rất phụ thuộc vào việc nhân tài có được thu hút về đây hay không.

Kinh Dịch, sau quẻ Bĩ là khó khăn, khốn đốn tiếp đến quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân, đó chính là đạo lý về sự hội tụ tinh hoa, đại đồng thế giới, cũng là cái đạo của văn minh Thăng Long. Thế nào là Đồng Nhân, Đồng Nhân có phải là tập thể, là cào bằng không? Tất cả những chi tiết, lời Kinh Dịch chú giải rất rõ. Ở đây, chỉ xin nhấn mạnh một lần nữa: Đạo lý lập quốc của Lý Công Uẩn trong Chiếu dời đô, cũng sẽ là đạo lý sống còn của Thăng Long ngàn năm sau chính là hai chữ Đồng Nhân.

Hậu Thăng Long

Ý tưởng Thăng Long tuy là một tầm nhìn rất hào sảng, khí phách của Lý Công Uẩn, nhưng dù sao cũng là một quan niệm rất đặc trưng phong kiến. Trong hình ảnh đó, thủ đô là đầu rồng của cả nước, nhà vua lại là đầu của thủ đô. Vai trò của thủ lĩnh là hết sức chủ chốt, bởi vậy hào quẻ Càn ứng với hình ảnh này là Phi long tại thiên có thêm Lợi kiến đại nhân. Về mặt không gian đô thị, đầu rồng này ứng với hoàng thành, địa điểm, hướng của các cổng thành, đại điện, ngai vàng... Ngày nay, với cùng một quan điểm tương tự, người ta bỏ rất nhiều tâm huyết vào việc xác định vị trí phong thủy cho một trung tâm hành chính quốc gia, nhà quốc hội, phủ thủ tướng, trục thần đạo... trong quy hoạch thủ đô. Tuy nhiên, thời thế đã thay đổi nhiều. Từ thể chế quân chủ, toàn thế giới đã chuyển sang thể chế dân chủ. Nếu vẫn cố chấp bám lấy hình tượng Thăng Long thì khó tránh khỏi rơi vào thế Kháng Long hữu hối. Đạo lý của thời dân chủ ứng với hình tượng “Kiến quần long vô thủ” trong hào Dụng cửu quẻ Càn. Tương ứng với đạo lý đó, đô thị hậu Thăng Long sẽ là một tổng thể rất phức tạp, đa chiều, đa tâm, đa năng, đa phương tiện, đan xen với nhau tầng tầng lớp lớp như một bầy rồng uốn lượn trong mây chứ không phải là một cấu trúc hắc bạch phân minh, lấy trung tâm hành chính làm lõi thay cho hoàng cung ngày xưa.

Từ (TT&VH Cuối tuần)



1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những bài của anh đóng góp cho diễn đàn, đầy đủ yếu tố để trao đổi học thuật. Trân trọng mời anh tham, gia.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cám ơn ông đã có lời ngỏ.

Cũng ko dám có chi để là trao đổi học thuật, nhưng tui vẫn đang viết đây.

Nghĩa cũng chạnh lòng, trong những ngày hội kỷ niệm, tưởng nhớ công đức người xưa, từ các báo cho đến các trang web, diễn đàng sinh hoạt nghiên cứu trao đỗi học thuật cổ trên anh- tờ -nét , chẳng thấy đâu đó có đề tài gì nhắc nhở hay ca ngợi, tán thán tổ tiên. mà toàn thấy tranh cãi sôi động với nhau chuyện ông ( TSứ ) là dị nhân … này kia kia nọ.

Thôi ông ạ, nghĩ ra cũng không ngoài cái lý Ở đời chẳng có ai là giỏi nhất và cái sự Hảo tử quần ganh.!? Rồi thì mượn câu rất Nho và rất Thích: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” mà an ủi.

Sự việc hiễn nhiên, có gì động chạm, nói ông miễn chấp.

Loạt các bài viết và sưu tầm nầy, trước là góp một nét họa cùng đồng bào ta tưởng nhớ đến hào khí thiêng liêng của tổ tiên nước Đại Việt thời nhà Lý nói riêng và Việt tộc nói chung. Sau cũng xin mạo phép gọi là quà tặng cho diễn đàng nầy, nhân dịp kỷ niệm Hà Nội 1000 năm từ khi Thăng Long định đô, xây dựng và phát triển.

Tiết cuối thu năm Canh Dần

Trọng đề.

Lý Hóa Phong

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

như một lời đề nghị

Lịch sử của phong thủy Trung Hoa, thường dẫn nhiều danh sư lỗi lạc như Quách Phác, Dương Quân Tùng, Lưu Bá Ôn, Tưởng Đại Hồng,Cao Biền, Triệu Cửu Phong …do cái tài của họ và do đã để lại nhiều trước tác kinh điển về Phong thủy cho hậu thế.

Nước Việt ta xưa nay, danh sư cổ về lý học, địa lý chỉ xoay quanh mấy cụ như trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Qúi Đôn; Tả Ao – Nguyễn Văn Huyên. Cận đại có một số danh sư nhưng chưa phải thuộc dạng “kinh điển”

Có phải nước Việt thiếu vắng nhân tài không ? Thật ra là không phải. Chính sử ghi rằng, trong các thời kỳ người phương bắc đô hộ nước ta, ngoài các sản vật qúi hiếm bắt cống nạp, họ còn bắt triều cống các thầy thuốc, thầy y bốc giỏi sang phục vụ, điển hình là Thần y Nguyễn Bá Tĩnh - Sư Tuệ Tĩnh (TK14) và Nguyễn An ( người được vinh danh là “kiến trúc sư” xây dựng Tử Cấm Thành) Tử Cấm Thành – Hoàng cung của triều đại họ, ở một nước có truyền thống về phong thủy như vậy, nhiều tác gia như vậy, chả nhẽ không có lấy một ai đứng ra là công trình sư cho một công trình quan trọng. Lý do gì ? Liêu có phải Nguyễn An giỏi hơn tất cả lúc bấy giờ ? Câu trả lời : Tất nhiên không phải không có lý.

Theo Wikipedia : “ Hiện nay ( thời bây giờ) có rất nhiều trường phái tranh luận về nguồn gốc của phong thủy, có trường phái thì cho rằng phong thủy xuất phát từ Trung Hoa, trường phái thì cho rằng phong thủy là của nền văn minh người Việt cổ với đường biên giới từ phía nam sông Dương Tử (Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) người Hán đã Hán hóa các văn thư cổ và tự nhận là của họ... Nhưng cho đến nay thì chính những nhà phong thủy lỗi lạc của Trung Quốc như Thiệu Vĩ Hoa cũng không thể giải thích được thuật phong thủy xuất phát từ nơi đâu mặc dù họ vẫn cho là của người Hán.”

Gần đây có nhiều nhà nghiên cứ cho rằng được du nhập từ thời Cao Biền sang Giao Châu (Việt Nam) làm tiết độ sứ từ năm 866 đến năm 875. Điều này thật thiếu sót.

==========

Sử cũ ghi lại Miền Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung tâm Phật Giáo Luy Lâu (Từ thế kỷ thứ 2 sau CN, Phật giáo đã được truyền từ Ấn Độ vào nước ta tại khu vực Luy Lâu ( Siêu Loại) nay là vùng Thiên Đức, Thuận Thành của tỉnh Bắc Ninh.), trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu Sơn, đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa cổ, với các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông, Vạn Hạnh...

Theo THIỀN UYỂN TẬP ANH Khắc in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) - Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga dịch và chú thích

Thiền Sư Định Không

(730 - 808)-(Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

Chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức.

Thiền sư người hương Cổ Pháp, họ Nguyễn, thuộc dòng vọng tộc. Ông là người am hiểu sâu sắc vận số thế cuộc, khi xảy ra việc gì người trong hương thường suy tôn phục tùng, ai nấy đều tôn gọi ông là Trưởng lão. Khi đã nhiều tuổi, nhân đi dự hội ở chùa Long Tuyền, nghe thiền sư Nam Dương giảng kinh, ông lĩnh ngộ tôn chỉ, từ đó quy tâm theo đạo Thích. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805) sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất (thổ) mới nằm im. Sư giải rằng:

- “Thập khẩu” là chữ Cổ; “Thủy khứ” (xuống sông) là chữ Pháp. Còn “thổ” (đất) là chỉ vào hương ta.

Nhân đó đổi tên là hương Cổ Pháp (trước tên là hương Diên Uốn). Sư có làm bài Tụng như sau:

Địa trình pháp khí

Nhất phẩm trinh đồng

Tri Phật pháp chi long hưng

Lập hương danh chi Cổ Pháp.

Dịch:

Đất dâng pháp khí

Hạng nhất đồng ròng

Gặp thời Phật pháp thịnh hưng.

Đặt tên làng Cổ Pháp.




Lại có một bài thơ khác:



Pháp lại xuất hiện

Thập khẩu đồng chung

Lý thị hưng vương

Tam phẩm thành công.

Dịch:

Pháp khí hiện ra

Khánh đồng mười tấm

Họ Lý làm vua

Công đầu Tam phẩm




Lại một bài khác:



Thập khẩu thủy thổ khứ

Cổ Pháp danh hương hiệu

Kê cư loan nguyệt hậu

Chính thị hưng tam bảo.

Dịch:



Mười cái xuống nước đất

Cổ Pháp tên làng ta

Gà ngồi lưng loan phượng

Tam bảo đến lúc hưng.



Trước khi quy tịch, sư nói với đệ tử Thông Thiện:

- Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành.

Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi, nhằm đời Đường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba (808) năm Bính Tý.

Thông Thiện dựng tháp ở chùa Lục Tổ và ghi nhớ lời di chúc của sư lúc lâm chung.



Trưởng Lão LA QUÍ ( ĐINH LA QÚI AN)

(852 - 936)-(Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

Chùa Long Lâm, hương Phù Ninh, phủ Thiên Đức.

Chân nhân họ Đinh, từ nhỏ đã nhiều năm đi khắp nơi tham thiền học đạo nhưng pháp duyên chưa gặp nên sắp thoái chí. Sau nghe một lời thuyết pháp của thiền sư Thông Thiện ở chùa Thiện Chúng mà mở tâm lĩnh ngộ. Từ đó sư thờ Thông Thiện làm thầy. Trước khi viên tịch, Thông Thiện bảo sư:

- Trước đây thầy ta là Định Không dặn ta giữ gìn đạo pháp của thầy, khi gặp người họ Đinh thì truyền lại. Ngươi hãy nhận lấy sự uỷ thác ấy. Nay đã đến lúc ta phải ra đi rồi.

Sư đắc pháp, bèn đi diễn hóa các nơi, chọn đất dựng chùa. Những lời sư nói ra phần nhiều đều hợp với lời sấm ngữ. Sư từng đúc tượng Lục Tổ Huệ Năng bằng vàng đặt ở chùa Lục Tổ. Sau vì sợ cướp, sư đem chôn tượng ở chùa, dặn đệ tử:


- Gặp minh chúa đào lên, gặp hôn quân thì cất giấu.

Trước khi thị tịch, sư gọi đệ tử là Thiền Ông đến bảo rằng:


- Trước đây Cao Biền đắp thành ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điềm Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả mười chín nơi. Ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn chỗ đất bị cắt long mạch, đời sau tất có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng chính pháp của ta. Sau khi ta mất, ngươi nên cho đắp đất, dựng nhiều bảo tháp, dùng pháp thuật mà yểm tàng, không để cho người ngoài biết.

Nói xong sư qua đời, thọ 85 tuổi. nhằm niên hiệu Thanh Thái thứ ba nhà Hậu Đường (936).

Tương truyền lúc sinh thời Sư tùy phương diễn hóa, biết phong thủy, giỏi Thái ất.,

***


Nếu so sánh tuổi tác với Thiền Sư Định Không (730 – 808 ) thì Cao Biền (821–887) thuộc hàng cháu chắt. Trước vài chục năm Cao Biền sinh ra, sư Định Không đã tiên đoán được việc Cao Biền trấm yểm long mạch, nên đã có lời nhắn cho đệ tử truyền pháp cho trưởng lão họ Đinh để hóa giải phép của Biền. Vậy có phải thuật Địa Lý ở nước ta do Cao Biền truyền qua không ? Tất nhiên là không thể như vậy.

Phàm ở đời việc gì cũng vậy, phá thì dễ mà làm lại như cũ mới khó. Vì vậy việc Cao Biền phá long, trấn trấn huyệt thì đơn giản và dưới cơ việc các thiền sư hoàn long, bồi huyệt có lẽ rất nhiều. Như vậy có thể nói : các bậc tổ Thiền nước ta rất cao thủ về địa lý âm dương trạch.

Ngài Định Không thâm hiểu về thế số, như vậy thì thầy lý học của ngài là ai và ai trước đó nữa? . Câu trả lời có thể từ thời An Dương Vương xây thành Cổ Loa và thời kỳ trước trước nữa. Phải chăng thuật địa lý đã có và rất phát triển ở nước ta.?

Cũng có thể do tư tưởng nhà Phật là buông xả các ràng buộc, tìm đến sự giải thoát thanh cao nên các vị tổ không chấp bút, để lưu truyền cho hậu thế các trước tác về địa lý. Hoặc do nhiều năm bị phương bắc đô hộ, họ đã cướp phá , hủy hoại tác phẩm của các ngài, nên ngày nay hậu thế chúng ta không có những cuốn sách cụ thể như : “ Thái Ất Thần kinh “ của Trạng Trình hay “Địa lý Tả Ao bí truyền” của Nguyễn Văn Huyên… để mà con cháu vinh danh các tiền bối.

Vậy nên chăng hậu thế đời sau, khi dẫn đến các bậc tiền nhân tinh thông lý số, địa lý trong lịch sử nước nhà hãy nhớ đến Thiền Sư Định Không, Trưởng Lão Đinh La Qúi An; Thiền Ông ; Thiền Sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ.

So với các phong thủy gia Trung Hoa, số đông chỉ làm “thầy” có vài vị ra làm quan, làm quan lớn nhất có lẽ là Lưu Bá Ôn thời nhà Minh (Chu Nguyên Chương) lên tới chức thừa tướng. Trong khi, Lý Thái Tổ là một vị vua, trí tuệ anh minh, văn võ toàn tài, am tường địa lý thì chỉ cần với Thiên Đô Chiếu một trước tác ngoài giá trị về mặt văn chương, chính trị, kinh tế, lịch sử mà thực tế còn là một bản hùng ca của địa lý Địa lý Đại Việt.

Há thường hậu thế chẳng vinh danh ?





Lý Hóa Phong Edited by Chemwind
2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Tướng Giáp từng đề nghị lấy tên Thăng Long cho Hà Nội



Nhân Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, VietNamNet đăng lại lá thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp hồi năm 2008, đề nghị lấy lại tên Thăng Long cho Hà Nội.

Thời gian qua, trong dư luận, có một số gợi ý, nhân kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, nên trả lại tên Thăng Long cho Hà Nội.\


Posted Image

Lá thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam



Trong lá thư gửi Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch danh dự của Hội cho rằng, "đây là một vấn đề lớn, có ý nghĩa rất quan trọng, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cần nghiên cứu, tổ chức một cuộc hội thảo để chính thức có ý kiến đề nghị với Đảng, Nhà nước, với TP.Hà Nội".

"Thời gian lấy lại tên Thăng Long vào dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội sắp tới là thời điểm hợp lý nhất, đúng lúc nhất, thời điểm nghìn năm có một".

Theo sử gia Dương Trung Quốc, đây là thời điểm thích hợp để đưa vấn đề này ra lấy ý kiến rộng rãi, tìm giải pháp có sự đồng thuận cao.

Ông bộc bạch: "Cái tên Thăng Long rất đẹp, vừa có bề dày lịch sử nghìn năm vừa là biểu tượng đầy sức sống, thể hiện ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam. Về cảm xúc tôi rất ủng hộ việc đổi tên, nhưng về lý trí thì tôi chưa thật tự tin để đưa ra chính kiến về vấn đề này, và rất mong được dư luận chia sẻ ".


Lan Phương

http://vietnamnet.vn/chinhtri/201010/Tuong-Giap-tung-de-nghi-lay-ten-Thang-Long-cho-Ha-Noi-939941/



======== 


Như vậy cái tên Thăng Long đẹp hơn cái tên Hà Nội ?


Theo truyền sử : Kinh đô mới của Đại Việt được đặt là Thăng Long, với xuất xứ là do nhà vua nhìn thấy rồng bay lên khi đi thuyền về tân đô .

Liệu chẳng chỉ có đơn giản như vậy, hay cái tên Thăng Long là một ẩn ý khác?


Lý Hoá Phong


Edited by Chemwind
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

RỒNG THĂNG LONG

Posted Image

Posted Image

Chào mừng Đại lễ nghìn năm Thăng Long Hà Nội, Công ty mỹ nghệ Đông Sơn đã thực hiện đúc 1000 rồng. Tất cả đều được đúc bằng đồng nguyên chất, hai mắt gắn đá rubi đỏ. Mỗi sản phẩm nặng 3-3,5 kg, được gắn số từ 1 đến 1.000 biểu trưng cho 1000 năm Thăng Long và có một giấy chứng nhận xuất xứ riêng nhằm khẳng định yếu tố quý giá, đặc biệt duy nhất. Số rồng này sẽ làm làm quà lưu niệm đặc biệt, góp phần quảng bá thủ đô 1000 năm văn hiến đồng thời cũng giới thiệu tinh hòa làng nghề truyền thống của Hà Nội


Phát biểu tại buổi lễ “Sái tịnh, khai quang” 1.000 kỷ vật Rồng Thăng Long tại Hoàng Thành Thăng Long Hà Nội,ngày 29/8/2010, bà Ngô Thị Thanh Hằng - Phó chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội - Phó Trưởng Ban chỉ đạo Quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đánh giá "Rồng Thăng Long" là sản phẩm giàu tính văn hoá, mang yếu tố lịch sử sâu sắc. Điều này đã khẳng định được tay nghề điêu luyện của các nghệ nhân và những người thợ trên mảnh đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến.

Đươc biết rồng số 100, đã được bí thư thành ủy HN Phạm Quang Nghị và lãnh đạo Hà Nội tặng Đại Tướng Võ Nguyên Giáp nhân dịp tới thăm, chúc thọ Đại tướng nhân dịp ông tròn 100 tuổi.
Còn cặp rồng mang số hiệu 0001 và 1000, đã được tặng cho Quỹ nạn nhân chất độc da cam Việt Nam và đã được bán đấu giá thành công với số tiền 1,2tỉ.

Rồng Lý thân tròn dài mềm mại, uốn hình sin 12 khúc (*) tượng trưng 12 tháng trong năm, tạo dáng uyển chuyển, biến hoá. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch, đều đặn. Đầu có bờm dài, râu cằm, không sừng. Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên. Đặc biệt là cái mào ở mũi, lượn sóng đều đặn chứ không giống mũi thú như rồng nơi khác. Lưỡi mảnh rất dài. Miệng luôn ngậm viên châu (chứ không cầm ngọc bằng chân trước như rồng xứ bắc).

================

(*) Rồng Thăng Long : được thiết kế hình tượng dựa trên sự đóng góp của các nhà sử học, mỹ thuật , văn hóa và điệu khắc. Nhưng chỉ có chín khúc ?


( Biên tập từ nhiều nguồn )
Lý hóa Phong

Edited by Chemwind

Share this post


Link to post
Share on other sites

Theo truyền sử :

Kinh đô mới của Đại Việt được đặt là Thăng Long, với xuất xứ là do nhà vua nhìn thấy rồng bay lên khi đi thuyền về tân đô .

Liệu chẳng chỉ có đơn giản như vậy, hay cái tên Thăng Long là một ẩn ý khác?

========================

Bài tham khảo :

Biểu tượng Rồng của linh thiêng nước Việt
(Tuần Việt Nam - 17/05/2010)

Với con người và văn hoá Việt Nam, từ xa xưa đến tận bây giờ và lâu dài nữa, hình tượng Rồng có vị trí thật đặc biệt khó có gì sánh nổi.

Cũng từ xa xưa ấy và mãi về sau, dân Lạc Việt - Việt Nam ta trên mọi vùng đất nước hay sinh sống ở bốn phương trời, đều nhận mình là "con Rồng cháu Tiên", dù cách làm ăn, phong tục và tiếng nói các tộc người nhiều ít khác nhau.

Hẳn là do lưu truyền đời này sang đời khác, huyền thoại về Thuỷ tổ bộ lạc Lạc Việt -Lạc Long Quân, nói với vợ là Âu Cơ vừa sinh hạ trăm con: Ta thuộc giống Rồng, nàng giống Tiên, như nước và lửa khó sống cùng nhau. Nên chi mỗi người dẫn một nửa đàn con, xuống đồng bằng và lên mạn ngược cùng mở mang bờ cõi...

Và chắc chắn còn do ý niệm về sức mạnh thiêng liêng cùng khát vọng lớn lao, mà cả cộng đồng từ xa xưa đã gửi gắm vào "thần"Rồng hộ mệnh.

Rồng Việt: Dòng thuỷ tộc của văn minh lúa nước

Có lẽ chăng, Rồng là hoá thân của sức mạnh siêu nhiên, thiêng liêng, huyền bí, được tôn thờ với cả lòng biết ơn, cầu mong lẫn nỗi sợ hãi, trong tâm thức cư dân lúa nước Việt cổ, ngay từ khi vừa đốt rẫy làm nương trên các triền đồi trung du (sách cổ Trung Hoa thời Hậu Hán chép là "hoả canh"), lại vừa trồng lúa nước ở các thung lũng, lấy chân dẫm đất mà cấy lúa ("thuỷ nậu"), sau thì đúc lưỡi cầy đồng dùng trâu bò kéo.

Posted Image

Khi các làng xã định cư đã tập hợp lại trong quốc gia Văn Lang, nhưng vẫn kinh hoàng trước loài "thuồng luồng" (sách phương Bắc viết là "giao long'') làm hại. Vua Hùng mới khuyên dân vẽ hình thuỷ quái lên người, thuồng luồng ngỡ là cùng nòi giống nên không ăn thịt nữa.

Và thế là tư duy hình tượng của tổ tiên chúng ta vốn đã bay bổng phản chiếu ở biết bao hình vẽ sóng nước, cỏ cây, chim thú, đua thuyền, tấu nhạc, hát múa, cả hình "giao long" có thật là cặp đôi cá sấu giao hoan trên thạp đồng Đào Thịnh...còn hình dung, phác hoạ nên hình tượng Rồng riêng cho xứ sở.

Một loài thiêng vốn vẫy vùng trong sông nước mà có quyền năng biến hoá giữa không trung làm ra sấm chớp mây mưa bão tố. Và một khi hình tượng Rồng của mây mưa, lúa nước xuất hiện, thì thế giới tâm linh, tinh thần và thẩm mỹ của dân Lạc Việt mở ra cả một vũ trụ mênh mông cho Rồng bay lượn cùng tư duy sáng tạo Lạc Việt, mang theo đến vô cùng khát vọng của con người về mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi, dân cư sinh sôi đông đúc, sống bình an không tai ương bão lũ, thuỷ quái, tà ma...

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Chúng ta chưa tìm ra được bằng chứng vật thể nào để có thể hình dung vóc dáng, dung mạo Rồng mà cư dân các làng xã Lạc Việt vẫn truyền đời ấp ủ trong tâm thức. Nhưng có thể chắc chắn rằng trong những luỹ tre xanh của cư dân cần cù, nhẫn nại ấy, vẫn nói thứ tiếng ông cha, giữ tập tục xưa đóng khố cởi trần, xăm mình, vui hội làng bơi chải và đấu vật thuở trước, hình tượng Rồng vẫn hiển hiện và sống động trong văn hoá phi vật thể.

Chẳng hạn như trò chơi thuộc loại cổ sơ của trẻ em và có sức sống lâu bền cùng với thời gian: Đó là Rồng rắn lên mây, cực kỳ trẻ con khoái hoạt mà nhắc nhớ một niềm thiêng xứ sở. Trò đơn sơ mà lạ mà hay, đã hiện hình tươi rói cả trên tranh Hàng Trống.

Posted Image

Rồng bay- gợi tâm thế dân tộc

Nhưng chúng ta cũng có cơ may được chuyển giao và còn giữ được phần lớn cả một kho tàng nghệ thuật tạo hình Đại Việt khổng lồ mà ở đó, hình tượng Rồng là chủ đạo, tuôn chảy và bay bổng với cơ man tác phẩm tượng tròn, phù điêu, chạm nổi (chạm lộng), khắc chìm, vẽ mực, vẽ men...trên đủ mọi chất liệu giấy, tre nứa, gỗ, đá, đồng, đắp vữa, gốm, sứ, thuỷ tinh, khảm xà cừ, ghép mảnh sứ Giang Tây... suốt nhiều thế kỷ.

Rồng quần tụ dầy đặc trong tạo hình và trang trí gắn liền với kiến trúc cung đình, kiến trúc tôn giáo- tín ngưỡng (những đình, đền, miếu, điện, phủ ,quán...), cũng như trên gốm, sứ tiến cúng cho vua chúa hoặc bán làm đồ thờ cúng.

Sự thể bắt đầu khi trong tâm tưởng nhà Thiền học, nhà chính trị mở đầu triều Lý: Thái tổ Lý Công Uẩn, bay lên bóng Rồng Lạc Việt khi mũi thuyền dời đô của Người chạm đất Đại La, vào ngày thu tròn nghìn năm trước, và thế là kinh đô mang tên mới Thăng Long.

Thăng Long- tiếng Việt thuần gọi "Rồng Bay", hơn mọi lời hiệu triệu chính trị, bởi đã chạm tới tâm linh và khí phách Đại Việt, gợi nên hào khí và khơi nguồn cho năng lực sáng tạo tiềm ẩn toàn dân, gợi cả tâm thế hào sảng và bay lên của dân tộc.

Rồng thời Lý thật sự là tuyệt mỹ về tạo hình và nhân văn thuần khiết do phản chiếu chân thực hình bóng Rồng dân dã vừa thiêng vừa gần gũi thuần phác, trong tâm linh dòng giống Lạc Hồng, toàn dân Đại Việt, chưa bị vương quyền biến cải hay bóp méo khi độc chiếm nhằm thiêng hoá quyền uy và trang trí cho đẳng cấp xa hoa quyền quí. Rồng Lý tích hợp nhiều đặc sắc riêng có của Đại Việt, những đặc sắc ấy trở thành qui cách cơ bản để tạo hình Rồng trong các thế kỷ Lý-đầu Trần.

Posted Image

Rồng Lý thân tròn dài mềm mại, uốn hình sin 12 khúc tượng trưng 12 tháng trong năm, tạo dáng uyển chuyển, biến hoá. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch, đều đặn. Đầu có bờm dài, râu cằm, không sừng. Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên. Đặc biệt là cái mào ở mũi, lượn sóng đều đặn chứ không giống mũi thú như rồng nơi khác. Lưỡi mảnh rất dài. Miệng luôn ngậm viên châu (chứ không cầm ngọc bằng chân trước như rồng xứ bắc).

Rồng cũng thăng trầm bởi thế sự

Nhưng từ nửa sau thời Trần, nhất là ở thời Lê, khi vua chúa thâu tóm quyền năng tối thượng trên cả thần linh, vua có quyền ban mỹ tự và tước vị cho cả thành hoàng...thì hình Rồng ngày càng xa tâm thức dân gian, bị tước đoạt để làm biểu tượng của quyền uy. Rồng nửa cuối thời Trần thân đậm đạp, trông bệ vệ, không còn mềm mại lượn bay; mào lửa ngắn lại, mọc thêm cặp sừng và đôi tay...Rồng thời Lê đầu to, bờm lớn ngược ra sau, chiếc mũi to thay thế mào lửa. Thân trông nặng nề bởi chỉ còn lượn hai khúc lớn. Chân mọc năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn.

Thế kỷ 18 của bão táp phong trào dân chủ nông dân, dân gian có vẻ như đoạt lại được con Rồng thân thuộc, thổi thêm vào nhân tính, để đem về đình, chùa, miếu, quán các làng quê. Nên mới có những phù điêu hiếm quí tạc cảnh đôi rồng tình tự, cảnh rồng mẹ vui vầy che chở bầy rồng con quấn quýt.

Nhưng rồi triều Nguyễn áp đặt nền chuyên chế hà khắc, nên Rồng thời Nguyễn đại thể hao hao Rồng thời Lê, nhấn nhá thêm để phô phang hết mức quyền uy. Đầu to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Râu uốn sóng từ dưới mắt vểnh ra hai bên. Rồng thường bốn móng, nhưng dùng cho vua thì phải năm móng...

Có vẻ quyền uy, nhưng thứ được che giấu bên trong, thì Nguyễn Ái Quốc đã hóm hỉnh chỉ ra trong vở kịch tiếng Pháp công diễn vào 18/6/1922 nhân vua Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa Macxây (Marseille): "Con rồng tre"!

Rồng là biểu tượng của khí cốt linh thiêng nước Việt?

Như thế đủ thấy hình tượng Rồng trong di sản vật thể nước ta quả là giầu có, lắm vẻ, nhưng dẫu sao vẫn là hữu hạn. Không thể đo đếm được và dài lâu, bền bỉ hơn là hình tượng Rồng được nhân dân nuôi dưỡng trong tâm thức, trong văn hoá phi vật thể, được nhân dân đặt cả khát vọng giàu mạnh và hùng cường, vừa bất khuất vừa kiêu hãnh, vừa đẹp vừa hào hoa.

Này là truyền thuyết Rồng giáng hạ biển biếc với cả rừng đảo đá mỹ lệ vùng đông bắc, mà nên tên gọi kỳ quan- di sản thế giới: Vịnh Hạ Long. Chín cửa sông phương nam tuôn chảy ra biển cả, được mường tượng mà thành tên gọi: Cửu Long ...

Này là ca dao, ngạn ngữ: "Trứng rồng lại nở ra rồng...". " Một đêm tựa mạn thuyền rồng...". "Rồng vàng tắm nước ao tù...".

Bên cạnh trò chơi "Rồng rắn lên mây", thì phổ biến nhất, hào hứng nhất từ xưa đến bây giờ, vẫn là rước Rồng, múa Rồng. Làng làng vui lễ hội, mà cứ có lễ hội thì có đám rước Rồng hay những cuộc múa Rồng.

Và những năm tháng giông bão chiến tranh cứu nước, thì "rồng lửa" sắt thép đỏ rực bầu trời Thủ đô Hà Nội, thiêu rụi B52 Mỹ...

Nay, thời hiện đại của văn minh công nghiệp, giữa muôn vàn cơ hội và thách thức, càng cay đắng và bi thương, Rồng càng trở thành biểu tượng để tâm thức mọi con dân nước Việt hướng đến. Không chỉ là niềm tin tâm linh nguyên thuỷ của cư dân văn minh lúa nước thuở xa xưa, mà nước Việt hoá Rồng chính là khát vọng mãnh liệt hơn lúc nào hết của cả dân tộc thời hội nhập.

Phải chăng, nên chọn Rồng là biểu tượng mạnh mẽ, hào hoa và tuyệt vời nhất của khí cốt linh thiêng nước Việt?


(Tuần Việt Nam )





Share this post


Link to post
Share on other sites

Posted (đã chỉnh sửa)

Liệu chẳng chỉ có đơn giản như vậy, hay cái tên Thăng Long là một ẩn ý khác?

===============

Rồng Thăng Long không chỉ là một truyền thuyết

( Bảo Phương - www.phapluattp.vn)

Một trong những tâm điểm văn hóa của lịch sử ngàn năm Thăng Long-Hà Nội là hình tượng rồng. Nhận thức đầy đủ sự sâu xa của biểu tượng rồng, một di sản quý của tổ tiên gửi lại, giúp người đời sau chú trọng hơn khi sáng tác.

Bên lề lễ hội Rồng ngày 3-10, Pháp Luật TP.HCM phỏng vấn GS-TSKH Phan Đăng Nhật, Ủy viên BCH Hội Khoa học lịch sử

Phóng viên: Thưa ông, sử sách có ghi lại như thế nào về việc hình thành tên gọi Thăng Long?

+ Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Vua từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên nơi thuyền ngự. Nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long”. Theo sử sách, đó là lần duy nhất dưới thời vua Lý Thái Tổ rồng hiện lên. Sau đó sử chép còn 14 lần rồng hiện dưới các triều vua Lý.

Có rồng bay lên thật không?

. Hiếm có biểu tượng nào xuất hiện nhiều lần trong sử sách như vậy, phải chăng biểu tượng rồng bắt nguồn từ một loài vật có thực?

+ Đây là một vấn đề còn nghi vấn. Một ngàn năm trước, trong môi trường tự nhiên và xã hội rất khác với hiện nay, ở một nước nhiều sông nước như nước ta rất có thể có một loài thủy tộc có khả năng bay lên. Một biểu tượng có thể có nguồn gốc từ thực tế, cũng có thể chỉ một phần từ thực tế.

Tuy nhiên, có một điều có thể kết luận được khi nghiên cứu hệ thống biểu tượng trong văn hóa Việt, đó là: Rồng Thăng Long có cội nguồn là con thuồng luồng (còn gọi là con giao long) - một loài sống dưới nước.

. Rồng Thăng Long khác gì rồng các giai đoạn lịch sử sau?

+ Rồng Lý khác hẳn với rồng thời Lê, Nguyễn sau này. Rồng Thăng Long gần với hình rắn, mình tròn, không dữ tợn. Nó là con rồng của nền nông nghiệp lúa nước. Rất nhiều lần trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép rồng từ dưới nước bay lên. Thêm nữa, rồng bay lên là biểu tượng cho sự phát triển. Sau một ngàn năm nô lệ, đến thời Ngô Quyền (năm 938), nước ta mới giành độc lập và thời Lý chính là thời kỳ phục hưng đất nước, phục hưng văn hóa.

Rồng hiện ở quán nước chè

. Có một điểm rất lý thú trong nghiên cứu của ông về rồng thời Lý, xuất hiện ở Thăng Long đó là có một lần dưới thời vua Lý Nhân Tông, rồng hiện lên cả ở quán nước chè?

+ Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép năm 1119, rồng hiện lên ở hàng bán nước chè. Đây là điều rất lạ, rồng thường chỉ xuất hiện gần nơi vua ngự, có một lần dưới thời vua Lý Thái Tông, sử chép rồng xuất hiện ở mắc áo của đạo sĩ nhưng trước đó có ghi áo của đạo sĩ do vua ban tặng. Theo tôi, có thể lý giải điều này căn cứ vào thực tế lịch sử dưới thời vua Lý. Dưới thời Lý-Trần, chế độ phong kiến chưa khắc nghiệt lắm, tính dân chủ còn cao nên có thể hình ảnh rồng vẫn còn màu sắc dân dã. Từ thời Hậu Lê trở về sau, chế độ phong kiến tập quyền phát triển mạnh mẽ, người dân bị cấm mặc áo màu vàng, cấm sử dụng hình rồng trên các đồ dùng hằng ngày, cấm xây nhà cao…

. Sau quá trình nghiên cứu về rồng Thăng Long, ông có khuyến cáo gì trong việc phục dựng biểu tượng rồng?

+ Rồng Thăng Long là một biểu tượng của đất nước Việt Nam thời phục hưng, một biểu tượng mang đậm bản sắc Việt. Biểu tượng đó tích tụ nhiều tư duy của tiền nhân, nhiều lời nhắn gửi về văn hóa dân tộc. Nó khác hẳn với biểu tượng con rồng phương Tây - nhiều móng vuốt và hung dữ. Rồng Thăng Long cũng khác với con rồng Trung Quốc. Rồng Trung Quốc là biểu tượng của đế vương, rồng của các triều đại Hán, rồng phương Bắc có sừng, có đuôi như một loài thú. Rồng Thăng Long là sự cụ thể hóa con rắn - giao long vốn có trong huyền thoại, từ các bờ sông, các làng quê Việt Nam.

==========================

Thăng Long. - Về ý nghĩa tên gọi Thăng Long, chúng ta vẫn thường giải thích rằng: Thăng là bay lên, Thăng Long tức là rồng bay. Thực ra, ở trong Hán tự có nhiều cách viết và giải thích chữ “thăng”. Với cách viết thứ nhất, 升 : chữ “thăng” có nghĩa là “đi lên cao, tiến lên”, bên cạnh nghĩa đầu tiên của nó là cái thưng, một dụng cụ đo lường dung tích (từ văn học: “đẩu thăng: đấu thưng”). Cách viết thứ hai: có chữ Nhật (月) đặt lên trên chữ Thăng mang ý nghĩa là Mặt trời lên cao và cũng có nghĩa là “đi lên cao”, như chữ “Thăng” ở cách viết thứ nhất. Thăng Long, Kinh đô mới của Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Đặt tên Thăng Long với cách viết như trên, vừa ghi lại sự kiện Vua Lý Thái Tổ thấy rồng xuất hiện trên đất được chọn làm Kinh đô mới, đồng thời có sức mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống Rồng, rất gần gũi với dân Việt, vẫn tự cho mình là “con Rồng cháu Tiên”.

Có điều đáng chú ý là các từ điển thông dụng Trung Quốc như Từ nguyên, Từ hải (Từ nguyên xuất bản 1947, Từ hải xuất bản 1967, chưa rõ những kỳ xuất bản sau có khác không), không thấy ghi từ Thăng Long ở cả 2 dạng viết chữ Thăng. Riêng Trung văn đại từ điển (tập 5, Đài Bắc 1967, trang 208), ở chữ “Thăng” là “Thưng” dạng viết thứ nhất nói trên, có từ kép “Thăng Long” nhưng là danh từ chung và được giảng là “rồng bay lên”. Như vậy, có thể thấy tên gọi Thăng Long với cách viết ghi trên sử cũ là một địa danh hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

Trích : Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long

( Hà Nội Mới )

Edited by Chemwind

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rồng Nhà Lý – Rồng Đại Việt

Ngô Bình Thiểm

( TC Tuyên giáo )



Nhà vua Lý Thái Tổ, bắt đầu sự nghiệp chói sáng của mình trong tiến trình lịch sử dân tộc bằng việc dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La và đặt tên Quốc đô là Thăng Long. Đồng nghĩa với việc lấy Rồng làm biểu tượng cho sức mạnh của vương triều và còn là sự thể hiện nội lực dồi dào, sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trên con đường xây dựng và giữ vững đất nước độc lập tự chủ hùng cường, bình đẳng với tất cả các quốc gia lân bang.

Từ những ngôi chùa Tháp cổ kính trên đất Thăng Long – Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Quảng Ninh... đã đi qua ngàn năm đầy phong sương, giặc giã, những tưởng mọi giá trị của tổ tiên đã bị bào mòn theo năm tháng, vậy mà ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh) vẫn còn đó bức trạm hình rồng trên đá hoa cương, rồng trên đá ở chùa Bà Tấm (Gia Lâm-Hà Nội) đều có niên đại 1057. Rồng ởÃ cánh cửa bằng gỗ của chùa Phổ Minh (Nam Định) cũng có niên đại cuối vương triều Lý. Hình rồng nhà Lý có ở trên các đồ gia dụng gốm sứ được chế tác hết sức tinh xảo, tiêu biểu là dòng gốm sứ hoa nâu, vừa phong phú về thể loại, kiểu dáng lại tuyệt đẹp trong cách thức thể hiện hoa lá, chim, phượng, rồng.

Nay đến khu di tích Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội mới được phát hiện là những giá trị vô cùng to lớn về tư liệu lịch sử mà các tầng văn hoá xuyên suốt ngàn năm hiển hiện rõ: Lý, Trần, Mạc, Lê, Nguyễn với hàng triệu di vật bằng gốm sứ, đá, ngói, tiền đồng, đồ dùng trang trí nội ngoại thất, đủ loại to nhỏ, những dấu tích cung điện ngang dọc đồ sộ. Thật khó mà bày tỏ hết cảm xúc, đây lại là nơi hội tụ các chính thể nhà nước Việt Nam từ 1010 đến ngày nay.

Mỗi tầng văn hoá là một chứng tích được phản chiếu về diện mạo đời sống của ông cha ta qua các niên đại lịch sử, từ tổ chức bộ máy hành chính đến văn hoá, kinh tế, xã hội hết sức chặt chẽ đạt đến trình độ văn minh rất cao.

Trong số hàng triệu di vật ở đây, di vật nhà Lý có tới hàng vạn cái, đóng một vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ cho ta thấy sự vĩ đại của vương triều đã xây nên nền móng vững chắc cho tiến trình lịch sử dân tộc, mà còn thể hiện nội lực, quyết tâm to lớn của cả vương triều Lý đã rũ bỏ mọi sự ràng buộc còn lại của 1000 năm bị phương Bắc đô hộ. Chính vì lẽ đó, mỗi một di vật của vương triều nhà Lý đều toát lên sức sống mãnh liệt vừa mang tính truyền thống lại có sự kế thừa phát triển vượt bậc bằng nhận thức mới tiến bộ hơn, mang tính thời đại và nhất quán về tư tưởng chủ đạo mà Lý Thái Tổ đã chỉ ra trong Chiếu dời đô.

Đất nước Đại Việt phải thịnh vượng là trên hết. Cho nên không lấy làm ngạc nhiên khi đại bộ phận các di vật thời Lý, Rồng được thể hiện làm biểu tượng của vương triều, cho dù dưới bất cứ hình thức nào, sử dụng vào mục đích gì. Biểu tượng Rồng hàm chứa tính tư tưởng, triết lý nhân văn sâu sắc, mở ra phía trước tầm nhìn mênh mông, kỳ vĩ.

Vì thế, khi đặt rồng Nhà Lý - Rồng Đại Việt trong mối tương quan với các rồng của nhiều quốc gia, thì rồng Việt là hiện tượng cực kỳ độc đáo từ hình thức đến nội dung thể hiện. Sự độc đáo này không phải bỗng đâu mang đến mà thuộc về mạch nguồn trong vắt đầy sức sống của dân tộc có nền văn hoá bản địa đã không ngừng được tiếp nhận, chắt lọc qua lớp lớp địa tầng của thời gian, không gian ngàn năm. Mạch nguồn ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn Việt phát triển phong phú hơn, trong sáng hơn, văn minh hơn, để ta có quyền được hãnh diện, tự hào mình vốn là con của rồng, cháu của tiên vô cùng cao quý. Câu chuyện nguồn cội của chúng ta hẳn mang đầy màu sắc huyền thoại còn cho biết những điều hết sức lý thú. Tổ tiên ta vốn thông minh ngay từ cái thời mới khai sơn lập địa đã biết dùng phép “tàng hình”, mỗi khi xuống nước để lặn ngụp săn bắt hải sản, là vẽ các hình hài kỳ lạ lên người để trị loài thuỷ quái hung dữ. Tuy chỉ là những đường nét đơn sơ, rối rít chưa được tổ chức xếp đặt chặt chẽ, nhưng qua đó đã gợi lên sự tư duy trừu tượng về một loài vật không biết thực hư thế nào. Đến lúc con người phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ cao hơn thì gọi những hình hài vẽ trên người đó là rồng.

Vẫn biết rằng, rồng chỉ là sản phẩm tư duy trí tuệ trừu tượng của con người, nhưng lại tuỳ thuộc vào quan điểm tư tưởng, ý thức hệ của các thế lực hay một chế độ mà người đại diện muốn thể hiện hiền hay dữ, yêu hay giận... Ở thời đại Nhà Lý, không ít các quốc gia vùng Á Đông cũng lấy rồng làm biểu tượng cho hoàng triều. Vậy là trong thế giới rồng đa dạng đó, Rồng Nhà Lý – Rồng Đại Việt xuất hiện bằng ngôn ngữ tạo hình không chỉ có một mà có mặt khắp nơi trên lãnh thổ. Rồng được đặt trên nóc đình, chùa, cung điện, gắn ở đầu hồi, nơi ngoại thất, trên cổng để tôn vinh như một cử chỉ, tình cảm cao quý nhất.

Cho dù dưới bất kỳ hình thức thể hiện nào, rồng Nhà Lý – Rồng Đại Việt đều phô diễn thân hình khoẻ mạnh, bố cục chặt chẽ, mạch lạc, khúc triết, vững vàng, hoành tráng, nội lực phi phàm như sóng xô bão cuốn mà tuyệt nhiên không cần phải giương oai, múa vuốt doạ nạt ai, rất thuần Việt. Nếu chỉ xét về giá trị thẩm mỹ thuần tuý thì Rồng Nhà Lý – Rồng Đại Việt đã là kiệt tác độc đáo nhất, xứng đáng là cây cao bóng cả cho cả nền mỹ thuật cổ trung đại của người Việt ta.

Đặc trưng của rồng Nhà Lý

Về phương diện bố cục và kỹ thuật chế tác, Rồng Nhà Lý với rất nhiều hình thức thể hiện, cung bậc ngắn dài, to nhỏ khác nhau, ý tứ cũng rất đa dạng, nhưng chưa thấy có sự đi chệnh hướng mà là sự phát triển có sự bổ sung các yếu tố để cho rồng càng ngày càng hoàn mỹ, bộc lộ sự tính toán rất mực thước. Từ độ dài của toàn thân rồng, đến sự phối hợp các chi tiết có sự phân phối toàn diện, chủ ý rõ ràng, đường nét uốn lượn lên xuống, thể tích toàn bộ rồng đều có sự tương xứng hoà hợp, kết hợp khéo léo giữa các hình thể chính với phụ như mây, hoa lá, chim thú rất nhịp nhàng chặt chẽ; tạo ra không gian trong tác phẩm tuy có nhiều chi tiết, hình khối phức tạp mà vẫn đạt đến độ hoành tráng, không bị lỏng lẻo hay hời hợt.

Kỹ thuật chế tác, chất liệu chủ yếu là đục chạm trên đá cẩm thạch; làm bằng đất nung, gốm sứ. Các chất liệu này đều đòi hỏi người nghệ sĩ sáng tạo và nghệ nhân thể hiện phải có tay nghề làm chủ chất liệu, vì đá có độ cứng lại giòn dễ vơ.ä Để có tác phẩm hoàn thiện không bị sứt vỡ, làm lệch lạc đường nét, thì người thợ cần có tay nghề rất cao và họ đã làm được một điều thật sự kinh ngạc. Những tác phẩm rồng bằng đá ở chùa Bà Tấm (Hà Nội), chùa Phật tích (Bắc Ninh)... đã chứng minh điều đó. Trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội, Rồng Nhà Lý được làm chủ yếu trên đất nung qua lửa, chất liệu tuy đơn giản nhưng đòi hỏi người nghệ sĩ sáng tạo phải nuôi dưỡng sức bền của cảm hứng suốt từ khi dựng hình trên đất đến làm khuôn, qua lửa mà để có kết quả như ý muốn thì đây thật sự là những bậc nghệ sĩ rất tài ba. Hình rồng được tạo hình từ đơn hình đến phối hợp đa hình thể và các chi tiết hết sức táo bạo. Mỗi một loại rồng phục vụ cho một công năng sử dụng, từ việc đặt trên nóc nhà, ngoài trời đến kỹ nghệ chế tác đồ gốm sứ... đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng của trí tuệ mỗi người. Cứ nhìn hàng vạn những mẫu hình rồng ở đây, quả thật không thể tưởng tượng được người xưa lại tài năng kiệt xuất đến như vậy.

Rồng Nhà Lý có yếu tố ngoại lai hay không? Cần đi tìm đến tận cùng của câu chuyện này. Đương nhiên, cây tre Việt cũng giống cây tre Trung Hoa. Hoa cúc Việt cũng giống hoa cúc Nhật, đều có lá và hoa, khác chăng là sắc màu đậm, nhạt mà thôi. Vì thế các quốc gia sống trên cùng một lục địa, tắm chung dòng chảy của nền văn minh của nhân loại, sự va đập tiếp nhận lẫn nhau ít hay nhiều cũng là lẽ đương nhiên, song cái cốt tử là thổi vào đó tâm hồn mang bản sắc nào mới làm nên tất cả.

Cũng từ đây, suy rộng ra từ thời tối cổ, khi người Việt ta có nhà nước tên gọi là Văn Lang, là sự ám chỉ một dân tộc sống ở vùng có nhiều sông nước, phải vẽ hình, xăm trên mình để hoà hợp với môi trường sông nước. Phải chăng, từ đây mới có chuyện người Việt ta tự gọi mình là người Văn Lang, rồi thành nước Văn Lang. Lấy hình vẽ đó trên người chuyển hoá thành tục lệ trong múa hát, thờ cúng thần linh, tổ tiên, trang trí trên nhà cửa, vẽ nó trong các đồ dùng sinh hoạt của cộng đồng, gia đình, làng xóm. Rồng có mặt ở khắp nơi, vì thế mà người Việt chẳng giống ai làm nên nét văn hoá bản địa truyền thống; hình ảnh con rồng trong dân gian được truyền đời đời, kiếp kiếp những mong được thịnh vượng, sung sức cho người Việt để hun đúc tinh thần, ý chí, nghị lực vươn lên xây dựng cuộc sống. Ngay cả trong những đêm dài nô lệ bởi phong kiến phương Bắc, hình ảnh đó không bị phai mờ mà vẫn phát triển vô cùng bền bỉ, mãnh liệt. Chính vì lẽ đó để có được Rồng Nhà Lý – Rồng Đại Việt đạt đến chân, thiện, mỹ như ta đã thấy, với cây nào quả ấy còn gì phải luận giải, phân tâm nữa. Có chăng ở mỗi thời mỗi khác, khi tự mình phát triển lên tầm cao sung mãn hơn cả về thể chất và tinh thần.

Điều đặc biệt, khi nghiên cứu, thấy Rồng Nhà Lý có tính phật, đó là điều kỳ diệu mà chưa hề thấy rồng của bất kỳ quốc gia lân bang nào thể hiện rồng như thế. Phật tịnh ở rồng là sự giao thoa nhuần nhuyễn như một cơ thể thống nhất rồng với trời đất, cỏ cây, hoa lá, muông thú, con người. Có cương, có nhu, giữa ảo và thật, có nước có lửa, âm dương ngũ hành, tương sinh tương đồng lung linh trong vũ trụ.

Vấn đề còn lại, thiết nghĩ không thể bỏ qua, ấy là với mỗi người nghệ sĩ dân gian, họ đứng ở vị trí nào để làm nên những kiệt tác đó phản ánh đầy đủ tư tưởng lớn của bậc vĩ nhân. Mỗi câu chữ trong Chiếu dời đô của nhà vua đều toả sáng tầm nhìn của một minh quân khi lựa chọn địa thế đặt Quốc đô “... ở nơi trung tâm trời đất, rồng cuộn, hổ ngồi đã đúng ngôi Nam Bắc Tây Đông lại tiện hướng nhìn sông, dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng phong phú tốt tươi. Xem ra khắp đất Việt ta chỉ nơi này là thắng địa...”. Từ nội hàm của đoạn Chiếu dời đô trên cho thấy, vùng đất Đại La được chọn làm Quốc đô đã hội đủ các yếu tố cần thiết thiên thời, địa lợi, nhân hoà: có sức mạnh tiềm ẩn “Rồng cuộn, hổ ngồi” vững như bàn thạch sẽ là Quốc đô cường thịnh và phát triển mọi mặt làm trụ cột cho quốc gia Đại Việt trên con đường giữ vững nền độc lập tự chủ và xây dựng một quốc gia hùng mạnh.



Chắc chắn mà nói rằng, người nghệ sĩ dân gian khi đó đều đã thấm đậm tinh thần Chiếu dời đô của nhà vua mà thể hiện một cách tuyệt vời, sống động biểu tượng Rồng – hình ảnh của quốc gia Đại Việt luôn mạnh mẽ vươn lên xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của quốc gia. Đó cũng chính là sự sáng tạo với tâm hồn thăng hoa bay bổng cùng với lòng tự hào dân tộc và niềm tin mãnh liệt. Họ đã đứng ở vị trí con dân Đại Việt, tâm hồn họ là một phần cơ thể của bản sắc dân tộc. Đó cũng là chân lý của mọi thời đại đối với nghệ sĩ.

Tư tưởng và tinh thần của Rồng Nhà Lý - Rồng Đại Việt tiếp tục cùng toàn dân tộc làm cuộc hành trình vĩ đại vào tương lai đầy tươi sáng./.

====================



2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay